Nhân đọc bài Phở Việt
Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn
này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc của phở vào
ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết về vấn đề này và nhận
ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống nhất quan điểm
về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa đàm”này, hy vọng
rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều...
Phở ra đời từ năm nào?
Có thể khẳng định rằng
tính đến năm 1838, từ “phở” chưa xuất hiện trong từ điển, bởi vì trong năm
này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của AJ.L Taberd (còn gọi là Từ điển
Taberd) được xuất bản lần đầu, nhưng trong đó không có từ “phở”. Theo nhà
nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở xuất hiện trong từ điển Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (1896) với nghĩa là “nổi
tiếng tăm”(trang 200). Năm 1898, phở có mặt trong Dictionnaire
Annamite-Français của J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ồn ào”
(trang 614). Trong bài Essai sur les Tonkinois(Khảo luận về người Bắc
Kỳ) đăng trên Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương) ngày 15-9-1907,
Georges Dumonutier đã giới thiệu nhiều thức ăn uống phổ biến ở miền Bắc vào
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm
1931, từ phở có nghĩa là một món ăn mới bắt đầu xuất hiện, ít nhất
là trong quyển Việt Nam Tự Điển của Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến
Đức (NXB Mặc Lâm): phở “do chữ phấn mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ
nấu với thịt bò: Phở xào, phở tái” (trang 443) (1). Một khi từ phở đã
xuất hiện trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ biến. Thật
vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Công Hoan viết:
“1913... trọ số 8 hàng Hài... thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở
rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu,5 xu)”(2). Từ yếu tố này ta có thể khẳng định
phở đã ra đời từ đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc của phở
Hiện nay, có ba quan điểm
chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó là : phở xuất phát từ
món pot-au-feu của Pháp, từ món ngưu nhục phấn của
Trung Quốc và cuối cùng là món xáo trâu của Việt Nam. Chúng ta sẽ
lần lượt tham khảo từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu.
Có giả thuyết cho rằng
phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là cách nói tắt
của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu).Quan điểm này được củng cố bằng
quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue
(1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
Món pot-au-feu (ảnh:
Wikipedia)
Chúng tôi thật sự không
hiểu: pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước có thể làm
súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại có thể ghép món này
với cháo phở của Việt Nam, cho dù trong giai đoạn ấy, do ảnh hưởng
người Pháp, người Việt đã bắt đầu làm quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu
món cháo thịt bò. Trên thực tế, xét về nguyên liệu, cách chế biến và cả
cách ăn thì phở và pot-au-feu là hai món hoàn toàn khác nhau,. Theo
Wikipedia, pot-au-feu là món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây,
cần tây, hành tây; kết hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương… Thịt
bò sử dụng cho món này thường dầy và to (chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ
chân…), trong khi đó thịt bò trong phở lại mỏng và nhỏ; mặt khác, những thứ
như cà rốt, củ cải, tỏi tây… không phải là nguyên liệu để làm phở, mùi vị
pot-au-feu cũng không giống như phở. Người Pháp ăn món này với bánh mì,
khoai tây, dùng muối thô, mù tạt Dijon, đôi khi cũng ăn với dưa chuột ri
ngâm giấm chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm khi cho rằng phở có
nguồn gốc từ món pot-au-feu.
Gốc Trung Quốc
Đây là giả thuyết mà nhiều
người đồng ý nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc từ món Ngưu nhục
phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món
làm từ bún và thịt bò (ngưu牛:
bò; nhục 肉:
thịt và phấn 粉:
bún, bột gạo dạng sợi). Món này đọc theo tiếng Quảng Đông là Ngầu- yụk -phẳn. Vào
đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán món Ngưu nhục phấn tại
Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ngầu.. yụk..phẳn ..a” rồi dần dần
hô tắt còn “yụk …phẳn…a” rồi “phẳn…a” và cuối cùng hô trại thành “phở”.
Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Việt Nam Tự Điển của
Hội Khai Trí Tiến Đức (đã nêu trên): phở “do chữ phấn mà ra”.
Củng cố thêm là định
nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An
Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue (1937), trong đó có đoạn: “Abréviation
de “lục phở: phở xào: beignet farci et sauté” nghĩa là “viết tắt của từ “lục
phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và được chiên”. Nhiều người thắc mắc, không
biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng tôi đây là từ có thật. Tương truyền rằng
ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn môn, Yên phong, Bắc Ninh) có sáng tác
một bài thơ nói về chợ Đồng Xuân, để các cô đi chợ ngâm nga giải trí trên
đường đi, trong đó có câu liên quan tới “lục phở”, xin trích đoạn sau: ----
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi
vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến
sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau
lưng hàng giò…
Trong quyển Dictionnaire
Vietnamien Chinois Francais của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết
về từ “lục phở”: “abréviation de "lục phở": bouilli - cháo - pot
au feu”…, “Lục phở: prononciation cantonaise des caractères chinois: (ngưu)
nhục phấn" bouilli de boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của "
lục phở", còn "lục phở" là từ phát âm của "(ngưu) nhục
phấn" trong tiếng Trung Hoa.
Đến năm 1970, Nhà
sách Khai Trí (Sài-gòn) xuất bản quyển Việt Nam Tự-điển, do Lê Ngọc Trụ hiệu
đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chắc hơn, trong đó định nghĩa “phở”
như sau: “Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng hấp chín xắt thành sợi nấu với thịt
bò (do tiếng Tàu “Ngầu-dục-phảnh” tức “Ngưu-nhục-phấn” mà ra: Ăn phở, bán
phở”, trang 1169, tập 2).
Thật ra, những quan điểm
trên chỉ cho thấy chữ “phở” có nguồn gốc từ tên Ngưu nhục phấn, nhưng
đáng tiếc là nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn, hoặc
“cách tân” từ món Ngưu nhục phấn, chế biến cho hợp với khẩu vị của
người Việt. Một số người lại dựa theo bài “Phở, phởn, phịa…” của Nguyễn Dư,
dẫn chứng quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người
An Nam, 1908 - 1909) của Henri Oger (3) để củng cố quan điểm này. Họ giới
thiệu hai bức tranh khắc, bức đầu tiên (mang số 26 trong tập tranh 4577 bức)
miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú thích “Chinois
vendeur ambulant à la tombée de la nuit” (Người Tàu bán hàng trong buổi
tối - Trần Đình Bình dịch). Nhưng họ không thể khẳng định người đàn ông ấy
bán cái gì, chỉ bảo rằng gánh hàng trông giống như gánh phở ở Hà Nội ngày
xưa); bức còn lại là hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn 行肉粉,
họ cho rằng giống như thùng của gánh hàng trong bức đầu tiên. Thế là họ vội
khẳng định dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉,
và bán Ngưu nhục phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách
khác, phở chính là Ngưu nhục phấn (!). Tuy nhiên, nếu
nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người bán hàng có tóc đuôi sam,
vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉
ở Hà Nội chứ không phải người Việt Nam bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả
gánh hàng Ngưu nhục phấn ra làm sao để đối chiếu với gánh phở. Có khả năng
gánh “nhục phấn” giống gánh “phở” chăng?
Theo chúng tôi, ngưu
nhục phấn và phở là hai món ăn khác nhau. Từ điển bách khoa
Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa phương, nguyên liệu và cách chế
biến ngưu nhục phấn có thay đổi đôi chút, song nhìn chung, nguyên liệu gồm
có: thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, hành,
tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô, rau
mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải…Trong khi đó, thành phần chính
của phở gồm có sợi phở, nước dùng (ninh từ xương ống lợn/bò và một số gia vị
khác), thịt bò bắp (để làm thịt chín), thịt thăn mềm (để làm thịt tái), con
sá sùng, tôm nõn, hành khô, gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây,
hành hoa, húng bạc hà, chanh, ớt, rau thơm…
Xét về nguyên liệu, ngưu
nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, tinh dầu hạt cải…những thứ
không dùng để chế biến phở; ngược lại phở sử dụng con sá sùng (có thể thay
bằng bột ngọt), tôm nõn, dứa, chanh, ớt, rau thơm…những thứ không thấy khi
làm món ngưu nhục phấn.
Cách chế biến hai món
này cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không trình bày ở đây, mời
bạn đọc tìm hiểu thêm từ những clip giới thiệu cách làm ngưu nhục phấn và
phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây (bên trái) bạn sẽ thấy nước phở
trong, bánh phở nhỏ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn 牛肉粉,
có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Việt
Nam.
Gốc Việt Nam
Trước hết, xin phép nhắc
lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm khẳng định món phở là của Việt Nam. Song
song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm dần dần trở thành văn tự chính của
nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, chính quyền Pháp quyết định
giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho (năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung Kỳ). Họ
dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm để làm văn tự chính thức ở nước ta từ
năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời
xuất hiện để chúng ta thấy rằng phở chẳng liên quan gì tới phấn 粉
trongNgưu nhục phấn 牛肉粉. Nhìn chung, có một số
cách cấu tạo chữ Nôm, ở đây chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để
bạn đọc đối chiếu với từ phấn:
- Thứ nhất, cách vay mượn
nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ Nôm có cách đọc và nghĩa khác với
chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt) để
tạo chữ Nôm biết別(hiểu biết); mược chữ đế 帝
(vua chúa) để tạo ra chữ Nômđấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
- Thứ hai, cách ghép hai
chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là thành tố biểu ý, chữ
thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt 月
(biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ
Nôm tháng; mượn chữ thượng 上 (biểu ý) + thiên 天
(biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.
Vậy có bao nhiêu chữ Nôm
đọc là phở?
Theo những tự điển mà
chúng tôi đã tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm
có ba chữ (𡂄 và 㗞,
đều thuộc bộ khẩu; 頗, thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh
phở bò có một chữ (普, thuộc bộ Nhật, âm Hán
Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm hai
chữ Hán ghép lại: mễ 米+ phả 頗.
Những thí dụ trên cho thấy
hai chi tiết đáng chú ý sau:
1. Bánh phở bò:
trong Từ điển nhật dụng thường đàm, mục Thực phẩm (食
品
門
Thực phẩm môn) có đoạn giải thích về “bánh phở bò” bằng chữ Nôm. Chúng tôi
sắp xếp lại cho dễ đọc: “Chữ Hán: 玉 酥
餅
(âm Hán Việt: ngọc tô bính) giải thích bằng chữ Nôm: 羅
普
(là 羅
bánhphở 普
bò); tiếng Anh: rice noodle. Ta thấy gì?
普 là một chữ Hán, đọc
theo âm Hán Việt là phổ. Người Việt xưa đã mượn nguyên xi chữ này để tạo
ra chữ Nôm đọc là phở. Tuy nhiên, cách giải thích của Từ điển
nhật dụng thường đàm khiến chúng tôi rất phân vân, bởi vì từ tiếng Anh rice
noodle có nghĩa là phở, tức món phở mà ta đang bàn, song chữ Hán玉
酥
餅
(ngọc tô bính) lại nói về một loại bánh khác, vì trong đó tô 酥
có nghĩa là món ăn làm bằng bột nhào với dầu. Thí dụ: hồng đậu ngọc tô bính
红豆玉酥餅 (bánh
ngọt nhân đậu đỏ), hạch đào tô 核桃酥 (
bánh bột trái đào). Vậy từ phở 普 ở đây dùng để chỉ món
phở hay bánh bột? Đây là điều cần phải xem lại.
2. Theo Từ điển chữ
Nôm của Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF), hai chữ Hán: mễ 米
(biểu ý) kết hợp với phả 頗 (biểu
âm) tạo thành một chữ Nôm có nghĩa là phở(trong cơm phở).Đây là
cách ghép từ rất đáng chú ý, vì mễ 米 có nghĩa là gạo,
biểu ý cho món ăn chế biến từ gạo (bánh phở); còn phả 頗 đọc theo tiếng Hoa là “pho” hoặc “phỏ”, dùng làm từ
biểu âm để tạo ra chữ phở là rất hợp lý.
Bây giờ, xét về ngôn ngữ,
chúng ta xem thử những chữ Nômphở (𡂄,
㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn 粉
trongngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở trong món
phở? Xin thưa, chẳng có liên quan gì cả. Nếu thật sự phở là từ đọc
trại từ chữ phấn 粉, tại sao người Việt xưa không mượn nguyên xi chữ này
để tạo ra chữ Nôm đọc là phở ? Vì điều này tiện hơn là mượn một
chữ khác? Nói rộng hơn, chữ Nôm bò 𤙭 trong phở bò cũng chẳng có
liên quan gì tới chữ ngưu 牛 trong tiếng Hán.
Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở
bò 𤙭 cho thấy rằng
người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng
“phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục
phấn 牛肉粉
của Trung Quốc.
Vậy phở có nguồn gốc từ
đâu?
Chúng tôi ủng hộ quan điểm
cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc, đặc biệt
là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Để làm món này người ta chuẩn bị nguyên liệu :
thịt trâu thái mỏng (ướp gia vị cho thấm), hành lá, hành ta (tím), tỏi, mỡ,
rau răm cắt dài 1 đốt ngón tay, khế chua cắt ngang…Sau đó họ xáo (xào) thịt
trong chảo khoảng 30 giây rồi đổ ra bát riêng, kế tiếp bỏ khế vào, đảo đều
tới lúc khế chuyển sang màu trắng; rồi cho thịt, rau răm và hành vào, đảo
cho tới lúc tỏa mùi thơm (khoảng một phút) ; cuối cùng họ chế nước
vào, để lửa liu riu. Khi ăn, họ lấy bún cho vào bát, sau đó gắp vài miếng
thịt trâu bày trên mặt bún rồi chan nước xáo thịt vào.
Nhìn chung, xáo trâu là
món ăn thông thường ở các chợ nông thôn, xóm bình dân của Hà Nội ngày xưa.
Trước năm 1884, việc nuôi bò ở miền bắc chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp,
người Việt chưa có thói quen ăn thịt bò, nhưng ít nhiều gì người Hà Nội
cũng đã từng ăn món Ngưu nhục phấn do Hoa kiều bán rong trên đường phố.
Có nhà nghiên cứu cho rằng
vào thời đó, thịt bò bị chê là nóng và gây nên chẳng mấy người mua, giá bán
rất rẻ, chỉ có người Pháp mới ăn thịt bò. Và chính vì thế một số người bán
xáo trâu mới chuyển sang bán xáo bò. Thật ra không phải vậy. Thịt bò thời
đó khan hiếm và đắt tiền. Theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Long, trước năm 1885
“các quan chức Tây còn không có đủ thịt bò mà ăn nói chi đến người Việt.
Ngay cả đến những năm 40-50 của thế kỉ trước, khi phở đã khá thịnh hành và
thành món ăn “gây nghiện” cho một tầng lớp người khá giả ở Hà Nội thì việc
cung cấp thịt bò ở Hà Nội cũng không phải dư giả cho lắm. Trong bài Phở Gà,
Nhà văn vũ Bằng đã phải thốt lên: “Ở Hà nội có hai ngày trong tuần mà những
người “chuyên môn ăn phở” bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai
ngày không có thịt bò. Anh nào nghiện thịt bò, nhớ thịt bò hai hôm ấy như
gái nhớ trai, như trai nhớ gái”…”.
Nhìn chung, từ khi người
Pháp vào nước ta, người Việt đã chịu ảnh hưởng phần nào thói quen ăn uống của
người Pháp. Dân ta đã bắt đầu ăn khoai tây, súp lơ, su hào, cà rốt, bánh
mì, bơ, phó mát…, đặc biệt là thịt bò. Những món ăn mới có thịt bò dần dần
xuất hiện, đó là cháo bò và xáo bò... Xáo bò là một món “biến tấu” từ xáo
trâu. Tuy nhiên, do thịt bò ăn với bún không hợp lắm nên người ta mới nghĩ
ra cách ăn với những loại bánh khác, trong đó có loại bánh cuốn chay mỏng
phổ biến ở Hà Nội rồi cuối cùng “sánh duyên” lâu dài với bánh phở. Phải
chăng, để phân biệt với món xáo bò, người ta đã nghĩ ra từ phở bò, xuất
phát từ việc ăn bánh phở với thịt bò ? Nếu bánh phở là
từ xuất hiện trước món phở thì ta có quyền tin vào giả thuyết
này. Và nếu đúng vậy thì phở là từ nằm trong bánh phở chứ
không phải do đọc trại chữ phẳn 粉
theo giọng Quảng Đông.
Phần viết thêm
Trong từ điển Wikipedia
bản tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đều có mục riêng viết
về phở và gọi đích danh là “ Phở”, chứ không gọi bằng tên món ăn nào đó của
Pháp hay Trung Quốc. Điều này cho thấy thế giới công nhận “phở” là một món
ăn của Việt Nam. Riêng bản Trung văn, mục viết vềphở có tựa đề là 越南粉
(Việt Nam phấn), cũng cho thấy rằng người Trung Quốc công nhận “phở” là món
ăn Việt Nam. Do đặc điểm về ngôn ngữ, trong phần nói về nguồn gốc của từ phở,
họ chú thích hình ảnh tô phở là 越 南牛肉粉
(Việt Nam ngưu nhục phấn), có thể dịch là “phở bò Việt Nam”. Viết như thế
thì chấp nhận được. Nhưng có những website dạy tiếng Trung Quốc lại ngang
nhiên giảng phở bò là Ngưu nhục phấn 牛肉粉
thì thật đáng báo động (!).
(1) Nguồn gốc và sự ra đời của phở của Vũ Thế Long.
(2) Nguyễn Công Hoan. Nhớ
và ghi về Hà Nội, NXB Trẻ 2004.
(3) “Kỹ thuật của người
An Nam” (tựa tiếng Pháp: “Technique du peuple Annamite”, tựa tiếng Anh: “Mechanics and crafts of the Annamites”)
là một công trình nghiên cứu văn minh vật chất ở An
Nam khoảng 100 năm về trước, chủ yếu phản ánh cuộc sống của người
Hà Nội. Quyển này tập hợp 4577 bức tranh khắc, do Monsier Henri Oger (người Pháp) và những nghệ nhân người Việt
Nam thực hiện trong hai năm (1908 - 1909), phát hành với số lượng hạn chế
(60 bản). (theo Wikipedia tiếng Việt).
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét