Các biểu tượng trong tôn giáo
Lời người dịch: Nghiên
cứu các biểu tượng trong tôn giáo là công việc đã được thực hiện hàng nghìn
năm qua trong lịch sử văn minh của nhân loại. Cho tới nay, hầu hết các ngành
khoa học xã hội và nhân văn trên thế giới đều ít nhiều đề cập đến đối tượng
nghiên cứu đặc thù này. Nhiều chuyên ngành còn đi sâu nghiên cứu về các biểu
tượng trong tôn giáo thông qua thần học (theology), nghiên cứu thánh tượng
(iconology),v.v... đặc biệt là nhân học tôn giáo và nhân học biểu tượng. Tuy
nhiên, sự bao la của hệ thống biểu tượng trong tôn giáo cùng những ý nghĩa vô
cùng rộng lớn và có phần mơ hồ, trừu tượng của chúng khiến cho khoa học
nghiên cứu về các biểu tượng trong tôn giáodường như vẫn đang đi những
bước đầu tiên. Trên thực tế, tôn giáo tồn tại trên cơ sở của tính biểu tượng
nên chừng nào nó còn tồn tại thì các biểu tượng của nó cũng sẽ còn tồn tại.
Vì vậy, đối tượng nghiên cứu này sẽ còn tiêu tốn thêm nhiều giấy mực của các
nhà nghiên cứu trong hiện tại cũng như trong tương lai. Với một đối tượng
nghiên cứu hết sức rộng lớn như vậy việc tiếp cận một cách đầy đủ sẽ là điều
không tưởng. Ở đây, Raymond Firth đã thu hẹp góc nhìn về các biểu tượng
chỉ trong tôn giáo của người phương Tây, và nhấn mạnh đến các biểu tượng
trong Thiên chúa giáo bằng con mắt của một nhà nhân học (mặc dù ông có nhiềm
kinh nghiệm trong nghiên cứu văn hoá phương Đông cũng như Đông Nam Á). Từ góc
nhìn này, chúng ta có thể tiếp cận các lý thuyết nền tảng của phương Tây để
tham chiếu các hệ thống biểu tượng phong phú, đa dạng và trừu tuợng hơn trong
văn hoá phương Đông.
Các nhà nhân học có thể từ
chối biểu tượng luận**được nói đến trong thi ca, nghệ thuật hoặc phê bình,
nhưng rất khó để họ bỏ qua một bên những thảo luận về các biểu tượng trong
tôn giáo. Một số nhà nhân học quả thực đã hướng trực tiếp sự quan tâm của họ
vào biểu tượng luận trong tôn giáo phương Tây để giúp họ làm sáng tỏ về biểu
tượng luận nguyên thủy.
Biểu tượng luận trong các
tôn giáo phương Đông, đặc biệt Hin-đu giáo, phong phú không một tôn giáo nào
sánh bằng, và dựa trên một sự khác biệt rất rõ ràng giữa biểu tượng và thần
thánh, những gì là linh hồn hoặc sức mạnh của vũ trụ đã được biểu tượng hóa.
Nhưng với đòi hỏi ban đầu của chúng ta ở đây, một vài nhận xét về biểu tượng
luận trong Cơ-đốc giáo sẽ đủ để minh họa cho vấn đề này.
Ở phương Tây, lịch sử lâu
đời và phức tạp của bản thân giới hạn biểu tượng đã có liên quan rất nhiều tới
tôn giáo. Ở Hy Lạp, khởi nguyên từ sumbolos liên quan tới những từ
được quy theo nghĩa đen có nghĩa là đặt cùng nhau những thứ gì đó đã bị phân
chia. Một ví dụ về sản phẩm được tạo bởi hai nửa của vật lưu niệm được đập vỡ
đôi và chia cho một đôi bạn nhờ đó họ sẽ chia sẻ dấu hiệu để nhận ra nhau.
Ngược lại, vật lưu niệm này được dùng để phân biệt họ với những người khác
không có vật kiểm chứng. Nó cũng có ý nghĩa trong giai đoạn đầu của nhà thờ
Cơ-đốc giáo dường như đã chấp nhận khái niệm biểu tượng. Nó đã được sử dụng
cho các phát ngôn quyền lực chính thức về niềm tin tôn giáo, phân biệt những
người theo Cơ đốc giáo - với những người không theo Cơ đốc giáo – Credd. (Người
ta cho là nó có thể được sử dụng trong những tôn giáo thần bí ở các thời kỳ,
cho một ký hiệu bên ngoài biểu thị những bí mật bên trong tín ngưỡng). Một
cách đặc thù, ‘biểu tượng’ được áp dụng cho lời xưng tội được học thuộc lòng
của tín đồ tại lễ rửa tội bằng một sự chuyển đổi. Trong hình mẫu của những gì
được gọi là Biểu tượng của các Tông đồ (Apostle’s Creed) tuyên bố chính thức
về tín ngưỡng đã tạo được niềm tin (bề ngoài không có chứng cứ lịch sử thích
đáng nào), để đảm bảo lòng thành được vẽ ra bởi các học thuyết của Giê-su sau
lễ Hạ trần (Pentecost). ‘Biểu tượng’ này sau đó trở nên một chiếc
vé thông hành khi gia nhập một nhà thờ mới. Ngày nay, không chỉ có nhà thờ đấu
tranh cho việc củng cố sức mạnh của chính nó để chống lại dị giáo và các tôn
giáo phương Đông khác, mà còn phải chiến đấu với chính mãnh lực trong bản
thân nó. Ở đây có sự khác nhau trong quan điểm về việc nhìn nhận xem ai nên
thực thi quyền lực, về quyền hạn hành chính, và về nội dung các học thuyết;
các cuộc bàn cãi thường được diễn ra trong sự tố giác dị giáo. Các nhà thần học
và những người lãnh đạo nhà thờ trong thế kỷ thứ II, thứ III SCN đã sử dụng
biểu tượng của lễ rửa tội để nhân danh sự chính thống của Giáo hoàng chống lại
những người ngộ đạo và những người bất đồng với quyền lực của họ, từ chối cho
họ sử dụng nó, hoặc ép buộc sử dụng nó để chống lại niềm tin của họ (Xem chi
tiết của F. Kattenbusch, 1894, 1900, và xem lại bởi Marcel Mauss, 1900-1,
298- 301; Salomon Reinach, 1942, 262-3; A.C.McGiffert, 1953, 152-60;
F.Creuzer, 1837-43, iv, 503- 17). Gần 2000 năm trước, biểu tượng này đã được
khẳng định này không chỉ là một dấu hiệu thay thế cho các thành viên của một
hội đồng tôn giáo đã được quy định; mà còn là một công cụ của sức mạnh, của sự
phân biệt và chia rẽ, một vũ khí bút chiến, nơi con người có thể tạo ra để buộc
tuân theo hoặc ngăn chặn từ chính thể đó.[i]
Như khái niệm biểu tượng
đã phát triển trong giai đoạn đầu của nhà thờ, nó đã tìm được một cách làm rõ
sự trừu tượng thường được sử dụng, ở đó ý niệm về dấu hiệu vật chất được liên
kết với những gì không thể nhìn thấy, phi vật chất. Vì vậy, nhà thờ vật chất
hiện hữu, bằng gỗ hoặc đá, trở thành một biểu tượng của nhà thờ tinh thần, cộng
đồng của những vị thánh và những người ngoan đạo với Tam vị nhất thể (Trinity).
Vì vậy, trong các lễ nghi của nhà thờ, lễ rửa tội biểu tượng hoá của sự tẩy uế,
giai đoạn đầu tiên của quá trình đi lên với linh hồn của Chúa, trong khi lễ
ban thánh thể, lễ ban phúc bánh mì và rượu, là biểu tượng hoá của giai đoạn
thứ hai, tượng trưng cho sự khai sáng. Nghi thức trang nghiêm cho thấy rõ
lòng khoan dung, tìm ra ý nghĩa về sức mạnh và tình yêu tiềm ẩn của Chúa.
Trong thế kỷ thứ năm, khi khái niệm biểu tượng luận được đưa tới, tác giả ngụ
ý tới Dionysus the Areopagite (thẩm phán Dionysus ở Areopagite -
người nghe theo lời giảng của Thánh Tông đồ Phaolô đi theo Thiên chúa – ND)
nhờ ơn đức siêu việt của Chúa, vấn đề này khó hiểu và khó tiếp cận với sự hiểu
biết của con người, những gì Kinh thánh nói với chúng ta về ông ta có thể chỉ
là trong ngôn ngữ biểu tượng, phù hợp với hiểu biết hạn chế của chúng ta. Ở đề
tài này, biểu tượng như là một sự hỗ trợ cho sự hiểu biết, để thấm nhuần toàn
bộ thần học Cơ-đốc và để truyền bá rộng rãi hơn. Người ta thừa nhận rằng các
biểu tượng truyền đạt những ý nghĩa với các cấp độ của thực tế, không tiếp cận
thông qua kinh nghiệm trực tiếp hoặc suy nghĩ mang tính quan niệm - do đó nó
được cho là, nằm ở một vài thiên hướng trong sách khải huyền (revelatory).
Những ý nghĩa này thường phức tạp, và có nhiều lớp nghĩa khác nhau, như Dante
xác định chủ đề trong tác phẩm Divine Comedy của ông không đơn giản
nhưng ‘đa nghĩa.’ Vì vậy, ý nghĩa không dễ dàng nhận thấy được với những người
không thông thạo, do đó lời chỉ dẫn là rất cần thiết để giúp cho họ hiểu
chúng. Hơn thế, như những gì Dionyous đã viết, những hình ảnh được sử dụng
thường có ý nghĩa và ước lượng được, dường như không giống với những gì chúng
thể hiện, vì vậy ở đó sẽ không có nguy hiểm cho sự thành kính của họ bối rối
trước thực tế. Chưa kể tới một vài biểu tượng tôn giáo khác, chúng được cho
là ‘những biểu tượng tự nhiên,’ bởi sự liên tưởng của chúng. Vì vậy những
nhân tố như nước trong lễ rửa tội, hoặc bánh mỳ trong lễ ban thánh thể được
xem là ‘những biểu tượng tự nhiên’ cho sự gột rửa tinh thần và nuôi dưỡng,
tôn trọng, như một chiếc chìa khóa là một biểu tượng tự nhiên cho quyền lực bởi
sự liên tưởng của nó tới quyền sở hữu hoặc quyền quản lý.
Nhưng những biểu tượng tôn
giáo không đơn giản chỉ là phương tiện truyền đạt thông tin: chúng chuyển tải
đầy xúc động, không có sự chung chung trong giá trị cảm xúc và tri thức của
chúng. Hơn thế, chúng có thể phải đương đầu với một sức mạnh đồng thời, trong
bản thân chúng ‘xuất hiện ý nghĩ hướng về cái Tuyệt đối (Abssolute).’ Vì vậy,
trong truyền thống của nhà thờ thời trung cổ, sự diễn giải thần bí về các biểu
tượng ở các cấp độ khác nhau ‘đồng thời đúng’ được chỉ dẫn thông qua mô tả
văn chương, chỉ dẫn ngụ ý đối với tín ngưỡng, chỉ dẫn mang tính giải nghĩa đối
với trách nhiệm, với diễn giải kinh thánh (theo hướng thần bí-ND), hướng tới
mục tiêu hợp nhất với tính thiêng liêng.[ii]
Trong lĩnh vực tôn giáo hiện
đại, một minh họa tuyệt vời về cách tiếp cận của một nhà biểu tượng luận
chính là tín ngưỡng luận (hoặc biểu tượng - tín ngưỡng luận: symbolo-fideism)
của một số nhà lý thuyết Tin lành ở Paris vào cuối thế kỷ XIX. Chủ đề trọng
tâm của cách tiếp cận này giống với quan điểm của các nhà biểu tượng luận
trong văn học và nghệ thuật thời kỳ đầu - về bản chất của những gì thoát khỏi
chúng ta và rằng chúng ta chỉ biết những biểu hiện bề ngoài hình mẫu của những
minh hoạ, những hình ảnh, những biểu tượng. Do đó không ai có thể biết bản
thân Chúa là gì; tất cả chỉ có thể là những ý tưởng chúng ta có về Chúa thông
qua những biểu hiện ít nhiều được nhân hóa của chúng ta. Vì vậy, những khái
niệm như Thiên Chúa, Đức Chúa cha, Giáo chủ và những biểu trưng như Sư tử,
Đá, Mặt trời là hiện thân của một vài phần trong sự biểu tượng hoá của những
gì mà chúng ta có thể không bao giờ lĩnh hội được một cách đầy đủ (Eugene
Ménégoz, n.d., 151-2). Những nhà thần học này, hiển nhiên, đã được chuẩn bị để
tranh luận về các biểu tượng mà không còn nghi ngờ gì về sự biểu hiện của thực
tế cuộc sống của một bậc siêu nhân, và họ xem những nhiệm vụ của mình chính
là bóc trần sự thật vĩnh hằng dưới những xuất hiện tình cờ và những công thức
mang tính lịch sử của nó.
Một cách nhìn khác về biểu
tượng luận trong tôn giáo được đưa ra bởi Walter Marshall Urban, một nhà triết
học duy tâm ở đại học Yale (1939). Ông rất ấn tượng với những gì ông gọi là đặc
điểm có thể nhận biết qua ‘trực giác’ của những biểu tượng xác thực. Ông đã
nhìn thấy ‘giác quan’ của một biểu tượng tương tự như cách phản ánh về hai thứ,
biểu tượng và thứ được biểu tượng hóa - những gì ông gọi là ‘cộng đồng của
hình thái chủ quan’(Điều này mang tới ý nghĩ về các quan điểm thời trung cổ của
học thuyết loại suy, cũng như Maurice Godelier đã nhấn mạnh về tiêu chuẩn của
loại suy như nền tảng của ý nghĩ hoang đường - 1971, 96-8). Phân biệt một
cách mạnh mẽ giữa ký hiệu và biểu tượng, Urban cho rằng một ‘ký hiệu đơn thuần’chính
là một biểu tượng được khách quan hóa, nó đã mất đi sự ám chỉ của bản thân nó
vào vật thể gốc (1939, 413,419). Ông đã đưa ra một đòi hỏi phức tạp về biểu
tượng luận của nghệ thuật thơ, khoa học và Cơ-đốc giáo, và cố gắng để công thức
hóa lý thuyết chung của chức năng biểu tượng hóa. Ông đã phân biệt ngôn ngữ
biểu tượng với ngôn ngữ phi biểu tượng, tranh luận rằng ngôn ngữ biểu tượng
được tìm thấy ở nơi những nhân tố trực giác trong chức năng của ngôn ngữ cho
những gì không trực giác hoặc thuộc về quan niệm. Minh họa cho Jung, ông cho
rằng bất kỳ biểu tượng ‘xác thực’ nào trong giác quan cơ bản đều phải là kết
quả của sự hợp tác giữa nhân tố có ý thức và vô thức. Vì vậy một đặc tính của
tất cả các dạng biểu tượng luận là tính hai mặt của chính nó. Theo Helen
Flanders Dunbar, Urban đã phân loại các biểu tượng thành: biểu tượng nằm ở
bên ngoài hay biểu tượng tự thân; biểu tượng nằm ở bên trong hay biểu tượng
mang tính mô tả; và ‘biểu tượng nhìn thấu được.’ Ông cho rằng, nhóm thứ nhất
là những biểu tượng đặc biệt giành cho khoa học; nhóm thứ hai là giành cho
nghệ thuật và tôn giáo. Nhóm thứ ba – ‘biểu tượng nhìn thấu được’- thực sự là
một siêu hình thái của nhóm thứ hai – không chỉ thực sự mô tả những đặc điểm
của các mối quan hệ mà còn dẫn tới một cách hiểu về chúng, như trong thi ca
và tôn giáo. Urban đã trích dẫn truyền thống tiếp nối từ tư tưởng Hy Lạp cho
tới Thượng đế trong đạo Cơ-đốc cho tới tuyên bố đầy đủ trong thời trung cổ, về
phương pháp ‘gấp bốn’ (fourfold method) về diễn giải biểu tượng.
Ý tưởng về sự diễn giải tiến
bộ này, đặc biệt như sự quan tâm của nó tới chức năng đạo đức của các biểu tượng
(tropological - chuyển nghĩa trong Kinh thánh), và chức năng của chúng trong
việc nâng tầm ý nghĩ tới những thứ cao hơn (anagogical - phép giải thích Kinh
thánh theo nghĩa thần bí), áp dụng vào việc diễn giải Kinh thánh, bao gồm cả
những câu chuyện ngụ ngôn và những phép màu. Nhưng trong quan điểm của Urban,
nó cũng có ý nghĩa về một vũ trụ. Ông đặc biệt quan tâm tới các biểu tượng
tôn giáo, và gán cho chúng một giá trị rất rõ ràng. Ông cũng cho rằng một lý
thuyết nhân văn về các biểu tượng tôn giáo sẽ trở nên vô ích khi nó phủ nhận
những vật thể mà biểu tượng thay thế. Lý thuyết đạo đức trong sáng của các biểu
tượng tôn giáo cũng không thể trụ vững trong quan điểm của ông. Trừ phi một
biểu tượng tôn giáo được gán cho một khả năng giải thích Kinh thánh theo
nghĩa thần bí, và trừ phi nó được giải thích một cách siêu hình, đặc tính của
nó trong vai trò một biểu tượng tôn giáo không được hiểu một cách chính xác.
Vì vậy, trong quan điểm của ông, bất cứ một lý thuyết biểu tượng luận tôn
giáo nào cũng phải là một lý thuyết về nhận thức tôn giáo. Nếu ai đó chấp nhận
những giả định của ông, người đó có thể nhìn thấy sức mạnh của lý lẽ này. Tôi
nghĩ rằng những tiếng vọng của những gì tương tự cũng được tìm thấy trong một
số nghiên cứu nhân học về biểu tượng luận ở thời điểm hiện tại. Nhưng Urban
cương quyết hơn một vài đồng nghiệp của ông. Ông cho là những lời tuyên bố về
các biểu tượng tôn giáo có những giá trị nhân văn và xã hội chính là một sự cố
gắng để giữ lại các biểu tượng mà không cần vật thể chỉ để gán cho chúng ý
nghĩa cũng như là những giá trị (1939, 596, 606-8).
Urban cũng đã đưa ra câu hỏi
để xác minh. Ông cho rằng trong khi sự ám chỉ của một biểu tượng tôn giáo vượt
quá đạo đức nhân văn và giá trị kinh nghiệm của chúng ta, sự xác nhận về tính
xác thực của nó chỉ có thể diễn ra trong kinh nghiệm đó. Điều ông nhận thấy
là một nhân tố của niềm tin trong tất cả các các lý thuyết đạo đức về biểu tượng
tôn giáo. Như một phần trong lý thuyết chung Urban đã chỉ ra bản chất của một
biểu tượng chính là nó chứa đựng cả sự thật và điều tưởng tượng, cả cái thực
tế và phi thực tế. Theo hướng này, ông cũng cho rằng biểu tượng luận tôn giáo
hơn biểu tượng luận trong khoa học ở đặc điểm căn bản siêu hình của nó, và được
định hình từ ngôn ngữ của thần thoại. Nó thường bóp méo trực giác để đưa ra
giả thuyết và mô tả về thượng đế và những gì trừu tượng. Ông đã dành sự chú ý
tới vai trò duy nhất của ‘yếu tố phủ định’ tồn tại trong tất cả biểu tượng luận
tôn giáo, ở đó nó bao hàm cả sự thật và không phải sự thật về vật thể được biểu
tượng hóa (1939, 582- 5).
Lý thuyết duy tâm về biểu
tượng luận đã làm phát sinh một số câu hỏi cơ bản về nhận thức luận. Nhưng
trong cách tiếp cận quan niệm trừu tượng của nó, sự nhấn mạnh của nó đối với
nguyên lý nhị nguyên, và sự phân tích của nó về vật chất trong thần thoại và
tôn giáo, suy nghĩ của Urban đã đem tới sự so sánh đối với sự phát triển của
những mối quan tâm nhân học trong những thập niên sau đó. Không có bằng chứng
nào cho thấy rằng những ý tưởng của ông đánh dấu sự ảnh hưởng tới nhân học.
Nhưng chúng có liên quan tới sự tranh luận về những gì trong lý thuyết đổi mới
tôn giáo đã gợi lên sự phân biệt giữa chân lý về giá trị và chân lý của thực
tế, và nó đã hiện ra trong nhân học, trong những thảo luận về ý nghĩa của những
câu chuyện về sự ra đời của Đức mẹ đồng trinh.
Cho nên từ một vài tác giả
thần học và những đồng minh của họ, điều đó đã được khẳng định rằng việc lấy
hình ảnh nhà thờ Cơ-đốc của phương Tây làm ví dụ, những biểu tượng tôn giáo
được xem xét trên quy mô lớn, với những phương tiện giúp đỡ cần thiết để hiểu
và để thực hiện các hoạt động, và như một chủ đề dành cho những cống hiến về
mặt trí tuệ và cảm xúc. Một phần lớn cũng được họ giữ làm bí mật không chỉ là
vì họ phải chống lại những phiền phức đã phải chịu đựng mà còn do hầu hết các
biểu tượng quan trọng đã được đề cập như thể chúng có sức mạnh trong quyền hạn
của bản thân để dẫn dắt lòng thành kính tới một mối quan hệ trực tiếp nhiều
hơn với thần thánh. Nhưng ở đây cũng nảy sinh một vấn đề thể hiện ở những
hình mẫu tương đối khác biệt trong biểu tượng luận văn chương hoặc nghệ thuật
- điều đó được xác thực. Với các nhà thơ hoặc họa sĩ câu hỏi này có thể gây
tranh luận về giá trị của những biểu tượng mà họ tạo ra - trong bất cứ trường
hợp nào các biểu tượng cũng thực hiện công việc được đòi hỏi hoặc được hy vọng
cho chính chúng, về việc khơi gợi các ý tưởng, cảm xúc, hoặc khuyến khích các
kinh nghiệm. Không thể phủ nhận theo cách thông thường rằng những ý tưởng,
kinh nghiệm, cảm xúc có thể tồn tại ở một hình mẫu đã dự tính nào đó. Nhưng với
các biểu tượng tôn giáo những câu hỏi này có thể đặt ra một dáng vẻ khác. Sự
tồn tại của điều ám chỉ không phải là nền tảng chung giữa các nhà bình luận.
Một vài người tin rằng nó là một cái gì đó ngoài con người, thần thánh hoặc sức
mạnh, không nhìn thấy được, phi vật chất, thậm chí không thể tiếp cận được,
được tiếp cận hoặc ít nhất được đề cập bởi các ý nghĩa biểu tượng.
Những người khác thì tin rằng điều này không phải như vậy, và rằng các biểu tượng ngụ ý để tạo ra sự ám chỉ đề cập thực tế của một số chủ thể - lời nói khác, đó là quá trình hoạt động của xã hội loài người hoặc đặc điểm của trí tuệ loài người
Các nhà nhân học có một vị
trí không rõ ràng ở đây. Giống như một nhà thần học hoặc một người theo một
tôn giáo nào khác, nhà nhân học phải học cách luận giải các biểu tượng tôn
giáo - những biểu tượng tôn giáo của bất kỳ ai - với sự tôn trọng. Anh ta
không được mong đợi để gán cho chúng tính xác thực trong phạm vi của chính bản
thân chúng - ngoại trừ cái nhất thời, có lẽ bởi những người trong số những
người mà anh ta đang nghiên cứu về họ. Nhưng một vài nhà nhân học tin tưởng một
cách vững chắc trong tính xác thực của những biểu tượng của một niềm tin tôn
giáo - ví dụ Do Thái giáo, Cơ-đốc giáo, Hồi giáo - trong khi những người khác
có ý tin vào một loại thừa nhận chiết trung rằng tất cả các biểu tượng tôn
giáo đều có một vài thành tố trong những sự ám chỉ vượt quá phạm vi hiểu biết
của con người. Vẫn có một số khác công khai thừa nhận tính nhân văn theo cách
diễn giải của họ. Ở đó có một cách thừa nhận về thái độ trung lập nghề
nghiệp (professional neutrality) của các nhà nhân học khi hướng tới chủ
đề nghiên cứu. Một vài người đã đưa ra lý lẽ rằng, trong nghiên cứu về tôn
giáo, cần phải tạo sự khác biệt cho dù bản thân nhà nhân học có theo một tôn
giáo nào hay không - cho dù họ không làm rõ những khác biệt đó là gì. Với vấn
đề xác thực tính biểu tượng, những ẩn ý vẫn chưa được làm rõ trong thực tế.
Không hơn một người theo chủ nghĩa nhân văn, có thể là một nhà nhân học theo
Cơ-đốc giáo, Do Thái giáo hoặc Hồi giáo, người có đức tin, quy vị thế giống
nhau cho ‘những vị thần’ ngoại giáo của một người mà anh ta đang nghiên
cứu như những người mà bản thân họ làm như vậy. Nhưng có lẽ mỗi người sẽ tiếp
cận nghiên cứu của mình với sự cảm thông và hướng sự tôn trọng bên trong cũng
như bên ngoài tới những khái niệm tôn giáo mà ở đó con người biểu lộ những cảm
xúc sâu sắc nhất của họ. Những gì nên được hiểu ở đây là, trái ngược với quan
điểm của Urban, một nhà nhân học nhân văn, nghiên cứu những biểu tượng tôn
giáo mà không tuyên bố rằng chúng không có vật ám chỉ. Anh ta có thể khẳng định
rằng vật ám chỉ khác với những gì những người theo tôn giáo gán cho các biểu
tượng, nhưng nó nằm trong những mong ước, cảm xúc, sự cố gắng, quan niệm, mối
quan hệ có tổ chức của con người.[iii]
* Trích trong cuốn: Biểu
tượng: Chung và riêng (Symbols: Public and Private) của GS. Raymond
Firth, do nhà xuất bản Đại học Cornell ấn hành năm 1973. Bản dịch do Quỹ
phát triển KHCN Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ kinh phí.
** Thuật ngữ symbolism được
dịch sang tiếng Việt là biểu tượng luận hoặc chủ nghĩa biểu tượng.
Ở đây chúng tôi sử dụng biểu tượng luận để thống nhất cách dùng
trong các bản dịch khác đã công bố.
[i] Nó tồn tại trong một
thời gian dài. Bishop Reginald Pocock, nhà thần học đầu tiên viết bằng tiếng
Anh từ những giai đoạn Anglo-Saxon, đã kết án dị giáo năm 1457 bởi vì, một phần,
ông đánh giá thái độ hoài nghi về nguồn gốc tác giả của Tông đồ về tín điều
mang tên chúng (Myers, 1866, 67-9). Trong các bức tranh và văn khắc giai đoạn
sớm biểu tượng Cơ-đốc giáo đề cập đến đời sống hơn là lăng mộ, sử dụng các biểu
tượng như cá cho sự kết hợp thần bí với Chúa Giê-su hoặc cây nho cho bữa tiệc
thiên đàng, với những gì đảm bảo trên trái đất là Lễ ban thánh thể
(Eucharist). ịư xuất hiện của cây thập tự vào cuối thế kỷ thứ tư, có mối quan
hệ với chiếc thánh giá vào khoảng thế kỷ thứ tám. Nhứng bên cạnh đó chúng trở
nên phát triển tính biểu tượng về quyền tối thượng của nhà thờ.
[ii] Như một minh họa cho
sự bao la trong văn học về chủ đề này, xem Dunbar, 1929; Mc Giffert, 1953,
chương.16; Somerville et al., 1967. Một trong những cách nghiên cứu
đầy đủ nhất chính là của Abbe Auber (1884, 4 tập), người đã nghiên cứu biểu
tượng luận trong kinh thánh, nhà thờ, kiến trúc, sự trang trí, đồ trang trí,
nghi thức tế lễ trong nhà thờ, một cách rất chi tiết.
[iii] Về điểm này, tôi muốn
lưu ý rằng, một trong những phân tích sâu sắc nhất và mạnh mẽ nhất về biểu tượng
luận tôn giáo mà tôi đã từng được biết đến đó chính là của Gerschom Scholem,
nói về biểu tượng luận trong Pháp thuật của người Do Thái (Kabbalah).
Ông đã chỉ ra, giữa rất nhiều thứ khác, những người theo pháp thuật Do Thái
đã căn cứ như thế nào vào những giải thích của họ về Kinh thánh để đưa ra kết
luận rằng mỗi tiết trong Kinh thánh là một biểu tượng về một giai đoạn trong
quá trình đi tới với thần thánh, một cơn bốc đồng trong cuộc đời thần thánh;
và Torah được bày tỏ như thế nào khi mô tả mộtcorpus symbolicum (thể biểu
tượng) rộng lớn về cuộc đời tiềm ẩn của Chúa. Scholem cũng nhấn mạnh rõ ràng
một cách uyên thâm về các ý nghĩa ông đã nhận thấy qua các nghiên cứu (1955,
38-9, 205- 35).
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét