Thử giải mã những thông điệp của nhà văn Trang Thế Hy trong truyện ngắn “Vết thương thứ mười ba”
1. Đặt
vấn đề
Sau năm
1986, văn đàn Việt Nam được dịp xôn xao với những Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường cùng hàng loạt
những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp...
Trong
xu thế “bước qua lời nguyền” ấy, ở Nam bộ nhà văn Trang Thế Hy cho
ra đời truyện ngắn “Vết thương
thứ mười ba” (năm 1988). Tuy không “ồn ào” như những tác
phẩm, tác giả vừa kể ở trên nhưng “Vết
thương thứ mười ba” cũng tạo
nên một dư chấn trong tâm hồnbạn
đọc, đặc biệt là cái nhìn - quan niệm của tác giả về hai cuộc chiến tranh trước
đó của dân tộc.
Đặt “Vết
thương thứ mười ba” trong bối
cảnh văn hóa, xã hội Việt Nam vốn còn nhiều định kiến hẹp hòi sẽ thấy “người hiền của văn chương Nam bộ” có cái nhìn về chiến tranh rất táo bạo
và độc đáo.
Trước
hết, về cốt truyện, “Vết
thương thứ mười ba” chủ yếu xoay quanh vấn đề xung đột
quan điểm về chiến tranh của cặp vợ chồng Châu – Hữu. Trong khi Hữu luôn tự hào
về những vinh quang và chiến tích của mình trong hai cuộc chiến tranh trước đó
thì Châu lại có cái nhìn ngược lại.
Và để
giải quyết sự xung đột này, Trang Thế Hy đã tạo ra một tình huống nhận thức rất độc đáo. Có thể gọi đây là
tình huống vỡ lẽ và tỉnh ngộ của Hữu – người đàn ông mà theo Châu
là “không biết gói kín một nỗi
đau lớn”. Trang Thế Hy kết thúc “Vết thương thứ mười ba”bằng sự vỡ lẽ và tỉnh ngộ của Hữu khi biết được sự thật về một “nỗi đau lớn” của vợ. Lúc ấy, Hữu mới “ngộ” ra mười hai vết thương “trên thịt da” của mình không có nghĩa lý gì so với
cái vết thương duy nhất của vợ cũng là “vết thương thứ mười ba” của chính ông.
Bên
cạnh đó, về phương diện xây dựng nhân vật, “Vết
thương thứ mười ba” cũng cho
thấy cái nhìn đồng cảm của tác giả dành cho Châu – nhân vật người phụ nữ duy
nhất trong truyện. Vấn đề này được đánh dấu bằng hai chi tiết nghệ thuật quan
trọng:
Chi
tiết thứ nhất là chi tiết có tính dự báo về cuộc đời của Châu qua lời kể của
nhân vật Tâm - người kể chuyện xưng “tôi” (cũng là người em họ Châu). Theo đó,
Châu là một phụ nữ rất đẹp nhưng đó là vẻ đẹp“vương giả của Lâm Đại Ngọc
trong Hồng lâu mộng cộng với cái đẹp quyến rũ hoang đường nhiều ma lực của
những “giai nhân gốc ma” trong truyện Liêu trai”; Châu là hiện thân của
nàng“tiên mắc đọa nếu không chết yểu thì suốt đời sẽ khổ vì một nỗi đau bí
ẩn không thể san sẻ cho ai được...”
Chi
tiết thứ hai là chi tiết “tự thú” của Châu với Tâm vì sợ mình ra đi đột ngột sẽ
rất có lỗi với chồng. Châu có thể lừa tất cả mọi người kể cả chồng bằng cái
“hiện trường giả” về cái chết của “thằng
Nhiệm” trên sông Cổ chiên
suốt ba mươi lăm năm nhưng chị không thể tự lừa mình về cái gọi là “sự cao cả của một người phụ nữ” vì bất cứ lý do gì mà thất tiết
với chồng. Và đây chính là nỗi đau – cái nguyên nhân cốt tử làm cho Châu mắc
chứng bệnh“lên cơn buồn” -
“accès de Meslancolie” nhưng
Hữu thì không bao giờ biết vì không chịu tìm hiểu.
“Chính
vì thương anh Hữu mà trong ba mươi mấy năm nay chị không đành bắt ảnh chia sẻ
với chị nỗi đau thầm kín đã làm u ám gần trọn đời mình. Chị tưởng như vậy là
cao cả. Đúng ra, đó là ngụy lý của người vợ thất tiết không có gan tự thú. Chị
quyết định sẽ nói cho anh Hữu trước giờ chị chết. Nhưng nếu chị chết đột ngột
như anh Hảo thì sao?”
Ngoài
những vấn đề trên thì diễn ngôn của nhân vật người kể chuyện cũng là điểm nhấn
quan trọng cho thấy cái nhìn của tác giả về chiến tranh. Điều này thể hiện qua
quan điểm của Châu trong những lần tranh luận với Hữu được tác giả trình bày
một cách rõ ràng, dứt khoát, rành mạch và chặt chẽ. Đơn cử như cuộc tranh luận
giữa Châu - Hữu về quyển “Hồi
ký về chiến tranh thế giới thứ hai” của
cựu thủ tướng Anh Wintons Churchill được nhân vật người kể chuyện thuật lại như
sau:
“Chị
Châu nói nhỏ nhẹ, giọng buồn như khóc: Muốn biết chiến tranh là cái gì, người
cần hỏi ý kiến, người cung cấp định nghĩa về chiến tranh chính xác nhất không
phải là các nguyên thủ quốc gia, các chính khách lẻo mép và các vị thống chế tư
lịnh không bị bom đạn làm trầy một miếng da nào. “Theo em thì phải hỏi ai?” – Anh Hữu gằn
giọng, tay cầm ống vố gõ cồm cộp vào bìa cứng quyển Hồi ký Churchill. Giọng chị Châu vẫn nhỏ nhẹ có
thêm chút sắc lạnh: “Hỏi vợ anh, cô anh, dì anh...nói chung là những người phụ
nữ đã đẻ con cho thiên hạ đem đi nướng... hỏi những bà mẹ sau chiến tranh đi
hết nghĩa trang này đến nghĩa trang khác tìm nấm mộ đề tên con mình mà không
gặp...”. Anh Hữu cố nén giận làm cho anh thêm lắp bắp như người cà lăm: Cái bi
thảm của cuộc chiến tranh giải phóng này có thể viết ra thành nhiều pho sách
chớ không phải một vài câu lâm ly như em nói. Nhưng nếu không có nó thì cuộc
đời của những người còn sống như chúng ta đây sẽ ra sao?”. Giọng chị Châu vẫn
lạnh ngắt: “Chúng ta sẽ sống trong cái nhục mất nước. Thảm họa lớn đó em biết
từ hồi còn nhỏ, lúc ba em bị bắt đày đi Bà Rá rồi chết luôn ngoài đó chớ không
phải đợi tới khi nghe người khác dạy bảo. Bây giờ nếu cần phải làm thêm một
cuộc chiến tranh bất đắc dĩ nhưng cần thiết như vậy nữa và nếu như em còn sức
đẻ thì em sẽ đẻ con cho anh đem đi nướng nữa. Nhưng em vừa làm việc đó, vừa đau
buồn và không có chút tự nguyện nào...”
Từ
những vấn đề trên có thể nói, “Vết
thương thứ mười ba” là một
diễn ngôn về quyền“định nghĩa chiến
tranh” của Trang Thế Hy. Theo
đó, Trang Thế Hy cho rằng trong mọi trường hợp quyền “định nghĩa” về chiến tranh phải thuộc về người phụ nữ;
chỉ có người phụ nữ mới đủ “tư cách” viết “hồi ký về chiến tranh”; chỉ có họ mới “định nghĩa chính xác
nhất”chiến tranh là gì? Vì
lẽ, trong mọi cuộc
chiến tranh, người bị thương đầu tiên và cuối cùng không phải những người đàn
ông mà là người phụ nữ. Người phụ nữ không chỉ mất chồng, mất con mà thậm chí
trong nhiều trường hợp còn mất luôn cả danh dự và phẩm giá. Con người một khi
đã mất phẩm giá thì những vinh quang và chiến tích nên và cần được nhìn nhận
như thế nào?
3.
Không nên tin “các chính trị
gia lẽo mép” và không được “cao hứng” khi nói về chiến tranh
Đọc “Vết thương thứ mười ba” không thể không đặt ra câu hỏi vì sao
tác giả lại chọn số“mười ba” mà
không phải là một con số nào khác? Vấn đề này hẳn phải thể hiện một ý đồ nghệ
thuật nào đó của tác giả. Chúng tôi thử lý giải vấn đề này bằng hai giả thuyết
như sau:
Giả
thuyết thứ nhất
Trong
một xã hội mà tư tưởng trọng nam khinh nữ đã ăn vào máu nhiều người, phải chăng“Vết
thương thứ mười ba” là cách
tác giả cố tình gợi lại vấn đề “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô” để
độc giả tự nhìn nhận và suy ngẫm?
Ngẫm kỹ
lại,“Vết thương thứ mười ba” hóa
ra là câu chuyện kể về mười
hai vết thương“trên thịt da” của
người đàn ông cộng với một vết thương trong tâm hồn của người phụ nữ. Cụ thể, trong truyện, nhân vật Hữu
thường hay kể lể tường tận mười
hai vết thương của mình với
mọi người trong niềm tự hào thì nhân vật Châu lại ray rứt và đớn đau với vết thương duy nhất của mình vì không thể tỏ bày, chia sẻ
cùng ai.
Nói
cách khác, “Vết thương thứ mười ba” trước
hết là cách nói nhằm đánh lừa người đọc về những nỗi đau mà con người phải chịu
trong chiến tranh. Đánh lừa ở chỗ nỗi đau của con người trong chiến tranh không
thể máy móc “định lượng” mà phải “định tính” – tức phải nhìn sâu vào những sự thật
mà vì lý do nào đó đã được hoặc bị chôn giấu. Vì vậy mà mười hai vết thương của Hữu cũng
không đau bằng một vết thương của người Châu. Nếu như trước đó Hữu rất hay “khoe” mười hai vết thương của mình nhưng làm sao ông dám “khoe” và kể tường tận cho người khác
nghe về cái “vết thương lòng” duy nhất của vợ mình và cũng là của chính ông sau
này?
Giả
thuyết thứ hai
Là một
người am tường văn hóa Đông, Tây kim cổ, hẳn Trang Thế Hy đã có ý niệm về nỗi
ám ảnh con số 13 trong đời sống tâm linh của con người. Nhìn chung, cả phương
Đông (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản...) lẫn phương Tây đều xem số 13 là con số
tượng trưng cho sự không may mắn.
Ở
phương Tây số 13 gắn với truyền thuyết về một vị thần cũng là vị khách thứ 13
không mời mà đến trong cuộc “họp mặt” của 12 vị thần – vị khách này thường được
xem là ác quỷ vì mang đến sự tang thương, tang tóc cho người khác...
Ở
phương Đông số 13 là con số phá vỡ tính trọn vẹn của một hệ thống, một chu kỳ
vận hành của thiên nhiên vạn vật trong nhận thức của con người như: 12 can chi,
12 cung hoàng đạo, 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm...
Trong cái
nhìn này, phải chăng cách nói “Vết
thương thứ mười ba” vừa mang dụng ý phá vỡ sự ảo tưởng và cao ngạo của Hữu về
chiến tranh đồng thời cũng mở ra một “chu kỳ” mới trong nhận thức của Hữu về
vấn đề này?
Có thể
thấy điều này qua chi tiết nghệ thuật ở cuối tác phẩm. Hữu đau đớn vì “Vết
thương thứ mười ba từ “trên trời rơi xuống” qua lời
trăn trối của vợ trước lúc lâm chung. Từ đó về sau đi đâu Hữu cũng “đính chính”
với bọn thanh niên trong xóm “bây
giờ tao là Út Mười Ba”chứ không còn là “Út
Mười Hai” như trước đó nữa.
Giờ thì Hữu mới biết và thấm thía:“Viên đạn làm tao bị thương cách đây ba
mươi lăm năm, bây giờ mới chạm mục tiêu. Vết thương không làm chảy máu, để lại
thẹo nhưng tao sẽ đau hoài cho tới chết.”
Từ hai
giả thuyết trên có thể rút ra một vài nhận định về tư tưởng nghệ thuật của
Trang Thế Hy trong “Vết thương thứ mười ba” như sau:
Thứ
nhất, qua “Vết
thương thứ mười ba”, Trang Thế Hy đặt ra vấn đề để mọi người cùng suy ngẫm
đó là: bản chất thật của những cuộc chiến tranh mà nhân loại đã từng tiến hành
đôi khi nằm ẩn sâu trong những nỗi đau mà người phụ nữ đã âm thầm chịu đựng chứ
không chỉ ở những vinh quang hay chiến tích của những người đàn ông. Và người
đời sẽ không bao giờ hiểu được điều này nếu như chỉ nghe và tin ở những “chính
trị gia lẻo mép” - những kẻ
đã “làm chiến tranh bằng máu
của người khác”.
Vì vậy,
khi chiến tranh đã kết thúc rồi, nếu có kể về nó dù là với mục đích gì thì cũng
phải xuất phát từ sự thành thật và thận trọng. Đặc biệt khi kể về chiến tranh
(cho thế hệ cháu con nghe) phải trên tinh thần lấp lại “những cái hố bom” chứ không nên say sưa và nhất “cao
hứng” trong niềm hân hoan, đắc thắng để rồi vô tình hay cố ý quên đi những nỗi
đau rất thật mà con người (nhất là người phụ nữ) phải âm thầm chịu đựng.
Nói
cách khác, qua “Vết thương thứ mười ba” nhà văn muốn gửi đến độc giả một thông
điệp: trong mọi cuộc chiến tranh thì con đường đi đến vinh quang của một cá
nhân hay rộng hơn là của một dân tộc nào đó cần được hiểu là con đường “bất đắc dĩ” phải “xây xác quân thù”. Vì
thế, không nên xem con đường đi đến vinh quang này là “con đường vui” (tên gọi một tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Tuân). Và khi chiến tranh đã qua rồi thì không nên nói hoài về chuyện “ta
thắng, người thua”.
“Chiến
tranh có khi là ân nhân của một dân tộc bất hạnh nào đó. Nhưng vị ân nhân khó
thương đó đã đi qua rồi thì cứ để cho ổng đi qua luôn, mắc mớ gì níu áo ổng lại
xin ý kiến? Lúc ổng làm ân nhân mình ổng dạy mình nhiều điều rất hay ho trong
cảnh đầu rơi máu đổ. Nhưng trong hòa bình ông không còn là một ông cố vấn tốt
nữa đâu”.
Thứ hai, từ góc nhìn văn hóa và nữ quyền luận có thể
nói, “Vết thương thứ mười ba” là
diễn ngôn của nhà văn nhằm bênh vực cho những người phụ nữ Việt Nam về quyền được sống thật với chính
mình trong sự “toàn
trị của nam giới” (dù là
sống bằng những nỗi đau không ai có thể chia sẻ hay bù đắp). Ở phương diện nào
đó, “Vết thương thứ mười ba”là những câu hỏi mà tác giả muốn đặt ra với
tất cả mọi người: tại sao đến cả cái vết thương trong lòng mình mà người phụ nữ
Việt Nam cũng phải đắn đo cân nhắc, không dám nói ra dù phải hàng ngày hàng giờ
đối mặt với nó? Vì đâu mà nẩy sinh cái tâm lý đáng thương và tội nghiệp này nơi
người phụ nữ Việt? Phải chăng một phần là do thói ích kỷ và sự hời
hợt của giới vai u thịt bắp –
những kẻ được xem là “phái mạnh”, là “bóng tùng quân” của những người phụ nữ
“chân yếu tay mềm” nhưng đôi khi chẳng hiểu gì về họ? Điều này cũng giống như
nhân vật Hữu trong truyện dù rất yêu vợ nhưng lại không bao giờ hiểu tại sao
Châu mắc chứng bệnh hay “lên
cơn buồn” - “accès de
Meslancolie”.
Cuối
cùng, nếu như
ở “Nỗi buồn chiến tranh” và
“Bến không chồng” cả Bảo
Ninh và Dương Hướng đều dẫn dắt người đọc bằng “mô-tip”: chiến tranh (trước
hết) đã tạo ra sự ngăn cách về không gian địa lý từ đó dẫn đến sự “cách ngăn”
trong tâm hồn, suy nghĩ và thân phận của những người trong cuộc thì ở “Vết
thương thứ mười ba” Trang Thế
Hy không dẫn dắt người đọc theo hướng này. Ở “Vết thương thứ mười ba”,
người đọc không thấy có sự ngăn cách về không gian địa lý của cặp vợ chồng
Châu, Hữu. Sau chiến tranh họ vẫn sống cùng nhau trong một mái nhà và vẫn rất
yêu thương nhau thế nhưng trong sâu thẳm tâm hồn thì giữa hai người vẫn không
có được “tiếng nói chung”. Đặc biệt với Hữu, tuy rất yêu vợ nhưng tình yêu ấy
được xây dựng trên sự độc
đoán và hời hợt nên chỉ
càng làm cho Châu thêm ray rứt và đớn đau hơn.
Qua
cách tiếp cận vấn đề như vậy, phải chăng Trang Thế Hy muốn nói rằng khi chiến
tranh kết thúc, giang sơn đã
thu về “một mối”, gia đình đã “đoàn tụ” nhưng điều đó không có nghĩa là không
còn sự “cách ngăn” giữa những người Việt với nhau. Thậm chí là ngay cả với
những người “đầu ắp tay gối” nhưng giữa họ vẫn không tìm thấy sự hòa hợp, đồng
điệu trong suy nghĩ?
4. Thay
lời kết
Nhà văn
Nguyên Ngọc khi nói về Trang Thế Hy đã có một so sánh rất thú vị. Ông cho rằng
giữa Trang Thế Hy và cố nhà văn Nguyễn Tuân dù rất khác nhau nhưng có điểm
chung là“suốt đời chăm chú lần mò đi tìm cái đẹp, trong chốn ngổn ngang nhân
sinh”. Rất đồng cảm với nhà văn Nguyên Ngọc về điểm này, tuy vậy, ở đây
chúng tôi muốn nhấn mạnh một vấn đề: nếu như cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân phần
nhiều đều xuất phát từ quan niệm của những “nghệ sĩ” tạt ngang cuộc đời để mà chơi cho thỏa thích (vậy nên rất dễ tạo nên
tranh cãi) thì ngược lại cái đẹp trong văn Trang Thế Hy là cái đẹp của những
con người bình thường ngồi
chiêm nghiệm cuộc đời để mà... lớn. Cái đẹp trong văn Trang Thế Hy vì thế
ít gây tranh cãi hơn (trừ khi ai đó chấp nhận chối bỏ cái phận sự làm người tử tế của mình). Và “Vết thương thứ mười ba” là một cái đẹp như vậy – có thể nói
đây là cái đẹp từ tâm và“không bẹo hình bẹo dạng” của “người hiền Nam bộ” Trang Thế Hy.
Tài
liệu tham khảo
1.
Trang Thế Hy – Truyện ngắn
Trang Thế Hy. Nhà xuất
bản Văn hóa Sài Gòn, 2006.
2.
Nguyễn Đăng Mạnh – Con
đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Nhà xuất bản Giáo dục,
2006.
3.
Pierre Bourdieu – Sự thống
trị của nam giới (Lê Hồng Sâm dịch). Nhà xuất bản Tri thức, 2011.
4.
Huỳnh Như Phương – Lý luận
văn học nhập môn. Nhà
xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
5. Lê
Ngọc Trà – Lý luận và văn
học. Nhà xuất bản Trẻ,
2005.
6. Lê
Ngọc Trà – Văn chương, thẩm
mĩ và văn hóa. Nhà xuất bản giáo dục, 2007.
Nguyễn Trọng Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét