Tiến sỹ hóa học Đặng Văn Phú là một nhà
cảm xạ bậc thầy, một lương y cao cấp, lương y chuyên sâu tài hoa và thật bất ngờ
khi biết ông còn là một nhà thơ. Tập thơ: “Trăng ngàn” - nhà xuất bản Hội nhà
văn ấn hành năm 2009 là tập mới nhất của ông. Đặc biệt đây là tập thơ Đường,
theo lối “thuận nghịch độc”. Đây là thể thơ vô cùng độc đáo, vì mỗi bài có thể
đọc ngược, xuôi thành nhiều bài, có bài của tiến sỹ Đặng Văn Phú có thể đọc
thành 20 bài. Khó là vậy nên từ xưa, người làm một vài bài thì nhiều, nhưng cả
tập 50 bài thì chưa từng có, khiến ai duyên may có tập thơ này đều thực sự
thích thú và khâm phục.
Ông tiến sỹ yêu thơ này đã từng in chung 17 tập
thơ và có bài trên 30 thi san các loại. Tập thơ “Trăng ngàn” là tập thơ “thuận
nghịch độc” đầu tay, nhưng đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó
phai. Ông đang chuẩn bị cho in tiếp tập “Vườn đào” cũng theo thể “thuận nghịch
độc”.
50 bài thơ của tiến sỹ Đặng Văn Phú, mỗi bài
đều không chỉ là một bài thơ, mà hơn thế đấy là một kỳ công tuyệt tác của trí
tuệ, cảm xúc và sáng tạo được cộng hưởng, thăng hoa như trong “Người đa tài” của
Đức Anh:
“Đa tài hiếm có ở nhân gian
Trí não thông minh đến tuyệt trần”.
Đề tài phong phú: nhiều mảng cuộc sống được
phản ánh một cách trung thực và hồn nhiên. Nguồn xúc cảm dồi dào phát khởi từ một
trái tim yêu đời, yêu thiên nhiên, tha thiết với cuộc sống. Bằng nhiều tìm tòi
sáng tạo trong thể hiện nghệ thuật với những hình ảnh và biện pháp tu từ độc
đáo, kỳ công trong việc đãi vàng trong muôn tấn quặng chữ, tác giả vẫn giữ được
cái chất hàn lâm của thơ Đường mà vẫn đậm đà hương vị Việt, tạo ra một không
gian đa chiều, khơi nguồn cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc… Đó là cảm nhận đầu
tiên của người viết bài này khi đọc xong tập “Trăng ngàn” của tiến sỹ Đặng Văn
Phú.
Cảm xúc chủ đạo của tập thơ là tình yêu cháy
bỏng với quê hương đất nước, tình yêu gia đình dạt dào nồng thắm, tấm lòng của
một lương y như từ mẫu, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời… Đề tài không mới,
nhưng sự tìm tòi trong cách thể hiện đã đem lại một hơi thở, một diện mạo đặc
biệt cho những mệnh đề tưởng chừng muôn thuở ấy. Đó là một thứ giống như một
phép đảo thế nhiệm mầu của ngôn từ, đưa người đọc đi từ bất ngờ này tới sự thú
vị khác. Bởi vậy đọc thơ ông trong trò chơi trí tuệ cao cấp, sang trọng ấy
không dễ, ý tại ngôn ngoại, nhưng khi hiểu, đã đồng cảm được thì thật là thú vị,
lôi cuốn đến say lòng.
Đây là cảnh nên thơ ở bài “Trăng ngàn”:
“Sương mây quyện lẫn núi ngàn xa
Gió nhẹ, trăng lùa chim hót ca
Hương thỏang đâu đây mùi chín quả
Sắc loang nơi ấy vị ngon trà…”.
Cái tài của ông là sự biết điều tiết cảm xúc
và thể hiện rất giản dị, nhưng không kém phần thơ mộng và các bạn thử đọc ngược
mấy câu ấy thôi, chắc sẽ không khỏi ngạc nhiên trước thi tứ mới đầy bất ngờ.
Trong tập thơ của ông mỗi bài đều long lanh một
thứ ánh sáng diệu kỳ, có những bài người đọc không thể không thưởng thức với
nhiều góc độ khác nhau, bởi cũng như thưởng lãm một viên kim cương, người
ta không thể chỉ đứng ở một góc độ. Đấy là những bài: Hoa sen, Hưng Đạo Vương,
Suối, Chợ Hoa, Viếng mộ liệt sỹ…Dù là thơ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt,
ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt…thì với tay nghề cao như của người thợ kim
hoàn tài hoa, ông đã tạo nên những công trình tuyệt diệu bằng ngôn ngữ. Ông vẫn
tuân theo qui định ngặt nghèo của thơ Đường, nhưng với tài năng và sự sáng tạo
của mình, mỗi bài, mỗi câu, mỗi ý cứ dư ba trong lòng người đọc những gợn
sóng đến vô cùng.
Thiên nhiên trong “Trăng ngàn” được thể hiện
tài tình qua “Tây Hồ”:
“Vân in gợn sóng nước xanh hồ
Gió nhẹ lay đưa lá liễu bồ”.
Đọc xuôi đã thấy cảnh trời mây non nước Tây Hồ
sao mà thơ mộng, nhưng khi đọc ngược:
“Bồ liễu lá đưa lay nhẹ gió
Hồ xanh nước gợn sóng in vân”,
ta chợt sững sờ trước vẻ đẹp thường ngày của
Tây Hồ vừa quen, vừa lạ. Tuy cũng là sóng, gió, trời, mây…nhưng như có hồn, sống
động. Còn trong “Rừng sớm”:
“Xa kia sẫm bóng ngút ngàn cây
Sớm phủ sương dăng lãng đãng dày”.
Nếu chỉ cảm nhận rừng cây đầy sức sống, xanh
ngút ngàn, sương dăng chỗ dày đặc, nơi lãng đãng đã thấy cái đẹp của thiên
nhiên qua tài năng của ông, nhưng khi đọc ngược:
“Dày lãng đãng dăng sương phủ sớm
Cây ngàn ngút bóng xẫm kia xa”,
người đọc chợt mỉm cười thích thú với những
hình ảnh mới lạ với một không gian mở. Là người từng phấn đấu, đóng góp không mệt
mỏi tài sức của mình trong công cuộc xây dựng đất nước, ông thốt lên từ đáy
lòng mình, vững tay chèo lái, làm cho dân giầu , nước mạnh:
“Mừng Đảng tiếp sang xuân
Lái chèo vững triệu lần
Bừng lên dân tiếp bước
Hưng vượng giàu sang dân”.
Đây là đề tài khó, thường dễ sa vào việc hô
khẩu hiệu, với ông, bằng cách thể hiện mộc mạc, chân thành như cảm nhận tất yếu
của mọi người dân đất Việt. Những từ: “tiếp”, “bừng”, “hưng vượng”… làm cho bài
thơ có hồn.
“Yêu quí chăm lo đến thiếu niên
Gắng công rèn rũa đức tài hiền
Thêu hoa nhiệt huyết niềm mơ ước
Tâm nguyện của Bác gửi gắm, hy vọng vào
thế hệ mai sau xây dựng đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu được
thể hiện sao giản dị mà tài tình đến nhường vậy. Là một lương y chuyên sâu, ông
thấm nhuần và phát huy cái đạo từ ngàn xưa “lương y như từ mẫu”. Nếu như trong
sự nghiệp y dược cứu người ông từng chữa cho bao người khỏi bệnh nan y và thường
xuyên khám bệnh miễn phí cho người có hoàn cảnh khó khăn, thì trong bài “Đông y
Việt Nam”:
“Truyền tải đông y Việt Nam ta
Tiếp theo báu quí của ông cha
Hiền tài cứu chữa nhiều thay đổi
Tốt tình chăm lo lắm chạm va…”.
Đây phải chăng là tuyên ngôn, là tiêu chí và
cũng là những chiêm nghiệm của một lương y tài cao tâm sáng.
Trong tập “Trăng ngàn”, nhiều bài, nhiều
câu, đọc thuận hay ngược đều đáng khâm phục như: Thơ hồn nối nhịp thích và mơ –
Mơ và thích nhịp thổi hồn thơ (Sáng tỏa). Suối nước in non vẽ đất trời – Trời đất
vẽ non in nước suối (Tụ hội). Nắng vàng hong ấm gió đưa hương – Hương đưa gió ấm
hong vàng nắng (Tết đến)… Đặc biệt bài: “Chợ hoa” có thể đọc được
thành 20 bài khác nhau, mỗi bài đều đem đến cho người đọc một thi cảm đầy bất
ngờ trước vẻ đẹp của hoa, xuân, con người cùng thiên nhiên qua sự sáng tạo tuyệt
vời:
“Gần tết chợ hoa đủ loại mầu
Nụ đào nhành cúc quất bày mau
Thân mai gốc sứ khoe hình dáng
Khóm trúc cành cau nối nhịp cầu
Xuân đón bướm vờn vui nhẩy múa
Gió hong chim đuổi thú đan khâu
Hân hoan dạo phố đèn trưng sáng
Giàn nhạc thâu đêm điểm trống chầu”.
Tiến sỹ Đặng Văn Phú là người đầu tiên có một
tập thơ Đường theo thể “thuận nghịch độc”. Được biết ông sáng tác tập thơ này
trong một thời gian không dài, với 22 bài thất ngôn bát cú, 28 bài tứ tuyệt.
Đây quả là một kỳ công chưa từng có. Song cũng do đây là tập thơ đầu tay
theo thể loại “khó chơi” này nên có đôi từ đọc ngược còn chưa sáng nghĩa,
nhuần nhị, hoặc còn thô cứng. Đó là điều không tránh khỏi, bởi nói như dân
gian: Ngọc nào mà không có vết. Nếu không tỳ vết thì người ta còn phải phấn đấu,
gọt rũa để làm gì nữa. Bởi vậy chúng ta đón nhận tập “Trăng ngàn” với một sự
khâm phục và trân trọng, sự thành công của tiến sỹ Đặng Văn Phú góp phần làm
phong phú thêm thi đàn Đường luật. Và chúng ta đón đợi tập: “Vườn đào” với những
thành công mới.
Gấp cuốn sách lại, người đọc gặt hái được biết
bao cảm xúc thấm đẫm tình người và tình đời và cảm thấy tâm hồn mình trong sáng
hơn, yêu đời hơn, do những thi tứ và cách thể hiện độc đáo đem lại, tôi cứ tự hỏi:
Những người làm cuốn sách Kỷ lục Giness Việt Nam đã biết đến tập thơ Đường luật
“thuận nghịch độc” của tiến sỹ Đặng Văn Phú hay chưa? Và nếu biết, họ có định
đưa vào cuốn sách đó hay không, vì các bạn cứ tìm thử mà xem, từ xưa đến nay đã
có nhà thơ nào có hẳn một tập 50 bài theo thể “thuận nghịch độc” như tiến sỹ Đặng
Văn Phú?.
CHỢ HOA:
MỘT BÀI TÁCH ĐƯỢC HAI MƯƠI BÀI:
I.ĐỌC XUÔI:
(Một bài đọc xuôi đã có ở trên)
2 . Gần tết chợ hoa đủ loại mầu
Nụ đào nhành cúc quất bày mau
Thân mai gốc sứ khoe hình dáng
Khóm trúc cành cau nối nhịp cầu
3 . Xuân đón bướm vờn vui nhảy múa
Gió hong chim đuổi thú đan khâu
Hân hoan dạo phố đèn trưng sáng
Giàn nhạc thâu đêm điểm trống chầu
4. Thân mai gốc sứ khoe hình dáng
Khóm trúc cành cau nối nhịp cầu
Xuân đón bướm vờn vui nhảy múa
Gió hong chim đuổi thú đan khâu
5. Gần tết chợ hoa đủ loại mầu
Nụ đào nhành cúc quất bày mau
Hân hoan dạo phố đèn trưng sáng
Giàn nhạc thâu đêm điểm trống chầu
6. Chợ hoa đủ loại mầu
Nhành cúc quất bày mau
Gốc sứ khoe hình dáng
Cành cau nối nhịp cầu
Bướm vờn vui nhẩy múa
Chim đuổi thú đan khâu
Dạo phố đèn trưng sáng
Thâu đêm điểm trống chầu
7. Chợ hoa đủ loại mầu
Nhành cúc quất bày mau
Gốc sứ khoe hình dáng
Cánh cau nối nhịp cầu
8 . Bướm vờn vui nhẩy múa
Chim đuổi thú đan khâu
Dạo phố đèn trưng sáng
Đêm thâu điểm trống chầu
9. Gốc sứ khoe hình dáng
Cành cau nối nhịp cầu
Bướm vờn vui nhẩy múa
Chim đuổi thú đan khâu
10. Chợ hoa đủ loại mầu
Nhành cúc quất bày mau
Dạo phố dèn trưng sáng
Thâu đêm điểm trống chầu
|
II.ĐỌC NGƯỢC:
11. Chầu trống điểm đêm thâu dàn nhạc
Sáng trưng đèn phố dạo hoan hân
Khâu đan thú đuổi chim hong gió
Múa nhẩy vui vờn thú đón xuân
Cầu nhịp nối cau nhành cúc khóm
Dáng hình khoe sứ gốc mai thân
Mau bày quất cúc nhành đào nụ
Mầu loại đủ hoa chợ đến gần
12 . Chầu trống điểm đêm thâu nhạc giàn
Sáng trưng đèn phố dạo hoan hân
Khâu đan thú đuổi chim hong gió
Múa nhẩy vui vờn bướm đón xuân
13. Cầu nhịp nối cau cành trúc khóm
Dáng hình khoe sứ gốc mai thân
Mau bày quất cúc cành đào nụ
Màu loại đủ hoa chợ tết gần
14. Khâu đan thú đuổi chim hong gió
Múa nhẩy vui vờn bướm đón xuân
Cầu nhịp nối cau cành trúc khóm
Dáng hình khoe sứ gốc mai thân
15. Chầu trống điểm đêm thâu giàn nhạc
Sáng trưng đèn phố dạo hoan hân
Mau bầy quất cúc cành đào nụ
Mầu loại đủ hoa chợ tết gần
16. Điểm đêm thâu nhạc giàn
Đèn phố dạo hoan hân
Thú đuổi chim hong gió
Vui vờn bướm đón xuân
Nối cau cành trúc khóm
Khoe sứ gốc mai thân
Quất cúc nhành đào nụ
Đủ hoa chợ tết gần
17. Điểm đêm thâu nhạc giàn
Đèn phố dạo hoan hân
Thú đuổi chim hong gió
Vui vờn thú đón xuân
18 . Nối cau cành trúc khóm
Khoe sứ gốc mai thân
Quất cúc nhành đào nụ
Đủ hoa chợ tết gần
19 . Thú đuổi chim hong gió
Vui vờn bướm đón xuân
Nối cau cành cúc khóm
Khoe sứ gốc mai thân
20. Điểm đêm thâu giàn nhạc
Đèn phố dạo hoan hân
Quất cúc nhành đào nụ
Đủ hoa chợ tết gần
|
Trần Vân Hạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét