Thứ Năm, 9 tháng 6, 2016

Khí hạo nhiên

Khí hạo nhiên
Từ xưa các nhà Nho - Phật - Đạo đều chú trọng  đến việc “ dưỡng khí”, chỉ do quan niệm triết học khác nhau nên phương thức và nội dung không giống nhau. Nho gia tích cực trong việc bồi dưỡng phẩm cách con người, nhấn mạnh vào con người tự mình phải hàm dưỡng cái khí nhân nghĩa. Đạo gia chú trọng việc bồi dưỡng tính thiên nhiên của con người, đặt nặng vấn đề con người cần phải hàm dưỡng cái khí bản chất của mình. Phật gia coi trọng  việc con người phải bồi dưỡng năng lực chịu đựng khốn khổ, nên nhấn mạnh vào việc tự mình phải hàm dưỡng  cái khí bao dung nhẫn nại .
Từ các quan niệm triết học xử thế như vừa nêu, nên khi đi vào tác phẩm văn học, chủ thể nhân cách của mỗi nhà đều có bộ mặt khác nhau: Nho gia chủ trương chân thành, Đạo gia có trạng thái phiêu dật, Phật gia đặt nặng vấn đề tự tập trrung. Trong ba giáo phái Nho Phật Đạo thì nhà Nho đặt nặng việc tu dưỡng cá thể con người nhất, vì chủ thuyết này lấy việc thúc đẩy xã hội tiền tiến là nhiệm vụ chính; đòi hỏi mỗi cá thể phải cực lực bồi dưỡng  nhân cách của mình để tích cực nhập thế, hi vọng sự nỗ lực của mỗi cá thể sẽ làm cho xã hội đạt đến sự hòa hài cao độ,. Từ quan điển chủ đạo đó chi phối  mà mạnh Tử đề ra  “khí hạo nhiên”, là một thứ lý luận dưỡng khí cho vai tró chủ thể tự  nhiên, mà rồi gây thành ảnh hưởng rất lớn trong văn nghệ học, mỹ học của Trung  quốc cổ điển và lan ra đến các lân bang  trong số đó có Việt nam.
Nhưng khí hạo nhiên là gì ? Thất ra nó là một thứ khí  to lớn cứng rắn. Mạnh tử  nói  nó là “ chí đại chí cương”, nó có khả năng  phối nghĩa với Đạo, và sản sinh ra “tập nghĩa” ( kết hợp nhiều việc nghĩa lại với nhau). Nói rõ hơn, khia hạo nhiên là chỉ cho một thứ tinh thần phẩn cách cao quí nhất không gì có thể so sánh được, nò có đặc điển là khích lệ phấn phát nâng cao ý chí con người. Phẩn cách ấy khi biểu hiện ra bên ngoài là cực kỳ nhân hậu, cục kỳ cương trực đầy khí tiết : “phú qu1y bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” ( Nghĩa là :giàu có mà không trụy lạc không dân đảng tham lam, nghèo hèn mà ý chí không thay đổi, đứng trước  uy vũ ( kẻ mạnh )  mà tinh thần nghị lực vẫn vũng chãi không hề bị uy hiếp khuất phục). Con người phải có đủ khí tiết cương trực nhân hậu mới có thể đảm đương  việc đạo nghĩa, hoàn thành đjược  sứ mệnh đặc biệt đối với đấ nước với xã hội.
Vai trò của khí hạo nhiên quá lớn, nhưng bằng cách nào để bồi dưỡng nó? Chúng ta chỉ căn cứ vào ngôn hành của Mạnh Tử mới giải thích hợp lý được. Trước tiên mình phải bồi dưỡng cái tâm nhân ái, rồi dùng cái lòng nhân hậu đó mà có thái độ xử nhân tiệp vật đúng đắn. Như trong chương Mạnh tử kiến Lương Huệ vương  tường thuật tỉ mỉ. Nhà vua nói: Ta cũng hết lòng với dân gặp khi Hà nội mất mùa thì dời dân qua Hà đông, dời thóc lúa Hà đông sang Hà nội; hoặc khi Hà đông mất mùa cũng làm y như vậy, mà sao  chính sách nước lang giềng  chẳng được như tasa mà dân họ chẳng ít đi, trong khi dân của ta chũng chẳng thấy nhiều thêm là sao? Mạnh tử đáp : “ Đó chì là một khía cạnh của tính nhân ái, nên không đủ sức lôi kéo bách tính qui thuận. Rồi nhân đó ông đưa ra  chủ nghĩa lấy dân làm gốc, yêu cầu nhà vua đừng làm hại mùa màng ( bắt dân đi phục vụ công  dịch), lại lo việc giáo dục khiến cho  đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được đầy đủ, mói có thể mọi người hướng về, dân số mới gia tăng, xã hội mới phồn vinh phú cường.. Mạnh Tử còn đòi hỏi nhà vua “ kính trọng người già của nhà mình, ròi suy ra  để tôn kính  người già của kẻ khác; từ việc nuôi nấng can cái của mình suy ra đếntrẻ con của người, cùng đem  cái thứ đạo đức thiết thực biến thành hành động  thực tế, khiến cho nhân cách có thể trở thành một bộ phận quan trọng ; như vậy không những việc tu dưỡng của con  người đạt đến một giai tằng cao cả, mà còn có thể thực hiện được sự thái bình thịnh trị của một quốc gia.
Điểm thứ hai  là phải rèn luyện cho có một ý chí nội tại  vững mạnh, để có thể chịu đựng  sự khảo nghiệm của hoàn cảnh đầy gian khổ. Mạnh Tử rất chú ý đến điểm này, vì ông cho rằng con  người một khi nghĩ đến việc lớn ,  một sự nghiệp, tức khoông nghĩ đến tư lợi của mình, mà còn phải chuẩn bị cho việ hiến cả thân mình. Dấn thân vào cuôc đời không mấy thuận buồm xu6i gió, mà thường là đầy  trắc trở khó khăn.; con người cần phải thản nhiên đối diện với những tai ách, trước sau vẫn duy trì  một tinh thần chiến đấu vũng chắc. Mạnh Tử tùng căn dặn :” Trời trước khi ban trách nhiệm lớn cho người  nào thí tất phải  làm cho cái tâm , cái chí của người ấy trải đầy khốn khổ; có thể gân cốt phải lao động, thể xác phải đói khát, cùng túng, Muốn làm việc gì cũng không yên, cũng đầy khó khăn. Tất cả những điều kiện đo là nhắm vào việc khích động cái tâm, khiến cho tính khí trở nên nhẫn nại, bổ ích cho những điều mà nó chưa thực hiện được. Chính  những khó khăn đó mới rèn luyện được ý chí, bảo trì được sự thanh tĩnh, rồi từ tinh thần khí chất không kiêu ngạo, không tự ti, không kiêu kỳ cũng không khúm núm đó được xem như có nhân cách tốt đẹp điển hình. Mạnh Tử còn đề xuất : Giữa sự sống và điều nghĩa, nếu không thể muốn được cả hai, thì chọn điếu nghĩa vì nghĩa cao quí hơn.
Điểm thứ ba là con người không  chỉ phải trải qua  cuộc sống gian khổ để trôi luyện, mà còn cần phải trải qua kinh nghiệ bị nếp sống sung sướng dẫn dụ. Thườnng trong cuộc sống  gặp phải cảnh gian khổ người ta hay nghĩ tới sự an ủi, tìm người tri kỷ san sẻ; thế nhưng  khi gặp  cảnh ngội sung sướng  lại thường có thái độ ly tâm ly đức, sanh tâm máy móc mưu mẹo vị kỷ. Bình thường người ta chịu đựng được gian khổ chà  xát, thế nhưng trước sự sung sướng  dẫn dụ  lại không chống đở được. đó là điểm yếu đuối của nhân tính. Và dục vọng là đầu sỏ của tội lỗi đưa con người đến chỗ trụy lạc. Mạnh tử từ xa xưa đã thấy rõ điểm này, nên ông đã đòi hỏi con  người phải tiết chế dục vọng của chính mình, nôm na là cần phải tiết dục. Đó là khía cạnh quan trọng của việc dưỡng khí, nên Mạnh tử  từng nói:” Dưỡng tâm mạc thiện ư quả dục” nghĩa là muốn có cái tâm chân lý chẳng gì hay hơn là giảm bớt lòng ham muốn ( dục vọng). Trong chương Tận Tâm ông nói rõ:” Tồn kỳ tâm dưỡng kỳ tính sở dĩ sự thiên dã”, Nghĩa là một người biết bảo tồn nuôi dưỡng  cái tân của mình, là bồi dưỡng  cái tính của mính thì có thể đủ sức lực đối phó với tất cả mọi việc trong trời đất ( tức là sự thiên, thiên ở đây là thiên nhiên vạn vật, là thiên lý, thiên mệnh – Thiên mệnh chi vị tính , suất tính chi vị đạo).
Tóm lại, khí  hạo nhiên của Mạnh tử là tập trung tinh lực vào  nhân cách lý tưởng  của Nho gia, qui định trách  nhiệm  nghệ thuật của tác gia, nghệ thuật gia là phải  đặt nă95ng vấn đề tu thân, dùng văn học nghệ thuật tuyên dương  giá trị của sự sinh tồn, hoằng dương  đại  nghĩa xã hội.
Chủ thuyết thực tiển này đã gây nên ảnh  hưởng rất lớn tạo thành giá trị truyền thống  trong  nền văn học cổ của Trung Quốc. Trong lý luận văn học người hưởng ứng  Mạnh tử và áp dụng thuyết dưỡng khí đầu tiên phải kể là Tào Phi (187-226) trong bài Điển luận, ông phân tích chữ Khí rất  chu đáo, chia khí ra thành hai  loại thanh và trọc, và mạnh dạn tuyên bố: “Văn dĩ khí vi chủ”. Kế tiếp, đến đời Ngụy Tấn Nam Bắc triều (317-580) thì có Lưu Hiệp, với tác phẩm lý luận văn học kỳ vĩ là Văn Tâm Điêu Long  có cả một chương  “dưỡng  khí”. Nhưng Lưu Hiệp không có khuôn rập  theo ý hướng của Mạnh Tử là nghiêng về  chính trị và tư tưởng  luân lý. Dưỡng khí của Lưu Hiệp là nói về nghệ thuật  sáng tác văn học thuần túy chứ không đề cập đến  tư tưởng triết học. Dưỡng khi theo Lưu Hiệp là  điều kiện chủ chốt  để đưa tác phẩn văn học nghệ thuật  trở thành vững vàng xuất sắc, đó là do nhân cách chủ thể  trong tác phẩm  được phấn khởi hồ hởi na6ng lên. Ông cũng chịu nhiều ảnh hưởng của Tào Phi về thuyết văn khí, trong thiên  Phong cốt ông đưa ra phẩm cách thẩm mỹ, nó là kết quả của dưỡng khi vì khi có cứng cát vững chắc  thì  phong cốt mới vũng vàng  (cốt là ý tứ sung thực, và phong là tình cảm chân thành, tưởng tượng phong phú).
Lý luận  dưỡng khií đề cao khí hạo nhiên của Mạnh tử là tiêu bảng nhân cách cao quí, đến đời đường Tống càng phát huy được  tác dụng  quan trọng . Sự sáng tác văn học , đặc biệt là thời Thịnh Đường  đòi hỏi sự tìm kiếm nâng cao tinh thần nhân cách thi nhân trở nên hoàn mỹ, điển hình là những  nhà thơ như Lý Bạch, Đổ Phũ, Bạch Cư  Dị, cùng những nhà thơ biên tái. Trước thảm họa khốc liệt của chiến tranh họ vẫn giữ được tinh thần ý chí, miêu tả khí thế những cảnh trí  rộng lớn bao la… Văn học đới Tng cũng không thiếu những tác phẩm khẳng khái  hùng hồn mà Tô Thức, Vương An Thạch là những nhân vật tiêu biểu. Đặc biệt  đến đời Nam Tống.
Khổng Ðức
Theo http://www.vanchuongviet.org/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, là một nhà thơ nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam, là một nhà ngoại giao, ...