Từ linh cảm hay cảm hứng là dịch từ Inspiration của
Tây phương . Xưa người Trung Quốc có lúc không dịch mà phiên âm Hán Việt là “yên
sĩ phi lý thuần”. Trong văn chương chúng ta hay dùng từ cảm hứng, nhưng
xét ra nên dùng từ linh cảm có lẽ hay hơn, nên trong bài
này chúng tôi dùng từ linh cảm .
Trong quá trình sáng tác, tất cả những tác
phẩm nghệ thuật chân chính, tất nhiên nghệ thuật gia phải trải qua giai đoạn
của trạng thái linh cảm. Một tác phẩm được chế tác mà không trải qua giai đoạn
linh cảm thì không đáng nói đến, vì chất nghệ thuật chẳng có là bao. Linh cảm
là khoen quan trọng trong quá trình sáng tác.
Linh cảm tự nó có mang nhiều tính thần bí,
nó từ đâu đến? Nó đi về đâu? Chúng ta chỉ có thể dùng một số từ ngữ để miêu tả
trạng thái linh cảm: đột nhiên tỉnh ngộ, văn tứ tuôn ra, cây bút như có thần,
v..v…Thật tế linh cảm có tính chất thần bí, đặc điểm lớn nhất của nó là không
hẹn mà đến, hay đến không sao đoán trước được, cũng không sao cản lại được.
Linh cảm mang tính thần bí như vậy,
có thể bắt gặp nhưng không thể cầu mong mà có được. Thế thì có phải nghệ thuật
gia chỉ tiêu cực đợi chờ linh cảm giáng lâm? Hegel trong tác phẩm mỹ
học từng nói; “ Dù là bậc thiên tài vĩ đại tối ngày nằm dài trên thảm cỏ
xanh đón gió hiu hiu thổi lại, ngửa mặt ngắm trời trong, trước sau nguồn linh
cảm êm đềm vẫn không ngó ngàn đến ông ta.” Đúng là như vậy, trong sự sáng tác
nghệ thuật rất cần đến trạng thái linh cảm, tuy nó mang đầy tính thần bí;
nhưng điều đó không có nghĩa là trong căn bản hình thành tác phẩm, linh cảm
ngẫu nhiên quyết định. Sự cố gắng của ý chí cố nhiên không thể trực tiếp áp bức,
nhưng sự nỗ lực ấy là điều kiện tất yếu chuẩn bị cho linh cảm biểu hiện.
Giai đoạn đầu của sự sáng tác, chắc chắn là
một thứ tự giác cố gắng. Sự nỗ lực ấy đòi hỏi phải tìm đến cái gì, thì đó có
thể là đối tượng cảm tính sống động trong tâm hồn nhà nghệ thuật, đó cũng là
những tài liệu hình tượng cấu trúc tham dự vào cuộc sống tính linh của nhà
nghệ thuật. Để cho hình tượng đạt đến sự sống không phải
dễ dàng đâu, cũng không phải căn cứ vào kỷ xảo của nghệ thuật mà có thể thành
công . Sự nhất trí của tài liệu hình tượng với tính linh là để cho
sự thể nghiệm sinh tồn nối liền một mạch với tài liệu, khiến cho những tài liệu
không bị khô cằn và chìm đắm, mà trở thành chính như những lời tự nó nói ra,
có sự sống đặc biệt của bản tính sự vật. Do đó, thực chất vấn đề là ở nơi nghệ
thuật gia làm sao thoát bỏ được tính chủ quan tự thân và tính ngẫu nhiên ngoại
tại quấy nhiễu. Từ đó mới để cho tự nó hoàn toàn biểu hiện cái nhiệm vụ đối với
sự sinh tồn tình cảm. Đây là áp dụng lời của Hegel, tức là nghệ thuật gia cần
phải nỗ lực khiến cho “cái ngã hoàn toàn lặn ngụp trong chủ đề”, chính sự nỗ
lực ấy là chuẩn bị cho trạng thái linh cảm.
Sự chuẩn bị ấy có lúc vô cùng đau khổ, có
khi khiến cho nghệ thuật gia phải mất một thời gian lao động mà kết quả chẳng
được gì.Ví như có người mướn nhà nghệ thuật vẽ một bức bích họa, rồi cố chủ
phát hiện ông nghệ sĩ này không bắt tay làm việc ngay, mà liên tục trong nhiều
ngày chỉ thấy ông ta đi đi lại lại chứ không làm gì cả. trong lúc ấy cố chủ cũng
chẳng nôn nóng gì, mà còn sẵn lòng chờ đợi. Vì ông chủ biết không thể coi nhà
nghệ thuật như một người thợ, cứ đến sở là hăm hở bắt tay vào việc. Thật
ra nghệ thuật gia đi qua đi lại ở bên ngoài là để che đậy sự khẩn
trương ở trong nội tâm; vì ông ta biết rõ lúc này không thể bắt tay vào việc,
ông ta còn không thể nhắm vào bất cứ sự việc thực tế nào mà chế tác, vì còn
không biết bao vấn đề chưa giải quyết được. Ông ta chỉ có thể ra công tìm kiếm
và chờ đợi mà thôi. Chính trong sự kiên trì chờ đợi, đến một lúc nào đó thì
nó lại đến. Trong thời khắc đó, tất cả những khó khăn chính trong việc sáng
tác thình lình được giải quyết, như thế là trạng thái linh cảm đã đến.
Trong trạng thái linh cảm ùn ùn kéo tới,
nhà nghệ thuật bắt không kịp, tài liệu tình cảm trong khoảnh khắc tất nhiên
liên hệ hiển hiện, giây phút ấy không còn gì phải do dự, hoài nghi, chỉ việc
hạ bút, cứ mổi bước là như tuôn ra. Như vậy linh cảm dược gọi ra, chắc chắn
nó phải trải qua nhiều lần tìm tòi mới có thể đạt được.
Trong sự tìm tòi, nghệ thuật gia tự mình từ
từ tiến sâu vào việc cần phải trình bày trong tác phẩm cái bản chất chân tướng
của tình cảm, khiến cho tính linh tự thân cùng với tài liệu hình ảnh kết hợp
cao độ. Đối với việc kết hợp cao độ này, Hegel giải thích; “Nghệ thuật gia
đem những hiện tượng cá biệt ngẫu nhiên cũng như sự tật nguyền của chủ thể bỏ
đi hết, để tự thân hoàn toàn đắm chìm vào chủ đề; như vậy chủ thể
tác giả giống như chỉ là hình thức, hình thức ấy lại khiến cho nó như đắm
chìm vào nội dung.” Trong trạng thái kết hợp cao độ hình tượng với tính linh,
thật ra chủ thể của tác giả không còn là là chủ thể, mà chuyển đổi thành ra
hình thức sử dụng được hình tượng sống động, hoặc nói rằng, tự
thân nghệ thuật gia đã sử dụng hình tượng như dụng cụ để triển hiện
tự thân của mình. Đúng như Hegel nói: “ Nếu trong linh cảm, chủ thể
kể như đột nhiên xuất hiện phát huy tác dụng , chứ không phải là bản
thân chủ đề sử dụng các cơ quan và dẫn đến sự hoạt động sống động, thì đó chỉ
là thứ linh cảm hư hỏng.”
Một nhà nghệ thuật từng trải được nhiều năm
học tập và kinh nghiệm về toàn bộ cá tính, kỷ xảo, năng lực, thì mỗi
khi linh cảm đến, tức khắc biến thành một thứ khí quan sử dụng cho chủ đề tác
phẩm. Những thứ tri thức, kinh nghiệm, nhãn quan, kỷ xảo và sức tưởng tượng của
tác giả đều được bản thân chủ đề khống chế, sử dụng biến thành hoạt động do
chủ đề đưa đến sự sống động, đó tức là linh cảm.
Linh cảm đến tuy không thể đoán trước,
nhưng xác thực nó là sự tìm tòi của nghệ thuật gia trong quá trình kêu gọi
nó, chứ quyết không phải là sự ngẫu nhiên may mắn, mà là một sự may mắn tất
nhiên . Strowski từng nói:
“Sáng tạo cần phải tưởng tượng, nhưng lại
không thể hổn hợp chung với tưởng tượng, vì ý nghĩa của hoạt động sáng tạo là
phát hiện ra sự may mắn và cuối cùng là đạt đến sự phát hiện mang tính tất
nhiên…Chúng ta không nên coi sự may mắn ấy là một thứ ảo tưởng biến
ảo của tưởng tượng không lường được hổn hợp chung lại. Ý nghĩa của
ảo tưởng đành lòng chịu đắm chìm trong suy nghĩ vớ vẩn, nhưng nên coi là sự
giúp đở phát hiện hoàn toàn ở bên ngoài.”.Sự kiện linh cảm liên quan mật thiết
với trực giác.
Đối với vấn đề trực giác, Jacques Maritain
nhấn mạnh hơn gọi là trực giác sáng tạo và có liên hệ với
thi tính nên gọi là trực giác thi tính. Ông nói rõ, bản chất trực giác thi
tính vốn là một thứ ánh sáng lóe lên trong tri tính, và là một thứ
tình cảm tinh thần hóa, phát sinh từ tinh thần vô thức. Ý nghĩa của trực giác
thi tính là một thứ đặc quyền của linh hồn. Tại linh hồn sự hoạt động của giấc
mơ và sự nội tĩnh rất tự nhiên và khoáng đạt. khi mà biên giới tinh thần của
con người chưa hề bị cuộc sống thương nghiệp xấm chiếm. Về một ý nghĩa khác,
trực giác thi tính xuất phát từ tư tưởng con người, là một trí năng rất tự
nhiên, cho nên chúng ta có thể nói rằng tất cả mọi người đều có khả năng tiềm
tàng trực giác thi tính, chỉ vì chúng ta không biết đến mà hóa ra có nhiều
người áp chế nó hay vô tình giết chết nó. Do đó mà họ sinh ra tư
tưởng bất mãn đối với thi nhân.
Bản thân trực giác thi tính sinh ra trong sự
vận động thiên nhiên và sự tự phát tuyệt vời của linh hồn, nó tự tìm kiếm bằng
cách giao lưu với những sự vật có tính cách đầy đủ ý nghĩa và sự
kích thích tình cảm tự thân. Và đôi khi ở vào thời gian thành thục
sau khi tinh thần được bồi dưỡng đầy đủ kinh nghiệm
và thể nghiệm nhiều đau khổ và tự thân nó lại quay về; nó như cảm thấy thích
thú trong giấc ngủ say sưa và trực giác thi tính lại như thức tĩnh – giấc ngủ
cũng hiện hữu và một cách thế nào đó nó như thứ quả chua xanh tươi hay như một
đứa trẻ thơ, một con người của thời nguyên thủy- thiên đia mói tinh khôi ( nói
như Hàn Mặc Tử). Sự nhận thức thi tính đối với tinh thần con người cũng rất tự
nhiên như con chim bay về tổ của nó, và đó chính là thế giới tinh thần, con
đường quay về với sào huyệt thần bí của linh hồn. Vì nội dung trực giác thi
tính là bao hàm thực tại của sự vật trong thế giới và chủ quan tính của thi
nhân, cả hai thứ được truyền đạt một cách kín đáo xuyên qua một thứ ý hướng của
tinh thần hay tình cảm. Linh hồn được biết qua kinh nghiệm của thế giới, và
thế giới cũng được biết qua kinh nghiệm của linh hồn; đó là sự nhận thức
thông qua tự thân không hề nhận thức (une connaissance
qui ne se connait pas elle-même). Thật vậy, một sự nhận thức không phải
để nhận thức mà chính là để sáng tạo. Đó là ý hướng sáng tạo tính. Rimbaud từng
nói:” Tôi là một kẻ khác”. Trong trực giác thi tính, thực tại khách quan và
chủ thể tính, toàn bộ thế giới vật chất và linh hồn cùng tồn tại không thể
phân chia. Trong thời khắc đó, ý nghĩa và cảm giác bị đưa về trong tim, hoạt
lực và tinh thần, tình cảm đều đưa về trực giác. Thông qua hoạt động sinh
lực của tri tính, tuy không phải là khái niệm hóa, tất cả lực lượng của linh
hồn đều bắt nguồn từ hoạt động này.Tất cả sự vật đều phát sinh từ trực
giác sáng tạo, tính nguyên sơ từ trong linh hồn của thi nhân và sự va chạm của
tình cảm.
Sự tiếp xúc trực tiếp với trực giác, tất cả
những tác phẩm nghệ thuật chân chính có tinh thần sâu sắc cùng với ý là thông
điệp nhắm truyền đạt như hội họa, điêu khắc, hay kiến trúc, âm nhạc đều mang
lại cho chúng ta một chùng cứ tương tợ như vừa nêu.
Để hiểu rõ vấn đề nên đọc
thêm chương 13 trong quyển Tâm Lý Văn Nghệ của Chú Quang Tiềm nói
về “Tưởng tượng và Linh cảm” cũng do KĐức dịch...
Khổng Ðức
Theo http://www.vanchuongviet.org/
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét