75 năm câu chuyện tình buồn:
* Xuất xứ của câu chuyện về
T.T.Kh:
Hoa tigôn có tên đầy đủ là
Antigone do người Pháp đem sang Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 20. Loài
hoa này không có hương thơm nhưng đẹp & đầy lãng mạn, là loài hoa dây leo, lá
gần giống lá nho bông hoa có những cánh nhỏ ly ti xếp lại tựa như hình trái tim
có ba màu trắng, hồng & màu đỏ. Hoa nở từ cuối mùa xuân cho đến độ cuối thu
là thời gian đẹp nhất, rực rỡ nhất của loài hoa này dường như nó chợt “lóe sáng”
như ngọn đèn sắp tắt để đến mùa đông chỉ còn lại những thân dây leo trông thật
điêu tàn…Loài hoa quí phái này được trồng nhiều ở những gia đình khá giả tại
các thành phố lớn như Hà Nội-Hải Phòng-Sài Gòn & kể cả ở những Thị trấn nhỏ
thời bấy giờ…
Vào giữa tháng 7 năm 1937 tuần
báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội đăng truyện ngắn mang tên Hoa
Tigôn của Nhà văn Thanh Châu,câu chuyện kể về một họa sỹ nghèo nhiều
lần về làng Mọc để vẽ tranh phong cảnh,nhìn thấy rồi “tương tư” hình bóng một
người con gái sáng nào cũng bắc ghế hái những cành tigôn trước cửa…Bẵng đi vài
năm,trong một buổi tiệc của giới thượng lưu & quan chức chính quyền bảo hộ
họ gặp lại & nhận ra nhau,nhưng bây giờ cô gái ngày xưa ấy đã trở thành mệnh
phụ phu nhân của một ông đã luống tuổi,cuộc hôn nhân tuy môn đăng-hộ đối nhưng
lại quá tẻ nhạt…từ đó họ hay qua lại thăm nhau,cùng nhau bình luận về những tác
phẩm hội họa của chàng họa sỹ bây giờ đã trở nên nổi tiếng…Rồi đến một
ngày, chàng họa sỹ trẻ năm nào nay cũng đã bước vào tuổi xế chiều nhận được một
phong thư có ép một dây hoa tigôn báo tin người mà ông yêu đã qua đời &
cũng từ đó người họa sỹ tài hoa ấy sống lặng lẽ một mình với những bức tranh, những
hoài niệm đẹp về một mối tình đã không còn trở lại…Hai tháng sau ngày đăng truyện
ngắn nói trên,giữa tháng 9 năm 1937 tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận
được một bài thơ với nét chữ run run ký tên tác giả là T.T.Kh,đó là bài thơ Hai
sắc hoa Tigôn và được đăng báo ngày 23 tháng 9 năm 1937.Gần hai
tháng sau,tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa cũng vẫn ký tên là T.T.Kh,bài
thơ có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến
tòa soạn! Bài thơ được đăng ngày 20 tháng 11 năm 1937.Bẵng đi một thời gian khá
lâu tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận được thêm bài thơ nào
từ thi sỹ có bút danh bí ẩn này,nhưng thật kỳ lạ là cũng trong quãng thời gian
đó trên tờ báo Phụ nữ -tòa soạn ở số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội lại xuất hiện Bài
thơ đan áo cũng ký tên T.T.Kh… Gần một năm sau,tòa soạn Tiểu
thuyết thứ bảy mới lại nhận được bài thơ có tựa đề Bài thơ cuối cùng ký
tên tác giả vẫn là T.T.Kh & được đăng báo ngày 30 tháng 10 năm 1938,trong
đó có nhắc đến Bài thơ đan áo nêu trên .Ba bài thơ gửi đến tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy nói lên niềm đau xé lòng về một mối tình ngang trái & đẫm
lệ đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt,nhiều người trong số đó như tìm được
hình ảnh,câu chuyện của chính cuộc đời mình bởi vì sống trong xã hội còn mang nặng
tư tưởng “môn đăng- hộ đối” thì những chuyện tình trái ngang như thế là không
hiếm gặp & cũng không có gì là khó hiểu…Thế nhưng đây lại là một trường hợp
đặc biệt có thể nói không ngoa rằng:-Là độc nhất vô nhị trong Văn
chương-Thi phú của nước nhà từ trước tới nay,bởi chưa từng có trường hợp
nào mà ở “đằng sau” bút danh nhưng không ai biết được Tên thật của tác giả
trong suốt hơn 70 năm qua…Trước khi đi tìm “ẩn số” T.T.Kh là ai & ai thật sự
là người yêu của T.T.Kh? Chúng ta cùng đọc lại những bài thơ bất hủ của Bà.
(Lưu ý: - Ngày, tháng, năm của mỗi bài thơ là ngày đăng báo).
(Lưu ý: - Ngày, tháng, năm của mỗi bài thơ là ngày đăng báo).
HAI
SẮC HOA TIGÔN (T.T.Kh)
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”.
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”.
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá,Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi!Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
23-9-1937
BÀI THƠ THỨ NHẤT (T.T.Kh)
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
Êm
ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và
tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang
lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp
gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
-“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết
tha theo đuổi nữa,than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
BÀI THƠ ĐAN ÁO (T.T.Kh)
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau
thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt
mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng
như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ
thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly
tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho
chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng
nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng
nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên
trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa
mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai
giật mình.
16-8-
1938.
BÀI THƠ CUỐI CÙNG (T.T.Kh)
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một
mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu.
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng
nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu
không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi,làm sao tối thế này?
Năm
lại năm qua cứ muốn yên
Mà
phương ngoài gió chẳng làm quên
Mà
người vỡ lở duyên thầm kín
Lại
chính là anh,anh của em.
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa
buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người…
*Đôi lời cùng Bạn đọc:
Năm 1994 có người đã vô tình
tiết lộ với tác giả Thế Nhật một thông tin “mật” về T.T.Kh ngoài đời
thực. Dựa vào đó ông Thế Nhật (tên ghép của Thế Phong & Trần Nhật
Thu) đã viết thành một cuốn sách với tựa đề khá hấp dẫn: T.T.Kh Nàng là ai? (về
sau tái bản mới đổi tên tác giả là Thế Phong) Khi cuốn sách được phát hành
thì gặp phải phản ứng dữ dội của rất đông đọc giả & nhất là của một người
trong cuộc công khai phủ nhận nhiều sự việc viết trong cuốn sách,đồng thời khẳng
định mình không phải là T.T.Kh bằng hai bức thư ngỏ liên tiếp gửi từ
nước ngoài về đăng trên nhiều tờ báo & tạp chí văn học ở trong nước…Gần mười
năm sau, năm 2003 nhà văn-luật gia Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu
liên quan để xem lại & đã cất công tìm gặp trực tiếp nhà văn Thanh Châu tác
giả của truyện ngắn Hoa Tigôn (Ông đã chuyển vào ở quận Tân Bình- tp.Hồ Chí
Minh) cũng như gặp được người đã vô tình tiết lộ ra thân phận của T.T.Kh nhằm kiểm
chứng tất cả các thông tin có được để viết lại câu chuyện bí ẩn vẫn bao trùm
“làn khói bụi” của thời gian này & bài viết cũng đã được đăng nhiều kỳ trên
báo Thanh Niên vào giữa năm 2005 với tựa đề Đi tìm tác giả bí ẩn
T.T.Kh rồi mới in thành cuốn sách mang tên “Giải mã Nghi án văn học
T.T.Kh” vào đầu năm 2007.Tuy nhiên,đối với đông đảo đọc giả thì vẫn còn tồn
tại vô số ý kiến trái chiều,thậm chí có nhiều người đã đăng đàn để phản bác lại, nhất
là sau khi được đọc nguyên văn hai bức thư ngỏ nêu trên mà Trần Đình Thu cũng
công khai trong tác phẩm của mình. Tại sao lại như vậy? Có điều gì khiến cho nhiều
người “hoang mang” đến thế khi đã đọc xong toàn bộ tác phẩm khá công phu &
nghiêm túc này của Trần Đình Thu?. Liệu nhân vật được tác giả chứng minh là
nữ thi sĩ bí ẩn mang tên T.T.Kh có phải là sự thật?. Phải chăng “Nghi án văn học
T.T.Kh” như cách dùng chữ của Trần Đình Thu vẫn còn là một câu hỏi
chưa được “giải mã”? Để trả lời cho những thắc mắc nêu trên chúng ta cùng bắt đầu
cuộc “hành trình” tái khám phá bí ẩn đã tồn tại từ hơn 70 năm qua & cũng là
để trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người trong chính chúng ta, vậy thực sự:
- Ai là T.T.Kh?. Nhằm giúp bạn đọc dễ hiểu, dễ so sánh các sự kiện, các dẫn chứng, phân tích cũng như phần chứng minh cho sự việc liên quan đến các nhân vật, vì thế chúng ta hãy lưu ý hơn một chút đến những dòng chữ in nghiêng, nhất là in đậm hoặc được gạch dưới trong bài viết này.
- Ai là T.T.Kh?. Nhằm giúp bạn đọc dễ hiểu, dễ so sánh các sự kiện, các dẫn chứng, phân tích cũng như phần chứng minh cho sự việc liên quan đến các nhân vật, vì thế chúng ta hãy lưu ý hơn một chút đến những dòng chữ in nghiêng, nhất là in đậm hoặc được gạch dưới trong bài viết này.
AI LÀ T.T.Kh? - PHẦN 1
Như chúng ta đã biết, sau khi
gửi đăng báo đúng 4 bài thơ, T.T.Kh không bao giờ xuất hiện nữa…nhưng điều đó lại càng gây
nên sự tiếc nuối, sự say mê những vần thơ vừa đắm đuối vừa như cào cấu tâm can của
cuộc đời người thiếu phụ bí ẩn này. Người đời không những càng hâm mộ mà còn tò
mò muốn biết tác giả là ai, tâm lý đó không chỉ có trong những độc giả thơ bình
thường mà ngay cả các tác giả của “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh-Hoài Chân
năm 1941 khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã phải cảm thán:
- “… Bốn
năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng.Ai biết “Con người
vườn Thanh” bây giờ ra sao? Liệu rồi đây người ấy có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn
riêng cho đến khi về nơi chín suối?...”. Vậy sự thật T.T.Kh có thể là ai?
1- Những lời đồn đại, những
bài báo-tác phẩm “Khẳng định” về thân thế T.T.Kh:
Rất nhiều người liên tục
“công bố” những thông tin về T.T.Kh. Người thì bảo tác giả là người yêu của
thi sĩ Thâm Tâm, người lại bảo rằng đó là người yêu của Nguyễn Bính,thậm
chí để cho “nặng ký” hơn có người còn khẳng định T.T.Kh tên thật là Trần thị
Khánh là em gái nhà thơ Tế Hanh, có một thời là người yêu của Thâm Tâm!? Đến nỗi
sau này Tế Hanh đã phải đăng đàn để chính thức phủ nhận điều đó.Ít lâu sau, câu
chuyện về T.T.Kh lại đổi sang một hướng khác:-Khẳng định thơ của T.T.Kh là do
Nguyễn Bính & nhất là do Thâm Tâm sáng tác…Căn cứ để có những “công bố”
& “khẳng định” nêu trên là: -Vào khoảng cuối năm 1939 đầu năm 1940 Nguyễn
Bính có làm một bài thơ nhan đề Dòng dư lệ với lời đề“ Tặng T.T.Kh” &
ông có trích dẫn hai câu thơ “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ-Nhỏ xuống thành thơ
khóc chút duyên” của T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ. Còn với trường hợp của
Thâm Tâm thì có vẻ có nhiều “dữ kiện” hơn, ta hãy cùng đọc một trong số đó là của
nhà thơ Nguyễn Vỹ (Trong tác phẩm Văn-Thi sĩ Tiền chiến xuất bản
năm 1970 tại Sài Gòn, mà trong đó còn thiếu quá nhiều các tên tuổi lớn đúng
nghĩa của Thi sĩ thời Tiền chiến-tác phẩm này đã được tái bản năm 2007): “Năm
1936-1937,ở phố chợ Hôm-HN có một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền
Trân, Thâm Tâm & vài người khác nữa, ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ còn quá trẻ…mới
bắt đầu viết văn chưa có gì là đặc sắc, lớp văn sĩ (đi) trước không chú ý đến
họ…
Họ có ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Bắc Hà…tờ báo bán không được chạy lắm nhưng cũng có vài mục hài hước nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm) & có nhiều hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất & đóng vai chủ động trong tuần báo là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình thì vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng vài bài thơ, vài mẩu truyện ngắn.Đôi khi thấy vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp nhất, trường tiểu học Hà Đông thi rớt rồi nghỉ học luôn. Tuy không chơi thân, nhưng tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều…vì anh trọ ở trong ngõ chợ còn tôi ở một gác trọ cuối phố Khâm Thiên…đôi khi có nhờ tôi viết bài cho báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút…tôi quen Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu…Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đến chơi nhưng Huyền Trân đi vắng,gặp tôi mới rủ Tuấn Trình về gác trọ…Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển,kể cho tôi nghe chuyện tình của anh với cô Khánh.Trần Thị Khánh là cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến-Hà Nội) thi hỏng,cô ở nhà giúp mẹ nội trợ,nhà cô cũng ở đường Sinh Từ,ngay cạnh Thanh Giám,nơi thờ Đức Khổng Tử…& những tấm bia khắc tên các vị Tiến sĩ khoa bảng…Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của một cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô nhà ở phố Cửa Nam,gần Sinh Từ.Anh thường đến đây & nhiều lần gặp cô Khánh đi chợ buổi sáng…Tuấn Trình làm quen rồi tặng cô báo Bắc Hà.Cô gái 17 tuổi cảm mến người nghệ sỹ tài hoa,tình yêu chớm nở như cánh tigôn trắng cũng vừa chớm nở trong sân nhà cô…thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình, chính vào lúc này anh mới lấy bút danh là Thâm tâm & cho cô Khánh biết “Hình ảnh của em,anh ghi sâu vào Thâm Tâm anh”.Trong bài thơ thức đêm làm tặng cô Khánh cũng có câu “…Quên làm sao được thuở ban đầu-Một cánh tigôn dạ khắc sâu…”.Trong những bức vẽ trên tuần báo Bắc Hà vẫn ký tên Tuấn Trình,nhưng những bài thơ lại đều ký tên là Thâm Tâm…điều làm cho chàng nghệ sỹ 19 tuổi đau khổ nhất là cô gái 17 tuổi sống trong vòng lễ giáo nghiêm khắc của gia đình,chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiếtcủa Tuấn Trình-Thâm tâm…Cô thường nói: “Thầy,mẹ em nghiêm lắm…”(toàn bộ cuộc tình) chỉ có hai lần là cô đến nơi hẹn,nhưng cũng không được lâu …cả hai lần họ gặp nhau đều ở trong vườnThanh giám.Lần thứ nhất,một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám…lần gặp thứ hai nàng có hỏi:“Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Chàng họa sỹ bối rối trước câu hỏi bất ngờ,chàng lơ đễnh bảo:-“Anh chưa nghĩ đến việc ấy vì…”.Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây.Khánh không hỏi gì hơn nữa…chàng đứng lại khẽ kéo Khánh vào lòng,nhưng nàng khẽ buông ra.Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:-“Hình ảnh của em,nụ cười của em,sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh,vào thâm tâm anh.”Trần thị Khánh cười như để tạ ơn & xin từ giã.Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm.Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng?...Thế rồi một hôm chàng họa sỹ đa tình nhận được một bức thư của người yêu,không,của người hết yêu báo tin nàng sắp lấy chồng…thư do cô bạn gái của Khánh đem đến tòa soạn báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình,cô bạn hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm….trong thư cô nói dù rất buồn vì một tình yêu dang dở,rằng cô mãi mãi yêu anh nhưng phải giữ tròn chữ hiếu,không dám cãi lời mẹ,cha…Khánh không nói một câu nào về vị hôn phu,không cho biết ngày cưới & cuối thư ký tắt:Kh.Bức thư của Kh chấm dứt đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy thơ mộng của họa sỹ Tuấn Trình & Trần Thị Khánh. Sau nhờ dò hỏi Tuấn Trình biết được chồng cô khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang,39 tuổi,góa vợ & không có con.Trong câu thơ Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi…đó chỉ là nhận xét mỉa mai của Thâm Tâm,so sánh tuổi 20 của mình với người chồng cô khánh…Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh giầu sang & trẻ đẹp chứ không phải là một ông già...Đêm trước ngày cô Khánh lên xe hoa,Thâm Tâm tổ chức tại tòa soạn báo Bắc Hà một tiệc thịt chó,uống Mai Quế Lộ,mời Trần Huyền Trân,Nguyễn Bính & Vũ Trọng Can tham dự.Họ say sưa,ngâm thơ,làm thơ cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.Người đau khổ trong việc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh.Trái lại,cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô.Trần Huyền Trân đã gặp cô đang hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige(Kem Bạch Tuyết-Bờ Hồ) hai lần,hai ông bà nhìn nhau & cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm.Khánh đã có thai & được chồng săn sóc,nâng đỡ lên chiếc xe Citroen,lúc về còn đi một vòng quanh hồ hoàn Kiếm.Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe & kết luận: “con Khánh nó cho cậu leo cây,cậu còn si nó làm gì nữa,thêm nhục”.Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, chàng yêu nhớ đơn phương,mặc cảm của một nghệ sỹ nghèo bị người yêu bỏ rơi,lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo nhất là Vũ trọng Can. Vì một chút tự ái văn nghệ với mấy người bạn kia. Tuấn trình đã phải thức một đêm,theo lời anh,làm một bài thơ đề là Hai sắc hoa Tigôn, ký tên T.T.Kh với thâm ý để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình & lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Kh báo tin cô sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ, chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy,sau khi nhận được một bức thư của Khánh,bức thư cuối cùng tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ,có thể làm hại đến cuộc đời cô Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra Bài Thơ cuối cùng”...
Họ có ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Bắc Hà…tờ báo bán không được chạy lắm nhưng cũng có vài mục hài hước nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm) & có nhiều hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất & đóng vai chủ động trong tuần báo là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình thì vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng vài bài thơ, vài mẩu truyện ngắn.Đôi khi thấy vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp nhất, trường tiểu học Hà Đông thi rớt rồi nghỉ học luôn. Tuy không chơi thân, nhưng tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều…vì anh trọ ở trong ngõ chợ còn tôi ở một gác trọ cuối phố Khâm Thiên…đôi khi có nhờ tôi viết bài cho báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút…tôi quen Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu…Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đến chơi nhưng Huyền Trân đi vắng,gặp tôi mới rủ Tuấn Trình về gác trọ…Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển,kể cho tôi nghe chuyện tình của anh với cô Khánh.Trần Thị Khánh là cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến-Hà Nội) thi hỏng,cô ở nhà giúp mẹ nội trợ,nhà cô cũng ở đường Sinh Từ,ngay cạnh Thanh Giám,nơi thờ Đức Khổng Tử…& những tấm bia khắc tên các vị Tiến sĩ khoa bảng…Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của một cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô nhà ở phố Cửa Nam,gần Sinh Từ.Anh thường đến đây & nhiều lần gặp cô Khánh đi chợ buổi sáng…Tuấn Trình làm quen rồi tặng cô báo Bắc Hà.Cô gái 17 tuổi cảm mến người nghệ sỹ tài hoa,tình yêu chớm nở như cánh tigôn trắng cũng vừa chớm nở trong sân nhà cô…thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình, chính vào lúc này anh mới lấy bút danh là Thâm tâm & cho cô Khánh biết “Hình ảnh của em,anh ghi sâu vào Thâm Tâm anh”.Trong bài thơ thức đêm làm tặng cô Khánh cũng có câu “…Quên làm sao được thuở ban đầu-Một cánh tigôn dạ khắc sâu…”.Trong những bức vẽ trên tuần báo Bắc Hà vẫn ký tên Tuấn Trình,nhưng những bài thơ lại đều ký tên là Thâm Tâm…điều làm cho chàng nghệ sỹ 19 tuổi đau khổ nhất là cô gái 17 tuổi sống trong vòng lễ giáo nghiêm khắc của gia đình,chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiếtcủa Tuấn Trình-Thâm tâm…Cô thường nói: “Thầy,mẹ em nghiêm lắm…”(toàn bộ cuộc tình) chỉ có hai lần là cô đến nơi hẹn,nhưng cũng không được lâu …cả hai lần họ gặp nhau đều ở trong vườnThanh giám.Lần thứ nhất,một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám…lần gặp thứ hai nàng có hỏi:“Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Chàng họa sỹ bối rối trước câu hỏi bất ngờ,chàng lơ đễnh bảo:-“Anh chưa nghĩ đến việc ấy vì…”.Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây.Khánh không hỏi gì hơn nữa…chàng đứng lại khẽ kéo Khánh vào lòng,nhưng nàng khẽ buông ra.Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:-“Hình ảnh của em,nụ cười của em,sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh,vào thâm tâm anh.”Trần thị Khánh cười như để tạ ơn & xin từ giã.Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm.Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng?...Thế rồi một hôm chàng họa sỹ đa tình nhận được một bức thư của người yêu,không,của người hết yêu báo tin nàng sắp lấy chồng…thư do cô bạn gái của Khánh đem đến tòa soạn báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình,cô bạn hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm….trong thư cô nói dù rất buồn vì một tình yêu dang dở,rằng cô mãi mãi yêu anh nhưng phải giữ tròn chữ hiếu,không dám cãi lời mẹ,cha…Khánh không nói một câu nào về vị hôn phu,không cho biết ngày cưới & cuối thư ký tắt:Kh.Bức thư của Kh chấm dứt đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy thơ mộng của họa sỹ Tuấn Trình & Trần Thị Khánh. Sau nhờ dò hỏi Tuấn Trình biết được chồng cô khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang,39 tuổi,góa vợ & không có con.Trong câu thơ Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi…đó chỉ là nhận xét mỉa mai của Thâm Tâm,so sánh tuổi 20 của mình với người chồng cô khánh…Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh giầu sang & trẻ đẹp chứ không phải là một ông già...Đêm trước ngày cô Khánh lên xe hoa,Thâm Tâm tổ chức tại tòa soạn báo Bắc Hà một tiệc thịt chó,uống Mai Quế Lộ,mời Trần Huyền Trân,Nguyễn Bính & Vũ Trọng Can tham dự.Họ say sưa,ngâm thơ,làm thơ cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.Người đau khổ trong việc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh.Trái lại,cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô.Trần Huyền Trân đã gặp cô đang hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige(Kem Bạch Tuyết-Bờ Hồ) hai lần,hai ông bà nhìn nhau & cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm.Khánh đã có thai & được chồng săn sóc,nâng đỡ lên chiếc xe Citroen,lúc về còn đi một vòng quanh hồ hoàn Kiếm.Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe & kết luận: “con Khánh nó cho cậu leo cây,cậu còn si nó làm gì nữa,thêm nhục”.Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, chàng yêu nhớ đơn phương,mặc cảm của một nghệ sỹ nghèo bị người yêu bỏ rơi,lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo nhất là Vũ trọng Can. Vì một chút tự ái văn nghệ với mấy người bạn kia. Tuấn trình đã phải thức một đêm,theo lời anh,làm một bài thơ đề là Hai sắc hoa Tigôn, ký tên T.T.Kh với thâm ý để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình & lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Kh báo tin cô sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ, chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy,sau khi nhận được một bức thư của Khánh,bức thư cuối cùng tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ,có thể làm hại đến cuộc đời cô Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra Bài Thơ cuối cùng”...
Còn đây là bài viết của Bùi
Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951)*:
“Cuối năm 1949, trong một chuyến đi dài ngày từ Liên Khu 3 lên Việt Bắc,tôi có dịp
đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình)…chúng tôi là những người lữ
hành ngày nghỉ,đêm đi.Trong lúc nghỉ ngơi anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những
chuyện tâm tình liên quan với thơ.Chẳng hạn chuyện nhân vật gây nguồn cảm hứng
để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng Tống Biệt Hành là một người tên Phạm
Quang Hòa,trước 1945 thoát ly gia đình ra đi lên chiến khu làm cách mạng.Tôi
đã hỏi anh Thâm Tâm,nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu,còn sống không?Anh Thâm Tâm
cho biết Phạm Quang Hòa ra đi & trở về & đang tiếp tục cuộc sống của một
người trai thời loạn.Nhân vui chuyện,tôi có hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những
bài thơ ký tên T.T.Kh.
-Theo ý ông thì những bài
thơ này của ai?
-Người ta nói là của người
tình Thâm Tâm.Phải vậy không anh?
-Ông có đọc bài thơ ký tên
Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307,ra ngày 4 tháng 5 năm
1940 chứ?
-Đã có đọc,có phải bài Các
Anh không nhỉ?
-Đúng thế,tất cả đều liên
quan tới một chuyện tình,nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do
mình sáng tác ra cả thôi.
-Như vậy là Nguyễn Bính cũng
bị vào “xiếc” trong câu chuyện này?
-Chuyện này chỉ có mình
& Trần Huyền Trân biết thôi.Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng “ngây
thơ” lắm.
-Câu chuyện này có liên quan
gì tới đất Thanh Hóa không anh?
-Địa danh vườn Thanh trong
thơ là nói tới đất Thanh Miện ở Hải Dương,quê hương của trái vải.Nhưng Nguyễn
Bính lầm tưởng là Thanh Hóa…do đó mới có chuyện vui vẻ.
-Tại sao anh sáng tác những
bài thơ ký tên T.T.Kh hay như vậy mà lại không làm loại thơ này nữa?
- Vào những năm cuối thập
niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn
làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt
Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”
Gần đây nhất,ngược lại
với Nguyễn vỹ & Bùi Viết Tân thì tác giả Hoàng Tiến (bài đăng
trên tuần báo Văn nghệ số cuối năm 1989-nhưng theo ông Thế Phong thì
bài viết này còn đăng trên báo Nhân Dân chủ nhật số 23-Tháng 7 năm
1989) lại viết như sau:“…Ông Hoài Thanh năm 1941 có soạn cuốn Thi
Nhân Việt Nam ( xuất bản năm 1942, tác phẩm trên là của hai ông, còn Hoài
Chân nữa chứ không phải chỉ có một mình Hoài Thanh.) cũng trích dẫn T.T.Kh
với ghi chú: “sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao,có đến mấy
người nhất quyết T.T.Kh chính là người yêu của mình & người ta đã phê bình
rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt
tác”. Hôm nay, xin công bố với bạn đọc một thông tin chúng tôi được biết về
T.T.Kh, người kể còn sống, mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp chúng tôi thấy cần
phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này.Số là vào dịp
hội Đền Bà Tấm năm nay(Kỷ tỵ 1989)chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội.Cùng
đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp nhà thơ trước C.M tháng tám,năm nay đã 74 tuổi(tên
thật là Phạm Quang Hòa)bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm,Nguyễn Bính & Trần
Huyền Trân…Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ
sẵn sàng chịu trách nhiệm về Họ,Tên tác giả Hai sắc hoa Tigôn được công bố
dưới đây.Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn & nhà thơ Tú
Sót.T.T.Kh tên thật là Trần Thị Khánh,người yêu của Thâm Tâm.Hai người yêu nhau nhưng
biết không lấy được nhau,hẹn giữ kín mối tình,để đỡ phiền đến gia đình của nhau
sau này.Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa Tigôn của
Thanh Châu…xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng(qua)bài thơ Hai sắc
hoa Tigôn & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy…Tiếp đó để giải thích lý do
viết bài thơ Hai sắc hoa Tigôn cô Khánh gửi đến một bài nữa với tiêu đề là Bài
thơ thứ nhất & viết riêng tặng Thâm Tâm Bài thơ đan áo.Lại
càng xôn xao,nhiều người cho là nam giới giả danh,nhiều người nhận ra người
yêu của mình,trong số đó có Nguyễn Bính.Thâm Tâmhồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng
của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng Bài thơ đan áo** để minh
chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình.Tất nhiên là
không có sự đồng ý của T.T.Kh & thế là T.T.Kh giận.Cô viết bài thơ lấy tiêu
đề là Bài thơ cuối cùng…Sau này Thâm Tâm có viết bài thơ Các Anh để
trả lời T.T.Kh…”
Còn nhiều nữa những “tác phẩm”
những bài viết tương tự nhằm cố sống,cố chết ghép bằng được cho Thâm Tâm phải
là T.T.Kh hay chí ít T.T.Kh cũng phải là “Người tình” của Thâm Tâm hay Nguyễn
Bính (công bằng mà nói,Nguyễn Bính chỉ “bị” ghán ghép ở giai đoạn đầu của “nghi
án” này mà thôi) đó là còn chưa kể lực lượng báo “lá cải” nhiều vô số ăn theo
câu chuyện này nhất là ở Miền Nam trước năm 1975.Ở đây chỉ lược trích ba “tác phẩm”
tiêu biểu & được nhiều người bám lấy nhất để “minh chứng” cho nhận định của
họ về bí ẩn văn chương này suốt hơn 70 năm qua.
2- Nguyễn Bính có thể
là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh được không?:
Đối với Nguyễn Bính,việc chỉ
dựa vào lời đề tặng T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ Cô gái vườn Thanh (Dòng
dư lệ) & mấy câu thơ có vẻ hơi “dây mơ rễ má” với câu chuyện tình của
T.T.Kh trong bài thơ nêu
trên:
-Truyện xưa hồ lãng quên rồi
-Truyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người
vườn Thanh
Bao nhiêu gian khổ vì tình
Cớ sao Giống hệt chuyện
mình năm xưa?
Phải
chăng mình có nên ngờ
mà vội cho rằng T.T.Kh chính
là người yêu của ông thì quả là quá vội vàng, võ đoán & là một “chứng cứ” quá
yếu. Hơn 70 năm trước vấn đề “môn đăng-hộ đối”đã góp phần tạo nên vô số những cuộc
tình ngang trái cho nên khi xuất hiện những bài thơ đầy ai oán của T.T.Kh thì rất
nhiều người sống ở thế hệ đó như thấy được hình ảnh,cuộc đời của chính mình
& Nguyễn Bính cũng không phải là ngoại lệ,có thể điều đó đã làm ông cảm
thánmà viết bài thơ Cô gái vườn Thanh (Dòng dư lệ) như một việc
“họa” lại những bài thơ của T.T.Kh chăng?... trong “Ghi chép dọc đường”có
kể về “nguyên mẫu” cô gái trong bài thơ Người hàng xóm nổi tiếng của
ông: “…Cô nết na,có vẻ đẹp thùy mị,hơi bẽn lẽn,giỏi chăn tằm,dệt cửi,nhà dù
không nghèo lắm nhưng cũng chẳng được học hành gì…Về sau cha,mẹ cô gả cho một
nhà khá giả trong vùng…”.Một cô gái “chân quê” đúng nghĩa như vậy liệu
có thể làm nổi những bài thơ da diết như T.T.Kh không?Về phần Nguyễn Bính ngay
trong những câu thơ trích dẫn ở trên cũng cho ta thấy bản thân ông cũng đã tự hồ
nghi không dám chắc mà như tự hỏi lại chính mình rồi,ông viết “cớ sao giống
hệt” chứ nào có khẳng định điều gì?Ngay như chỉ có mỗi cái địa danh Vườn
Thanh nằm ở đâu mà đã có ít nhất hai người viết khác nhau (Nguyễn Vỹ &
Bùi Viết Tân) ấy thế mà người đời lại cứ vin vào đó coi như một trong những “bằng
chứng” để kết luận T.T.Kh là người yêu của ông thì quả thật là quá buồn cười…(nên
nhớ,quê Nguyễn Bính là ở làng Thiện Vịnh-huyện Vụ Bản-tỉnh Nam Định). Trong bước
đường phiêu du khắp nơi làm thơ, uống rượu sau này ông đã gặp, đã yêu rất nhiều
& cũng có không ít những mối tình ngang trái. Nhưng đó là thời gian “hậu
T.T.Kh” còn vào thời điểm những năm trước & trong “thời T.T.Kh” thì chưa có
ai nói hay viết rằng cô Trần Thị Khánh hay một cô nào đó (ngoài cô gái “chân
quê” nêu trên)là người yêu của Nguyễn Bính…Cho nên cái gọi là “cô gái vườn
Thanh” hay địa danh vườn Thanh chẳng có liên quan gì tới ông cả vì hoàn toàn
không có cơ sở & thiếu lô gích…Vậy còn câu hỏi T.T.Kh có phải chính là Nguyễn
Bính? Trên đời này,chúng ta làm bất cứ điều gì cũng cần phải có mục đích,thế thì mục
đích của Nguyễn Bính khi “núp bóng” T.T.Kh là gì? Để nổi tiếng hơn chăng? có
lẽ sẽ chẳng có ai lại dại dột làm cái điều có thể gọi là ngớ ngẩn như vậy &
chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được “mục đích” của việc này là gì,bởi vì đặt
sự việc đó vào hoàn cảnh nào ta cũng dễ dàng tìm thấy được sự vô lý,nhất là đối
với một nhà thơ đầy tài năng & nhân cách như Nguyễn Bính. Bây giờ chúng ta
xét đến nội dung,hay cụ thể hơn là xét đến “giọng thơ” của các tác giả.Chúng ta
cũng đã biết là nhà văn,nhà thơ nào cũng có lối hành văn,giọng thơ mang nét “đặc
thù” của người đó,giống như bên âm nhạc thì “kiểu”ca khúc của Trịnh Công Sơn
khác với Trần Tiến hay khác với Phú Quang v.v…Ta hãy tìm hiểu “giọng thơ” của
Nguyễn Bính,của Thâm Tâm để có cơ sở so sánh với thơ của T.T.Kh.
Tác giả Hoài Việt,một người
cầm bút trước năm 1945, từng quen biết với Thâm Tâm, Nguyễn Bính…một người có
vài tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn,nhà thơ thời tiền chiến,ông viết như
sau: “…Thâm Tâm,Nguyễn Bính,Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt
trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc
liễu …cả ba đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo,không được học hành trường
lớp chính qui nhiều, vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như
không có gì,ngược lại họ là những người được học nhiều chữ hán, chữ nôm ở những
ngôi trường làng hay tại nhà các ông Đồ, cả ba người từng thuê nhà ở chung để viết
văn,làm thơ, làm báo…”Chính vì những lẽ đó mà trong thơ của họ thường xuất hiện
rất nhiều từ cổ,từ Hán-Việt...riêng Nguyễn Bính thì ảnh hưởng bởi những điều đó
không nhiều, ngoài vài bài thơ như Hành Phương Nam ra, còn lại thơ ông
mang rất đậm “chất quê” từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh với một phong cách “rất ca
dao”…Vào khoảng thời gian từ năm 1932 đến 1938 “Làng” thơ Việt cố gắng tìm một
sự thay đổi căn bản, đó là tìm sự thay thế thể loại thơ Đường luật gò bó bằng một
thể loại thơ tự do mang “hơi hướng” phương tây, đó chính là phong trào Thơ
mới. Tuy nhiên, vẫn có sự phân hóa khá rõ nét, một số nhà thơ muốn cách tân một
cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức, trong khi một số khác lại không muốn bị
“tây” hóa quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới về mặt hình thức thể hiện
mà thôi. “Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của ảnh hưởng từ thơ Pháp thì Thâm
Tâm lại quay về với hồn thơ Đường luật, còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho
tàng ca dao-dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt thời Tiền chiến…”
Trong khi đó thì thơ T.T.Kh
lại mới từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh,trong thơ của Bà không hề có những từ Hán-Việt
như: Ly khách, ải xa, trường thành, cô phụ, đoạn trường, ác tà, giang thôn…như Thâm
Tâm, hay đặc chất quê, chất ca dao: Tơ vương, buồng the, hoa chanh, vườn chanh, giời
mưa, giầu cau…của Nguyễn Bính.Đặc biệt những nhà thơ như Thâm Tâm,Nguyễn Bính
thường dùng lối viết ẩn dụ “ý tại ngôn ngoại”của lớp nhà thơ “cổ điển” khi muốn
nói về tình yêu đôi lứa,còn T.T.Kh thì lại nói toạc ra:-Buồn quá hôm nay xem tiểu
thuyết…-Người ấy thường hay vuốt tóc tôi…-Tôi chờ người đến với yêu đương…Bây
giờ ta hãy cùng đọc mấy đoạn thơ tả cảnh:
“Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành” (T.T.Kh)
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu
xanh
Những luồng run rẩy rung
rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng
manh” (Xuân Diệu)
“Thu sang trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn” (Nguyễn Bính)
“Bừng sáng Xuân bay tang tảng
sương
Canh gà heo hút nẻo
giang thôn
Chài ai gấp gấp giăng
giăng bạc
Cùng là những câu thơ tả cảnh, nhưng
rõ ràng hai đoạn thơ trên của T.T.Kh & Xuân Diệu “mới” hơn rất nhiều, nghiêng
về dòng thơ ảnh hưởng nền thơ Pháp mà “Thế Lữ là người khơi nguồn nhưng Xuân Diệu
mới là người “đẩy” lên cho đến tận cùng…” chúng ta cùng đọc mấy đoạn thơ tình:
“Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều” (Nguyễn Bính)
Ngay cả khi viết thơ tình
Nguyễn Bính cũng vẫn không “bỏ” được “chất giọng” thơ chân chất Chân quê &
lối nói ẩn dụ. Trong khi đó,thơ của T.T.Kh lại “hiện đại” hơn rất nhiều:
“Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình
ta cũng vỡ thôi” (T.T.Kh)
“Anh biết yêu em đã muộn màng
Nhưng mà ai cưỡng được tình thương?
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
Anh
chỉ xin về một chút hương…” (Xuân Diệu)
Đến đây chúng ta có thể kết
luận rằng “giọng thơ” của T.T.Kh hoàn toàn xa lạ với “giọng thơ”của Nguyễn Bính
mà lại rất gần gũi với chất thơ của Xuân Diệu ông “vua thơ tình” trong phong
trào thơ mới thời bấy giờ. Để dẫn chứng thì còn rất nhiều & tốn thời gian vô
ích, nếu tìm đọc thêm thơ của Nguyễn Bính thì chúng ta sẽ phát hiện ra không mấy
khó khăn gì. Cho nên bảo rằng T.T.Kh có liên quan gì đó với nhà thơ Nguyễn Bính
là hoàn toàn thiếu thuyết phục!...
3-Thâm Tâm có thể là T.T.Kh
hoặc là người yêu của T.T.Kh được không?:
Công bằng mà nói,nếu ta đọc
riêng một trong những bài viết nêu trên (của Nguyễn Vỹ, Bùi Viết Tân, Hoàng Tiến
hoặc của ai đó nữa…)vào những thời gian,không gian khác nhau thì không phải là
không “có lý” trong một chừng mực nhất định, nhất là lại chỉ đọc lướt qua &
chỉ một lần.Ngoài ra còn phải kể đến “hiệu ứng gơben” nhà tuyên truyền đại tài
của Đức quốc xã,đó là:-“Một sự việc,dù không có thật cứ nói đi nói lại nhiều lần
sẽ trở thành sự thật! Nhất là sự lan tỏa của hiệu ứng truyền khẩu với cái “Tôi”
để bảo lãnh cho “sự thật” đó của những người ưa thì thầm…”.Chả thế mà “bí ẩn” về
T.T.Kh đã tồn tại được hơn 70 năm sau kể từ ngày đó.Nhưng khi ta đọc cả ba bài
viết nêu trên cùng một lúc & đọc thật kỹ thì cũng sẽ thấy ngay được vô số
điều vô lý.Không những trong cùng một bài viết có những chi tiết “đá hậu” nhau
mà cả ba bài viết khi “đặt cạnh” cũng “đá” nhau không kém.Ta lấy ví dụ (dù hơi
khập khiễng):-Có ba cái bình sứ Bát Tràng được làm thủ công với cùng một mẫu,nếu
để riêng rẽ ở ba phòng khác nhau thì sẽ rất khó phân biệt được cái nào đẹp hơn
cái nào,chi tiết nào của cái bình nào không được “chuẩn” như hình mẫu.v.v…Nhưng
nếu để cả ba cái bình ấy bên cạnh nhau thì sự phân biệt lập tức trở
nên rất dễ dàng.
3a/Trần Thị Khánh có phải là
T.T.Kh?:
Đọc thật kỹ cả ba
bài viết trên, nó gợi cho ta cái cảm giác như thể ta chót mua cho thằng con đôi
giầy nên ta phải bằng mọi cách “cố nhét” đôi chân của nó vào bằng được dù cho
đôi giầy đó có rộng hay chật. Chúng ta cũng đã thấy rằng T.T.Kh là một câu
chuyện tình ngang trái, trong khi đó câu chuyện do Nguyễn Vỹ kể lại, chưa
biết thực hư thế nào thì rõ ràng đây là một câu chuyện phụ tình &
một điều quan trọng là tình yêu mà cô Khánh dành cho Thâm Tâm không lấy gì gọi
là một tình yêu say đắm để đến nỗi nhưng biết không lấy được nhau rồi xúc
động tự thổ lộ câu chuyện riêng (qua) bài thơ Hai sắc hoa Tigôn &
gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy như ông Hoàng Tiến đã viết. Trong cả cuộc
tình hai người chỉ gặp nhau có hai lần ngắn ngủi & phải rất bí mật,có
nghĩa là cả gia đình, họ hàng, hàng xóm,bạn bè của cô Khánh chắc chắn không biết
hay chưa kịp biết & chồng của cô Khánh lại càng không thể biết,trong
khi (theo ông Nguyễn Vỹ) cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng
cô,thế thì liệu có “điên” không khi chính cô Khánh viết những bài thơ ký tên
T.T.Kh khóc than cho mối tình duyên “dang dở” của mình để rồi lại phải “Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ-Người ấy cho nên vẫn hững hờ” hay “Viết đoạn
thơ đầu lo ngại quá”. Còn một chi tiết nữa,đó là mới gặp nhau có lần thứ
hai (hồi đó thì làm gì đã có điện thoại di động hay internet để dù không gặp
vẫn có thể “buôn” với nhau hàng ngày?) mà cô Khánh đã “Anh định bao giờ đến
xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Thời “hiện đại” như ngày nay,xin hỏi các bạn
gái của chúng ta có tin được không?Các bạn có “làm” được như cô Khánh không?Nên
nhớ vào thời điểm có câu chuyện đó thì việc “đến xin với thầy,mẹ…” có nghĩa là
phải cưới đến nơi rồi đấy & phải do các bậc “phụ huynh” đến nói chuyện chứ
đâu phải là “Anh định bao giờ…” lẽ ra ông Nguyễn Vỹ phải viết là Anh định
bao giờ đưa Thầy,u anh đến…mặc dù như thế cũng đã là quá đường đột rồi, không
như ngày nay có thể chàng trai đến nhà chơi vài lần rồi mới dám ngỏ lời với cô
gái hay ít nhất cũng cần phải có cả một quá trình qua lại mới có thể Anh định
bao giờ …Còn nếu cho rằng cô Khánh nói vậy để ngầm nhắc & đề phòng người
yêu trách cứ sau này rằng “Đấy,tôi đã bảo mà anh không chịu đến nói chuyện
sau này tôi có lấy chồng thì đừng có mà trách…” thì việc gán cái mẹo ấy
cho một cô gái 17 tuổi sống cách nay hơn 70 năm liệu có quá là khả ố hay
không?...Nếu chỉ xét riêng về bảng chữ cái thì có vẻ T.T.Kh đúng là
Trần Thị Khánh,thế nhưng một cô gái đang vô cùng hạnh phúc với chồng liệu
có dám “nửa công khai” danh tính để tưởng nhớ về một mối
tình ngang trái & đầy nuối tiếc như vậy không?Vì điều đó chỉ có
thể xảy ra khi người thiếu phụ gặp bất hạnh trong hôn nhân(đấy là chúng ta đang
cố tình nói ngược lại những gì ông Nguyễn Vỹ đã viết,rằng Trần Huyền Trân kể với…)
& chuyện này cũng chẳng khác gì nhiều năm trước có vài tờ báo trong nước
nhân việc có ca sĩ hải ngoại phát biểu gì đó: “…cô ca sĩ KL chuyên hát nhạc Trịnh…”.Viết
như thế thà nói toạc ra là ca sĩ Khánh Ly cho nó nhanh.Hơn nữa cô Khánh
không biết làm thơ,chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ
của Thâm Tâm nữa là khác. Chúng ta tìm mãi cũng chẳng bao giờ thấy được lý
do & mục đích gì để tin rằng cô Trần Thị Khánh là T.T.Kh, vì điều đó hoàn
toàn phi lý!. Chúng ta chỉ có thể tin rằng, việc cô Trần Thị Khánh là người yêu của
Thâm Tâm là có thể có thật & chỉ có vậy mà thôi.!
3b/T.T.Kh có thể là Người
yêu của Thâm Tâm được không?:
Lý do để nhiều người vin vào
“rằng thì là” T.T.Kh là người yêu của Thâm Tâm quả là rất buồn cười nếu như
không muốn nói là quá vớ vẩn, nó giống như toán học chứ không phải là một câu
chuyện văn chương: A=C; C=B suy ra thì đương nhiên A=B,đó là vì Trần Thị Khánh “chính
là” T.T.Kh vậy thì T.T.Kh “phải là”người yêu của Thâm Tâm mà không có
bất cứ cơ sở nào như đã phân tích ở trên.Ông Hoàng Tiến viết: “Thâm
Tâm hồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăngBài
thơ đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người
yêu của mình….”chúng ta cùng đọc lại vài khổ thơ trong Bài thơ đan áo:
“Chị
ơi!nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thưong…”
hay: “…Lòng em khổ lắm chị
ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai…”
Ô hay, rõ ràng là “Chị ơi” vậy
mà ông Hoàng Tiến cố gán là: “…Viết riêng tặng Thâm Tâm &…để minh
chứng với thiên hạ” thì quả thật không còn gì để nói nữa & hóa ra
ông cũng chỉ “nghe hơi nồi chõ” như người ta rồi phóng tác ra câu chuyện cho
thêm ly kỳ mà thôi.Đáng lẽ,ông Hoàng Tiến nên viết: T.T.Kh viết tặng người chị
& Thi sĩ Thâm Tâm để nói lên tâm sự của lòng mìnhthì còn khả dĩ chấp nhận
được. Đấy là chúng ta đã cố mà hùa theo quan điểm của ông, chứ thực ra với
riêng bài thơ này nó không hề có tác dụng “minh chứng” như ông đã cố áp đặt…có
thể ông Hoàng Tiến định dùng câu thơ:
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài
thơ đan áo của chồng em
trong Bài Thơ cuối cùng của
T.T.Kh để cố hướng bạn đọc tin rằng Thâm Tâm muốn chứng minh T.T.Kh là
người yêu của mình chăng?... Nhưng ông lại cố tình quên một chi tiết vô cùng
quan trọng là:-Bài thơ đan áo đã xuất hiện trước Bài thơ cuối cùngnhững
vài tháng, vậy thì nó “chứng minh” cái nỗi gì? Hơn nữa,đã “…nhưng biết không lấy
được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này” mà
lại tự dưng“ xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng” với lý do khơi khơi chỉ
vì vừa đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu, trong khi điều
quan trọng nhất để một người nào đấy có được cảm xúc sáng tác nên những vần
thơ buồn đến nao lòng như thế là cần phải có “hoàn cảnh đặc biệt” vì một
tình yêu ngang trái thì tác giả lại không chứng minh được mà viết như vậy thì
quả là quá võ đoán & khiên cưỡng.
3c/Thâm Tâm có phải là
T.T.Kh?:
Song song với những bài viết,lời
kể như đã dẫn chứng ở trên,người ta còn dựa vào hai bài thơ vốn có quá nhiều dị
bản là bài thơ Các Anh & Màu máu Tigôn (theo cuốn Việt
nam Thi nhân tiền chiến thì liên quan đến T.T.Kh ngoài hai bài thơ
trên Thâm Tâm còn có hai bài nữa là: -Dang dở & Gửi T.T.Kh) để cho rằng
chính Thâm Tâm là T.T.Kh.(đáng chú ý là dưới tiêu đề của bài thơ Màu máu
Tigôn có đề là: “Gửi T.T.Kh tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn).Tuy
nhiên nếu đọc kỹ những bài thơ thật sự của Thâm Tâm sáng tác ta sẽ thấy “giọng
thơ” của hai bài này quá khác so với thơ Thâm Tâm, chúng ủy mị, yếu đuối quá
& “mới” quá…nội dung thì cũng chỉ xoay quanh những đối thoại của tác giả với
người con gái nào đó lúc thì tên là Khánh, lúc chỉ viết tắt là K, hoàn toàn không
thấy chi tiết nào cho thấy Thâm Tâm làm thay cho người mình yêu để mang
tên T.T.Kh…Chúng ta cùng đọc vài đoạn trong hai bài thơ nêu trên:
“Các Anh hãy chuốc thật say
“Các Anh hãy chuốc thật say
Cho
tôi những cốc rượu đầy rồi im…”
“…Vết
xe trong xác pháo xưa
Nàng
đi có bốn bài thơtrở về…”(Bài Các Anh)
“Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu tigôn đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang…”
“…Anh biết làm sao được
hỡi Trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ không thôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời”
(Bài Màu máu Tigôn)
(Bài Màu máu Tigôn)
Nhưng cũng vẫn trong hai bài
thơ đó lại có những câu thơ “gây sốc” như sau:
“…Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ…” (Bài Các anh)
“…K…Hỡi! Người yêu của tôi ơi!
Nào
ngờ em giết chết một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
Hình ảnh em hoài mãi thế thôi…” (Bài Màu máu Tigôn)
Mấy câu thơ trên có thể nói
rằng vô cùng thô thiển, câu dưới lại như “réo tên” người mình yêu cho thiên hạ
cùng nghe thì liệu có phải là thơ của một thi sĩ đúng nghĩa, nhất lại là của một
nhà thơ tầm cỡ như Thâm Tâm? Nhiều người cũng đã cho rằng: “Hai bài thơ
trên không chắc là của Thâm Tâm, có thể ở đây có một sự tạo dựng hoặc thêm
thắt nào đó nhằm tạo thêm sự ly kỳ cho độc giả.” điều đó không phải là
không có lý. Phải chăng vì vậy mà trong những lần tái bản về sau các tác giả của Thi
Nhân Việt Nam đã loại bỏ hai bài thơ nêu trên? Hơn nữa như ta đã biết thơ
Thâm Tâm thuộc trường phái “cổ điển” dù ông có cố gắng trong trào lưu “thơ mới”nhưng
qua các tác phẩm thơ của ông thì ta thấy cũng chỉ dừng lại ở mức độ “nửa cổ điển”
mà thôi.Trong khi thơ của T.T.Kh-Xuân Diệu-Thế Lữ-Vũ Hoàng Chương…đích thực là
của những nhà thơ “tân thời”. Theo bài viết của Bùi Viết Tân: “Vào những
năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời
& muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài Các Anh rồi sau đó là
bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…” thì rõ ràng tác giả
chỉ cố muốn thuyết phục mọi người tin rằng những bài thơ “tân thời” mang tên
T.T.Kh là do Thâm Tâm làm ra chứ hoàn toàn thiếu kiến thức về thơ (dù câu văn
đã trích dẫn cũng khá lủng củng & không rõ nghĩa,nhưng ta cũng hiểu ý nhà
thơ Thâm Tâm-nếu đúng lời ông nói,là ông cũng đã cố gắng “đổi mới”cách thể hiện
theo đúng trào lưu thời bấy giờ).Thể hành cũng chỉ là một trong nhiều “chi
nhánh” của thể thơ Đường luật cho nên nói rằng “.. Tống biệt
Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”quả là không thuyết phục…
Trở lại với câu chuyện của
Nguyễn Vỹ ta thấy ngay rằng đây là một mối tình “cho” nhiều hơn “nhận” & vô
cùng thiếu vắng sự lãng mạn ,không gian,thời gian cũng chỉ là có mỗi hai
lần gặpnhau ngắn ngủi.Vậy thì với những “chất xúc tác” như thế,lại là “nạn
nhân” của một mối tình phũ phàng cộng thêm những lời kể “như xát muối” vào lòng
của Trần Huyền Trân,rồi “… Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng
xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình…” & “…cô đầy đủ hạnh phúc với người
chồng rất chiều chuộng cô…” nghĩa là chồng cô Khánh là một người đàn ông
hơn hẳn mình thì liệu ông có thể tưởng tượng ra được một hoàn cảnh tình duyên
ngang trái & đầy nước mắt như của T.T.Kh để làm ra bài thơ cỡ như Hai
sắc hoa Tigôn & những bài thơ sau này hay không?. Hơn nữa,với mục đích
“… để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của
Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...”(Nguyễn Vỹ) mà lại là: “…nhưng thật
ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.-Chuyện này chỉ
có mình & Trần Huyền Trân biết thôi…” (Bùi Viết Tân).Thật là quá buồn cười
vì khi đặt hai trích đoạn của hai tác giả trên cạnh nhau,lập tức chúng ta được
thấy chúng “đá” nhau như thế nào & chúng ta cũng nhận ra rằng với cái “mục
đích” như ông Nguyễn Vỹ đã viết(cứ tạm cho đúng là như vậy) thì Thâm Tâm quả là
quá lẩm cẩm,vì những người bạn đó của ông thừa biết cũng như chứng kiến mối
tình của ông với cô Khánh (nếu có) là như thế nào & cũng thừa biết cô Khánh
không có khả năng làm thơ,vậy thì Thâm Tâm “lừa” được ai? mà thực ra cũng chẳng
để làm gì cả.Còn trong bài viết của ông Hoàng Tiến có chi tiết “…người
kể còn sống,mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp…” thế nhưng tại sao ông không “Công
bố ngay” mà lại phải để đến tận “… vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay (Kỷ tỵ
1989) chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội”mới công bố?Thì ra vì ông đang cố
gắng đưa ra những cái gọi là “chứng cứ” như “nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp
tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm …” để cho
thêm phần xác tín vì thế ông mới bị lúng túng trong việc sắp xếp thời gian tính
như vậy,bản thân ông Phạm Quang Hòa(Lương Trúc)sau khi từ biệt bạn để đi làm
cách mạng,dẫn đến nguồn cảm hứng để Thâm Tâm sáng tác nên bài Tống biệt
hành nổi tiếng thì thực tế kể từ đó họ không hề gặp lại nhau,mà Thâm Tâm
thì lại mất sớm từ năm 1950,có lẽ sau này vì ân tình,vì thương nhớ bạn,ông
Lương Trúc mới tìm & sưu tầm lại những tác phẩm của Thâm Tâm chăng?mà với
thời gian quá lâu ngày,lại trong tình trạng loạn lạc vì chiến tranh thì chắc
cũng không thiếu sự “tam sao thất bản”… Từ những dữ kiện đã phân tích,giúp ta
có thể hiểu ra rằng cả ba bài viết đã dẫn, thực ra cũng chỉ là một câu chuyện
“nghe nói” được người nọ truyền tai người kia lúc trà dư tửu hậu mà thôi.Ngoài
ra,theo những người bạn thân,những người có điều kiện gần gũi với nhà thơ Thâm
Tâm như nhà thơ Vũ Cao(tác giả của bài thơ Núi Đôi) cùng làm báo Vệ Quốc
Quân (tiền thân của báo QĐND ngày nay)cho biết thì ông “…là người có tình cảm
kín đáo,nghiêm túc…ngay như bài Tống biệt hành anh,em nhắc đến
Thâm Tâm rất cảm kích nhưng vốn là người khiêm tốn,anh không thích kể đi kể
lại .Tiếc là anh đi sớm quá lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác
với hơi thơ cũ…” thế thì những đoạn “đối thoại” mang nặng sự khoe khoang,mà lại
với một người vừa mới quen trong bài viết của Bùi Viết Tân liệu có đáng tin
không? & đây hãy xem ông Hoài Anh viết tiếp:“…Sau ngày giải phóng Thủ Đô
năm 1954,tôi gặp các nhà thơ Trần Huyền Trân & Nguyễn Bính mới ra
tập kết (Nguyễn Bính mất năm 1956 tại quê nhà).Tôi kể lại việc tôi được đọc
bài báo viết về mối tình của Thâm Tâm với T.T.Kh,tức bà Khánh thì (cả) hai
ông đều nói (là) chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ…ít lâu sau tôi vào
thư viện của Viện khoa học xã hội tại Hà Nội thì thấy tờ Tập san Nhân Loại số
108 ra ngày 11/7/1958 tại Sài gòn…thời kỳ này báo chí tại Sài Gòn thường đăng
các bài viết (hoặc đăng lại) bài của các cây bút miền Bắc di cư.Vấn đề T.T.Kh lại
được khai thác làm rùm beng cũng như chuyện của nhiều nhà văn khác trong số đó
có không ít chuyện thất thiệt để câu khách…”
Như vậy, chỉ trong số những
người được coi là “gần gũi” với Thâm Tâm nhất như Phạm Quang Hòa (nói là thơ
T.T.Kh là do cô Khánh sáng tác)-Nguyễn Vỹ ( kể rằng do chính Thâm Tâm viết)-Trần
Huyền Trân-Nguyễn Bính (thì bảo chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ ) đã
nói lên nhiều điều & minh chứng cho sự thiếu chính xác & thiếu cơ sở nếu
như không muốn nói là bịa đặt của các thông tin về T.T.Kh trước đây,cho nên điều
đó chỉ có tính cách là những tin đồn mà thôi..Chính vì tất cả những điều đã
phân tích,đã dẫn chứng ở trên mà chúng ta có thể nói rằng:
- Trước năm 2004 câu
hỏi T.T.Kh là ai trong suốt gần 70 năm qua vẫn chưa có câu trả lời…
1-Nhà văn Thanh Châu “nút thắt”
của vấn đề:
Những năm 1930-cho đến trước
năm 1945 của Thế kỷ trước, song song với phong trào Thơ mới của các
Thi sĩ thì “bên” văn xuôi là những tác phẩm văn học nổi bật của nhóm Văn sĩ
trong Tự lực văn đoàn.Ta có thể kể tên những tác phẩm tiêu biểu như:-Hồn
bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng-Tắt lửa lòng của Nguyễn
Công Hoan-Đoạn Tuyệt của Nhất Linh hay Gánh hàng Hoa của Nhất
Linh-Khái Hưng.v.v…Phần lớn là của những nhà văn trong nhóm “Thất tinh”-Tự Lực
Văn Đoàn gồm:-Ba anh em nhà Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)-Nguyễn Tường Long
(Hoàng Đạo)-Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) cùng hai anh,em Khái Hưng-Trần Tiêu
& Thế Lữ,Tú Mỡ.Sau này kết nạp thêm Xuân Diệu mới gọi là “Bát tinh”-những
vì sao chói sáng trên văn đàn nước nhà thời kỳ 1932-1939…Sáng tác của họ toàn
là những câu chuyện tình đẫm lệ cả & những tiểu thuyết đó cũng ra đời vào
khoảng thời gian trước-trong & sau “thời kỳ T.T.Kh” không lâu…Thế nhưng chẳng
thấy có bất cứ nhà thơ “nặc danh” nào xuất hiện,cho dù trong tác phẩm Gánh
hàng Hoacũng có những đoạn nói về loài hoa Tigôn…Về sau tác phẩm này được chuyển
thể thành tác phẩm điện ảnh,còn Tắt lửa lòng được chuyển thể thành vở
cải lương nổi tiếng có tên Chuyện Tình Lan & Điệp, song tất cả
cũng chỉ có vậy.Thế nhưng vào tháng 7 năm 1937 sau khi tuần báo Tiểu thuyết
thứ bảy đăng truyện ngắn Hoa Tigôn thì một hiện tượng lạ lùng đã
xảy ra.Công bằng mà nhận xét thì truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh
Châu so với các tiểu thuyết nêu trên còn kém xa cả về văn phong lẫn cốt
chuyện,bản thân tên tuổi nhà văn Thanh Châu cũng không thể nổi tiếng bằng.Ấy thế
mà thật kỳ lạ,truyện ngắn Hoa Tigôn của ông vừa mới ra đời được khoảng
hai tháng thì “lập tức” xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của
một tác giả “nặc danh” mang mấy chữ cái T.T.Kh cứ như thể muốn “đối
đáp” lại.Đến đây,chúng ta có nhận ra một điều gì đó bất thường không?.Có
vẻ câu nói của một nhà khoa học:“chẳng có gì tự nhiên sinh ra…” rất phù hợp
trong trường hợp này…Chúng ta đã có thể nói rằng:-Không có Truyện ngắn Hoa
Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & 3 bài tiếp
theo hoặc không có nhà văn Thanh Châu thì sẽ không có T.T.Kh.?
2-Nỗi lòng của nhà văn Thanh
Châu:
Mùa thu năm 1939 (tức
là một năm sau ngày T.T.Kh xuất hiện đầy đủ với 4 bài thơ) nhà văn Thanh Châu
viết một tùy bút có nhan đề Những cánh hoa Tim đăng trên tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy (chúng ta cần biết là:-Truyện ngắn hay tiểu thuyết là có thể
từ một “nguyên mẫu” nào đó có thật rồi tác giả hư cấu thêmcho
hấp dẫn hoặc là hư cấu hoàn toàn như tiểu thuyết Khoa học viễn tưởng.Còn
Phóng sự,ghi chép,nhật ký hay tùy bút… phải là những sự việc có thật,tác
giả chỉ có thể sắp xếp lại cho có thứ tự về không gian,thời gian để “kể lại”giúp
người đọc dễ hiểu mà thôi).Dưới tiêu đề Những cánh hoa Tim ông trích
dẫn một câu thơ của T.T.Kh: Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ bên dưới lại
trích dẫn một đoạn văn trong tiểu thuyết Gánh hàng Hoa: Hoa leo Tigôn sắc
đỏ, sắc hồng,sắc trắng năm nào cũng vậy,một mùa tàn lại một mùa nở.Nó chẳng giống
lòng trắc ẩn của con người. Rồi ông viết:“…Có ai để ý đến một thứ hoa của dây
leo,mỏng manh & nhẹ nhàng như giấy,dáng hoa chum chúm như một thứ quả khi
chưa xòe cánh?...những dây hoa tigôn đã điểm màu trắng,màu hồng,màu đỏ vào giữa
đám lá xanh non & sáng sáng,có những thiếu nữ vui như bướm với những bàn
tay nhẹ,gỡ dần những dây hoa ấy để thay cho những hoa hôm trước trong phòng
khách đã tàn…Một mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay & vò
nát chúng đi trước một giàn hoa.Đó là thời kỳ tôi vừa ốm dậy,buổi chiều
thường đi vơ vẩn trong sân…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay,tôi nghĩ
đến một quả tim rớm máu.Tôi nghĩ đến những đoạn tình duyên đau khổ ở
đời.Những tiếng nức nở dài như tiếng cầm đề não nuột trong bài thơ “Thu” của
thi sĩ Verlaine…buổi chiều lạnh chớm thu,đã thấy thoáng hiện ra trong đầu cái
hình ảnh tưởng là mờ nhạt từ lâu của người quen cũ. Tôi nghĩ đến chia rẽ,đến
phân ly, đến những bức thư cuối cùng viết vội vàng trong đêm vắng, dưới ánh
nến chập chờn,trong đó người ta gói cả một tấm lòng tuyệt vọng lẫn với
những cánh hoa thường tặng. Tôi nghĩ đến những xác chết trong tim mệt mỏi
vì yêu của những người đàn bà có chồng,đã yên vui,đã nguôi quên…
Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu …Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét & hai tuần sau cái truyện ngắn Hoa tigôncủa tôi đã in trên mặt báo sau này.Truyện có gì đâu:Một họa sỹ đi vẽ về qua làng Mọc,gặp một thiếu nữ hái hoa như tôi cũng đã từng gặp trên kia…Rồi tám, chín năm sau, lúc họa sỹ đã nổi danh mới gặp lại người xưa,người ta nhận ra nhau,thấy mến nhau & sau cùng thấy yêu nhau.Làm thế nào khác được? (người viết truyện cho là định mệnh). Họa sỹ bảo người yêu trốn đi với chàng làm lại cuộc đời,nhưng thiếu phụ là một người đàn bà yếu đuối.Phút cuối cùng nàng sợ,chẳng dám liều bước vào con đường mới mà nàng đoán rằng nguy hiểm.Nàng bị đau đớn dày vò vì đã yếu đuối & từ trần xa người yêu một buổi kia.Họa sĩ được tin,đem những dây hoa tigôn-Thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà,đặt trên mộ người yêu. Họa sĩ đã già mà cũng không lấy vợ.Nhưng,mỗi mùa thu, mùa hoa tigôn nở nhiều nhất,họa sĩ thường mua thứ hoa kia về để trong phòng vẽ của mình.Truyện có gì đâu?nhưng tôi viết với tất cả cảm giác trong trẻo,chân thành,tươi tốt đã có trong buổi chiều thu ấy, sau buổi đi chơi trong làng Mọc. Có lẽ vì thế,mà cách đây ít hôm, một buổi trưa,có hai người đàn bà đến thăm tôi trong lúc tôi đi vắng & để lại trên bàn những cánh hoa trong truyện.Những người đó,tôi đoán là đã lấy làm bằng lòng câu chuyện tình ảm đạm kia,mà những cành hoa để lại không ngoài cái ý nghĩa thưởng công cho người đã viết…Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy,ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn) kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ & bài thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ.Bài thơ đó cũng là một cái truyện ngắn:-Một thiếu nữ thường đợi người yêu đến trong buổi chiều thu,dưới một giàn hoa tigôn.Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi & từng trải thường vuốt tóc nàng & thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người,trong khi vít những dây hoa ấy xuống:-Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ-Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi… & tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,còn câu chuyện của tôi,có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi… Được ít lâu bà lại gửi đến một bài thơ nữa… Tôi thấy một cái gì thắc mắc như là một hối hận vì đã vô tình nhắc đến một thứ hoa cũ làm rớm máu quả tim một người đã “tạm yên”.Người ta bảo có một thứ hoa gọi là “kim châm”,tiếng chữ là “liệu sầu hoa”, ăn hoa ấy thì vơi được lòng đau khổ.Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này:
- Có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…Tôi đã nghe bàn tán nhiều về T.T.Kh người ta tò mò muốn biết rõ đời riêng của người đàn bà có cái tâm sự bi thương kia.Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười…Tôi thì tôi chưa được biết mặt, biết tên thực của T.T.Kh, tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”
Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu …Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét & hai tuần sau cái truyện ngắn Hoa tigôncủa tôi đã in trên mặt báo sau này.Truyện có gì đâu:Một họa sỹ đi vẽ về qua làng Mọc,gặp một thiếu nữ hái hoa như tôi cũng đã từng gặp trên kia…Rồi tám, chín năm sau, lúc họa sỹ đã nổi danh mới gặp lại người xưa,người ta nhận ra nhau,thấy mến nhau & sau cùng thấy yêu nhau.Làm thế nào khác được? (người viết truyện cho là định mệnh). Họa sỹ bảo người yêu trốn đi với chàng làm lại cuộc đời,nhưng thiếu phụ là một người đàn bà yếu đuối.Phút cuối cùng nàng sợ,chẳng dám liều bước vào con đường mới mà nàng đoán rằng nguy hiểm.Nàng bị đau đớn dày vò vì đã yếu đuối & từ trần xa người yêu một buổi kia.Họa sĩ được tin,đem những dây hoa tigôn-Thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà,đặt trên mộ người yêu. Họa sĩ đã già mà cũng không lấy vợ.Nhưng,mỗi mùa thu, mùa hoa tigôn nở nhiều nhất,họa sĩ thường mua thứ hoa kia về để trong phòng vẽ của mình.Truyện có gì đâu?nhưng tôi viết với tất cả cảm giác trong trẻo,chân thành,tươi tốt đã có trong buổi chiều thu ấy, sau buổi đi chơi trong làng Mọc. Có lẽ vì thế,mà cách đây ít hôm, một buổi trưa,có hai người đàn bà đến thăm tôi trong lúc tôi đi vắng & để lại trên bàn những cánh hoa trong truyện.Những người đó,tôi đoán là đã lấy làm bằng lòng câu chuyện tình ảm đạm kia,mà những cành hoa để lại không ngoài cái ý nghĩa thưởng công cho người đã viết…Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy,ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn) kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ & bài thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ.Bài thơ đó cũng là một cái truyện ngắn:-Một thiếu nữ thường đợi người yêu đến trong buổi chiều thu,dưới một giàn hoa tigôn.Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi & từng trải thường vuốt tóc nàng & thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người,trong khi vít những dây hoa ấy xuống:-Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ-Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi… & tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,còn câu chuyện của tôi,có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi… Được ít lâu bà lại gửi đến một bài thơ nữa… Tôi thấy một cái gì thắc mắc như là một hối hận vì đã vô tình nhắc đến một thứ hoa cũ làm rớm máu quả tim một người đã “tạm yên”.Người ta bảo có một thứ hoa gọi là “kim châm”,tiếng chữ là “liệu sầu hoa”, ăn hoa ấy thì vơi được lòng đau khổ.Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này:
- Có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…Tôi đã nghe bàn tán nhiều về T.T.Kh người ta tò mò muốn biết rõ đời riêng của người đàn bà có cái tâm sự bi thương kia.Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười…Tôi thì tôi chưa được biết mặt, biết tên thực của T.T.Kh, tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”
Đọc lại những gì ông viết ta
có nhận thấy điều gì lạ không?Thứ nhất:-Cái hình tượng ví bông hoa Tigôn nhỏ
xíu như là trái timthì chỉ có hai người dùng là ông (trong truyện
ngắn Hoa tigôn). Ông viết: “…Hoa Tigôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh,màu hồng
dịu như nhuốm máu đào…” & T.T.Kh: - Bảo rằng:
Hoa dáng như tim vỡ… (nên nhớ tác phẩm Gánh hàng hoa xuất bản trước truyện ngắn Hoa Tigôn hơn một năm-tức là từ đầu năm 1936, cũng có nhiều đoạn tả về hoa Tigôn, kể cả đoạn ông đã trích dẫn ở trên thì cũng không có một lần nào “khám phá” ra được hình trái tim như T.T.Kh & ông đã viết). Thứ hai:
-Thực ra, ngoài các chi tiết cùng tả về những cánh hoa Tigôn thì“cốt chuyện”của truyện ngắn so với câu chuyện “kể” trong 4 bài thơ của T.T.Kh chỉ Giống nhau ở một sự kiện duy nhất là “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”-có nghĩa là các nhân vật không có được hạnh phúc lứa đôi hay nói cách khác là họ lấy chồng mà không phải vì tình.Còn một bên là hai người đã yêu nhau nhưng không lấy được nhau (T.T.Kh) đằng kia là mới nhìn thấy nhau vài lần,rồi gặp lại khi cô gái đã có chồng rồi mới yêu nhau (mà ở câu chuyện này rõ ràng chỉ là một sự ngoại tình vốn không được chấp nhận,nhất là với xã hội đương thời)…Thế thì ông Thanh Châu dựa vào “nguyên mẫu” nào mà cho rằng“cùng một mối cảm” một cách giản đơn như vậy? trong khi trước & cùng thời gian đó có nhiều truyện đăng báo hay tiểu thuyết còn lâm ly hơn Hoa tigôn của ông Thanh Châu nhiều,đã thế cốt chuyện cũng không khác “của T.T.Kh” là bao (ví dụ như Đoạn Tuyệt của Nhất Linh) tại sao thế? Tại sao chỉ khi Hoa Tigônra đời thì mới xuất hiện T.T.Kh?.Thứ ba:
- Nếu hoàn toàn là người ngoài cuộc,tức là chẳng biết gì về “đối tượng” thì dựa vào đâu để ông “bênh” người ta đến thế: Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười & Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”trong khi những người “bị” đồn đại lại toàn là nhà thơ tầm cỡ đương thời như Thâm Tâm,như Nguyễn Bính thì cũng có gì đáng gọi là muốn làm nhơ bẩn…như ông Thanh Châu đã viết khá nặng lời?Có điều gì đó bất thường ở đây chăng?
Hoa dáng như tim vỡ… (nên nhớ tác phẩm Gánh hàng hoa xuất bản trước truyện ngắn Hoa Tigôn hơn một năm-tức là từ đầu năm 1936, cũng có nhiều đoạn tả về hoa Tigôn, kể cả đoạn ông đã trích dẫn ở trên thì cũng không có một lần nào “khám phá” ra được hình trái tim như T.T.Kh & ông đã viết). Thứ hai:
-Thực ra, ngoài các chi tiết cùng tả về những cánh hoa Tigôn thì“cốt chuyện”của truyện ngắn so với câu chuyện “kể” trong 4 bài thơ của T.T.Kh chỉ Giống nhau ở một sự kiện duy nhất là “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”-có nghĩa là các nhân vật không có được hạnh phúc lứa đôi hay nói cách khác là họ lấy chồng mà không phải vì tình.Còn một bên là hai người đã yêu nhau nhưng không lấy được nhau (T.T.Kh) đằng kia là mới nhìn thấy nhau vài lần,rồi gặp lại khi cô gái đã có chồng rồi mới yêu nhau (mà ở câu chuyện này rõ ràng chỉ là một sự ngoại tình vốn không được chấp nhận,nhất là với xã hội đương thời)…Thế thì ông Thanh Châu dựa vào “nguyên mẫu” nào mà cho rằng“cùng một mối cảm” một cách giản đơn như vậy? trong khi trước & cùng thời gian đó có nhiều truyện đăng báo hay tiểu thuyết còn lâm ly hơn Hoa tigôn của ông Thanh Châu nhiều,đã thế cốt chuyện cũng không khác “của T.T.Kh” là bao (ví dụ như Đoạn Tuyệt của Nhất Linh) tại sao thế? Tại sao chỉ khi Hoa Tigônra đời thì mới xuất hiện T.T.Kh?.Thứ ba:
- Nếu hoàn toàn là người ngoài cuộc,tức là chẳng biết gì về “đối tượng” thì dựa vào đâu để ông “bênh” người ta đến thế: Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười & Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”trong khi những người “bị” đồn đại lại toàn là nhà thơ tầm cỡ đương thời như Thâm Tâm,như Nguyễn Bính thì cũng có gì đáng gọi là muốn làm nhơ bẩn…như ông Thanh Châu đã viết khá nặng lời?Có điều gì đó bất thường ở đây chăng?
Chúng ta lấy ví dụ thế
này:-Mọi người ở các lớp khác cứ khăng khăng khẳng định là bạn A hay đánh nhau
& quay cóp trong lớp,các bạn ở lớp khác nghe thì cũng chỉ biết vậy,nhưng nếu
ta lại học cùng lớp với bạn A, nhất là lại ngồi gần nhau nữa thì rõ ràng thấy bạn
ấy chẳng những không bao giờ quay cóp mà còn chẳng bao giờ đánh nhau với ai,vậy
khi nghe được chuyện đó, đương nhiên là ta sẽ bênh bạn mình vì hoàn toàn chắc chắn
không sợ người khác bảo là bênh lấy được, cộng với tâm lý thường tình mà ta muốn
chứng minh là mọi người đừng có mà “thằng chết cãi thằng khiêng” thì cũng hoàn
toàn hợp lý….Thứ tư:
-Nội dung của bức thư,ngoài vài câu ông đã tiết lộ thì có vẻ ông viết bài tùy bút này dường như là để nhằm “thanh minh” với ai đó & ông cũng như muốn an ủi ai đó, vì thế mà ông mới thấy … như là một hối hận …chúng ta tạm dừng ở đây để chờ những dữ kiện khác ở các phần sau thì sẽ quay lại phân tích thêm cho rõ phần “lạ lùng”còn lại.
-Nội dung của bức thư,ngoài vài câu ông đã tiết lộ thì có vẻ ông viết bài tùy bút này dường như là để nhằm “thanh minh” với ai đó & ông cũng như muốn an ủi ai đó, vì thế mà ông mới thấy … như là một hối hận …chúng ta tạm dừng ở đây để chờ những dữ kiện khác ở các phần sau thì sẽ quay lại phân tích thêm cho rõ phần “lạ lùng”còn lại.
3-Chuyện tình đời thực của
nhà văn Thanh Châu:
Nhà văn Thanh Châu (tên thật
là Ngô Hoan) sinh ngày 17 tháng 9 năm 1912 tại thị xã Thanh Hóa
(nay là thành phố Thanh Hóa). Quê nội ông ở Diễn Châu (Nghệ An).Năm 1926, học
trường cao đẳng tiểu học Vinh, sau đó ra Hà Nội học trường đạo (Thiên
chúa giáo), học chung với Phạm Huy Thông. Thấy Phạm Huy Thông và Nguyễn
Nhược Pháp viết, ông cũng cầm bút theo. Năm 17 tuổi, truyện ngắn đầu
tay Bó hoa quá đẹp được in. Nhờ truyện ngắn này mà ông được mời
cộng tác với tuần báo Tiểu thuyết thứ 7 của nhà báo Vũ Đình
Long. Ông
trở thành cây bút chủ chốt của tờ báo này trong suốt 10 năm sau
đó. Sau cách mạng tháng 8, tham gia quân đội, phụ trách báo Vệ
quốc quân của Sư đoàn 304. Năm 1954 ông công tác ở báo Văn nghệ (Hội
nhà văn).
Kể từ tập truyện ngắn đầu
tiên Trong bóng tối (1934), đến tập truyện ngắn Cún số 5 (Nxb
Kim Đồng 1992), ông đã có gần 20 đầu sách…Sinh ra
trong một gia đình dòng dõi quan lại,nhưng đến đời ông thì gia cảnh sa sút, vì
thế cuộc sống của gia đình ông khá là chật vật.Ông có người bạn, gia đình có cơ
sở kinh doanh buôn bán khá lớn ở Thanh Hóa thời bấy giờ nên kinh tế khá giả hơn
gia đình ông rất nhiều,khi cả hai cùng lớn lên vào thời thanh niên thì họ cũng
ít có cơ hội gặp nhau,vì người bạn là con trai trưởng nên phải gánh vác việc
làm ăn của gia đình đang hồi thịnh vượng…trong một lần đi chung chuyến tàu từ
Hà Nội về Thanh Hóa ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái. Cuộc gặp gỡ định mệnh
này đã khởi đầu cho một mối tình đắm say & cũng không ai có thể ngờ rằng nó
lại có kết thúc đầy nước mắt & cay đắng về sau…Trở về Thanh Hóa,hai người
tiếp tục qua lại & tình cảm gắn bó ngày càng thắm thiết & đầy lãng mạn.Gia
đình hai bên cũng đều biết việc này.Nhưng cuộc tình duyên không thể đi đến đoạn
kết có hậu vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” bởi gia cảnh đôi bên là quá khác
nhau…Sau cú “sốc” này,Thanh Châu bỏ ra Hà Nội sinh sống,viết văn.Người yêu ông ở
lại quê nhà & một thời gian sau thì (phải) lấy chồng.Ở ngoài Hà Nội một thời
gian,ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái ông yêu
chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Từ đó Thanh Châu không bao giờ còn gặp lại người
yêu xưa nữa cho đến bốn mươi năm sau,khi Đất nước thống nhất,ông mới vào Sài
Gòn để tìm gặp lại Cố Nhân.…
1-Nhà văn Thanh Châu có liên
quan gì với T.T.Kh?:
T.T.Kh đã viết nên những bài
thơ tình bất hủ về một tình duyên ngang trái,nhưng ai mới là người đã làm cho
nàng phải đớn đau đến tột cùng để đến nỗi dám vượt qua cả sự sợ hãi vô hình lẫn
hữu hình của vòng lễ giáo mà thốt lên những vần thơ thấm đẫm nước mắt ấy?Ai đã
làm cho nàng tan nát cõi lòng trong cái ngày lẽ ra phải là ngày vui nhất của đời
người con gái: “Người xa xăm quá,tôi buồn lắm-Trong một ngày vui pháo nhuộm
đường”?.Đây là một câu hỏi quan trọng,nếu giải đáp được câu hỏi này là ta sẽ có
được “chìa khóa” để mở ra cánh cửa đi sâu vào những ngóc nghách của câu chuyện
bí ẩn này.T.T.Kh viết: Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy
ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng
tựa trái tim tan vỡ
Và
đỏ như màu máu thắm phai.
Khi xem xét thật kỹ cả bài
thơ Hai sắc hoa Tigôn & bốn câu thơ trên, ta sẽ thấy rằng ở khổ
thơ đầu dường như nàng đã cố tình làm ra vẻ “nhầm lẫn” khi viết:Thấy ai cũng ví..sau
khi xem tiểu thuyết nhưng thực ra là để che giấu điều mà nàng cũng đã
biết,đã nhận ra “người quen” qua hình tượng “…chum chúm hình
quả tim vỡ,đỏ hồng như nhuộn máu đào” của loài hoa Tigôn miêu tả trong
truyện ngắn & với hai khổ thơ sau thì nàng lại như ngầm nói với tác giả rằng:-Nàng
không nói bâng cua đâu & nàng chỉ tưởng nhầm Thấy ai cũng ví nếu
như loài hoa ấy không phải là những cánh Tigôn mà thôi,chính cái từ Nhưng ấy
đã cho chúng ta biết điều đó. Từ những phần trước,ta đã biết nếu không có nhà
văn Thanh Châu thì đã không có T.T.Kh hay nói cụ thể hơn là nếu không có truyện
ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa tigôn &
các bài thơ tiếp theo… Đặt hai tác phẩm trên cạnh nhau,điều dễ nhận thấy đầu
tiên là bài thơ như muốn “họa” lại truyện ngắn từ hình thức cho đến nội dung.Bắt
đầu là cái tiêu đề: Hoa Tigôn-Hai sắc hoa tigôn .Truyện ngắn mở đầu bằng
hình ảnh ông họa sĩ già ngày nào cũng ngẩn ngơ bên những cánh hoa dường như để
hồi tưởng lại những ngày tháng êm đềm đã mất…chuyện tình thơ cũng bắt đầu “kể lại”
những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên “tây” ấy (vì tiêu đề đã nói rõ là
…hoa tigôn nên ở trong những câu thơ không nhắc lại tên hoa nữa):
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt
cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm
ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương
Cũng từ những phần trước ta
đã nhận thấy trước & trong “giai đoạn T.T.Kh” không có bất cứ ai dùng hình
tượng “Trái tim” hay “Trái tim vỡ” để chỉ hoa tigôn như nhà
văn Thanh Châu & T.T.Kh đã dùng! Câu hỏi được đặt ra là vì sao mà câu chuyện
của Thanh Châu & T.T.Kh đều chỉ xoay quanh cái chi tiết “Trái tim vỡ” ấy?Vì
lẽ gì mà cánh hoa tigôn lại ám ảnh hai người đến như vậy? Truyện ngắn Hoa
tigôn có đoạn: “…trong thư,một dây hoa tigôn nhỏ ép rơi ra: những nụ
hoa chum chúm hình quả tim vỡ,đỏ hồng như nhuộm máu đào…” &
đây bài thơ viết:
“…Nhưng
hồng tựa trái tim tan vỡ
Và
đỏ như màu máu thắm phai.”
Về phần mình, cũng trong tùy
bút Những cánh hoa Tim ông viết: Người đàn ông chừng là một kẻ
đã đứng tuổi & từng trải thường vuốt tóc nàng & thở dài lo sợ cho cái
tương lai đen tối của hai người, trong khi vít những dây hoa ấy xuống…đây
là đoạn nhà văn Thanh Châu đang bình luận về bài thơ Hai sắc hoa tigôn của
T.T.Kh,chúng ta tìm khắp tất cả bốn bài thơ đã đăng báo cũng không hề thấy cái
chi tiết “…trong khi vít những dây hoa ấy xuống” nằm ở đâu? Phải chăng là
ông đang hồi tưởng lại những tháng,ngày ở bên người yêu dưới một giàn hoa tigôn
trong sân nhà nàng mà T.T.Kh cũng đã viết trước đó:- “Dưới giàn hoa máu tiếng
mưa rung” trong Bài thơ cuối cùng…?
Hay là ông đã khéo tưởng tượng
ra “cảnh” này trong khi đang bồi hồi xúc động?Nhưng,như chúng ta cũng đã biết,thể
loại tùy bút đâu có cho phép nhà văn hư cấu hay thêm,bớt về một sự kiện nào đó
không có thật?Điều đó nói lên rằng có lẽ nhà văn Thanh Châu cũng đã nhận ra“Người
xưa” khi đọc những bài thơ ấy khiến ông hồi tưởng như một cuốn “phim đời”
chiếu lại mà viết ra như thế chăng?
Hoa tigôn nhỏ bé,loài hoa
hình trái tim hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này,nó như rụng
đầy ở khắp mọi nơi,ở mọi không gian,thời gian mà câu chuyện tình nhắc đến.Trong
truyện ngắn,mở đầu là chàng họa sĩ gặp người con gái sáng sáng bắc ghế hái những
chùm hoa tigôn để lại trong lòng chàng một tương tư thầm kín cho đến khi hai
người gặp lại & bắt đầu một mối tình đắm say & cuối cùng nhận được
thông điệp của bi kịch tình yêu là một phong thư báo tang viền đen kèm theo một
dây hoa tigôn…Còn trong bài thơ,cánh hoa từ chỗ là niềm vui,niềm mong đợi của
người con gái “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến khi kết thúc một
cuộc tình:
“…
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu
hồng”
Cho nên nếu có đặt lại tên
“Bí ẩn văn chương T.T.Kh” này thành “Bí ẩn tình thơ Hoa tigôn”quả là cũng không
sai.Nhưng, như chúng ta cũng đã biết hơn 70 năm về trước thời còn tư tưởng
phong kiến rất nặng nề,việc yêu đương trai gái là việc ít được bộc lộ công khai
chứ đừng nói là lại làm thơ than vãn cho một tình yêu bẽ bàng của chính mình mà
lại dám công khai danh tính trong khi đã có chồng,dù cho tác giả đã “tây” hóa rất
nhiều qua những vần thơ mang tư tưởng “tân thời”này (có lẽ ngay cả thời hiên đại
cũng vậy thôi) mặt khác,nếu như sau khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra đời
mà chỉ có duy nhất bài thơ Hai sắc hoa tigôn thì chúng ta
còn có thể cho rằng:- chắc là có “ai đó” xúc động vì câu chuyện đọc được mà “cảm
thán” làm ra bài thơ để cho vơi bớt nỗi lòng…nhưng thực tế là đã có tất cả những
bốn bài thơ,mà các bài thơ đó đều ít,nhiều liên quan đến nhau thì câu chuyện đã
trở nên “rất thật” rồi.Lại có người vì vốn dĩ hay nghi ngờ kiểu “đa nghi Tào
Tháo”mà cho rằng chắc có ai đó làm ra những bài thơ đối đáp với câu chuyện
của nhà văn Thanh Châu cho thêm phần ly kỳ để bán báo. Ta thấy ngay rằng nhận định
trên là hết sức vớ vẩn & nông cạn,vì nếu không có cảm xúc thật sự,hay nói
cách khác là nếu không có “tâm sự buồn” lại ở trong một hoàn cảnh đặc
biệt thì không thể có được những bài thơ như cào xé tâm can đến như thế ,nếu mà
cứ “vui như tết” hoặc là loại thơ “đặt hàng” thì chỉ sản sinh ra được những bài
thơ như “hô khẩu hiệu” mà thôi,ngay cả những bài thơ tình bất hủ được cho là
“lãng mạn cách mạng” cũng đều xuất phát từ những kết cục buồn,hay từ những ước
mơ chưa thành… ví dụ:-Bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao hay bài Đợi anh
về của ximônôv…Chúng ta cùng đọc lời nhận xét thật chí lý của hai tác giả Việt
nam Thi nhân tiền chiến-ông Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng: “Không
uống rượu,không thể say.Không đắm đuối trong yêu đương,không thể dệt nên những
vần thơ lâm ly về tình ái.Thi phẩm của T.T.Kh là tiếng lòng của một linh hồn
đau khổ,héo hắt khi mộng tình tan vỡ,nàng kêu lên để thở than duyên phận với
người đời.T.T.Kh đâu phải là “thợ thơ” mà phải dối trá lòng mình để cấu tạo những
vần thơ bi thiết-Mà như thế để làm gì?Khoe danh à?-Vô lý! Vì T.T.Kh đâu có cho
ai biết hình dạng ra sao?...” đưa thêm ví dụ thì nhiều vô kể,dẫn chứng ra
chỉ làm mất thì giờ của bạn đọc.Từ những điều nêu trên,việc T.T.Kh dấu kín danh
tính & nhà văn Thanh Châu tôn trọng điều đó của tác giả đã trở nên dễ hiểu,vì
thế ông mới viết “… kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì
sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ…” thế thôi chứ không chịu tiết lộ gì
thêm về nội dung bức thư mà chỉ có một mình ông biết.Chi tiết xin chữ ký có
lẽ cũng chỉ là một động tác giúp “đánh lạc hướng” để cho mọi người tin rằng tác
giả thơ giống như một người tỏ lòng ngưỡng mộ tới tác giả truyện ngắn & ngầm
“thanh minh” rằng hai người chẳng có “liên quan” gì với nhau hơn là để nhằm
“xác định” chắc chắn tác giả của truyện ngắn là ai của tác giả những bài
thơ?Như đã phân tích ở các phần trước chúng ta thấy rõ ràng là nếu không có
truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không thể có bài thơ Hai sắc hoa
tigôn & nếu chỉ đơn giản là “…vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài
thơ…” thì có lẽ cũng chỉ cần một bài thơ đầu là đủ,đằng này lại là những
ba bài thơ (chưa tính Bài thơ đan áo) với nhiều hàm ý vừa trách móc vừa thở
than vừa nuối tiếc đến như vậy để làm gì & tại sao? Vì nếu không phải ít nhất
là “người quen” thì có ai lại làm như vậy không? Đến đây ta đã
có thể hiểu ra rằng nhà văn Thanh châu chính là “người quen” của T.T.Kh vì
thế sau bài thơ đó mới có hai bài thơ tiếp theo gửi đăng ở tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy.
2-Người yêu của T.T.Kh có thể
là ai?:
Vì đã nhận ra “người
quen” rồi cho nên bài thơ thứ hai gửi đăng báo mới viết tiếp điều mà Hai
sắc hoa tigôn chưa tiện nói hết, như một lời nhắn nhủ:
Từ đấy không mong không dám hẹn
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một
lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng
tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người
ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Bởi nếu không “…Vẫn nhớ
em” thì viết ra truyện ngắn Hoa tigôn“nhắc lại” tình yêu cũ (qua hình
tượng Hoa tigôn-Trái tim vỡ…) để làm gì? Và cũng trong bài thơ này T.T.Kh
không chỉ nhìn nhận những cánh hoa Tigôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó mà còn
có vẻ giận hờn người đã “vô tình” nhắc đến cánh hoa xưa,khiến lòng Nàng thêm
tan nát:
Đang lúc lòng
tôi muốn tạm yên
Bỗng
ai đem lại cánh hoa tim
Cho
tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ
xuống thành thơ khóc chút duyên.
Từ những câu thơ có tính chất
thăm dò & tương đối kín kẽ để không làm lộ mối quan hệ,thế rồi diễn biến của
tình cảm khi nhớ lại duyên xưa.Nàng đánh liều khi đối thoại “trực tiếp”như một
lời nhắc khéo & cũng là để thanh minh cho sự “lên tiếng” của
mình:
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì
tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
-“Cố
quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than
bằng những giọng thơ”.
Thế nhưng,mãi rồi cũng không
thể dằn lòng được nên Bài thơ Cuối cùng đã làm nàng “lộ tẩy”:
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng
khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Hóa ra nàng đã thừa nhận tác
giả của truyện ngắn Hoa Tigônkhông phải là “người dưng”,bởi nếu không có
quan hệ gì thì sao nàng lại vô cớ đi trách “người ta”? Đoạn phân tích này của
Trần Đình Thu quả là tinh tường & khá chí lý:
“Chúng tôi đã có dịp nói
chuyện với nhà văn Thanh Châu & chỉ ra với ông chỗ này.Nhà văn Thanh Châu
cũng hoàn toàn đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh đã có hàm
ý trách ông”.
Đến đây ta có thể kết luận rằng
nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật “Ai” & quan hệ giữa tác giả truyện ngắn
& tác giả thơ không phải là mối quan hệ “người dưng” mà ít nhất phải là người
đã biết rõ về câu chuyện tình ngang trái của nàng…Thế nhưng,trong thơ của
T.T.Kh không chỉ có mỗi nhân vật “Ai” mà còn có cả nhân vật “Anh” nữa,không lẽ
có những hai nhân vật khác nhau?.Ta hãy đọc những đoạn thơ mà nàng cũng “trực
tiếp” đối thoại với người yêu của mình:
Anh
hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
Một
mùa thu cũ một lòng đau
Ba
năm ví biết anh còn nhớ
Em
đã câm lời có nói đâu.
Cũng như những lời tự sự sau
này của nhà văn Thanh Châu trong bài tùy bút Những cánh hoa tim: “…tôi nghĩ đến
một quả tim rớm máu…&…Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng
chua xót vì yêu… Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người
đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này: -có chồng rồi mà vẫn không quên được
tình xưa…” & ý nàng cũng như muốn trách: -Sao anh lại quên “lời hẹn” cũ mà
viết câu chuyện tình của chúng mình làm gì cho thêm đau đớn lòng nhau thế này
& phải chăng hình ảnh cô đơn của ông họa sĩ già “... cứ đến mùa
hoa Tigôn nở,không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong
phòng vẽ,vì thứ hoa ấy chóng tàn.” trong truyện ngắn Hoa Tigôn đã
ám ảnh nàng,nên T.T.Kh mới viết,như một lời nhắn nhủ tới người yêu xưa?:
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã
bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc
úa giết dần đời thiếu phụ
Thì
ai trông ngóng chả nên chờ.
Và: Ngang
trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc
hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẫn
hồn eo hẹp
Đi nhớ người
không muốn nhớ lời.
Thế rồi,vì ở trong một tâm
trạng bối rối,nàng đã không còn giữ được bình tĩnh nữa mà quên cả việc giữ gìn
danh phận nên mới “nói toạc” ra :
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà
phương ngoài gió chẳng làm quên
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại
chính là anh, anh của em.
Như vậy là đã rõ, hai
nhân vật “Ai” & “Anh” chỉ có thể là một người! hay nói cụ thể hơn
là nhà văn Thanh Châu chính là Người yêu của T.T.Kh! mà có lẽ cũng chẳng
cần phải bình luật gì thêm.
Như chúng ta đã biết,bài thơ
này tác giả viết gửi cho một người chị nào đó để nói lên cảnh ngộ của mình như
một hình thức “tựa lên vai chị mà khóc cho vơi nỗi lòng”:
Chị
ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương…
Và:
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em…
Một điều quan trọng nữa là
ngoài người chị ra thì người yêu của T.T.Kh cũng được biết hay nói đúng hơn là
cũng được tặng bài thơ này,ta hãy đọc mấy câu trong Bài thơ cuối cùng:
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Đây là câu chuyện tình duyên
ngang trái,yêu mà không lấy được nhau chứ không phải là sự phụ tình của một
phía,vì thế việc gửi tặng đồng thời bài thơ nói lên nỗi lòng mình cho người yêu
thấu hiểu cũng là điều bình thường & hợp lý (bài thơ này chắc chắn phải được
làm trước ba bài thơ kia một thời gian khá lâu). Chẳng thế mà khi tình yêu tan vỡ
nàng cũng có hận gì người mình yêu đâu,nàng trách mà cứ như là không trách:
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng
nhà nghệ sỹ từ đâu lại
Êm
ái trao tôi một vết thương.
Vì suy cho cùng trong cuộc
tình duyên ngang trái này cả hai đều không có lỗi:
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai
đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai
đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời…
Chúng ta dừng lại một chút để
tìm hiểu về cái từ “nhà nghệ sỹ”:-Ngày xưa nhà văn,nhà thơ,nhạc sỹ,họa sỹ…hay
được gọi chung là văn nghệ sỹ hay nghệ sỹ còn diễn viên,ca sỹ,nhạc
công…lại gọi chung là Tài tử (ví dụ ca sĩ Ngọc Bảo thì lại gọi là tài
tử Ngọc Bảo).
Quay lại với câu chuyện Bài
thơ đan áo,câu hỏi được đặt ra là:-Điều gì đã làm cho T.T.Kh tỏ ra mất bình
tĩnh & giận dữ khi Bài thơ đan áo xuất hiện trên báo Phụ nữ khiến
cho nàng phải viết tiếp Bài thơ cuối cùng để trách móc người mình
yêu:
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem
Và dường như vì một điều gì
đó đã xảy ra, khiến không thể tự kìm chế, Nàng hơi nặng lời:
Từ
đây anh hãy bán thơ anh
Còn
để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Rõ là giận quá mất khôn nên
nàng “quên” mất là chính nàng đã gửi 2 bài thơ đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy từ
trước đó (dù không lấy nhuận bút) thì báo họ in ra chẳng lẽ đi phát không mà
không đem bán? hơn nữa bài thơ lấy tên mình chứ đâu có mang tên “người ta” mà
nàng lại bảo là đổi lấy hư vinh?. Điều này chỉ có thể giải thích rằng nàng
giận là vì chàng đã lỡ “cho” đi “tặng phẩm” mà nàng chỉ tặng riêng chàng
& người chị (Nàng dễ dàng khẳng định ai là người tiết lộ bài thơ trên bằng
cách hỏi người chị,có gì là khó?). Ta hãy lấy ví dụ ngày nay, bạn tặng người yêu
một món quà,nhưng người ấy không dùng mà lại đem cho người khác, khi biết chuyện
thì liệu bạn có dễ dàng bỏ qua không? huống hồ là bài thơ này lại còn chứa đựng
hầu như mọi “sự thật” về đời sống hiện tại của nàng cũng như nguyên nhân đã
làm tan vỡ cuộc tình của hai người, khi công khai rất dễ làm cho nàng bị lộ diện
cho nên với tâm lý của người “trong cuộc” lại mang tâm trạng “thần hồn nát thần
tính” khi sống trong vòng lễ giáo phong kiến thì nàng vừa sợ vừa bực mình cũng
là điều dễ hiểu:
Tôi
oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi
chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này?
Rồi như một tiếng thở dài để
chia tay vĩnh viễn một mối tình đã không thể cùng nhau đi đến đoạn kết cuối
cùng,nàng nhắn nhủ:
Giận anh em viết dòng dư lệ
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là
chút dư hương điệu cuối cùng
Nhưng điều làm cho nàng lo sợ
rồi cũng không thể lấn át đươc tình cảm gần như vẫn còn nguyên vẹn mà nàng đã
dành cho người mình yêu,rằng “giận thì giận,mà thương vẫn thương” T.T.Kh viết:
Tôi
biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ
quá đi anh,có một người…
Một câu hỏi nữa lại phải được
đặt ra:
- Vậy mục đích của ông Thanh Châu “tiết lộ” trên báo Bài thơ đan áo để làm gì? Trước tiên ta có thể khẳng định rằng cái bút danh T.T.Kh khi gửi đăng báo Phụ nữ (ở số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) không phải của tác giả bài thơ (trong nguyên bản bài thơ đem tặng) mà là do ông Thanh Châu. Vì là người “trong cuộc” được tặng bài thơ từ trước & biết rõ tác giả là ai nên mới lấy đúng theo bút danh của hai bài thơ đã đăng.Tại sao lại dám khẳng định điều đó? Đơn giản là bài thơ này chỉ tặng duy nhất có hai người thân thiết nhất,gần gũi nhất,tin cậy nhất thì việc gì mà phải dùng bút danh (trừ phi tác giả đã là một nhà thơ chuyên nghiệp & có tiếng tăm)?. Tuy nhiên, việc ai đã lấy bút danh đó không quan trọng bằng trả lời được câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại đi tiết lộ bài thơ của người yêu tặng mình? Ta chỉ có thể lý giải được rằng, khi đọc hai bài thơ đầu là Hai sắc hoa tigôn & Bài thơ thứ nhất chúng ta cũng chỉ “thấy” được một tình yêu say đắm nhưng lỡ làng chứ không hề biết được nguyên nhân nào dẫn đến bi kịch ấy của tình yêu đôi lứa đã làm trái tim người con gái nát tan, thì đây:
- Bài thơ đan áo đã cho biết điều đó,không những thế nó còn cho biết tâm tư tình cảm cũng như cuộc sống “thật” sau ngày phải lấy chồng của người con gái ấy & trong những ngày ôm nỗi buồn nơi đất khách quê người với nỗi nhớ khôn nguôi ông cảm thán mà viết ra câu chuyện của đời mình (tất nhiên không thể viết đúng nguyên mẫu vì còn phải giữ cho người mình yêu đã có chồng) & khi nhận ra hai bài thơ của người yêu cũ gửi đăng báo,ông muốn mọi người hiểu đúng nguyên nhân thực sự của cuộc chia ly với tình yêu của tác giả mà vẫn không làm lộ danh tính như “tìm” một sự đồng cảm & chia sẻ của cuộc đời,cũng như ngầm bác bỏ mọi đồn đoán vô căn cứ (thời gian này vốn đã có rất nhiều đồn đoán về xuất xứ của bài thơ Hai sắc hoa tigôn như chúng ta đã biết) ý định tốt đẹp đó vô tình đã làm người ông yêu hờn dỗi vì ông đã “cho” đi “kỷ niệm xưa” của hai người,còn điều lo sợ có lẽ cũng chỉ mang nặng sự “có tật giật mình”của người trong cuộc mà thôi….
- Vậy mục đích của ông Thanh Châu “tiết lộ” trên báo Bài thơ đan áo để làm gì? Trước tiên ta có thể khẳng định rằng cái bút danh T.T.Kh khi gửi đăng báo Phụ nữ (ở số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) không phải của tác giả bài thơ (trong nguyên bản bài thơ đem tặng) mà là do ông Thanh Châu. Vì là người “trong cuộc” được tặng bài thơ từ trước & biết rõ tác giả là ai nên mới lấy đúng theo bút danh của hai bài thơ đã đăng.Tại sao lại dám khẳng định điều đó? Đơn giản là bài thơ này chỉ tặng duy nhất có hai người thân thiết nhất,gần gũi nhất,tin cậy nhất thì việc gì mà phải dùng bút danh (trừ phi tác giả đã là một nhà thơ chuyên nghiệp & có tiếng tăm)?. Tuy nhiên, việc ai đã lấy bút danh đó không quan trọng bằng trả lời được câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại đi tiết lộ bài thơ của người yêu tặng mình? Ta chỉ có thể lý giải được rằng, khi đọc hai bài thơ đầu là Hai sắc hoa tigôn & Bài thơ thứ nhất chúng ta cũng chỉ “thấy” được một tình yêu say đắm nhưng lỡ làng chứ không hề biết được nguyên nhân nào dẫn đến bi kịch ấy của tình yêu đôi lứa đã làm trái tim người con gái nát tan, thì đây:
- Bài thơ đan áo đã cho biết điều đó,không những thế nó còn cho biết tâm tư tình cảm cũng như cuộc sống “thật” sau ngày phải lấy chồng của người con gái ấy & trong những ngày ôm nỗi buồn nơi đất khách quê người với nỗi nhớ khôn nguôi ông cảm thán mà viết ra câu chuyện của đời mình (tất nhiên không thể viết đúng nguyên mẫu vì còn phải giữ cho người mình yêu đã có chồng) & khi nhận ra hai bài thơ của người yêu cũ gửi đăng báo,ông muốn mọi người hiểu đúng nguyên nhân thực sự của cuộc chia ly với tình yêu của tác giả mà vẫn không làm lộ danh tính như “tìm” một sự đồng cảm & chia sẻ của cuộc đời,cũng như ngầm bác bỏ mọi đồn đoán vô căn cứ (thời gian này vốn đã có rất nhiều đồn đoán về xuất xứ của bài thơ Hai sắc hoa tigôn như chúng ta đã biết) ý định tốt đẹp đó vô tình đã làm người ông yêu hờn dỗi vì ông đã “cho” đi “kỷ niệm xưa” của hai người,còn điều lo sợ có lẽ cũng chỉ mang nặng sự “có tật giật mình”của người trong cuộc mà thôi….
1- T.T.Kh thật sự là ai?:
Từ các phần trước chúng ta
đã biết được xuất xứ & nguyên nhân của sự “xuất hiện” những bài thơ của tác
giả T.T.Kh cùng những sự kiện liên quan…Chỉ còn lại một “ẩn số” quan trọng nhất
là câu hỏi: -T.T.Kh thật sự là ai?
Để trả lời cho câu hỏi đó
thì T.T.Kh ngoài đời thực phải thỏa mãn những “Điều kiện” sau:
a/Phải xuất thân từ một
gia đình khá giả (thì mới là “nạn nhân” của vấn đề môn đăng-hộ đối)
b/Được học hành theo lối
“tân học” (thì mới chịu ảnh hưởng của nền thơ Pháp như phong trào “thơ mới”
đương thời & phù hợp với “giọng thơ”của 4 bài thơ đã đăng báo)
c/Là người yêu của nhà văn
Thanh Châu
Chúng ta cũng đã biết về
tình yêu ngoài đời thực của nhà văn Thanh Châu & lý do tại sao hai người
không lấy được nhau…chỉ còn tên của người yêu ông cũng như gia cảnh,sự nghiệp của
Bà là chúng ta chưa biết…Người đó là bà Trần Thị Vân Chung sinh ngày
25 tháng 8 năm 1919 trong một gia đình buôn bán khá giả tại thị xã Thanh Hóa
(nay là thành phố Thanh Hóa) Bà là con gái thứ ba trong gia đình có tám anh, em
(ba trai, năm gái) trên Bà còn một chị gái & anh trai cả chính là bạn của
nhà văn Thanh Châu...Cũng như ông Thanh châu, trước Bà có theo học trường Cao đẳng
tiểu học Vinh…chồng bà là ông Lê Ngọc Chấn một cử nhân luật, sau này (trước năm
1945) có thời gian làm quan tri huyện rồi cả gia đình di cư vào Miền Nam sinh sống,về
văn chương bà Vân Chung thường hay làm thơ,viết văn với bút danh là Vân Nương
hoặc Tam Nương. Bà tham gia nhóm thơ “Quỳnh Dao” cùng với nữ sĩ Mộng Tuyết, Tôn Nữ
Hỷ Khương, Việt Nữ, Như Hiên…cùng nhau xướng họa như một sinh hoạt tinh thần
& cũng có vài bài thơ đăng báo thời kỳ trước năm 1975…năm 1986 Bà cùng các
con sang Pháp định cư cho đến nay & vẫn tiếp tục làm thơ,đăng trên các tạp
chí tiếng Việt ở nước ngoài…
“Đây là thông tin được chính
nhà văn Thanh Châu xác nhận-một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người
trong cuộc” (trong lần tác giả Trần Đình Thu gặp nhà văn Thanh Châu) cũng như được
bà Vân Chung “gián tiếp” xác nhận (trong hai bức “thư ngỏ” viết tại Pháp
ngày mùng 1/10/1994 & 4/11/1994 gửi cho bà Thư Linh đồng thời
đăng trên báo Thanh Niên & tạp chí Nguyệt san văn hóa tp.HCM số
cuối năm 1994). Cả hai người trong cuộc chỉ đều xác nhận rằng:
- Họ chính là người yêu của nhau thuở trước,cũng như hoàn cảnh,sự nghiệp của hai người chứ không hề tiết lộ ai là T.T.Kh hay ai là người yêu của T.T.Kh.
- Họ chính là người yêu của nhau thuở trước,cũng như hoàn cảnh,sự nghiệp của hai người chứ không hề tiết lộ ai là T.T.Kh hay ai là người yêu của T.T.Kh.
Đó cũng là điều hết sức bình
thường & dễ hiểu ở lớp “người xưa” & có nhân cách. Như vậy,so với “tiêu
chuẩn” tối thiểu cần phải có theo lôgich của sự việc mà ta đặt ra để phục vụ
cho việc “điều tra” bí ẩn văn chương này thì rõ ràng là đã vượt quá cả sự mong
đợi vì trên thực tế ngoài cả ba “tiêu chuẩn” trên đều đạt thì bà Vân Chung còn
là một thi sĩ…
Bây giờ,từ những thông tin
xác thực ngoài đời về mối tình của hai người trong cuộc, chúng ta cùng so sánh
với những câu “chuyện thơ” của T.T.Kh xem có gì “tương ứng” không?:
- Sau khi học xong tiểu học
Vinh,ông Thanh Châu ra Hà Nội tiếp tục học trong trường Đạo & bắt đầu sự
nghiệp văn chương từ giai đoạn này,trên chuyến tàu “định mệnh” ông gặp lại bạn
mình đi cùng cô em gái chính là bà Vân Chung, bắt đầu cho một mối tình đầy lãng
mạn & đắm say, những buổi chiều tà thường khi vẫn làm cho ta có cái cảm giác
thẫn thờ của những nỗi buồn không tên, thế nhưngngười con gái đang yêu lại
không bị ám ảnh bởi điều đó mà thay vào là một tâm trạng hồi hộp chờ đợi người
yêu tới,một cô gái mới lớn với tình yêu đầu đời thì cảm xúc này của bà Vân
Chung khi ấy cũng là rất thật vậy & T.T.Kh cũng như muốn “chia sẻ” cảm xúc
của mình:
Một
mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt
cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm
ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi
chờ người đến với yêu đương.
- Sống trong một xã hội còn
tư tưởng phong kiến rất nặng nề,không phải là ông Thanh Châu không ý thức được
gia cảnh nhà mình nếu so với gia cảnh người yêu về vấn đề “môn đăng-hộ đối” phải
chăng vì thế mà ông mới “nói” (qua “lời kể” của T.T.Kh) & câu thơ cũng rất
trùng khớp với hình ảnh của một người “đứng tuổi” thường vuốt tóc nàng như ông
đã miêu tả trong bài tùy bút Những cánh hoa tim vì trên thực tế ông
hơn bà 7 tuổi mà với ngày xưa đã là một khoảng cách khá lớn:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở
dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo
rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
Anh
sợ tình ta cũng vỡ thôi”
- Bà Vân Chung khi đó còn
trong lứa tuổi đầy mộng mơ nhìn đời toàn thấy mầu hồng thì làm sao mà ngờ được
sẽ có ngày cuộc tình đẹp như mơ ấy lại trở nên vô vọng,chia ly? Và ta thấy
T.T.Kh cũng đã viết:
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh
hoa tan tác của sinh ly
Cho
nên cười đáp:“Màu hoa trắng
Là
chút lòng trong chẳng biến suy”
- Mới một mùa thu trước Vân
Chung còn sống trong mơ mộng cùng mối tình đầy lãng mạn đầu đời, thế rồi vì Người
đó mách anh Chấn nhà chị, sau đó gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho
anh Chấn…điều mà trước đây không bao giờ ngờ tới thì nay đã thành sự thật,cho
nên bà đành phải gạt lệ để ngậm ngùi tiễn biệt người yêu ngược về một phương trời
khác, và đây T.T.Kh viết:
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng
những ngày hoa
Thổi
tan tâm điệu du dương trước
Và
tiễn người đi bến cát xa.
- Sau khi đành phải nuốt lệ
chia ly với mối tình đầu,ông Thanh Châu đã bỏ ra Hà Nội lập nghiệp,bà Vân Chung
ở lại quê nhà nếu vẫn còn thầm tưởng nhớ tới người xưa bằng những hình tượng vô
cùng lãng mạn của người con gái đang yêu thì cũng là rất đời thường & quả
là phù hợp với mấy câu thơ:
Ở lại vườn Thanh có một mình
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi
yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu
trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu
bóng chim xa nắng lướt mành.
Ngày xưa, không biết do đâu
mà các Cụ nhà ta hay dùng lối nói tắt địa danh, ví dụ Hải Phòng thì hay gọi là
Phòng (đi tầu Phòng, đợi tầu Phòng…) vì thế chi tiết Vườn Thanh có lẽ
cũng chỉ là một cách nói hoa mỹ để chỉ địa danh Thanh Hóa, cũng như dùng từ Xứ
Thanh mà thôi.
- Đọc lại truyện ngắn Hoa
tigôn ta thấy có chi tiết Chàng họa sĩ rủ người yêu cùng mình trốn sang Nhật
bản để làm lại cuộc đời, Nàng nhận lời nhưng phút chót lại không thể vượt qua được
vòng lễ giáo, để rồi những ngày sau phải sống trong nuối tiếc cho đến lúc nhắm mắt, xuôi
tay… Phải chăng T.T.Kh cũng muốn nhắc đến điều tương tự khi cuộc tình
duyên của mình không thành?:
Tôi
nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến
nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
- Thực tế thì bà Vân Chung phải
lấy chồng là do gia đình ép gả & đây T.T.Kh cũng viết:
- Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
- Ông Thanh Châu cũng đã đành
phải gạt lệ ra đi, vì có ở lại mà nhìn cảnh người yêu bước lên xe hoa về nhà
khác thì cũng chỉ thêm đau lòng,chẳng thể nào khác được.Vì thế ngày lấy chồng của
Bà mới thật là vô cùng buồn tủi & vô vọng, đó cũng chính là tâm trạng thật
trống trải của T.T.Kh:
-Đâu
biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người
xa xăm quá,Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường
-Vì nhiều lý do,nhất là ảnh
hưởng của vòng lễ giáo họ không còn liên lạc được với nhau như thuở nào &
thực tế sau khi mối lương duyên không thành,ông Thanh Châu đã ra ở ngoài Hà Nội
lập nghiệp, rồi từ đó họ không còn gặp nhau được nữa, bà Vân Chung một mình ở lại
Vườn Thanh cho đến khi lấy chồng trong đau đớn,trong nỗi niềm đắng cay của cả
hai người…dường như T.T.Kh cũng muốn “xác nhận” điều đó,giống như một tiếng kêu
than xé lòng & cũng đầy ai oán:
- Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời
ơi! Người ấy có buồn không
Có
thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa
trái tim phai tựa máu hồng?
- Hoàn cảnh & nguyên nhân
bà & chồng lấy nhau,kể ra thì cũng khá là “tiểu thuyết”:-“…Chị thuật lại là
do anh Chấn về Thanh thăm Mẹ,đi qua hiệu chụp hình nhìn thấy ảnh chị,anh Chấn
tìm bạn dẫn đến tiệm chụp hình hỏi:
- Có biết người này là ai không? Người đó mách anh Chấn nhà chị,sau đó gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…” (Trích thư của bà Thư Linh-gửi bà Vân Chung,viết ngày 20/9/1994 tại tp.HCM) & như chúng ta cũng đã biết ông chồng của bà Vân Chung đỗ cử nhân luật,gia đình khá giả hơn hẳn gia cảnh của ông Thanh Châu thì việc gả cho bà cũng là điều dễ hiểu bất chấp là bà có yêu hay không…cho nên T.T.Kh mới than rằng:
- Có biết người này là ai không? Người đó mách anh Chấn nhà chị,sau đó gia đình đi hỏi. Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…” (Trích thư của bà Thư Linh-gửi bà Vân Chung,viết ngày 20/9/1994 tại tp.HCM) & như chúng ta cũng đã biết ông chồng của bà Vân Chung đỗ cử nhân luật,gia đình khá giả hơn hẳn gia cảnh của ông Thanh Châu thì việc gả cho bà cũng là điều dễ hiểu bất chấp là bà có yêu hay không…cho nên T.T.Kh mới than rằng:
-Và
một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều
Ta thấy ngay rằng chẳng có
ai đi lấy chồng vì yêu & được yêu mà lại dùng từ “phải” cả,rõ ràng điều đó
nói lên rằng:
-Đây là mối lương duyên hoàn toàn do ép buộc & đây chỉ là một tình yêu đơn phương theo kiểu tình yêu “sét đánh” lại được tư tưởng “môn đăng-hộ đối” ủng hộ!… T.T.Kh đã dùng những hình ảnh rất “đắt” để chỉ vài câu thơ thôi là đã lột tả được hình ảnh của một đám cưới buồn,những cô áo đỏ là chỉ mấy cô gái bưng tráp dẫn Dâu & “tháp tùng”cô Dâu về nhà chồng, màu đỏ là “màu vui” màu của sự ấm cúng ấy thế mà ở đây nó lại tương phản với Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều đến thế?...
-Đây là mối lương duyên hoàn toàn do ép buộc & đây chỉ là một tình yêu đơn phương theo kiểu tình yêu “sét đánh” lại được tư tưởng “môn đăng-hộ đối” ủng hộ!… T.T.Kh đã dùng những hình ảnh rất “đắt” để chỉ vài câu thơ thôi là đã lột tả được hình ảnh của một đám cưới buồn,những cô áo đỏ là chỉ mấy cô gái bưng tráp dẫn Dâu & “tháp tùng”cô Dâu về nhà chồng, màu đỏ là “màu vui” màu của sự ấm cúng ấy thế mà ở đây nó lại tương phản với Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều đến thế?...
-Do không có tình yêu đối với
chồng,lại luôn tưởng nhớ,sống trong hoài niệm về mối tình đầu vừa mới phải đắng
lòng gạt lệ chia ly thì dù bà Vân Chung có khéo cư xử đến mấy,giỏi“đóng kịch”đến
mấy thì với thời gian cũng sẽ “giúp”chồng bà cảm nhận được,hiểu ra được vấn đề
& khi tình yêu “sét đánh”ấy qua đi,tình yêu một phía cũng khó làm chồng bà
“duy trì” được tình cảm như thuở ban đầu, ở đời ai cũng vậy thôi, vì là lẽ thường
tình trong tâm lý con người, ta hãy đọc những vần thơ đầy nghẹn ngào của T.T.Kh
trước một thực tế cũng thật là chớ trêu như thế:
Tôi
vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà
từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
- Trong bài tùy bút, ông Thanh
Châu viết: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi
trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm,thì rồi
người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…khi ta đọc lại những bài thơ của
T.T.Kh & so với chuyện tình đời thực của hai người thì thấy rằng,vì bà Vân
Chung chính là người ở “trong cuộc” bởi thế mới có được những câu thơ như ông vừa
cảm nhận trên kia,còn Thanh Châu, ông chỉ có thể tự tưởng tượng ra cảnh người
yêu phải sống bên người chồng không yêu thì làm sao ông “cảm thấu” cho hết được
tâm trạng của bà? Đến đây thì câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại viết những
dòng tự sự như trên đã trở nên rất dễ hiểu…
- Ngày xưa thị xã Thanh Hóa vốn
bé “tí tẹo” nên việc yêu nhau giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng có
không ít người biết, phải chăng từ một lý do nào đó chồng bà biết đươc “chuyện
ngày xưa”của hai người?Hơn nữa,chớ trêu là ở chỗ người mà mình yêu tha thiết,một
tình yêu tinh khôi của tuổi đẹp nhất đầu đời thì lại phải đành nuốt lệ chia
xa,kẻ không yêu bỗng chốc trở thành Phu-Phụ & khi người đàn bà không yêu
thì họ rất khó thể hiện sự mặn nồng mà người đàn ông nào cũng mong muốn,cho nên
đối với chồng thì tình cảm lẽ ra phải có ở những đôi lứa lấy nhau vì tình chỉ
có thể trở thành một “nghĩa vụ”…cho nên cái cảm giác vô cùng trống vắng khi đối
diện với chính mình ở một nơi xa lạ là một cảm xúc rất đời thường,có lẽ bà Vân
Chung cũng không phải là ngoại lệ.Ta hãy cùng “chia sẻ” nỗi niềm đó của
T.T.Kh:
Từ
đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng
tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ
Hay:
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong
bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang
cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm
tưởng ngày mai giật mình.
- Thông thường có một tâm lý
khá phổ biến ,đó là khi buộc phải chia tay với người mình yêu vì bị gia đình
ngăn cản với nhiều lý do khác nhau, nhất là quan niệm ngày xưa “Cha, Mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” thì dù ta không hề có lỗi,nhưng cái cảm giác “tội lỗi” đó không
vì thế mà mất đi cộng thêm với tâm lý thương người yêu, thương cả cho số phận
mình,muốn “người ấy”cũng vẫn tưởng nhớ đến mình, đồng thời lại sợ ảnh hưởng đến
cả vấn đề “danh tiết” nên nó đã tạo ra một tâm lý vô cùng bối rối,day dứt như ở
giữa ngã ba đường, vừa muốn gặp lại vừa sợ gặp “người xưa”vì không biết phải
thanh minh, phải an ủi thế nào khi chính mình cũng là nạn nhân,một nạn nhân yếu
đuối của thời cuộc…bà Vân Chung có lẽ cũng không nằm ngoài tâm lý đó & ta
hãy đọc lời “tự sự” của T.T.Kh:
Từ
đấy không mong không dám hẹn
Một
lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng
tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người
ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
hay: Tôi run sợ
viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song
đời nào dám gặp ai về.
- Sống trong xã hội phong kiến
và trong một gia đình gia giáo với tư tưởng “Cha-Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” còn
khá nặng nề,việc bà Vân Chung không thể cưỡng lại ý định sắp đặt cuộc tình
duyên đầy ngang trái là một sự thật không thể vượt qua,cho nên bà đành phải “nhắm
mắt buông xuôi” cho số phận bên cạnh người chồng không yêu và thời gian trôi đi
với những công việc thường ngày cũng đã phần nào giúp bà nguôi ngoai niềm
thương nỗi nhớ,vậy mà khi đọc được truyên ngắn Hoa Tigôn của tác giả
lại là người yêu cũ (dù cho Thanh Châu chỉ là bút danh) thì bảo sao bà không
rung động bởi những hoài niệm cũ trở về trong trái tim chất chứa những nỗi niềm
u uất bấy lâu? Chúng ta cũng sẽ phải ngỡ ngàng khi đọc những vần thơ sau đây của
T.T.Kh dường như cũng có cùng tâm trạng:
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho
tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ
xuống thành thơ khóc chút duyên.
- Thời điểm cuối những
năm 30 thế kỷ trước ở thị xã Thanh Hóa mới chỉ có cầu cho đường sắt Bắc-Nam do
người Pháp xây dựng, còn muốn đi theo đường bộ,đi xe đò mà hồi đó nhà tư sản Bạch
Thái Bưởi là người Việt đầu tiên có hãng xe khách & tầu thủy chạy trên một
số tuyến đường cạnh tranh với người Pháp cũng như với Hoa kiều… thì những người
sống ở thị xã phải vượt sông bằng đò ngang với hình ảnh tiễn người đi bến
cát xa,cũng lại rất phù hợp với mấy câu thơ sau:
Tôi
sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió
về lạnh lẽo chân mây vắng
Qua những phân tích & dẫn
chứng ở trên, quả thật chúng ta thấy rằng bà Vân Chung có một “Nhân thân” đời thật
phù hợp với “hoàn cảnh” của T.T.Kh đến kỳ lạ, chúng ta hầu như không thấy có sự
khác biệt nào giữa “Câu chuyện trong thơ” so với chuyện tình ngoài đời của họ.Có
người nghi ngờ rằng,vào năm 1937-1938 bà Vân Chung mới có 18-19 tuổi thì làm
sao sáng tác được những bài thơ hay đến thế?Thắc mắc này không phải là không có
lý nhưng nó lại quá phiến diện,bởi lẽ phải lý giải thế nào đây khi hầu hết những
nhà văn, nhà thơ thời tiền chiến (tức trước chiến tranh thế giới thứ hai-trước
năm 1939) cùng thời với Bà đều “thành danh” ở lứa tuổi này, ta có thể kể tên các
tác giả đương thời có sự nghiệp văn-thơ từ rất sớm như:-Xuân Diệu (sn 1916)-Nữ
sĩ Mộng Tuyết(sn 1918)-Thâm Tâm(sn 1917)-Nguyễn Bính(sn 1918)-Nữ sĩ Anh Thơ(sn
1921-năm 1939 đã được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn) hay
như tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách viết năm 1922 khi
ông mới có ngoài 20 tuổi...so với ngày nay thì với lứa tuổi mười chín đôi mươi
mà đã có những áng thơ-văn như thế thì quả cũng là sự lạ, phải chăng nhờ tập tục “Gái
thập tam-Nam thập lục tác hợp Phu-Thê” nghĩa là Gái 13 tuổi-Trai 16 tuổi
là dựng vợ-gả chồng mà các bậc tiền bối chững trạc & phát tiết tài năng
cũng như sự mơ mộng từ khá sớm như vậy? Hơn nữa,với tình yêu thơ mộng đầu đời lại
sớm phải chia ly đã tạo nên một hoàn cảnh hết sức trái ngang & cay đắng
“đóng dấu” vào tâm hồn vốn lãng mạn của cô gái Vân Chung thì từ cảm xúc mãnh liệt
ấy có trở thành những vần thơ thấm đẫm nước mắt cũng có gì là khó tin đâu?
Trước & trong “thời kỳ
T.T.Kh” ông Thanh Châu có viết hai tác phẩm.Một là truyện ngắn Hoa tigôn mà
từ đó mới có thơ “họa” lại của T.T.Kh,hai là bài tùy bút Những cánh hoa
tim được viết sau khi T.T.Kh đã xuất hiện đầy đủ với bốn bài thơ như muốn
“kết” lại câu chuyện…xa Vân Chung ra Hà Nội,ông Thanh Châu đã hết sức sầu
thương về mối tình ấy,một sự mất mát & hụt hẫng không gì bù đắp được như
ông đã “thú nhận” trong Những cánh hoa tim: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu
hết được những cái gì là tê tái trong tình ái.Tôi có tất cả tâm sự của một người
đã từng chua xót vì yêu…”.Đó chính là sự chua xót về mối tình duyên không thành
giữa ông & bà Vân Chung mà nay ông đã xác nhận(với trần Đình Thu).Vào thời
gian này,tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh (
Nguyễn Tường Tam) cũng được xuất bản,có quan điểm đả phá về tập tục phong kiến
vẫn ngự trị trong xã hội đương thời,dù với mục đích ấy thế nhưng Nhất Linh vẫn
không dám “sắp xếp”cho hai nhân vật Dũng & Loan trốn đi nơi khác để cùng
nhau xây tổ ấm mà phải để hai người chia tay nhau,Loan về nhà chồng còn Dũng bước
đi phiêu bạt giang hồ.Ấy là do hoàn cảnh xã hội khi đó chưa cho phép có sự cải
cách quá mạnh mẽ dù là trong tiểu thuyết,nhà văn chỉ dám “tạo nên” cái chết tai
nạn của người chồng như một sự giải thoát cho niềm bất hạnh của nhân vật Loan
khi phải sống bên cạnh người chồng giầu sang mà không có tình yêu đôi lứa.Điều
đó cũng cho thấy rằng những cô gái dù có “tân học” đến mấy cũng không thể
nào thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến “môn đăng-hộ đối”
khi sống trong thời đại ấy.
Hoàn cảnh của ông Thanh Châu
& bà Vân Chung cũng tương tự như hoàn cảnh của Dũng & Loan chứ không thể
khác được.Tuy là trong truyện ngắn Hoa Tigôn ông Thanh Châu đã “dũng
cảm” khi dám “cho” nhân vật họa sĩ Lê rủ người yêu Mai Hạnh trốn sang Nhật cùng
mình xây dựng cuộc đời mới,thế nhưng điều đó cũng chỉ là một giấc mơ xa vời khi
người yêu của chàng họa sĩ cuối cùng cũng không thể vượt qua được vòng lễ
giáo.Cũng trong tùy bút Những cánh hoa tim ông cảm thán: “ Một
mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay & vò nát chúng đitrước
một giàn hoa…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay,tôi nghĩ đến một
quả tim rớm máu…”Thanh Châu vò nát những cánh hoa tigôn nhỏ bé ấy vì lẽ
gì?Phải chăng nó chính là “chứng nhân” của tình yêu một thuở giữa ông & bà
Vân Chung,những hoài niệm về mỗi bước chân nhè nhẹ dưới giàn hoa Tigôn trước
sân nhà nàng trong những buổi chiều hoàng hôn sắp tắt?Cho nên các nhân vật
trong truyện ngắn chỉ là cái hình hài bên ngoài để chứa đựng cốt chuyện còn câu
chuyện tình buồn của hai người mới chính là “linh hồn” của các nhân vật vậy.Vì
thế,nỗi niềm của nhân vật,những hoài niệm đầy u uất,đầy nuối tiếc về những “cánh
hoa tim vỡ rơi lả tả mỗi chiều thu” cũng chính là nỗi niềm của nhà văn
Thanh Châu & bà Vân Chung người yêu ông,những lý giải đó đã làm cho sự xuất
hiện những bài thơ như cào cấu tâm can,như những tiếng kêu than đầy ai oán của
T.T.Kh khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra mắt bạn đọc trở thành rất dễ hiểu.Vào
thời kỳ những năm 30 thế kỷ trước,những cô gái có tâm hồn lãng mạn như bà Vân
Chung đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy & tờ báo Phụ Nữ cũng
như những tiểu thuyết tình cảm khác. Vì thế khi đọc được truyện ngắn Hoa
Tigôn thì bà Vân Chung cũng đau lòng không kém gì nhân vật trong truyện
& chắc chắn bà cũng nhận ra được “người xưa” nhưng không phải chỉ bằng cốt
chuyện mà là do những ngôn từ quen thuộc chứa đựng bên trong (như Hoa tigôn-quả
tim vỡ- trái tim rớm máu…) hoặc cũng có thể còn ở chi tiết chàng họa sĩ rủ người
yêu trốn đi cùng mình…Vì thế,ở trong hoàn cảnh như vậy, nhất là với một người
có tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung thì việc làm thơ “đối đáp” lại cũng là điều
hoàn toàn có thể giải thích được, nhưng là người thận trọng sau khi biết chắc chắn
là “người xưa” rồi thì bà mới gửi tiếp Bài thơ thứ nhất như một dịp để
nói hết lòng mình do bài thơ đầu chưa tiện nói hết, còn lý do tại sao lại có Bài
thơ cuối cùng thì chúng ta cũng đã biết.
2- Thơ của T.T.Kh ngày nay:
Khi đọc các tác phẩm của nhà
văn Thanh Châu cũng như những bài thơ của T.T.Kh ta thấy ngoài sự xuất hiện
liên tục của loài hoa “chủ đạo” là hoa Tigôn thông qua hình tượng khá đặc biệt
là Trái tim,quả tim…thì chúng ta còn thấy cả hai cũng thường nhắc đến Mùa
Thu,chúng ta cũng đã biết mùa thu là lúc bắt đầu của mối tình giữa ông Thanh
Châu & bà Vân Chung-đúng như T.T.Kh đã viết:- Một mùa thu trước mỗi
hoàng hôn để rồi Tôi chờ người đến với yêu đương cho đến lúc kết
thúc của cuộc tình không biết có phải cũng là một mùa thu hay không?:
Tôi
nhớ lời người đã bảo tôi
Một
mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Quả thật hình ảnh của mùa
Thu vốn đầy lãng mạn nhưng cũng thật đượm buồn, dường như là nó rất hợp với tình
yêu dang dở & vì thế mà điều đó có “đóng dấu” vào trái tim của những người
trong cuộc thì cũng là lẽ tự nhiên như cuộc đời vậy …Trong những bài thơ của bà
Vân Chung thì có đến hơn một nửa là viết về mùa Thu hoặc liên quan đến mùa
Thu,phải chăng như những điều vừa phân tích ở trên, mùa Thu đã mãi mãi ám ảnh
Bà? Chúng ta cùng đọc mấy bài thơ về mùa Thu của Bà mà Trần đình Thu sưu tầm được
khi gặp bà Thư Linh:
BÀI THƠ CUỐI THU-1960
Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
THU CAO NGUYÊN-1960
Lá vàng gió cuốn bay vèo
Giật mình chợt nhớ: Ơ chiều vào thu
Xa xa sương phủ mịt mù
Ạt ào thác đổ âm u núi rừng
VÀO
THU-12-8-1993
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm
trong lũng vắng tiêu điều chiêm bao
Chợt cơn gió nổi xạc xào
Con chim lẻ bạn cánh chao hãi hùng
Vút bay trong cõi mịt mùng
Bà Trần Thị Vân Chung-T.T.Kh-Ảnh chụp năm
1960 tại Đà Lạt
Cảm nhận đầu tiên khi ta vừa
đọc xong mấy bài thơ trên là nó quá bình thường, không xứng tầm với thơ của
T.T.Kh, thế nhưng điều đó mới là điều đáng mừng vì như vậy mới đúng là…
T.T.Kh,đơn giản là bởi chẳng có nhà thơ nào,ngay cả những nhà thơ được mệnh
danh là “Chúa tể của thơ tình” thì cũng không thể làm thơ hay cả đời được, dù
cho cảm xúc có “dạt dào” đến mấy, thế nhưng cảm xúc của con người lại vốn dĩ chẳng
cái nào giống được cái nào,ví dụ như ta đau đớn vì bị chính người yêu ta phụ bạc
tất phải khác cảm xúc của kẻ chỉ được nghe người khác kể lại, đấy là trường hợp
xấu nhất trong rất nhiều ví dụ về cảm xúc cần phải có để sáng tác ra thơ
tình…Như nhà thơ Vũ Cao cả đời chỉ làm được mỗi một bài thơ Núi Đôi là
còn mãi với thời gian,sau này ông vẫn làm thơ nhưng có lẽ bản thân tự thấy
không hài lòng nên ông không cho xuất bản? Ngay như nhà thơ Xuân Diệu ông chúa
thơ tình thì những bài thơ thật sự gọi là hay đến mức “để đời”cũng chỉ đếm chưa
hết mười đầu ngón tay,hơn nữa ngoài cảm xúc ra cũng còn cần phải có một hoàn
cảnh đặc biệt nào đó & cả hai cái “cộng hưởng” lại thì mới tạo ra được
những “tuyệt tác” nổi trội trong vô số những bài thơ vốn của cùng một tác giả.Điều
này đã giải thích tại sao bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lại
tuyệt diệu đến thế nếu như không có tấm ảnh chụp bến đò Vỹ Dạ mà người đẹp
Hoàng Hoa gửi vào trong lúc Chàng đang vô cùng tuyệt vọng nằm trên giường bệnh…Trường
hợp bà Vân Chung- T.T.Kh cũng thế thôi,mấy chục năm trôi qua nỗi buồn,nỗi nhớ rồi
cũng dần nguôi ngoai lại sống một cuộc sống bình thường cũng như sự bận bịu vì
còn phải lo nuôi dạy con cái…thì còn đâu nữa cảm xúc cũng như hoàn cảnh đặc
biệt để Bà có thể sáng tác nên những vần thơ Trác tuyệt như ngày nào? Cho nên
ngày nay,có ai đó sáng tác được những bài thơ “giống như” giọng thơ của T.T.Kh
& nhận mình là T.T.Kh thì lại chắc chắn không phải là… T.T.Kh.vậy!.Và nếu vẫn
còn nghi ngờ thì bắt buộc chúng ta lại phải trả lời cho bằng được câu hỏi:- Liệu
ở trong cuộc đời này có ai có “thân phận” phù hợp với T.T.Kh hơn bà Vân Chung
không?...
1-Sự kiện bà Vân Chung bị tiết
lộ “Thân phận”:
Đầu tháng 9 năm 1994 trên
báo Thanh Niên xuất hiện loạt bài đăng nhiều kỳ nhan đề T.T.Kh
Nàng là ai? Và bài viết tóm tắt câu chuyện trên của tác giả Thế
Nhật in trong tập san Nghệ thuật thứ bảy của nhà xuất bản Văn
nghệ tp.HCM, trước khi in thành cuốn sách cùng tên (Sau này, khi NXB Văn hóa
thông tin-2001 tái bản chỉ đổi tên tác giả thành Thế Phong).Qua sự tiết lộ vô
tình của bà Thư Linh một người bạn gái “vong niên” của bà Vân
Chung,làm xôn xao dư luận bạn đọc yêu thơ trong & ngoài nước,dẫn đến phản ứng
khá gay gắt của người trong cuộc là bà Vân Chung qua bức thư ngỏ gửi
bà Thư Linh đồng thời cũng gửi đăng trên Nguyệt san văn hóa số 9/94 &
báo Thanh Niên vào tháng mười một cùng năm.Mặc dù trước đó,ngày 20/9/1994
bà Thư Linh cũng đã viết thư gửi sang Pháp cho bà Vân Chung nhằm
thanh minh cho một sự việc đã rồi: “Chị Vân Nương thân mến,em in xong tác
phẩm Những dòng thơ hoa chưa kịp gửi tặng chị thì được anh Thế
Phong & Trần Nhật Thu (Thế Nhật là tên ghép từ chữ lót của hai tác giả
ở lần xuất bản đầu) đem tới tặng tập T.T.Kh Nàng là ai?.Em giở ra đọc mới
hay: Chỉ vì coi bài thơ Hoa Tim trong tập Những dòng thơ
hoa mà ra chuyện!Xin Chị đừng buồn nhé.Em xin Chị bình tĩnh đọc lại những diễn
biến vì sao em nói ra T.T.Kh là ai?Sau khi ở nước ngoài về,em có ý định ở lại
nước nhà,bạn bè hay lui tới tụ họp nói chuyện văn chương.Hôm đó có anh,chị Như
Hiên-Thanh Vân,Thế Phong,Quốc Văn & một vị nào đó nữa.Em nghe anh Thanh Vân
nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy đã tới thăm tại nhà,khi nghe ai đó hỏi: -Nay T.T.Kh
còn trẻ không?anh Thanh Vân nói:-Già & không còn đẹp nữa,thơ thì xuống lắm,xem
rồi cũng không hay.Em thì chị lạ gì,rất thẳng thắn,hơn nữa T.T.Kh em coi là thần
tượng nên em nhíu mày nói:- Có thể T.T.Kh anh quen là giả đó vì tôi cũng được
biết T.T.Kh,thơ nay vẫn tuyệt vời & còn đẹp lắm!anh Thanh Vân cứ nhất định
cãi người Anh quen là T.T.Kh thật & hỏi em:-Người chị biết là ai?.Em bực bội
nói là:-Chị Vân Nương chứ ai!thế rồi câu chuyện đứt quãng vì có người mới tới,Thanh
Vân & Như Hiên ra về.Đêm đó em ngồi viết về chuyện tình của
T.T.Kh với tựa đề Hoa Tim & chú thích: Gửi người chị thơ phương
xa Tôi vô cùng mến yêu,ý em gửi tặng chính Chị vì em vẫn chưa thể quên năm
anh Chấn chưa đi cải tạo về,một chiều mùa thu chị lên chơi, em cùng chị luận
bàn về sắc thái của các Nữ sĩ,khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa
tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa.Chị nhớ có lần em đã hỏi một
chị bạn cũng ở Thanh Hóa có biết T.T.Kh là ai không?Chị ấy bảo không biết nhưng
nghe người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm & giỏi thơ,nhưng đã lấy một
ông quan huyện.Lúc đó em mới hỏi chị:-Tên Vân Nương là bút hiệu hay chính tên
chị?Chị bảo:-Tên mình là Trần Thị Vân Chung.Chị có nhớ em nói ngay:-Thì
ra T.T.Kh là chị rồi! Chị cười:-Ai nói với Thư Linh thế?Em trả lời có người nói
lâu rồi (ý bà Thư Linh muốn nói đến lời chị bạn ở trên?)Nhưng sao nghe nhiều
bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy là ai?Chị lại cười:-Họ nói bậy
thôi!...Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị mãi
không thấy,sau tìm được nhà chị Minh,chị Minh sang kêu chị (lúc đó anh Chấn còn
bị giữ ở ngoài Bắc) Chị sang tới nơi,khi gặp nhau,không hiểu sao chị khóc,Anh bạn
xưa có nói rằng tìm mãi không được tin tức chị,nhiều khi lên cả xe bus tìm chị
nữa,em bảo rảnh sẽ viết về chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên
em hứa sẽ không viết.Có những mẩu chuyện rời rạc như anh Thế Phong hỏi:-Chắc
khi xưa chị Vân Nương đẹp lắm?Em trả lời: Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy
hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?Em đâu dè Thế Phong & Trần Nhật Thu viết
thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa
tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng
Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám
tầm bậy là đã…Em & Chị đã ra ngoại quốc thì bạn bè thân ở xa gặp ôm hôn để
tỏ lòng mến thương cũng chuyện thường thôi,nhưng trong bài thơ em đâu có
nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi!Mấy đêm nay em thức
trắng bực mình giận anh Thế Phong đã không bỏ những dòng vớ vẩn đó,em
tin Chị cũng sẽ bực mình & giận em….Hôm qua em gặp chị Như Hiên,chị tỏ ra bất
bình về chuyện này nói sẽ gửi đăng bài một tờ báo lá cải nào đó,phóng tác
từ tập T.T.Kh Nàng là ai?của Thế Nhật để gửi sang bắt chị
phải cải chính.Như Hiên còn nói chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về
chị thôi.Em hiểu Như Hiên,tức vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự
với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết!Đời có những người quen
nhau mấy chục năm mà vẫn không thể coi nhau là tri kỷ được.Em không biết tình
chị đối với em từ nay như thế nào? có giảm đi không? Nhưng riêng em lúc nào cũng
kính yêu chị & coi chị là thần tượng của lòng em,dù vì chuyện này mà chị có
giận em thì em cũng xin tạ lỗi cùng chị.Em tin rằng các cháu đã sống với văn
minh Âu Tây sẽ hiểu & luôn kính trọng yêu quí mẹ.Người con gái lớn lên gặp
người ý hợp tâm đầu,yêu nhau nhưng hoàn cảnh phải xa nhau,mối tình tuổi thơ thật
trong trắng.Khi lấy chồng chị vẫn yêu chồng, yêu con, không hề có điều khuất tất
thì mối tình đó rất cao thượng có chi đâu mà phải cải chính,làm như chị không
hay biết,đó là chị đã thấu chữ vô thường vậy & như thế là chị đã không giận
em…
Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này,riêng Như Hiên tỏ vẻ khó chịu nói: -“Nếu không phải là em thì chị ấy đã viết báo cải chính rồi” Em thì chị lạ gì, em bảo:-Cứ viết để em cũng sẽ viết theo những gì em đã biết.Nếu vụ này rùm beng lên thì âu cũng là do bài thơ Hoa tim mà ra,đúng là nghiệp thơ của em chị ạ.Một lần nữa em mong chị đọc kỹ cả hai tập thơ & hiểu cho em rằng vẫn luôn tôn trọng chị chứ không có ý gì khác…”
Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này,riêng Như Hiên tỏ vẻ khó chịu nói: -“Nếu không phải là em thì chị ấy đã viết báo cải chính rồi” Em thì chị lạ gì, em bảo:-Cứ viết để em cũng sẽ viết theo những gì em đã biết.Nếu vụ này rùm beng lên thì âu cũng là do bài thơ Hoa tim mà ra,đúng là nghiệp thơ của em chị ạ.Một lần nữa em mong chị đọc kỹ cả hai tập thơ & hiểu cho em rằng vẫn luôn tôn trọng chị chứ không có ý gì khác…”
Đến đây chúng ta hãy tạm thời
“quên” những phân tích,chứng minh ở các phần trước để cùng lý giải cho những
câu hỏi mới phát sinh từ lá thư này.Trước hết,lá thư được viết vào năm 1994 bà
Vân Chung đã 75 tuổi,thế mà bà Thư Linh lại viết thơ nay vẫn tuyệt vời
& còn đẹp lắm! Mới đọc qua thì thấy có vẻ hơi vô lý,nhưng nếu ta để ý
đến tâm lý phụ nữ một chút thì sẽ thấy rằng ai mà chẳng thích khen đẹp,dù có là
một bà già?Vì thế đây chỉ là một lời khen có tính chất xã giao của bà Thư Linh
cũng là điều dễ hiểu.Câu hỏi thứ hai là:-Dựa vào đâu mà bà Thư Linh biết được
T.T.Kh quê ở Thanh Hóa mà đi hỏi chị bạn?Lý giải cho điều này chúng ta phải lưu
ý đến câu thơ cũng đã tốn khá nhiều giấy mực: Ở lại vườn Thanh có một mình…xoay
quanh địa danh này như chúng ta cũng đã biết có nhiều cách giải thích khác
nhau,nào là Thanh Giám ngoài Hà Nội,nào là đất Thanh Miện-Hải Dương rồi lại Xứ
Thanh-Thanh Hóa…của nhiều thế hệ nhà thơ cũng như bạn đọc yêu thơ & bà Thư
Linh còn là một người làm thơ tất nhiên cũng không thể không biết về câu chuyện
đó,cho nên khi đọc được tất cả những “xuất xứ” của câu chuyện về thơ T.T.Kh bà
cũng tò mò không kém mọi người,nhưng khác với những người chỉ yêu thơ mà không
có khả năng làm thơ bà hiểu thế nào là cảm xúc cũng như hoàn cảnh cần phải có để
một nhà thơ có thể sáng tác được những bài thơ buồn đến nao lòng như thế,vì lẽ
đó khi đọc Nguyễn Vỹ kể về Thâm Tâm có thể cũng làm bà ngờ ngợ nhưng không lý
giải được,tuy không sinh hoạt cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao nhưng bà cũng thường
xuyên tiếp xúc với họ,cùng nói chuyện,bàn luận về văn-thơ.Phải chăng những lần
như vậy với khả năng tâm lý của người phụ nữ họ cũng không mấy tin vào những gì
mà ông Nguyễn Vỹ đã viết?Hơn nữa khác với ngoài Bắc những năm chiến tranh,ở
trong Nam vẫn đều đặn xuất bản những sáng tác chủ yếu về tình yêu đôi lứa của
các nhà văn,nhà thơ nhất là của các văn thi sĩ miền Bắc di cư,việc họ dùng từ Xứ
Thanh để chỉ đất Thanh Hóa là không hiếm gặp chứ chưa có ai gọi đất Thanh
Miện,hay Thanh Giám là Xứ Thanh bao giờ.Như vậy vì đã không mấy tin câu chuyện
của Nguyễn Vỹ (dù không có đủ tư liệu như ngày nay để phản bác) & cái từ Vườn
Thanh lại có vẻ “gần gũi” hơn với từ Xứ Thanh thì cũng giúp cho
bà Thư Linh tạm thời “loại” được hai địa danh đầu,vì thế chỉ còn lại Thanh Hóa
là khả dĩ nhất với trường hợp T.T.Kh,cho nên điều đó đã tạo “động lực” để bà đặt
câu hỏi “nghi vấn” với chị bạn quê Thanh Hóa chứ không phải câu hỏi khẳng định
là hoàn toàn hợp lý.Tiếp theo những phân tích ở trên, lại là chị,em thân
thiết lâu ngày qua những lần tiếp xúc,tâm sự dù bà Vân Chung có khéo che dấu đến
mấy thì cũng phải có lúc vô tình bộc lộ về cuộc sống vợ-chồng không được hạnh
phúc mà với một người cùng giới lại vốn có sự nhậy cảm của một nhà thơ thì
không khó để bà Thư Linh “nắm bắt” được điều đó,cho nên khi nghe bà Vân Chung
nói rõ tên mình,cộng với lời kể của chị bạn thì bà Thư Linh gần như khẳng định
ngay:-Thì ra T.T.Kh là chị rồi! là điều có thể chấp nhận được.Một câu hỏi
nữa lại được đặt ra:-Sao đã khẳng định… là chị rồi! mà bà Thư Linh lại
còn hỏi: Nhưng sao nghe nhiều bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy
là ai?Tâm lý chung, trong chúng ta khi một sự việc đang trong “tầm tay” thì có
ai mà lại không muốn được nghe chính người trong cuộc khẳng định lại với mình?
Vả lại đây là câu hỏi nghi vấn chứ đâu phải là câu hỏi khẳng định.? Vì thế điều
này cũng là hoàn toàn hợp lý.Nhưng tại sao chị,em đã chơi với nhau khá lâu mà
bà Thư Linh không biết tên thật phải để đến lúc đó mới hỏi lại?Cũng rất đơn giản
là,dù có cùng là dân miền Bắc nhưng sống lâu ngày ở miền Nam thì ắt bà Thư Linh
cũng phải “nhập gia tùy tục” vì ở trong này họ không gọi tên “cúng cơm” mà là gọi
theo thứ tự (sinh trước,sinh sau trong gia đình) cho nên hiếm có ai dám đường đột
đi hỏi tên người ta bao giờ nhất lại là người thuộc lớp “cổ xưa” như bà Vân
Chung, hơn nữa ở miền Bắc hay miền Nam thì các cụ gia đình khá giả cũng thường
hay gọi theo tên Hiệu…cho nên việc bà Thư Linh nhân dịp đó mới hỏi tên thật của
bà Vân Chung cũng không có gì là lạ.Câu hỏi cuối cùng,một câu hỏi vô cùng quan
trọng & ít nhiều cũng góp phần khẳng định về thân thế của bà Vân Chung-
T.T.Kh là: Người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm & giỏi thơ,nhưng
đã lấy một ông quan huyện liệu có đáng tin?.Như chúng ta cũng đã biết,thị
xã Thanh Hóa ngày xưa vốn nhỏ bé nên ắt hẳn có nhiều người biết về mối tình giữa
bà Vân chung & ông Thanh Châu cũng như việc bà Vân Chung bị ép gả chồng như
thế nào,hơn nữa ở một thị xã dù là nhỏ bé thì cũng không thể chỉ có một mình
nhà bà Vân Chung là giầu có,suy rộng ra thì chắc chắn cũng không phải chỉ có
mình bà Vân Chung mới đọc Tiểu thuyết thứ bảy & Phụ Nữ mà còn có
nhiều người khác cũng biết & đọc những tờ báo này.Vì thế khi truyện ngắn Hoa
tigôn của ông Thanh Châu ra đời & mấy tháng sau lại xuất hiện hai bài
thơ ký tên T.T.Kh thì chắc chắn nhiều người ở Thanh Hóa cũng đọc được,trong số
đó có người nhận ra ông Thanh Châu cùng quê hương mình & cùng nhau xì xào
bàn tán nhưng chỉ ở phạm vi hẹp,có lẽ thời gian đầu sự việc cũng chỉ dừng lại
như vậy.Thế nhưng khi Bài thơ đan áo đến tay bạn đọc thì người ta mới
xâu chuỗi các sự kiện & nhận ra rằng,cô gái vừa lấy chồng nhà giầu,người
yêu cũ của ông Thanh Châu chính là T.T.Kh cứ thế tin đồn lan rộng ra,đến nỗi
T.T.Kh đã phải thảng thốt “kêu” lên trong Bài thơ cuối cùng: -Là giết
đời nhau đấy biết không? Hoặc: -Nếu không yên được thì tôi chết mà
quên cả giữ ý tứ,đây là câu thơ khiến nhiều thế hệ bạn đọc chê dở vì quả thật
là ta không thấy được “chất thơ” ở trong đó.Và cũng trong tâm trạng hoảng loạn ấy
T.T.Kh như ngầm nhắc người yêu hãy chấm dứt câu chuyện này:
Giận
anh em viết dòng dư lệ
Là
chút dư hương điệu cuối cùng.
Còn việc bà Vân Chung giỏi
thơ khiến nhiều người biết cũng không có gì là lạ,bởi vì với tâm hồn
lãng mạn của những cô gái gia đình khá giả,lớp “tân học” thời bấy giờ hay tìm đọc Tiểu
thuyết thứ bảy & báo Phụ Nữ thì bạn bè cùng trang lứa thường
tụ tập cùng nhau xướng họa văn thơ cũng là điều bình thường & câu chuyện đồn
đại đến tai bạn bà Thư Linh có lẽ là ở giai đoạn sau này khi chồng bà Vân Chung
đã ra làm quan tri huyện.Đến đây chúng ta có thêm cơ sở để khẳng định rằng việc Bài
thơ đan áo xuất hiện ngoài ý muốn đã làm bà Vân Chung không những giận người
yêu cũ vì “cho đi” bài thơ bà tặng riêng ông & chị gái mình mà nỗi lo sợ việc
bại lộ danh tính không phải chỉ là “thần hồn nát thần tính” nữa mà đã là
sự thật.Những phân tích ở trên cũng như từ các phần trước đã góp phần cho chúng
ta hiểu ra rằng tại sao ba bài thơ sau lại không hay bằng bài thơ đầu Hai
sắc hoa Tigôn, bởi lẽ với cảm xúc khác nhau, hoàn cảnh ra đời khác nhau theo từng
“cung bậc” tình cảm & thực tế diễn ra như chúng ta vừa diễn giải đã
chứng minh điều đó & đến đây điều thắc mắc bấy lâu nay của nhiều thế hệ đọc
giả cũng đã được giải đáp một cách thỏa đáng!?...
Sự việc bà Như Hiên bảo:-chỉ
có Như Hiên mới có quyền được nói về chị thôi. Cũng đã được bà Thư Linh lý giải
khá đầy đủ trong lá thư rồi,ở đây chúng ta chỉ nói thêm một chút về tâm lý thường
tình của một nhóm bạn chơi chung với nhau,nhất lại là phụ nữ thường ít khi chấp
nhận việc người khác “thân” với người kia hơn mình,tâm lý muốn mình luôn được
chú ý,được là nhân vật “trung tâm” hay ít ra cũng được coi là gần gũi với người
nào đó nhất trong nhóm so với những người khác,nhất là người đó lại là bạn “đến
sau” đã thế lại còn biết về những điều bí mật trước cả mình thì phản ứng đó của
bà Như Hiên cũng là điều không mấy lạ lùng & tâm lý, tính tình con người ta
là rất khác nhau cho nên bà Thư Linh được Chị Hỷ Khương rất cảm thông với
em về chuyện này cũng là rất đời thường vậy…
2-Tác phẩm “T.T.Kh Nàng là
ai?” trong con mắt bạn đọc:
Khi tác phẩm T.T.Kh
Nàng là ai?của tác giả Thế Nhật xuất bản,hầu hết ý kiến của độc giả cho là
chuyện “lá cải” để câu khách.Tại sao lại thế? Chúng ta cùng đọc để xem người
“ngoài cuộc” Phan Đức nói gì: “Cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc
cuốn T.T.Kh Nàng là ai? của Thế Nhật do NXB Văn hóa thông tin ấn hành là:-Cuốn
sách chưa kết thúc được một nghi án văn học tồn tại hơn nửa thế kỷ,thì lại tạo
ra một nghi án mới:-Tác giảHoa tigôn có phải là người tình của T.T.Kh?
& Nữ sĩ Vân Nương có phải là T.T.Kh hay không?Trước khi cuốn sách của Thế
Nhậtđược xuất bản,tôi được đọc một bài,cũng của chính tác giả Thế Nhật in
trong tập Nghệ thuật thứ bảy (9-94)của nhà xuất bản Văn nghệ tp.HCM nhan đề:
“Chưa ai biết.Chưa ai viết:-Nữ sĩ T.T.Kh thực sự là ai?.Ở đây,tôi không đề cập
tới nội dung bài báo trên của Thế Nhật.chỉ nói một điều :-Người viết quá ẩu.Trong
bài viết,tác giả đã cho công bố một bức ảnh(ở trang 4) & chú thích:-“ Bà
T.T.Kh & người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm
trái cam” Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có
lẽ Thế Nhật cố tình chú thích sai đi để có thể viết câu sau
đây: “Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó là trái cấm của EVA đã
đưa cho chàng ADAM” (trang 9).Chi tiết trên dù nằm ngoài cuốn sáchT.T.Kh Nàng
là ai?nhưng người ta vẫn thấy sửng sốt,nghi ngờ sự trung thực & thận trọng
của tác giả Thế Nhật trong lúc lấy tài liệu.
Mới đây,tôi có dịp gặp chị Phạm
Minh Chi sinh năm 1954,là con gái thứ ba của ông,bà Hà Thượng Nhân (Phạm
Xuân Ninh) & Trần Thị Anh Minh (em gái bà Vân Chung).Chị Phạm
Minh Chihiện ở 333/14/8 Lê Văn Sỹ-Q.Tân Bình-tp.HCM gọi bà Vân Nương
bằng bác,chị Chi trước là giáo viên dạy Pháp văn,nay đã nghỉ.Chị cho biết:-“Sau
khi đọc cuốn T.T.Kh Nàng là ai?Tôi thấy sách viết thiếu đứng đắn & sai
quá nhiều.Ví dụ,gia đình bác Vân Nương có tám người:-Bác cả rồi đến một bác
gái,bác Vân Nương là thứ ba…vậy mà sách nói sai nhà chỉ có năm người,bác Vân
Nương là trưởng nữ.Hay như đoạn sách nói sau giải phóng,bác Vân Chung “ở
Sài Gòn buôn bán nhỏ,chạy vạy tảo tần nuôi con”Kỳ thực lúc đó,các anh chị của
tôi đã thành gia thất cả rồi & có người sống ở nước ngoài.Đoạn nói “Phu
quân (tức Bác trai) mê một thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc” là
hoàn toàn bịa đặt,bôi nhọ cả người đã chết.Đoạn tả ông Thanh Châu vào tìm xin gặp
bác Vân Chung ,vừa viết sai sự thật vừa viết theo lối rẻ tiền,câu người đọc.Cuộc
gặp diễn ra ở nhà bác Vân Chung,sách lại bảo ở nhà tôi.Người Cô họ tôi dẫn ông
Thanh Châu đi gặp bác Vân Chung sách lại nói Mẹ tôi dẫn Bác đi gặp ông Thanh
Châu,những chi tiết,sự việc đơn giản ấy về gia đình Bác tôi rất dễ kiểm chứng
mà người viết còn viết sai sự thật,huống hồ tin làm sao được chuyện tác giả Thế
Nhật bảo bác Vân Chung là T.T.Kh” Vậy Thế Nhật căn cứ vào đâu để
đưa ra những thông tin ấy?...Tác giả Thế Nhật khẳng định: “Chúng tôi phải
cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” (trang
84).Vậy nguồn thông tin gốc là nơi bà Đ.T.L theo bài trả lời của bà Nghiêm
phái-Thư Linh (tức Đ.T.L) đăng trên trang 24 & 25 Nguyệt san Văn Hóa (số
tháng 9/94)…Ngày nay,ai cũng biết giữa tác giả Hoa Tigôn với bà Vân Chung từng
có một tình cảm cao thượng & trong sáng,như ông Thanh Châu xác nhận: “Đó là
chuyện một thời với bạn bè cùng sinh trưởng ở thị xã quê cũ Thanh Hóa”. Nhưng
chuyện đó không có nghĩa là T.T.Kh nhất thiết phải là Vân Chung.Tôi cho rằng
ngay từ đầu,bà Thư Linh đã ngộ nhận từ sự “không phủ định” của bà Vân Nương để
rồi cứ trượt dài trên con đường ngộ nhận & tác giả Thế Nhật đã căn cứ vào một
“tài liệu giả tưởng” để viết nên cuốn sách.Cần phải nói thêm rằng,cũng trên tờ
Nguyệt san văn hóa số 9/94,lời tòa soạn cho biết,từ bên Pháp “Bà Vân Nương đang
phản ứng gay gắt về những điều đã biết qua tập sách kia”(Tức phản ứng bài viết
của Thế Nhật tóm tắt nội dung cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? In trên Nghệ
thuật thứ bảy!).Thế là ngày xưa,bà Vân Chung đã không nhận mình là T.T.Kh,còn
bây giờ Bà đang “phản ứng gay gắt” Ta hãy chờ xem,nếu bà Thư Linh kể đúng sự thật
& Thế Nhật viết đúng sự thật thì hà cớ gì bà Vân Chung lại
“phản ứng gay gắt” nhất là đối với bà Thư Linh, một người “quen biết lâu đời”?”.
Đọc xong những gì ông Phan
Đức viết ta thấy nổi bật lên những ý sau:- Cả hai người, Phan Đức & chị
Phạm Minh Chi đều không tin bà Vân Chung là T.T.Kh cũng
như cùng lên án nhiều điều bịa đặt trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?là do
lỗi của chính tác giả Thế Nhật,có lẽ cũng chẳng cần phải bình luận gì nhiều,bởi
trong bài viết nêu trên ta đã thấy họ phản bác gần như đầy đủ rồi… Thế Nhật đã
phạm phải một sai lầm khó cảm thông & tha thứ bởi tác giả đã không tuân thủ
một điều sơ đẳng của thể loại “điều tra” là không bao giờ được khẳng định những
điều mà mình mới chỉ được “nghe kể” mà lại không qua kiểm chứng,nhất là những sự
kiện liên qua đến nhân thân của người trong cuộc…Trong thể loại này,người viết
chỉ có thể dùng chính những dữ liệu,sự kiện mà hầu như ai cũng biết là các bài
thơ của T.T.Kh,các tác phẩm-bài viết của ông Thanh Châu & của nhiều người
khác có liên quan đến câu chuyện,hoặc tốt nhất là tiếp xúc được với những người
trong cuộc để từ đó so sánh,đối chiếu,nêu ra những câu hỏi,những giả thiết,những
ví dụ nhằm chứng minh hay phản bác để tìm ra “đáp số”có tính thuyết phục nhất,lôgich
nhất chứ hoàn toàn không được áp đặt sự việc vốn có theo ý mình,ta chỉ có thể
khẳng định khi đã chứng minh được những câu hỏi cần có từ chính những nguồn tài
liệu nêu trên mà thôi. Đặc biệt cũng trong thể loại “điều tra”này là tác giả
tuyệt đối không được hư cấu,bịa đặt theo chiều hướng thiếu tôn trọng những người
trong cuộc & có liên quan,thông thường người ta chỉ có thể bỏ qua &
thông cảm cho những sơ xuất nhỏ do nhầm lẫn vì sự kiện xảy ra đã lâu ngày hoặc
nghe kể lại mà cũng không làm ảnh hưởng tới danh dự người khác hay bản chất của
câu chuyện chứ không thể bỏ qua sự bịa đặt cố tình như là một giải pháp nhằm
đánh vào sự tò mò vốn có của độc giả để câu khách,cho nên trong trường hợp này
đối với tác giả Thế Nhật thì “một sự bất tín,vạn sự chẳng tin” là
hoàn toàn chính xác & việc mọi người không tin câu chuyện ông viết thì tác
giả chỉ có thể tự trách chính mình mà thôi !....
1-Hai lá thư “phủ nhận” của
bà Trần Thị Vân Chung:
Khoảng giữa tháng 9 năm 1994
tác giả Thế Nhật cho xuất bản cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? Ngay sau đó,trên Nguyệt
san văn hóa thuộc Bộ văn hóa & báo Thanh niên đồng loại đăng
những bài phân tích về cuốn sách.Trong đó báo Thanh niên chủ yếu đăng
các bài phê phán,nhưng Nguyệt san văn hóa thì chủ yếu lại đăng các
bài ủng hộ?Gây nên một làn sóng nhiều chiều về tác phẩm này,dư luận xôn xao đến
mức cháu gọi bà Vân Chung bằng bác phải điện thoại sang Pháp thông tin cho bà
biết...Bây giờ,ta hãy xem chính người trong cuộc phát biểu thông qua lá thư ngỏ
viết ngày mùng 1 tháng 10 năm 1994 của bà Vân Chung viết từ Pháp gửi cho bà Thư
Linh (tên thật là Đặng Thị Lạc-có nguồn lại cho rằng bà họ Đỗ?-sn 1924- tại Bắc
Ninh) đồng thời cũng gửi đăng ở một số tờ báo kể trên: “…Tôi vừa nhận được hai
cuốn Những dòng thơ hoa & T.T.Kh nàng là ai?.Xin cảm ơn
Chị & xin trả lời lá thư chị trần tình.Cũng như gần đây tôi đã viết cho em
Hỷ Khương phủ nhận chuyện bảo tôi là T.T.Kh,dặn em đưa thư cho chị
& nhà văn Thế Phong cùng rõ,ngay việc viết lai lịch tôi cũng không
đúng:-Gia đình tôi gồm 8 anh,em một anh một chị đến tôi là thứ ba.Chúng tôi làm
đám cưới vào Noel 1939(chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải
7 tuổi).Có lẽ để phù hợp với câu “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”
chăng?Chỉ có vài chi tiết nhỏ đã thấy không đúng với con người thật của tôi,huống
gì còn bao nhiêu chuyện giả tưởng do bộ óc tinh vi của chị phóng đại ra!Ví dụ bức
thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi
tôi viết đã đủ chưa?...” Sao chị cả gan dám mạo nhận là bạn thân thiết của tôi
sau năm 1945?(tuy viết T.T.Kh nhưng không ai ngu gì mà không biết chị ám chỉ
tôi)còn bịa đặt “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ được viết lại tâm sự của bà khi bà
không còn nữa…”…Cuộc đối thoại giữa tôi & chị trong một chiều mưa.Khi nhà
tôi đang đi cải tạo(chị không nói rõ năm?)cái màn mà chính chị đã tả tôi nghe
qua bức thư ngày 20-9-1994.Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong,nhưng rồi chị lại tự
thú với tôi cũng qua bức thư này!-Xin thưa với chị,trong bài Hoa tim ấy chị chỉ
mạo lại,chụp hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết,chẳng
có gì khác lạ để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!.Nữ sĩ Thư Linh “Viết
gửi T.T.Kh người chị thơ phương xa…” người bạn thân thiết sau 1945 kia mà!Tôi mới
gặp chị năm 1978 thì can dự gì đến tôi?Ôi! câu chuyện ở nhà em
Minh(1976) do chị tả mới thật rùng rợn ghê gớm!Thật đáng sợ cho miệng lưỡi người
đời!...Chị coi em Minh ngây thơ như đứa trẻ 12-13 tuổi vừa nghe vài câu giới
thiệu sơ sài của ông khách lạ đã vội chạy te te đi tìm chị! & buồn cười
nhất là ông còn dọa ngồi (ăn)vạ nữa!Tiếp đến cảnh hai người ngã vào nhau
(chị xem viết tới những chữ thô tục tôi đã phải tránh né để khỏi thẹn với ngòi
bút!)…theo tôi một người đàn bà Việt Nam đã có chồng thì là một
cử chỉ vô luân,tồi bại!Hẳn mọi người ai cũng biết em Minh đông con,lúc nào cũng
có vài con gái,mấy con trai lớn trong nhà thì bổn phận làm bác,làm mẹ phải dè dặt
làm gương cho các con cháu chứ đâu có cảnh quá văn minh như chị đã tạo dựng
nên!Chị cho là thường nhưng chúng tôi là con nhà có giáo dục,cổ truyền,không phải
tư cách của chị,em chúng tôi! & tôi cũng phủ nhận sự việc đã bị chị vu khống
cuộc gặp gỡ dơ bẩn ấy!Rõ ràng chị muốn bôi nhọ tôi chưa đủ,chị còn gắp lửa bỏ
bàn tay em Minh nữa!...Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn
sách quái gở,tôi đã bị các chị, em trong Quỳnh Dao trách cứ
Các bạn trách tôi cũng đúng
vì tình nghĩa mấy chục năm ít ra tôi gạn lọc được một,hai bạn tâm tình để thổ lộ
tâm can.Tại sao đối với chị mới quen năm 1978 mà tôi vội trao trọn niềm tâm sự? Tôi
cũng là con người đâu phải thần thánh mà không có tính khoe khoang? Nhận mình là
T.T.Kh cũng hãnh diện lắm chứ.Chị đã lúng túng xin lỗi tôi,dỗ dành tôi như dỗ
con nít sau khi:-Bị chị quất cho một đòn chí tử! như trong lá thư đề ngày
20-9-1994: “…Dù có vì chuyện này mà chị trách giận em thì em xin lỗi chị…” Ơ
hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời
tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?...Tôi
suy ngẫm mãi…mới hiểu thâm ý chị là người háo danh vụ lợi …tạo dựng ra câu chuyện
giả tưởng để có cuốn T.T.Kh nàng là ai?đồng thời in luôn cuốn Những
dòng thơ hoa để ai đã đọc cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy
như tôm tươi,tha hồ thu tiền về... Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì
chính chị mới là đạo diễn,tác giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Chắc chị đã
đọc thư tôi viết cho Hỷ Khương?Đúng thế đấy chị ạ! Nếu thật tôi là T.T.Kh
thì có gì là xấu?.Người con gái nào cũng có quyền yêu & cấm sao được người
ta yêu mình?.Chỉ những người đàn bà có chồng rồi cònngoại tình,còn yêu kẻ khác
mới đáng khinh khi phỉ nhổ! Huống gì nay được khoác cho danh hiệu một nữ
sĩ đã làm chấn động dư luận một thời…Nhưng tiếc thay,trước đạo lý & lương
tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu! Sợ một ngày nào đó,do một sự tình cờ ai đó
tìm ra con người thật T.T.Kh thì danh chưa thấy đâu,chỉ nhận lấy sự khinh bỉ của
đời.Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về tội gì chắc chị không phải là người
ngu mà không biết?Nhưng hiện tình tôi chỉ còn cách nhờ báo chí phổ biến
giùm hai bức thư trước dư luận để sáng tỏ thực hư vì giờ phút này trong bạn
bè thân thuộc cũng như gia đình chúng tôi ở hải ngoại hay quốc nội chắc chắn đã
đọc cuốn sách quái gở T.T.Kh nàng là ai? Do chị đẻ ra theo lời xác nhận của
nhà văn Thế Nhật: “Nếu không có chị thì đã không có cuốn sách này” Chuyện
bắt buộc tôi phải lên tiếng để mọi người cùng biết đâu là sự thật mà tôi là nạn
nhân! Nhất là còn vì danh dự của mấy gia đình chúng tôi nữa…”.
Và đây,lá thư ngỏ thứ hai bà
Vân Chung viết từ Pháp ngày mùng 4-11-1994 gửi bà Thư Linh & cũng được đăng
công khai trên báo Thanh Niên (số 142 (538) ra ngày mùng 4 tháng 12
năm 1994: “Cuốn sách T.T.Kh nàng là ai?đã tới tay tôi ngày 28-9-1994,do nữ
sĩ Thư Linh gửi…Đọc xong cuốn sách,tôi nhận thấy đây là chuyện mơ hồ,hư cấu do
sự tưởng tượng của Thư Linh,người cung cấp “tài liệu giả tưởng” cho
tác giả Thế Nhật…chỉ là một thứ Tiểu thuyết,không thể coi như là “tài liệu
văn học” như quí vị mong muốn.Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học” thì sự
việc & nhân vật phải cho thật chính xác.Cuốn sách đã nêu đích danh tôi:-Vân
Nương Trần Thị Vân Chung,nên tôi gửi thư này tới quí vị,lên tiếng đính
chính những điều sai trái,lầm lỗi trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?.Chỉ tiếc hành động
của quí vị đã quá hấp tấp (nếu không muốn nói là quá sơ xuất).Vì theo thông lệ:-Trước
khi xuất bản một cuốn sách thuộc về “tài liệu văn học”gọi đích danh đương sự,nêu
hình ảnh,chà đạp lên đời sống cá nhân v.v…quí vị cũng nên thận trọng trong
hành động,phải lắng nghe ý kiến của cả hai bên.Quí vị có thể liên lạc thẳng với
tôi hỏi xem thực hư ra sao,để tránh những lầm lỗi tai hại…Điều trước nhất tôi
xin thưa: “Tôi không phải là T.T.Kh!” Dưới đây tôi xin nêu rõ từng điểm
sai trái,bịa đặt trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?:
1/ Trong sách viết chúng tôi
làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919, nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi
hay sao? trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?
Sao quá vụng tính toán cho thời
gian không ăn khớp nhau?
2/ Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà
tôi tuổi Bính Thìn(1916) tôi Kỷ Mùi(1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi?Có
lẽ (tác giả) muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm
1937 & cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” & “Bên
cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng? (T.T.Kh…trang 50)
3/Nói về gia đình tôi cũng
không đúng!Bố tôi không làm quan(cũng như khi làm đám cưới,nhà tôi chưa là quan
huyện!).Chúng tôi có tám anh,em (ba trai,năm gái) chứ không phải năm người.Tôi
thứ ba,không phải trưởng nữ,thế nên tôi đã có bút hiệu Tam Nương.
4/Tôi không viết bút ký hay
có thơ đăng báo Ngôn Luận trước 1975,cũng như bút hiệu Lê Phương
Đông,chứ không phải Lê Đông Phương.
5/Nhà tôi bị chính phủ Ngô
Đình Diệm bắt giam tại khám Chí Hòa ba năm(1960-1963)chứ không phải đi đày Côn
Đảo.
6/Năm 1976,tôi vẫn ở Cư xá
Nông Tín,đường Trương Minh Ký cũ,từ 1972-1982.Mãi tới năm 1980,nhà tôi đi cải tạo
về,chúng tôi có giấy xuất cảnh mới bán nhà này,dọn về ở nhờ nhà chị Mộng Tuyết,đường
Nguyễn Minh Chiếu cũ vào năm 1982.
7/Câu chuyện (chị Thư Linh
& tác giả Thế Nhật) tạo dựng vào năm 1976,ông Thanh Châu gặp tôi ở nhà em
Minh (vợ nhà thơ Hà Thượng Nhân) cũng hoàn toàn thêu dệt,vu khống.Sự sỗ
sàng của một người đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại
đã tả trong cuốn sách T.T.Kh nàng là ai?(từ trang 54 tới trang 65) nếu
chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa, kiện về tội mạ lỵ & vu
khống!
8/ Vì sự thật năm 1976,ông
Thanh Châu vào Nam có nhờ cô em họ tôi dẫn tới thăm tôi tại cư xá Nông
Tín, đường Trương Minh Ký cũ…Cuộc thăm gặp này chỉ hoàn toàn có tính cách như
hai người bạn cũ gặp lại với sự hiện diện của cô em họ,rất đàng hoàng,đứng đắn.Vì
trải qua bốn mươi năm,cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận
đối với gia đình mình.Hơn nữa,ông cũng là bạn thân của ông anh ruột tôi từ hồi
còn ở Thanh Hóa.Tôi còn gặp ông một lần nữa tại nhà anh,chị tôi khi ông đến
chào để về Bắc.Như vậy tôi nghĩ đâu có gì đáng nói khi đã coi nhau như bạn?
9/Bôi nhọ nhà tôi,đúng là
người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một
nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…(T.T.Kh…trang 60-61).Tôi xin
thưa:-Trước sau văn phòng luật sư của nhà tôi chỉ có hai cô nữ thư ký:Một cô là
Phật tử,trong gia đình Phật tử chùa Quán Sứ,Hà Nội.Khi vào Nam,cô đã là huynh
trưởng của bốn đứa con chúng tôi,trong gia đình Phật tử chùa Phước Hòa,Sài Gòn
vào thời gian đó.Vài năm sau,cô đi lấy chồng,nên đã thay thế con gái của một
người bạn chúng tôi & cũng là bạn chơi phong lan của(nhà văn)Nhất Linh-Nguyễn
Tường Tam,một gia đình nho phong ngoài Bắc vào Nam năm 1954…& tuy làm thư
ký văn phòng,chúng tôi vẫn coi hai cô như con,cháu trong nhà…Tóm lại,cả chín điểm
kể trên (sách viết) đều không đúng trường hợp & con người thật của
tôi.Chứng tỏ chị (Thư Linh) đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác
giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh,một nữ sĩ thời danh đã có những vần thơ
trác tuyệt,đã có sự cảm phục tất cả của người Việt Nam ưa chuộng văn thơ suốt
hơn nửa thế kỷ nay (trong đó có cả tôi nữa) với mục đích gì? Vì danh lợi
chăng? Nhưng thật đáng tiếc, đạo lý & lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu, vì
mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng, cũng như đạo văn, là một tội xấu xa nhất trong văn
giới! Cho nên một lần nữa tôi phủ nhận tôi là T.T.Kh!. Mong trả lời từng
điểm cho minh bạch.”
2-Vì sao bà Vân Chung không
thừa nhận mình là T.T.Kh?:
Đọc xong hai bức thư trên của
bà Vân Chung, cảm giác đầu tiên của chúng ta là:
Niềm tin về những gì đã được phân tích, diễn giải & chứng minh ở các phần trước bỗng chốc bị “lung lay” dữ dội. Ta như bị dội một gáo nước lạnh làm “ướt hết” những trang giấy vừa viết & quả thật khó mà tìm ra được những từ ngữ khác để diễn tả cái cảm giác này…Thế nhưng, khi đã lấy lại được bình tĩnh chúng ta đọc thật kỹ những phân tích, lý giải, chứng minh ở các phần trước & lá thư của bà Thư Linh, bài viết của tác giả Phan Đức cũng như hai bức thư gửi về từ Pháp của bà Vân Chung.v.v…thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng thực ra câu chuyện “tiết lộ về thân phận” của bà Vân Chung dẫn đến sự xuất hiện của tác phẩm “hư cấu” T.T.Kh nàng là ai? của tác giả Thế Nhật cũng như tại sao lại có việc lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh của bà Vân Chung kèm theo những lời “cáo buộc”gay gắt dành cho các tác giả cũng không hề đơn giản như chúng ta thường nghĩ,mà trong đó còn chứa đựng khá nhiều câu hỏi “bí ẩn” rất cần được trả lời. Để tiện so sánh cũng như không làm rối mắt đọc giả,chúng ta tạm “chia” các nhân vật theo từng phần để cùng phân tích & lý giải cho cặn kẽ.
Niềm tin về những gì đã được phân tích, diễn giải & chứng minh ở các phần trước bỗng chốc bị “lung lay” dữ dội. Ta như bị dội một gáo nước lạnh làm “ướt hết” những trang giấy vừa viết & quả thật khó mà tìm ra được những từ ngữ khác để diễn tả cái cảm giác này…Thế nhưng, khi đã lấy lại được bình tĩnh chúng ta đọc thật kỹ những phân tích, lý giải, chứng minh ở các phần trước & lá thư của bà Thư Linh, bài viết của tác giả Phan Đức cũng như hai bức thư gửi về từ Pháp của bà Vân Chung.v.v…thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng thực ra câu chuyện “tiết lộ về thân phận” của bà Vân Chung dẫn đến sự xuất hiện của tác phẩm “hư cấu” T.T.Kh nàng là ai? của tác giả Thế Nhật cũng như tại sao lại có việc lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh của bà Vân Chung kèm theo những lời “cáo buộc”gay gắt dành cho các tác giả cũng không hề đơn giản như chúng ta thường nghĩ,mà trong đó còn chứa đựng khá nhiều câu hỏi “bí ẩn” rất cần được trả lời. Để tiện so sánh cũng như không làm rối mắt đọc giả,chúng ta tạm “chia” các nhân vật theo từng phần để cùng phân tích & lý giải cho cặn kẽ.
2a-Sự liên quan của bà Thư
Linh:
-Thực ra,nếu suy cho đến
cùng thì bà Thư Linh cũng chỉ là một “nạn nhân” của sự “giận cá chém thớt” từ
những dữ kiện sau đây:-Thứ nhất: việc bà biết được “sự thật” về bà Vân
Chung-T.T.Kh không phải do bà Vân Chung chủ động tâm sự hay kể lại,mà là do câu
chuyên dẫn dắt một cách hết sức tự nhiên không hề có sự chuẩn bị từ trước “em
cùng chị luận bàn về sắc thái của các Nữ sĩ,khi nhắc tới ba bài thơ về Hai
sắc hoa tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa…” & cũng từ
những “thông tin” đã biết (qua lời chị bạn & những diễn biến của câu chuyện
mà chúng ta đã từng phân tích) thì bà Thư Linh mới có “cơ sở” để dám
hỏi lại bà Vân Chung để từ đó Bà “tìm thấy” sự thật như bức thư đã
trình bày rõ,như vậy nếu cho rằng bà Thư Linh cố tình bịa ra câu chuyện này là
không có cơ sở & quá vội vàng vì chưa hiểu hết lý do thực sự trong lúc nóng
giận của bà Vân Chung thật ra chính là ở việc tác giả Thế Nhật đã hư cấu một
cách quá đáng & khó có thể chấp nhận được,ngay cả với những người ngoài cuộc.Còn
việc bà Như Hiên “giận lẫy” vì cho rằng vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị
không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết! là
có lẽ do bà Như Hiên đã không biết được “đầu đuôi” của sự việc mà thôi.!
-Thứ hai là: bà Thư Linh
cũng không hề chủ động “kể” lại câu chuyện với riêng tác giả Thế Nhật mà rõ
ràng là xuất phát từ việc Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy
đã tới thăm tại nhà…với tâm lý rất đời thường kiểu như: sao các vị lại cứ “thằng
chết cãi thằng khiêng” đã làm bà “buột miệng” mà vô tình nói ra trước nhiều người,dẫn
đến sự “giận lẫy” của bà Như Hiên mà chúng ta đã biết,cho nên nếu nói rằng Chứng
tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép
tôi là T.T.Kh thì quả là cũng hơi phiến diện…bởi vì những “nhân chứng” vẫn
còn đó,nếu như không phải là sự thật thì tại sao bà Vân Chung không dùng ngay vợ
chồng người bạn thân vốn cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao là ông,bà Thanh
Vân- Như Hiên để cải chính?Xem lại cả hai bức thư ta không hề thấy một
dòng nào bà Vân Chung đề cập tới việc này như là một “bằng chứng” để chứng minh
rằng câu chuyện vô tình tiết lộ…của bà Thư Linh là không đúng sự thật,tại
sao thế? đơn giản là vì nó đúng là sự thật hiển nhiên rồi, bà Thư Linh không hề
bịa!...
-Thứ ba: Việc ông Thanh Châu
tìm gặp lại bà Vân Chung thì,như bà Vân Chung viết Tôi mới gặp chị năm
1978, trong khi thực tế sự việc đó đã xảy ra từ trước khi hai Bà quen nhau những
hai năm câu chuyện ở nhà em Minh(1976). Như vậy thì bà Thư Linh cũng chỉ là
người được nghe ai đó kể lại! Nhưng, người đó là ai nêú như không phải từ những
người có mặt trong buổi tiếp kiến đó? Tới đây,chúng ta thấy rằng có ba khả năng
xảy ra:-Một là,câu chuyện đó do chính bà Vân Chung kể lại với bà Thư Linh vì thế
khi tác giả Thế Nhật bịa ra những tình tiết không có thật (về diễn biến của cuộc
gặp) thì bà Vân Chung mới trách Ơ hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà
văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách
chị được?bởi lẽ,nếu bà thực sự không kể bất cứ điều gì liên quan đến câu chuyện
thì làm sao bà lại đi trách người ta?. Khả năng thứ hai là một trong những người
có mặt chứng kiến cuộc tái ngộ giữa hai ông,bà đã kể lại với người thứ ba rồi mới
đến tai bà Thư Linh?.Khả năng thứ ba là một người nào đó có mặt hôm đó trực tiếp
kể lại với bà Thư Linh? Nhưng khi xét tất cả những yếu tố liên quan,chúng ta thấy
rằng khả năng đầu tiên là đáng tin & hợp lý hơn cả, bởi vì như bà Thư Linh
viết trong thư Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam
tìm chị…thì nếu như không phải là sự thật làm sao mà bà lại dám viết & gửi
cho chính bà Vân Chung?Để phân tích & lý giải cho đến cùng nên ta“lần” theo
hai khả năng sau cho hết lẽ thì thấy rằng phải có một lý do hay hoàn cảnh nào
đó “đưa đẩy” thì “ai đó” mới kể lại câu chuyện này với bà Thư Linh vì bản thân
bà làm sao biết được có câu chuyện đã xảy ra từ hai năm về trước để mà đi hỏi một
cách đường đột?hơn nữa,dù có khéo tưởng tượng đến mấy thì chúng ta cũng khó mà
áp đặt được một “kịch bản” nào đó cho có lý hơn so với khả năng đầu vì thực ra
chúng ta cũng chẳng lấy đâu ra dữ kiện để có thể chứng minh được điều đó!.Tuy
nhiên,dù cho là khả năng nào đi chăng nữa thì việc bà Thư Linh nhầm lẫn về địa
điểm của cuộc gặp giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung cũng không đến nỗi làm
cho những người trong cuộc phải quá khắt khe đến như vậy,nếu như bình tĩnh suy
xét thì thấy rằng sự nhầm lẫn này có lẽ đã không trở thành “to chuyện” nếu như
tác giả Thế Nhật không hư cấu một cách quá đáng & có phần “sướt mướt” nhằm
để câu khách! Đó cũng chính là lý do mà bà Vân Chung cũng như những người
khác lấy làm “bằng chứng” để phản bác lại…Vì cũng có thể do câu chuyện nghe kể
đã lâu ngày hay có thể bà Thư Linh hiểu theo tâm lý thường tình ở đời,thông thường
(kể cả với lối sống “hiện đại” như ngày hôm nay) khi gặp lại người yêu cũ thì mấy
ai dám tiếp ở ngay tại nhà mình mặc dù không hề có điều gì khuất tất?.Có lẽ nếu
cho rằng đây là “lỗi nhận định” của bà Thư Linh trong câu chuyện vô tình tiết lộ
về danh tính của T.T.Kh cũng không phải là không có lý!...
-Thứ tư là: Bản thân bài thơ Hoa
tim & cả tập Những dòng thơ hoa mà bà Thư Linh sáng tác
(đã xuất bản-NXB Văn hóa thông tin-Hà Nội 1994.Bà Thư Linh lấy cảm hứng từ câu
chuyện tình có thật của bà Vân Chung,mà nay bà đã biết cũng chính là T.T.Kh)
cũng như gửi tặng bà Vân Chung cũng không hề có dòng nào hé lộ T.T.Kh là bà Vân
Chung như chính bà xác nhận: trong bài Hoa tim ấy chị chỉ mạo lại,chụp
hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết,chẳng có gì khác lạ
để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!.Xâu chuỗi các sự kiện lại với
nhau thì chúng ta thấy rằng,căn cứ vào sự vô tình nói ra T.T.Kh là ai của bà
Thư Linh khi nghe ông Thanh Vân kể về một người quen nào đó là T.T.Kh với sự có
mặt của nhiều người,trong đó có tác giả Thế Nhật cho nên sau đó dựa vào bài thơ
Hoa tim mà thực ra cũng chỉ là một cái cớ để “dẫn chuyện” của tác giả để rồi
phóng tác ra câu chuyện nặng về hư cấu là lỗi của Thế nhật chứ đâu phải của bà
Thư Linh? Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì chính chị mới là đạo diễn,tác
giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Lời trách cứ này của bà Vân Chung cũng là
điều dễ hiểu vì bản thân bà đâu có biết Thế Nhật là ai?Trong khi chính bà Thư
Linh mới là bạn mình dù có vì tức giận mà gọi là “mới quen” đi chăng nữa thì thời
gian từ năm 1978 đến thời điểm đó(1994) đã 16 năm,thời gian cũng đâu phải ngắn
ngủi gì với không ít tâm tình,kỷ niệm do vậy bà không trách Thư Linh thì biết
trách ai?Còn cho rằng đồng thời in luôn cuốn Những dòng thơ hoa để ai đã đọc
cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy như tôm tươi,tha hồ thu tiền
về...thì quả là thiếu thuyết phục,bởi vì thực ra nó không mấy liên quan,trong
toàn bộ tập thơ kể trên của bà Thư Linh không hề có dòng nào cho thấy bà Vân
Chung chính là T.T.Kh,hơn nữa thơ của bà Thư Linh làm sao sánh được với những
bài thơ của T.T.Kh trên mọi phương diện,đơn giản là bản thân bà làm sao có cảm
xúc cũng như hoàn cảnh đặc biệt để làm ra những bài thơ hay & đớn đau đến
thế?Vậy thì người ta sẽ tìm đọc thơ của ai?Mặt khác do tác giả Thế Nhật cố tình
đưa những thông tin mập mờ về tập thơ của bà Thư Linh như một lý do cho sự “ra
đời” của cuốn T.T.Kh nàng là ai?suy cho cùng chỉ là một thủ thuật của tác
giả cho thêm phần “khả tín” cũng đâu phải là lỗi của bà Thư Linh?Do đó bảo rằng Chứng
tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép
tôi là T.T.Kh thì quả là cũng oan cho bà ấy!?...
2b-Tác giả Thế Nhật mới
chính là “rắc rối” của vấn đề:
Xuyên suốt những dữ kiện từ
bức thư “giải trình” của bà Thư Linh, bài viết của ông Phan Đức &
hai bức thư ngỏ của bà Vân Chung…Chúng ta thấy nổi bật lên rằng:-Câu chuyện
về sự tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh cũng giống như một
nhóm người cùng đi du lịch & bà Thư Linh chỉ là người đã vô tình cầm chiếc
đèn pin chiếu vào một cánh cửa bí ẩn bên trong hang động chưa có dấu chân người,còn
tác giả Thế Nhật thay vì phải đi tìm chiếc chìa khóa để có thể mở toang cánh cửa
rồi cùng với mọi người xem bên trong có những gì,nhưng vì quá vội vàng & sốt
ruột nên lại chỉ “đục” một lỗ nhỏ để “ghé mắt” nhìn vào bên trong cánh cửa vẫn
còn tối mờ mịt không thể thấy rõ “đồ vật”bên trong cho nên khi mọi người hỏi
thì phải nói bừa cho ra vẻ là ta đã nhìn thấy được mọi thứ…Như vậy,việc nhiều
người không tin vào những gì tác giả đã miêu tả cũng không có gì là lạ!.
Trở lại với thực tế câu chuyện,chúng ta có vô số ví dụ cho “hình ảnh” nêu trên: bà Thư Linh chỉ nói Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…(…Nàng xúc động run run mi mắt nằng nặng,thế là dòng nước mắt tuôn rơi. Thân hình nàng ngả về phía trước,lọt vào vòng tay khách trung niên… T.T.Kh nàng là ai?) thực ra,dù chỉ là với hai người bạn thân cùng giới lâu ngày mới gặp lại thì việc rơm rớm nước mắt,mừng mừng tủi tủi cũng là việc bình thường huống hồ đây lại còn là cuộc gặp sau hơn 40 năm của hai người từng yêu nhau say đắm thì cảm xúc đó cũng là điều đương nhiên & dễ chấp nhận,thế nhưng miêu tả như Thế Nhật không những lại quá là sướt mướt mà còn thiếu thực tế ở chỗ ngay như hiện nay (thế kỷ 21) bạn có dám “làm” như vậy trước mặt gia đình, con cháu…không? Cho nên bà Vân Chung mới phản ứng Sự sỗ sàng của mộtngười đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại…cũng còn là nhẹ!...Chúng ta cũng thấy rằng,chỉ mỗi cái việc tả cảnh hai người gặp lại nhau mà tác giả đã phải dùng đến những 12 trang giấy (từ trang 54 tới trang 65) thì đủ nói lên mức độ “mùi mẫn” kinh khủng như thế nào?…Tất nhiên là sau hôm mọi người tập trung ở nhà bà Thư Linh rồi nghe bà vô tình tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh thì chắc chắn tác giả Thế Phong & Trần nhật Thu hoặc chỉ có một mình Thế Phong phải quay lại gặp bà Thư Linh để hỏi thêm vài chi tiết liên quan,nhưng có lẽ thời gian đầu Thế Nhật chưa có ý định hoặc là cố tình dấu bà Thư Linh về việc sẽ viết cuốn sách về bà Vân Chung-T.T.Kh nên chỉ cố tỏ ra như những người khách tò mò muốn biết câu chuyện ngày xưa của những người trong cuộc,vì thế bà Thư Linh mới vô tư kể -Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?hay Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc…về những chi tiết liên quan đến thân thế gia đình của bà Vân Chung thì cũng chưa chắc bà Thư Linh đã biết rõ vì không ai lại đi đường đột hỏi như điều tra lý lịch người ta bao giờ,nhất lại là với lớp “người xưa” như hai bà,cho nên có thể bà Thư Linh cũng chỉ kể lại với tác giả Thế Nhật một cách khái quát như quê bà Vân Chung ở Thanh Hóa,chồng làm luật sư…chứ không thể bịa ra mọi chuyện mà mình không biết rõ một cách hàm hồ được (chắc chắn bà cũng phải ý thức được rằng ngoài bà Vân Chung ra thì những người bạn trong Quỳnh Dao đều là những người cũng quen biết & khá thân với bà),vì thế khi biết rõ Thế Nhật viết câu chuyện trên thành sách thì bà Thư Linh cũng chỉ có thể đề nghị tác giả phải đính chính những lời mà chính bà kể một đằng nhưng tác giả đã viết thành một nẻo như: Em đâu dè Thế Phong & Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã… trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi…Như vậy thì ngoài những dữ kiện đã dẫn ở trên ra thì toàn bộ câu chuyện còn lại của Thế Phong là hoàn toàn được hư cấu theo ý tác giả chứ không phải do bà Thư Linh cung cấp!?Điều đó cũng là dễ hiểu vì thông thường ngoài những gì mình đã kể lại mà tác giả viết sai sự thật thì mới cần phải “đính chính” cho rõ chứ những hư cấu khác của tác giả đâu phải lỗi của mình mà lại phải đi “giải trình” vì có thể những điều đó chính bản thân mình cũng chưa chắc đã biết rõ,đó cũng là tâm lý thường tình như của tất cả chúng ta…Phải chăng khi đã phần nào lấy lại được bình tĩnh bà Vân Chung cũng hiểu ra được điều này nên mới viết trong thư: Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở…?.Vì thế,như trên đã phân tích do bà Vân Chung không biết tác giả Thế Nhật là ai nhưng những gì cuốn sách viết ra là không thể chấp nhận được cho nên việc bà dùng kiểu “chửi chó (để) mắng mèo” cũng là điều hợp lý,cho nên bà mới dặn em đưa thư cho chị & nhà văn Thế Phong cùng rõ là vì vậy.Đi sâu vào những gì tác giả Thế Nhật đã viết,ta thấy rằng ngoài việc hư cấu cho câu chuyện thêm lâm ly,ướt át thì tác giả lại còn cố “gò ép” các sự kiện “ngoài đời” mà mình tưởng tượng ra để cho phù hợp với những khổ thơ của T.T.Kh trong khi lẽ ra Thế Nhật cần phải kiểm chứng,phân tích,diễn giải thật khách quan & tôn trọng sự thật,tôn trọng những người đã lớn tuổi thuộc thế hệ đi trước một cách khoa học & thận trọng vốn cần phải có của một người cầm bút chân chính…Các tác giả đã không làm được điều mà sau này Trần Đình Thu đã ít,nhiều làm được.Vì thế mới dẫn đến nhiều “sự kiện” vừa không đúng với sự thật vừa như moi móc đời tư của những người khác là điều khó tha thứ & chấp nhận đối với một nhà văn đúng nghĩa,ở đây các tác giả đã cố tình nhầm lẫn giữa thể loại điều tra với các câu chuyện của loại tiểu thuyết lá cải diễm tình chỉ cốt làm cho nổi bật sự giật gân để đánh vào lòng tò mò của lớp độc giả bình dân vốn hay khoái những câu chuyện như thế,nhưng ở đời cũng đâu có đơn giản như vậy?Có lẽ các tác giả đã quá chủ quan hoặc coi thường độc giả yêu thơ vốn hiểu biết & nhậy bén cũng như biết phân tích,suy luận để hiểu được đâu là sự thật có lý, có tính thuyết phục,đâu là những điều phi lý toát lên từ chính những trang viết này?Đọc lại bài viết của Phan Đức hay hai lá thư của bà Vân Chung,chúng ta thấy rõ sự phản đối quyết liệt đến mức có nhiều chỗ khá nặng lời đã là minh chứng cụ thể cho những nhận định trên,phải chăng vì cũng ý thức được điều đó mà ở lần tái bản sau tác giả Trần nhật Thu đã “rút lui” để chỉ còn lại một mình Thế Phong?Điều đáng tiếc là từ những “ánh sáng” ban đầu soi rọi vào cánh cửa chứa đựng bí ẩn văn chương này ông Thế Phong đã không tận dụng bằng tất cả niềm đam mê khám phá cũng như sự thận trọng & khoa học nhân văn để đến nỗi chính mình tự đẩy mình vào tư thế bị chỉ trích vì những điều không đáng tin của người đời.Thật đáng tiếc lắm thay…
Trở lại với thực tế câu chuyện,chúng ta có vô số ví dụ cho “hình ảnh” nêu trên: bà Thư Linh chỉ nói Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…(…Nàng xúc động run run mi mắt nằng nặng,thế là dòng nước mắt tuôn rơi. Thân hình nàng ngả về phía trước,lọt vào vòng tay khách trung niên… T.T.Kh nàng là ai?) thực ra,dù chỉ là với hai người bạn thân cùng giới lâu ngày mới gặp lại thì việc rơm rớm nước mắt,mừng mừng tủi tủi cũng là việc bình thường huống hồ đây lại còn là cuộc gặp sau hơn 40 năm của hai người từng yêu nhau say đắm thì cảm xúc đó cũng là điều đương nhiên & dễ chấp nhận,thế nhưng miêu tả như Thế Nhật không những lại quá là sướt mướt mà còn thiếu thực tế ở chỗ ngay như hiện nay (thế kỷ 21) bạn có dám “làm” như vậy trước mặt gia đình, con cháu…không? Cho nên bà Vân Chung mới phản ứng Sự sỗ sàng của mộtngười đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại…cũng còn là nhẹ!...Chúng ta cũng thấy rằng,chỉ mỗi cái việc tả cảnh hai người gặp lại nhau mà tác giả đã phải dùng đến những 12 trang giấy (từ trang 54 tới trang 65) thì đủ nói lên mức độ “mùi mẫn” kinh khủng như thế nào?…Tất nhiên là sau hôm mọi người tập trung ở nhà bà Thư Linh rồi nghe bà vô tình tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh thì chắc chắn tác giả Thế Phong & Trần nhật Thu hoặc chỉ có một mình Thế Phong phải quay lại gặp bà Thư Linh để hỏi thêm vài chi tiết liên quan,nhưng có lẽ thời gian đầu Thế Nhật chưa có ý định hoặc là cố tình dấu bà Thư Linh về việc sẽ viết cuốn sách về bà Vân Chung-T.T.Kh nên chỉ cố tỏ ra như những người khách tò mò muốn biết câu chuyện ngày xưa của những người trong cuộc,vì thế bà Thư Linh mới vô tư kể -Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?hay Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc…về những chi tiết liên quan đến thân thế gia đình của bà Vân Chung thì cũng chưa chắc bà Thư Linh đã biết rõ vì không ai lại đi đường đột hỏi như điều tra lý lịch người ta bao giờ,nhất lại là với lớp “người xưa” như hai bà,cho nên có thể bà Thư Linh cũng chỉ kể lại với tác giả Thế Nhật một cách khái quát như quê bà Vân Chung ở Thanh Hóa,chồng làm luật sư…chứ không thể bịa ra mọi chuyện mà mình không biết rõ một cách hàm hồ được (chắc chắn bà cũng phải ý thức được rằng ngoài bà Vân Chung ra thì những người bạn trong Quỳnh Dao đều là những người cũng quen biết & khá thân với bà),vì thế khi biết rõ Thế Nhật viết câu chuyện trên thành sách thì bà Thư Linh cũng chỉ có thể đề nghị tác giả phải đính chính những lời mà chính bà kể một đằng nhưng tác giả đã viết thành một nẻo như: Em đâu dè Thế Phong & Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã… trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi…Như vậy thì ngoài những dữ kiện đã dẫn ở trên ra thì toàn bộ câu chuyện còn lại của Thế Phong là hoàn toàn được hư cấu theo ý tác giả chứ không phải do bà Thư Linh cung cấp!?Điều đó cũng là dễ hiểu vì thông thường ngoài những gì mình đã kể lại mà tác giả viết sai sự thật thì mới cần phải “đính chính” cho rõ chứ những hư cấu khác của tác giả đâu phải lỗi của mình mà lại phải đi “giải trình” vì có thể những điều đó chính bản thân mình cũng chưa chắc đã biết rõ,đó cũng là tâm lý thường tình như của tất cả chúng ta…Phải chăng khi đã phần nào lấy lại được bình tĩnh bà Vân Chung cũng hiểu ra được điều này nên mới viết trong thư: Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở…?.Vì thế,như trên đã phân tích do bà Vân Chung không biết tác giả Thế Nhật là ai nhưng những gì cuốn sách viết ra là không thể chấp nhận được cho nên việc bà dùng kiểu “chửi chó (để) mắng mèo” cũng là điều hợp lý,cho nên bà mới dặn em đưa thư cho chị & nhà văn Thế Phong cùng rõ là vì vậy.Đi sâu vào những gì tác giả Thế Nhật đã viết,ta thấy rằng ngoài việc hư cấu cho câu chuyện thêm lâm ly,ướt át thì tác giả lại còn cố “gò ép” các sự kiện “ngoài đời” mà mình tưởng tượng ra để cho phù hợp với những khổ thơ của T.T.Kh trong khi lẽ ra Thế Nhật cần phải kiểm chứng,phân tích,diễn giải thật khách quan & tôn trọng sự thật,tôn trọng những người đã lớn tuổi thuộc thế hệ đi trước một cách khoa học & thận trọng vốn cần phải có của một người cầm bút chân chính…Các tác giả đã không làm được điều mà sau này Trần Đình Thu đã ít,nhiều làm được.Vì thế mới dẫn đến nhiều “sự kiện” vừa không đúng với sự thật vừa như moi móc đời tư của những người khác là điều khó tha thứ & chấp nhận đối với một nhà văn đúng nghĩa,ở đây các tác giả đã cố tình nhầm lẫn giữa thể loại điều tra với các câu chuyện của loại tiểu thuyết lá cải diễm tình chỉ cốt làm cho nổi bật sự giật gân để đánh vào lòng tò mò của lớp độc giả bình dân vốn hay khoái những câu chuyện như thế,nhưng ở đời cũng đâu có đơn giản như vậy?Có lẽ các tác giả đã quá chủ quan hoặc coi thường độc giả yêu thơ vốn hiểu biết & nhậy bén cũng như biết phân tích,suy luận để hiểu được đâu là sự thật có lý, có tính thuyết phục,đâu là những điều phi lý toát lên từ chính những trang viết này?Đọc lại bài viết của Phan Đức hay hai lá thư của bà Vân Chung,chúng ta thấy rõ sự phản đối quyết liệt đến mức có nhiều chỗ khá nặng lời đã là minh chứng cụ thể cho những nhận định trên,phải chăng vì cũng ý thức được điều đó mà ở lần tái bản sau tác giả Trần nhật Thu đã “rút lui” để chỉ còn lại một mình Thế Phong?Điều đáng tiếc là từ những “ánh sáng” ban đầu soi rọi vào cánh cửa chứa đựng bí ẩn văn chương này ông Thế Phong đã không tận dụng bằng tất cả niềm đam mê khám phá cũng như sự thận trọng & khoa học nhân văn để đến nỗi chính mình tự đẩy mình vào tư thế bị chỉ trích vì những điều không đáng tin của người đời.Thật đáng tiếc lắm thay…
2c-Vì sao bà Vân Chung không
nhận mình là T.T.Kh?:
Điều đầu tiên nhận thấy sau
khi ta đọc hai lá thư ngỏ của bà Vân Chung là lá thư thứ hai rõ ràng đã bớt gay
gắt hơn lá thư đầu rất nhiều,ở cả hai lá thư chúng ta thấy nổi bật lên ý của
người viết là chủ yếu để phản bác lại những sự kiện không đúng với sự
thật hay không được tác giả phân tích,chứng minh một cách thuyết phục trong tác
phẩm T.T.Kh Nàng là ai?Chứ không phải chủ yếu muốn phủ nhận mình là
T.T.Kh!.Bởi lẽ,nếu chỉ là không muốn thừa nhận mình là T.T.Kh thì cần
gì phải quá dài dòng & cần gì đến những hai lá thư?Trong đó lá thư thứ hai
cũng gần như lặp lại từ những ý của lá thư đầu chỉ có khác đôi chút là nó được
sắp xếp lại cho lớp lang hơn,thêm một vài ý mà lá thư đầu còn bỏ sót,nhưng lại
“lờ đi” tình tiết về việc bà Thư Linh đã vô tình tiết lộ thân phận của T.T.Kh,tại
sao lại có sự thay đổi này?Thì ra,lá thư thứ hai thực chất chỉ nhằm chủ đích để
“trả lời” cho từng phần hư cấu từ những trang viết của tác giả Thế Phong,cũng
như “dạy” cách viết T.T.Kh Nàng là ai?…chỉ là một thứ Tiểu thuyết,không thể coi
như là “tài liệu văn học” như quí vị mong muốn.Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học”
thì sự việc & nhân vật phải cho thật chính xác…là dành cho các tác giả hơn
là nhằm bác bỏ chính mình là T.T.Kh! và lá thư đã được bà “liệt kê” rõ: Tóm
lại, cả chín điểm kể trên đều không đúng trường hợp & con người
thật của tôi đã cho thấy điều đó.
Đến đây,chúng ta thử “nhập
vai” Tòa án để cùng phân tích về Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về
tội gì chắc chị không phải là người ngu mà không biết?(lá thư đầu) & nếu
chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa,kiện về tội mạ lỵ & vu khống!(lá
thư thứ hai) chúng ta cùng “thụ lý” về ý thứ nhất trong “đơn kiện” là bà Thư
Linh & tác giả Thế Nhật đã cùng “vu khống” bà Vân Chung là T.T.Kh thì thấy
rằng,bản thân nhân vật T.T.Kh từ lâu đã là một “huyền thoại” nổi tiếng trong
văn chương-thi phú nước nhà chứ đâu phải là một người có nhân thân quá xấu xa
(xin lỗi,ví dụ như tú bà hay là kẻ buôn,bán hêrôin) mà bảo là người ta vu khống
cái danh xấu đó cho mình? Chắc chắn điều này sẽ làm “quí tòa” phải phì cười mà
trả lại đơn kiện! & có lẽ bà Vân Chung cũng không thể không hiểu điều
này,cho nên chỉ có chính chúng ta mới cần phải hiểu cho đúng ý của bà là kiện về
những điều mà các tác giả đã quá đà khi viết về những điều không đúng sự thật
làm ảnh hưởng tới danh dự cá nhân & danh dự gia đình của bà mà thôi!
Về việc bà Vân Chung viết (ở
lá thư đầu): Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong, nhưng rồi chị lại tự thú với
tôi cũng qua bức thư này thì rõ ràng khi đọc đi đọc lại hai bức
thư của bà Vân Chung cũng như bài viết của độc giả Phan Đức rồi so sánh với lá
thư của bà Thư Linh chúng ta cũng không tài nào tìm ra được nhưng rồi chị
lại tự thú với tôi ấy nó nằm ở đâu? Chúng ta sẽ phải hiểu thế nào đây về lời
“buộc tội” này vì thông thường ở đời,nếu ta nói về một sự việc nào đó không
đúng với sự thật mà lại làm ảnh hưởng đến danh dự của người khác thì mới phải
“tự thú” chứ, đằng này việc “thêm mắm,thêm muối” trong tác phẩm T.T.Kh
Nàng là ai? đâu phải là lỗi ở bà Thư Linh? “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ
được viết lại tâm sự của bà khi bà không còn nữa…” trong khi bà thư linh chỉ viết
(về việc này có lẽ bà cũng đã kể lại với Thế Nhật) em bảo rảnh sẽ viết về
chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên em hứa sẽ không viết…mà
quả thật là trong chừng mực nhất định bà cũng đã giữ đúng lời hứa vì trong cả tập
thơ Những dòng thơ hoa không hề có một đoạn nào tiết lộ rằng bà
Vân Chung là T.T.Kh,chúng ta cùng xem lại thư bà viết:Có nhiều chỗ họ hư cấu
như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị & người ấy gặp
nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…hay như trong bài viết
của Phan Đức(Tuần báo Thanh Niên-số 119 (559) ra ngày 11/10/1994 tại tp.HCM ta
thấy chi tiết: Người viết quá ẩu.Trong bài viết,tác giả đã cho công bố một
bức ảnh (ở trang 4) & chú thích:-“ Bà T.T.Kh & người bạn chụp trong vườn
cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm trái cam” Sự thật người cầm trái cam là
nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có lẽ Thế Nhật cố tình chú thích
sai đi để có thể viết câu sau đây: “ Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó
là trái cấm của EVA đã đưa cho chàng ADAM” không lẽ cũng đổ tội do bà Thư
Linh cung cấp cho Thế Nhật?không lẽ bà “quên” cả mặt bà Vân Chung? & vì thế
mà chúng ta chẳng cần phải bình luận gì thêm!...Ở đây chúng ta cũng cần phải nhấn
mạnh đến việc tác giả Thế Nhật đã viết một cách rất lập lờ rằng “Chúng tôi
phải cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” hay bức
thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi tôi viết
đã đủ chưa?...”.Cần lưu ý một điều là,tác giả Thế Nhật đã không đưa ra được bằng
chứng thật sự có bức thứ ấy của bà Thư Linh hay không,mặt khác bấy giờ đã là
năm 1994 không lẽ sống cùng một thành phố mà hai người không trao đổi với nhau
qua điện thoại (nếu cần) mà lại phải viết thư?.Chính những sự “tranh tối tranh
sáng” như thế đã làm cho rất nhiều người phải hiểu lầm bà là “đồng tác giả”của
nhiều tình tiết bịa đặt trong cuốn T.T.Kh Nàng là ai? nếu không được
theo dõi cũng như phân tích câu chuyện một cách đầy đủ như chúng ta đang làm!
Cũng theo tác giả Phan Đức viết: Theo bài trả lời của bà Nghiêm phái-Thư
Linh (tức ĐặngThị Lạc,nhưng khi tái bản cuốn “T.T.Kh-Nàng là ai?” năm 2001 lại
viết tên thật là Đỗ Thị Lạc? ) đăng trên trang 24 & 25 Nguyệt san Văn Hóa
(số tháng 9/94) thì thực ra nội dung đó cũng chẳng khác mấy so với bức thư
bà viết ngày 20-9-1994 gửi bà Vân Chung! Cho nên “nỗi oan” này của bà Thư Linh
sẽ khó mà giải tỏa được vì rất nhiều người trong chúng ta ít khi có thời gian
& điều kiện để “đặt” các tài liệu có liên quan như thế này bên cạnh
nhau để mà so sánh,đối chiếu nhằm tìm ra sự thật để mà “giải oan”cho
bà!Xem kỹ những gì bà Vân Chung viết trong thư,sau khi đã lần lượt vạch ra những
điều sai trái,bịa đặt của tác giả Thế Nhật rõ ràng với hàm ý phản đối gay gắt,nhưng
tinh ý một chút chúng ta sẽ nhận thấy rằng sau đó bà trách Nếu chị đã kể
đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao
tôi có thể giận trách chị được?là chủ yếu trách cứ về những gì tác giả cuốn
sách đã viết hơn là ngầm trách về việc bà Thư Linh đã vô tình làm lộ danh tính
của mình,một sự việc dù sao thì cũng đã xảy ra rồi & đồng thời có ý như là
“thanh minh” với chị,em trong nhóm thơ Quỳnh Dao lời trách thật nhẹ nhàng,trách
mà cứ như không trách vậy?...
Bây giờ,chúng ta đi
sâu vào phân tích,lý giải về những điều trong hai lá thư,nhất là ở bức thư thứ
hai đã được bà Vân Chung “đúc kết” lại cho có thứ tự từ lá thư đầu,những gì
không mấy liên quan hoặc đã phân tích rải rác ở các phần trước ta sẽ bỏ qua để
tránh sự lặp lại không cần thiết.
1/Trong sách viết chúng tôi
làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919,nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi
hay sao?trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?Sao
quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?
Thật ra,nếu suy luận theo
đúng cách các Cụ ngày xưa về truyền thống cưới gả thì việc bà Vân Chung lấy chồng
năm 15 tuổi cũng không phải là quá sớm,bởi lẽ các Cụ xưa thường tính theo “tuổi
ta” thì năm 1934 bà đã 16 tuổi hơn nữa với quan niệm “gái thập tam-nam thập lục
tác hợp Phu,Thê” thì cũng đâu có gì là vô lý!? Nhưng vì bà muốn gián tiếp nhắc
tác giả phải viết cho đúng sự thật về mối tình ngoài đời thực của mình mà nay
nhiều người cũng đã biết, do tác giả không có đủ dữ liệu nên cứ hư cấu bừa bãi
đã thế lại còn làm ảnh hưởng đến danh tiết của bà vì với thời gian như đã viết
trong tác phẩm thì hóa ra là bà đi “ngoại tình” sao?Vì thế mà bà đã phải thốt
lên Chỉ những người đàn bà có chồng rồi còn ngoại tình,còn yêu kẻ khác mới
đáng khinh khi phỉ nhổ! Đây là điều tối kỵ,kể cả với thế hệ ngày nay huống
hồ lại là lớp người xưa như bà Vân Chung thì lại càng không thể nào chấp nhận
được sự hư cấu vô lối đó của tác giả!...
2/Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà
tôi tuổi Bính Thìn (1916) tôi Kỷ Mùi (1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi? Có lẽ (tác
giả) muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 &
cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” & “Bên cạnh chồng
nghiêm luống tuổi rồi” chăng? và trích ở lá thư đầu: Chúng tôi làm
đám cưới vào Noel 1939 (chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải
7 tuổi). Đọc hết những dòng trên,nếu chúng ta không biết gì về mối tình giữa ông
Thanh Châu & bà Vân Chung cũng như thời gian hai người yêu nhau rồi phải
chia tay vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” thì cũng chẳng có gì đáng nói ngoài chi tiết
lúc thì hơn 9 tuổi lúc thì lại 7 tuổi của vợ-chồng bà.Thế nhưng,khi xâu chuỗi tất
cả các sự kiện ngoài đời thực có liên quan đến ba người thì chúng ta lại thấy
có khá nhiều sự vô lý về thời gian tính mà bà Vân Chung đã viết trong hai lá
thư:-Thứ nhất: Nếu bà lấy chồng vào năm 1939 tức là lúc đó bà đã 21 tuổi thì với
phong tục của các Cụ cách đây gần một thế kỷ là điều khó chấp nhận,vì ở vào lứa
tuổi đó thì đã được xếp vào loại ế chồng rồi, tất nhiên là sẽ có những ngoại lệ
nhưng phần lớn là nằm ở những gia đình nghèo khó & bản thân người con gái lại
thiếu nhan sắc… Nhưng trên thực tế thì bà Vân Chung thuộc lớp con nhà giầu lại
là “sắc nước hương Trời” đến nỗi anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm
cho ra xin cưới….Về vấn đề này,chúng ta phải “đặt” mình vào bối cảnh những năm
nửa đầu thế kỷ 20 thì mới có thể hiểu được cho thật thấu đáo. Mặt khác, dù là sống
ở thị xã nhưng với quan niệm xã hội & thực tế thì gia đình bà dù thế nào
cũng vẫn là dân “tỉnh lẻ” cho nên việc dựng vợ,gả chồng từ rất sớm theo đúng tập
tục xưa là một sự thật lịch sử không thể phản bác.!.
-Thứ hai là: Sau khi mối
tình tan vỡ, ông Thanh Châu ra Hà Nội lập nghiệp, thì trên thực tế vào nửa
đầu năm 1937 (25 tuổi) ông đã tham gia & có vài bài báo đăng ở tạp chí Tiểu
thuyết thứ bảy (không tính thời gian trước, lúc còn học ở trường dòng ông cũng
đã bắt đầu tập sự viết văn, nhưng không mấy có tiếng tăm) thì ở ngoài Hà Nội
một thời gian,ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái
ông yêu chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Như vậy,theo lôgích thì việc bà Vân
Chung lấy chồng phải là khoảng thời gian cuối năm 1936(18 tuổi) hoặc
muộn nhất cũng phải quãng đầu năm 1937(19 tuổi).Lý do:chúng ta xét thấy ở
ngoài Hà Nội một thời gian là đơn vị tính bằng tháng,chứ không thể là
năm!vì nếu là đơn vị năm thì phải nói là“vài năm sau” hay“một vài năm sau” hoặc
ít nhất cũng phải là “một thời gian rất lâu sau”.v.v…Chứ từ xưa đến nay
chưa thấy ai quan niệm một thời gian là đơn vị năm bao giờ! Hơn nữa,với
một người vừa chỉ thấy hình đã mê mà lại không “lấy vợ phải cưới
liền tay…” thì quả là một điều khó tin.?(ông Thanh Châu cũng đã xác nhận
là chỉ vài tháng sau khi ra Hà Nội,ông nhận được tin từ gia đình báo
ra…chứ cũng không nói rõ ngày,tháng,năm nào?) vì lẽ gì nếu chỉ là một câu chuyện
rất bình thường thì tại sao lại khiến ông phải giữ bí mật đến thế?.Chúng ta
đánh giá cao & cảm phục về nhân cách của ông,đã “giữ” cho người yêu đến
cùng chứ đâu có như ngày nay không ít kẻ sẵn sàng tung lên mạng đủ trò về người
yêu cũ…
-Thứ ba là: Về tuổi của ông
Lê Ngọc Chấn người chồng ngoài đời của bà Vân Chung (việc hơn bà cụ thể là mấy
tuổi cũng không quan trọng) nhưng không thể sinh năm 1916 vì nếu ta chấp nhận
lôgích về năm bà phải lấy chồng như đã phân tích ở trên (thông qua mốc thời
gian hoạt động văn chương của ông Thanh Châu-do chính ông xác nhận cũng như các
bạn văn cùng thời,cùng trong tòa soạn viết về những năm tháng làm báo) thì
vào lứa tuổi mới có 20-21 liệu ông ấy đã đỗ cử nhân chưa?(tuổi đi học thì phải
tính theo tuổi “tây”) cho nên có lẽ tuổi thật của ông ít nhất cũng phải là sinh
vào năm 1914 mới hợp lý so với sự thật đã diễn ra (theo tác giả Thế Phong thì
ông Lê Ngọc Chấn sinh năm 1910-1986), cũng có một vài ngoại lệ,ví dụ như trường
hợp ông luật sư Nguyễn Mạnh Tường vào năm 22 tuổi (năm 1932) đã đỗ Tiến sĩ luật
tại đại học Soócbon hay một vài người nữa đỗ cử nhân luật ở lứa tuổi 21-22
nhưng không hề thấy tên của ông Chấn (thời Pháp thuộc, nhất là thập kỷ 30 thế kỷ
trước việc người “bản xứ” đỗ đạt sớm như vậy thì lập tức nổi tiếng khắp cả nước, vì
số người như vậy cũng rất là hiếm, chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi!)..
Trở lại với hai câu thơ của
T.T.Kh mà bà Vân Chung trích dẫn trong thư,ta thấy câu đầu là quá dễ hiểu, còn
câu sau “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” thoạt đầu nếu ta hiểu
theo “nhãn quan” của ngày hôm nay thì quả thật ít nhiều cũng cho thấy ngay rằng
có lẽ tác giả Thế Nhật chỉ dựa vào câu thơ để cố “cho” người chồng của T.T.Kh
đã rất lớn tuổi & nghiêm khắc.Thế nhưng, khi đặt mình vào bối cảnh của những
năm 30 hay đọc các tiểu thuyết thời đó ta sẽ nhận thấy các nhà văn đương thời đều
miêu tả về họ như những người rất nghiêm nghị,đĩnh đạc & rất “ông cụ non”mặc
dù tuổi đời cũng không phải là nhiều,ta sẽ thấy hình ảnh các ông Cử,ông Phán thậm
chí ông Thông (mà thực chất gọi như ngày nay chỉ là người phiên dịch) mới ngoài
hai mươi tuổi ấy thế mà xã hội hồi đó mặc nhiên vẫn gọi là “cậu” hoặc “ông” đấy
thôi?Thực tế ông Thanh Châu hơn bà Vân Chung 7 tuổi,nếu như hai ông bà lấy được
nhau thì liệu có phải là bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi không?Chắc
chắn là không rồi vì họ yêu nhau đến thế cơ mà,mặc dù với ngày xưa thì vợ chồng
chênh lệch nhau dăm,bảy tuổi đã là một khoảng cách khá lớn…do đó chỉ có lấy
nhau không phải vì tình thì mới ra nông nỗi ấy mà thôi. Đến đây, câu thơ trên đã
trở nên rất dễ hiểu & cũng rất hợp lý,hợp cảnh, vả lại nếu T.T.Kh đã muốn cố
tình giấu kín danh phận thì có những “tình tiết” trong thơ của bà không khớp với
đời thực ở một vài sự kiện thì cũng đâu có gì là lạ? Vì vậy việc bà Vân Chung viết
rằng Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939 là hoàn toàn phi lý so với những
gì thật sự đã diễn ra, có lẽ nó chỉ là dụng ý phủ nhận mình là T.T.Kh vì bà tin
rằng sẽ chẳng có ai lại cất công đi “xác minh” lại làm gì.Khi đã lý giải được
những điều nêu trên thì một lần nữa chúng ta lại nhận thấy rằng diễn biến về cuộc
tình đời thực của bà Vân Chung cũng hoàn toàn “trùng khớp” với câu chuyện tình
thơ của T.T.Kh…
9/Bôi nhọ nhà tôi,đúng là
người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một
nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…Chúng ta thấy ngay rằng tác giả
Thế Nhật dựa vào bốn bài thơ nói lên niềm tâm sự của một người thiếu phụ không
có hạnh phúc gia đình lại luôn tưởng nhớ đến tình duyên cũ của T.T.Kh một cách
quá hời hợt, nặng về suy diễn & thiếu căn cứ để cố mà “ép” vào hoàn cảnh của
bà Vân Chung, nóng lòng muốn chứng minh bà chính là T.T.Kh vì thế để cho phải
“giống” T.T.Kh nên tác giả đã “cho” chồng bà phải đi tìm tình yêu ở bên ngoài
gia đình…Đây chính là một trong những đòn nặng nề nhất giáng vào danh dự, tư
cách & lòng kiêu hãnh không những của bà Vân Chung mà ngay cả với mọi người
có cùng hoàn cảnh trên thế gian này cũng không ai có thể chấp nhận & tha thứ
được!Thế Nhật đã quá sai lầm nếu như không muốn nói rằng tác giả đã rất thiếu
nghiêm túc & thiếu tôn trọng sự thật cũng như không hiểu gì về tâm lý người
phụ nữ, nhất lại là ở những người phụ nữ đẹp thì dù có đúng là sự thật như
thế chăng nữa thì họ cũng sẽ không bao giờ chấp nhận sự thật đó bị phơi bày ra
cho thiên hạ thóc mách xem, huống hồ đây lại là điều hoàn toàn bịa đặt!
3-Vì không thừa nhận thì bà
Vân Chung mới chính là T.T.Kh!:
Đến đây câu hỏi vì sao bà
Vân Chung không nhận mình chính là Nữ thi sĩ T.T.Kh đã trở nên vô
cùng dễ hiểu!Bởi vì qua những trang viết phần lớn là hư cấu với những tình tiết
quá là thô thiển, quá là “cải lương” sướt mướt, uá là sai sự thật như đã dẫn của
tác giả Thế Nhật,vậy nếu bà công nhận mình là T.T.Kh thì theo lôgich không lẽ
bà cũng phải thừa nhận luôn những gì tác giả đã viết trong cuốn T.T.Kh
Nàng là ai?Hay là chỉ thừa nhận mình chính là T.T.Kh còn những điều khác thì
bác bỏ?quả là quá buồn cười & quá vớ vẩn phải không?.Hơn nữa,đi sâu vào
phân tích tâm lý chúng ta thấy rằng vào thời điểm hơn 70 năm trước khi hoàn cảnh
lẫn cảm xúc đang dâng trào bởi mối duyên tình ngang trái cũng chưa phải là dĩ
vãng quá xa lại nhận ra được “câu chuyện” của đời mình qua những hình tượng
chưa kịp phôi pha ẩn chứa bên trong tác phẩm của người yêu cũ thì việc bà lên
tiếng “họa” lại & cũng để cho vơi bớt nỗi niềm tâm sự đắng cay cũng là điều
dễ hiểu dễ cảm thông.Tuy nhiên, đằng sau cảm xúc khó kiểm soát đó thì bản thân
bà cũng không khỏi phải giật mình & “e ngại” cho chính bản thân mình vì dù
sao với sự thật không thể thay đổi được của cuộc đời cũng như vòng lễ giáo,những
ràng buộc của gia đình,của xã hội…không cho phép người phụ nữ đã có chồng mà vẫn
còn tưởng nhớ đến mối tình xưa bộc lộ bằng những vần thơ da diết đến thế mà lại
còn công khai danh tính, cho nên việc bà dấu kín tên tuổi bằng mấy chữ cái viết
tắt cũng là lẽ đương nhiên vậy!Phải chăng cũng vì ý thức rõ điều này nên T.T.Kh
mới nhắn nhủ người yêu rằng Cố quên đi nhé câm mà nín…?Ngày xưa đã thế,huống
hồ là bây giờ (năm 1994) khi bà đã nói rõ Vì trải qua bốn mươi năm,cả hai
bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình…Cho
nên việc bà phủ nhận mình là T.T.Kh cũng như ngày hôm nay,những người phụ nữ đã
có chồng thử hỏi trong chúng ta có ai “dám” công khai nhận mình là tác giả của
những vần thơ như than,như khóc về mối tình đã mất như những bài thơ của T.T.Kh
hay không? Đúng như bà Vân Chung đã viết Người con gái nào cũng có quyền
yêu & cấm sao được người ta yêu mình?thế nhưng,thử hỏi ngay đối với những
lá thư tình của người yêu cũ,khi lấy chồng thì bạn sẽ chọn giải pháp nào:-Để lại
nhà Cha,Mẹ hay đem theo valy về nhà chồng? Những ví dụ trên là để chúng ta càng
thêm hiểu vì sao mà bà Vân Chung lại không thể thừa nhận mình là T.T.Kh &
thực tế đôi khi để cho có vẻ xác tín thì người ta còn phải thề độc nữa kia chứ
phản bác như bà cũng đâu có gì gọi là quá quyết liệt (cho riêng việc này)?Cho
nên việc bà Vân Chung không nhận mình là T.T.Kh có lẽ cũng chính là suy nghĩ của
những người phụ nữ có hoàn cảnh như Bà,hành động này làm chúng ta thêm trân trọng
về nhân cách cũng như mãi mãi trân trọng & ngưỡng mộ một tài danh thi phú
đã để lại cho đời những vần thơ đẹp mà cũng vô cùng đớn đau như một tiếng kêu
xé lòng đầy ai oán về quan niệm xã hội đã góp phần “chia uyên-rẽ thúy” của một
thời chưa xa,nói như thế bởi vì quan niệm đó cho đến ngày hôm nay cũng chưa hẳn
là đã chấm dứt hoàn toàn…Ngoài ra,có một tâm lý chung cũng rất khó để chúng ta
có thể lý giải cho đến tận cùng là:-Có những sự việc “Bí ẩn” nào đó đã trở thành
“huyền thoại” sau rất nhiều năm “bám rễ” vào tâm trí con người,đến khi có ai đó
nói ra sự thật thì chưa chắc đã được mấy ai tin đó chính là sự thật,bạn thử ngẫm
xem có đúng không? Cũng từ tất cả những dữ kiện,tài liệu có được của những người
trong cuộc mà nay đã công khai,qua những phân tích,chứng minh trên cơ sở tôn trọng
sự thật vốn có bằng sự khách quan trong đánh giá & nhận đinh…Chúng ta hoàn
toàn có cơ sở để tin rằng:-Bà Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh một
bí ẩn Văn chương-thi phú từ hơn 70 năm qua đã được làm sáng tỏ.Cho nên ngày nay
có ai đó nhận mình là T.T.Kh thì chắc chắn lại không phải là T.T.Kh!...
1-Cuộc hành trình “dang dở”
của nhà văn Thanh Châu:
Sau khi kết thúc bằng 4
bài thơ đăng trên hai tờ báo Tiểu thuyết thứ bảy (trụ sở tại số 93
phố Hàng Bông-Hà Nội) & Phụ nữ **(số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) trong
hai năm 1937-1938 của T.T.Kh,nhà văn Thanh Châu có viết một bài tùy bút nhan
đề Những cánh Hoa tim vào Mùa Thu năm 1939 (Hoài Việt-Thâm
Tâm & T.T.Kh-NXB Hội nhà văn 1991).Thì gần đây nhất cũng lại vào Mùa
Thu năm 1990 ông viết bài cuối cùng với tựa đề Nói thêm về T.T.Kh &
mở ngoặc Tác giả những bài thơ nổi tiếng từ 1937.Bài viết được đăng trên Nguyệt
san văn hóa số cuối năm 1990 (sau đó in trong cuốn sách của Hoài Việt-“Thâm
Tâm & T.T.Kh”-NXB Hội nhà văn 1991).Ông viết: “Năm 1989 Nhà xuất bản Khoa
học xã hội có in mấy truyện ngắn của tôi(cùng một số truyện của Nguyễn
Tuân,Thanh Tịnh.v.v…thời kỳ 1930-1945).Bởi thấy còn nhiều người muốn hiểu rõ
hơn về T.T.kh,tôi đã đưa in lại truyện ngắn Hoa tigôn viết năm 1937
đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy-Truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh,nên
sau đó tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh gửi
đăng liền được bạn đọc đương thời chú ý…Thời tạm chiếm (Pháp) ở Hà Nội,thời Mỹ
ở Sài Gòn vẫn có báo đăng nhắc chuyện T.T.Kh & từ giải phóng miền Nam tới
nay,người đọc các báo văn nghệ,sách nhà xuất bản văn học (thơ Thâm Tâm) vẫn
lại thấy có người tranh cãi về T.T.Kh.Vậy T.T.Kh là ai? có phải là Trần thị
Khánh?hay Tào thị Khê? hay Tôn thị Khuê? Trần thị Khải, Thái thị Khương?Ai mà biết
được?cho nên cuối truyện ngắn Hoa tigôn in lại năm 1989 tôi đã phải viết: T.T.Kh
là ai? Lúc trước (1937) tác giả đã không cho biết địa chỉ,cũng như không chịu
“xuất đầu lộ diện” cho tới ngày nay,nếu còn sống T.T.Kh phải là lớp “cổ lai
hy” rồi.Vậy có nên quí trọng sự khiêm tốn của nhà thơ, hẳn có lý do “ẩn tích”
của mình.
Viết như vậy đâu có ổn.Như
thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ, rồi ra về? Nhưng bạn đọc yêu
thơ lại đòi hỏi khác.Người ta muốn biết T.T.Kh đã vì ai, cho ai mà có
thơ? & người yêu T.T.Kh có đích thị là Thâm Tâm hay Nguyễn Bính hay ai nữa?...Năm
1986, anh Tô Hoài (trong bài viết về Trần Huyền Trân,đăng tuần báo văn nghệ số
45 tháng 11-1986)cũng lại nhắc:“Câu chuyện tình u uẩn mà nhiều báo một thời
bàn tán sôi nổi,nào là Hai sắc hoa Tigôn,nào T.T.Kh,nào Thâm Tâm &
Khánh hay ai?Những éo le mơ hồ,các anh Thanh Châu,Thâm Tâm,Trần Huyền Trân,
Nguyễn Bính,những đồng tác giả ấy-hôm nay cũng còn có bạn có thể kể lại rành
rõ được hay là cứ để mờ ảo mãi như thế? ”...Hôm nay,nhân tìm lại những
tư liệu còn giữ được,tôi muốn kết thúc cái chuyện cũ càng“mờ mịt” này
bằng cách công bố thêm một điều lạ,là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này,khiến
thiên hạ càng đoán phỏng,đoán mò-Chỉ tại Nguyễn Bính đăng một bài thơ (đề tặng
T.T.Kh) bài Cô gái vườn Thanh in năm 1940.Đọc lại bài này,người ta thấy Nguyễn
Bính có đến vườn Thanh, trọ nhà một ông già,ông này kể cho nghe chuyện một thiếu
nữ “Đêm đêm bên cạnh chồng già-Và bên cạnh bóng người xa hiện về”…Và rồi
Nguyễn Bính tự hỏi:
…Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình năm xưa
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ấy bây giờ là đây?
Một người thơ đa tình như
Nguyễn Bính:-“Chuyện xưa hồ lãng quên rồi-Bỗng đâu xem được thơ người vườn
Thanh” (tức T.T.Kh) bèn ra thơ đề tặng T.T.Kh (Cô gái vườn Thanh) người
mà Nguyễn Bính chưa hề biết mặt.Bởi vậy, có người đã khẳng định sau khi đọc
bài thơ Nguyễn Bính rằng:-“Chính ông Bính là người yêu của T.T.Kh rồi làm thơ
người ta tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia-Như thi sĩ Ác-ve đã kín đáo trong
thơ ông ta vậy”.Người thứ hai làm cho mọi người gần hơi thỏa mãn chính là
Thâm Tâm, khi có bài Màu máu Tigôn (gửi T.T.Kh,tác giả bài thơ Hai sắc
hoa Tigôn).
Theo tôi,đây là một bài
thơ dở nhất,không xứng với thơ Thâm Tâm,mặc dù tác giả nói là “K…hỡi người
yêu của…”.? Đến nay, tôi không hiểu bài thơ này in ở đâu? Lấy ở đâu ra,sau này lại
do Mã Giang Lân tuyển in vào tập Thơ Thâm Tâm (do nhà xuất bản Văn
học in năm 1988 mà không đề năm tháng?)Liền sau bài Màu máu Tigôn này,nói
là của Thâm Tâm “tặng T.T.Kh” lại thêm bài Các Anh (cũng ở tập Thơ
Thâm Tâm nói trên)…Cũng may, với sự nghi ngờ có thể hai bài thơ trên là
“thơ dởm” lời thơ thô vụng không chắc của Thâm Tâm, tôi đã tìm đến ông Phạm
Quang Hòa, nghe nói ông trước kia có làm thơ & quen với Thâm Tâm,còn giữ
được nhiều thơ cũ.Ông Phạm Quang Hòa đã chép cho tôi một bài thơ giống như
bài Các Anh nói theo ông Phạm Quang Hòa thì đây là bài thơ Thâm Tâm
trả lời T.T.Kh,sau khi có Bài Thơ cuối cùng của T.T.Kh đăng báo Tiểu thuyết
thứ bảy(?).Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài Các Anh,chỉ
đúng có 8 câu đầu là của bài Các Anh tiếp theo còn 47 câu thì bỏ,để
lại bắt vào đoạn cuối của bài Các Anh với 7 câu kết (như trong bài Các Anh).Vậy
thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài Các Anh (đã in ở sách Thơ
Thâm Tâm-NXB Văn học 1988?)Với vỏn vẹn có 16 câu?.Nếu trích ở đâu sao
không nói rõ?.Về ông Phạm Quang Hòa,ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm
Tâm,nên mới có “Bài thơ trả lời T.T.Kh” của Thâm Tâm mà ông giữ được
cho đến nay,nhưng sao đọc những câu thơ như:
Tiếng xe mở lối
vu quy
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình
anh,mắt Khánh sáng ngời còn ghi…
Khánh
ơi! Còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên…
Rõ ràng lời thơ không xứng
đáng với mối tình tha thiết & cay đắng của một thiếu phụ như T.T.Kh đã giữ
hẹn xưa:
- Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than
bằng những giọng thơ
Tình cảnh một người có chồng,không
quên được người cũ, muốn giữ kín chuyện riêng,lúc nào cũng:
-Tôi run sợ
viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết…
Trong khi đó “người
đàn ông của mình” cứ bô bô réo tên mình lên trong thơ hết K…ơi,lại Khánh ơi.Đến
nỗi T.T.Kh phải kêu lên:
- Là giết đời nhau đấy biết
không?
Dưới giàn hoa máu
tiếng mưa rung
Giận anh em viết
dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu
cuối cùng…
Đã thế lại còn Bài
thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh đăng lên báo Phụ nữ thời
đàm (phố Hội Vũ)?. Bài thơ như T.T.Kh đã nói rõ:
-Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem…
Với mục đích gì “Người
yêu của T.T.Kh” lại đăng lên báo Bài thơ đan áo để đến rồi
T.T.Kh phải “nặng lời”:
- Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh…
Một người nghiêm túc như
Thâm Tâm mà anh,em văn nghệ thời trước từng quen biết,có thể có cử chỉ &
lời thơ dễ dãi,vô ý thức như vậy không? Đó là sự đáng ngờ. Vì vậy, ngày Trần
Huyền Trân còn chưa lâm bệnh nặng,tôi đã hai lần gặng hỏi anh về mối tình của
Thâm Tâm & T.T.Kh có thực có hay không & Trần Huyền Trân người bạn “nối
khố” của Thâm Tâm đã khẳng định là không từng nghe Thâm Tâm nói đến. Vậy
người yêu thực của Thâm Tâm là ai? Có phải là T.T.Kh như lâu nay nhiều người
nghe nói?K…& T.T.Kh là một hay hai?Có người nói:Vào thời thơ T.T.Kh nổi
lên như thế, có nhiều anh tự nhận là người yêu của họ,nên Thâm Tâm đã phải kêu
cái tên Khánh lên rõ to,để mọi kẻ có ý đồ xấu phải im tiếng & hiểu rằng
“Hoa kia đã có chúa xuân” Như vậy lại càng không đúng tư cách Thâm Tâm…Cho
nên, một số bạn thơ văn đích thực là bạn của Thâm Tâm thường nói: “Thâm
Tâm qua đời lâu rồi mà T.T.Kh nếu còn sống cũng đã già lão quá rồi,nên để họ
yên nghỉ với giá trị không thể chối cãi một thời của họ. Những danh Nhân chết
đi bao giờ chả để lại cho người sau vô số huyền thoại,cái đúng,cái sai, cái “dỏm”. Đó
là vinh dự của danh Nhân, không phải vinh dự cho người muốn gắn tên tuổi mình
vào hào quang của người đã khuất…”
Thời Mỹ, ông Vũ Bằng (vào quãng cuối tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy) di cư vào Sài Gòn có dựng câu chuyện: “Quang Dũng là con trai cụ Tản Đà” & nói về T.T.Kh,họ Vũ cũng chép tên thi sĩ Leiba vào, làm mọi người chả hiểu ra sao.Những ai đã từng làm báo với họ Vũ cũng đều thuộc “ngón” làm ăn này của họ Vũ.Leiba (tức Lê văn Bái) có thời gian ngắn làm báo Ích Hữu (của Tân Dân) sau đó thi đỗ,làm ông Phán tòa sứ Sơn Tây rồi mất(1941).Leiba là lớp trước Thâm Tâm, không quen biết gì nhau. Đây chỉ là cách làm báo phao tin “giật gân” cho chạy báo.Cũng cùng một loại phao tin thất thiệt đó, tôi còn nghe một chuyện tức cười nữa là có người “khẳng định” người yêu của Thâm Tâm là em gái cùng Cha,khác Mẹ với nhà thơ Tế Hanh…Buồn thay,lớp người 1930-1945 trong văn học đã theo nhau “đi”gần hết.Còn sót lại có Lưu Trọng Lư,Bùi Hiển,Tô Hoài…Nửa đêm chợt tỉnh anh Lư có còn nhớ nhiều không,với sức nhớ của người trên 70 rồi?
Viết đến đây,tôi muốn cung
cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết về T.T.Kh trước khi chấm dấu cuối
cùng:-Hồi 1937,tôi có nhận được một thư trả lời tòa soạn Tiểu thuyết thứ
bảy của T.T.Kh.Tôi nhớ đại ý người làm thơ không muốn cho địa chỉ để
chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời mình “chả ra sao”.Bức thư đó,cũng
như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo,ai giữ làm gì?Hơn nữa,hồi đó tôi
còn trẻ,nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “Phụ nữ làm thơ”. Nếu tôi là
người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ,có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày
nay, cũng thành có giá. Còn chuyện nữa xin kể nốt:-Hồi làm báo Tiểu thuyết
thứ bảy ở Hà Nội,vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hóa,nên thời thường vẫn
đi về,cũng như Nguyễn Tuân & Hồ Dzếch có gia đình ở thị xã này.Một
hôm,tôi không có mặt ở nhà thấy mẹ tôi bảo: “Có một người con gái
đến chơi,không chịu nói tên,chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo lui”.Từ
đó,không lần nào trở lại.Ai nhỉ?Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái,nhưng
thời gian này báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh rồi,vậy đó là người đã đọc
truyện Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến?
“Ở lại vườn Thanh có một
mình”.Có thể người này vốn dân thị xã này chăng? Sao tôi không biết,không từng
gặp? Lại nữa,nếu như có thực tên người yêu của Thâm Tâm là…Khánh, Trần Thị
Khánh thì bài thơ Các Anh đã gọi toẹt ra rồi.Chỉ có tôi đến hôm nay là còn
chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ T.T.Kh & Thâm Tâm,người nào chẳng nói được
căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: “Khánh ơi” còn hỏi gì anh? Khánh ơi, còn đợi
gì anh…? Chả thầy bói cũng nói trúng tên: “Người ấy” T.T.Kh (tức Khánh). Năm
tháng đã cuốn theo chiều gió bao chuyện vui buồn. Cái gì còn lại vẫn
là tài năng,đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc đến T.T.Kh là do sức sống của
thơ.Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong hai bài thơ đầu(mùa thu tâm sự
đầy khắc khoải)…Lại có người nhấn mạnh mấy chữ lúc thì tôi,lúc thì em trong
thơ T.T.Kh (vừa giận vừa thương của một tấm lòng tha thứ,khi thấy người yêu
làm vỡ lở tình duyên cũ). Riêng tôi,đọc lại thơ T.T.Kh tôi ngạc nhiên thấy
phong cách thơ bà này khác xa thơ của ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần
Huyền Trân cùng thời. Thơ T.T.Kh không có những chữ:
- Ly khách, ải xa, trường thành. quan san, cô phụ, đoạn trường…(Thâm Tâm) hay: - Rau tần, ngõ trúc, giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tịch liêu… (Nguyễn Bính). Thơ T.T.Kh kể chuyện mình một cách giản dị,không sáo ngữ…không cố tìm chữ lạ, không làm dáng nên dễ đi vào lòng người, nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả cái giận,nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không dứt được…thật chân thành.Từ 1937 đến 1938, để lại 3 bài thơ chuyên tả tâm sự mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T.T.Kh.
T.T.Kh là ai? Có lẽ ta cũng
chẳng cần biết rõ đó là ai?Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà,nếu bà còn đã
đáng bậc bà-không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên
đi,đào sâu chôn chặt mối tình đau xót bất hạnh của mình mà có những bài
thơ như thế,chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt hẳn không giống kẻ kém
tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ tình được lên báo,vì danh hay vì lợi. Với
sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi trong quá khứ, chúng
tôi viết bài này & đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất
vô nhị của bà, để chúng ta cùng thưởng thức.”
“Mùa
thu 1990- THANH CHÂU”
Đọc thật kỹ những gì ông vừa
viết rồi so sánh với bài tùy bút Những cánh Hoa tim vào Mùa
Thu năm 1939 cũng của ông,chúng ta thấy rõ một điều là: -Ngoài việc “tự sự”về
những cảm xúc của một thời đã qua. Ông cũng làm cái việc như chúng ta đang làm
từ đầu đến giờ, đó là đưa ra những sự kiện, dẫn chứng để phân tích,chứng minh rằng
Thâm Tâm, Nguyễn Bính hay bà Trần Thị Khánh nào đó không phải là T.T.Kh, hay
nói cách khác là T.T.Kh không liên quan gì tới họ!với sự tỉ mỷ từng câu chữ
trong thơ của những người liên quan như trong bài viết…Nhưng khác chúng ta lại
là ở chỗ:-Tại sao & với lý do gì mà ông không “đi” đến tận cùng của sự việc
như chính ông vừa viết ở trên: Viết như vậy đâu có ổn.Như thế khác gì
người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ,rồi ra về?Người ta muốn biết T.T.Kh đã vì
ai,cho ai mà có thơ?Vì sao ông lại không muốn chứng minh ai là T.T.Kh như
chúng ta đã & đang làm?Để cho đến tận cùng,chúng ta cùng phân tích,lý giải
điều“bí ẩn”có thể coi là cuối cùng này cho hết lẽ.Đầu tiên,như các phần trước
đã chứng minh thì nay chính nhà văn Thanh Châu cũng xác nhận: truyện ngắn
Hoa tigôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy-Truyện ngắn
đã gây xúc cảm cho T.T.Kh,nên sau đó tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nhận được mấy
bài thơ của T.T.Kh. Lý do thực sự vì sao thì chúng ta cũng đã biết…Và ông viết: hồi
đó tôi còn trẻ,nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “Phụ nữ làm
thơ”…khi ta so sánh với câu cũng của chính ông tâm sự trong bài tùy bút Những cánh
Hoa tim: Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy,ở
tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh (bài thơ Hai sắc hoa tigôn)… bài
thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ
lại tình duyên cũ…Bài thơ hay & xúc động đến nỗi chính ông cũng đã phải
thừa nhận: tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng
một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt
mãi trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm, thì
rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…Tôi cầu chẳng bao giờ gặp mặt
T.T.Kh để được yêu thơ hơn…Tại sao lại thế? không lẽ ông lại “tiền hậu bất
nhất” với chính ông? Chắc chắn không thể như vậy, bởi vì khi viết bài tùy bút
này là ông đang ở trong tâm trạng vô cùng đau đớn, xúc động, bồi hồi khi “nhận
ra” tình xưa trên những trang thơ đẫm lệ như than khóc cho một tình yêu đã
không thể đến được bến bờ hạnh phúc của người yêu cũ. Những bài thơ ấy cũng
như là một sự “trở về” vậy, bởi lẽ vì nhiều lý do, kể từ ngày họ phải xa nhau
hai người đã gần như mất liên lạc cho nên những bài thơ ấy giống như một cuốn
phim đời đầy xúc cảm liêu trai hiện về trong nỗi cô đơn nơi đất khách quê người
& đó cũng chính là “động lực” khiến ông viết nên bài tùy bút đầy nỗi niềm
tâm sự như một “thông điệp” bày tỏ tấm lòng với “người ấy” của mình…Khi viết
những dòng trên,phải chăng đó chỉ là “biện pháp” đánh lạc hướng giúp ông né
tránh việc tò mò của người đời muốn biết về danh phận, sự liên quan của hai
người cũng như những nội dung thực sự ẩn chứa “bên trong” bức thư của T.T.Kh
như ông cho biết:- Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có
lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành có giá.? …
Câu chuyện “Có một người
con gái đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa Tigôn rồi cáo
lui”. Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn
gái, nhưng thời gian này báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh rồi, vậy đó là
người đã đọc truyện Hoa Tigôn của tôi hay đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến?.
.Đọc đến đoạn này chúng ta cảm thấy có một điều gì đó hơi “lấn cấn” &
cũng giống như trong bài tùy bút, chỉ khác là hồi đó ông viết: Một buổi
trưa có hai người đàn bà….Đọc đi đọc lại đoạn văn trên, chúng ta thấy rõ ràng
là không lẽ lại có người đoán ra vì có truyện ngắn Hoa Tigôn nên mới
có thơ của T.T.Kh? Vì vào thời đó làm gì đã có đủ mọi nguồn tư liệu như
ngày nay để có thể hiểu được “móc xích” của sự việc mà chỉ mình ông & một
người nữa ở “trong cuộc”biết?Trong khi chính điều này mới là lý do chủ yếu để
tồn tại bí ẩn về T.T.Kh kéo dài hơn 70 năm qua với nào là Nguyễn
Bính,nào là Thâm Tâm,nào là Trần Thị Khánh…Phải chăng vì mang tâm lý chính là
“người trong cuộc” nên ông mới vô tình thay độc giả mà “đoán giúp” rằng:-Có sự
liên quan giữa truyện ngắn & những bài thơ bằng câu hỏi như vậy?hơn
nữa,vào thời gian đó đã & đang rộ lên bao lời đồn đoán làm cho rất nhiều
người tin là thật như chúng ta cũng đã biết, vậy thì tại sao “những người phụ
nữ” đó không tìm đến để tặng hoa các nhân vật vừa kể ở trên?Vả lại nếu vì hay
đã yêu thơ của T.T.Kh mà tìm đến thì tại sao họ không tặng chung cho tòa
soạn là nơi đăng những bài thơ mà lại chỉ tặng riêng ông? hay họ chỉ tặng hoa
vì đã đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của ông?mà nhận xét thật khách quan
thì truyện ngắn đó cũng không có gì là đặc sắc nếu đem so với những tác phẩm
của nhóm Tự lực văn đoàn cùng thời.Đến đây,chắc hẳn sẽ có người cho
rằng,biết đâu truyện dở đối với người này nhưng lại hay đối với người khác
thì sao?Chúng ta cần phải nhớ rằng,nếu bỏ qua những tình tiết về những
cánh hoa Tigôn thì đây chỉ là một câu chuyện ngoại tình vốn không thể được
chấp nhận trong xã hội đương thời cách nay hơn 70 năm,nếu có thì cũng chỉ tạo
nên sự tò mò chứ không thể là sự ngưỡng mộ của người đời,đó là một thực tế
khó phản bác.Trừ phi người chồng quá tệ bạc thì nhiều nhất cũng chỉ nhận thêm
được sự cảm thông mà thôi…Cũng trong bài tùy bút ông viết:Thế nhưng,tôi không
khỏi có chút tự kiêu vì đã “tạo” ra được một người đàn bà thi sĩ…Nếu có
ai hỏi tôi làm được điều gì thú vị,tôi xin nói ngay rằng:-Tôi đã viết nên
truyện Hoa Tigôn…(cần lưu ý chi tiết việc có người đến tặng hoa,nếu có, là xảy
ra trước khi có bài tùy bút cũng như bài viết này) đến đây ta thấy được rằng
có lẽ câu hỏi đó chẳng qua cũng chỉ là một giải pháp “gây nhiễu” nhằm dấu kín
danh phận cho T.T.Kh,trong tâm trạng bồi hồi xúc động & đầy nuối tiếc đã
khiến cho ông khó giữ được sự kín kẽ nên có vẻ bị rơi vào tình trạng “dấu đầu
hở đuôi” chăng?.Và đây ông viết:“Ở lại vườn Thanh có một mình”.Có thể người
này vốn dân thị xã này chăng?Sao tôi không biết,không từng gặp?chi tiết Tuổi
tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái có lẽ cũng nằm trong “giải pháp” nêu
trên hơn là sự thật bởi ở cái thị xã bé tí như vậy ai mà chẳng biết về mối
tình của ông Thanh Châu & bà Vân Chung dù đôi ba bạn gái đó chỉ
là tình bạn đúng nghĩa?Cũng có thể người bạn gái đó được bà Vân Chung nhờ đem
hoa đến nhà cho nên gia đình ông Thanh Châu mới không biết mặt?Dù thế nào thì
điều này cũng không mấy quan trọng,vì cần phân tích cho hết lẽ nên chúng ta mới
đi sâu một chút chứ thật ra cũng không mấy ảnh hưởng đến việc chứng minh rằng
bà Vân Chung chính là T.T.Kh như chúng ta đã đạt được từ những phần trước.Bây
giờ,khi “đặt” thật gần nhau lời ông viết: Đã thế lại còn Bài thơ đan
áo(1938).Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội
Vũ)?** ở phần giữa với câu… đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất
vô nhị của bà,để chúng ta cùng thưởng thức ở cuối bài viết,chúng ta
có thấy một điều gì đó bất thường không? Tại sao ông lại dùng từ độc nhất
vô nhị? Tại sao T.T.Kh có bốn bài thơ mà ông lại chỉ “liệt
kê”có ba? không lẽ chỉ vì ba bài thơ đó được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy thì
mới có giá trị? Trong khi ở trên ông cũng đã khẳng định Bài thơ đan áo là
của T.T.Kh? Hơn nữa chúng ta sẽ phải hiểu & lý giải thế nào đây khi Bài
thơ cuối cùng của T.T.Kh cũng có câu, như một lời minh chứng cho điều
đó?:
-Chỉ có ba người đã đọc riêng
Phải chăng,đó cũng là một
trong những cách “đánh lạc hướng” để không làm lộ sự liên quan của
mình cũng như không để lộ T.T.Kh là ai sau khi ông đã cố gắng chứng
minh rằng mọi lời đồn đoán từ trước đến nay (1990) để “gán ghép” cho một số
nhà thơ là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh chỉ là những lời vô căn cứ
& không đúng với sự thật?Bởi lẽ,nếu không có Bài thơ đan áo thì
khó mà cắt nghĩa được vì sao T.T.Kh lại phải viết Bài thơ cuối cùng với
lời lẽ khá là gay gắt như thế để làm gì?Còn nếu cho rằng là độc nhất vô
nhị thì có lẽ chỉ có bài thơ đầu tiên Hai sắc hoa Tigôn mới xứng
đáng được mang “danh hiệu” này vì muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận
là hay nhất trong số bốn bài thơ mà T.T.Kh để lại! …Vì vậy câu hỏi tại sao
ông lại “lờ đi” Bài thơ đan áo ở cuối bài viết mà lẽ ra ông phải viết
là đề nghị cho in lại bốn bài thơ độc nhất vô nhị của bà,để chúng ta
cùng thưởng thức chỉ có thể được sáng tỏ nếu chúng ta hiểu & giải
thích như trên mà thôi & thực chất tất cả những gì mà ông đã làm kể từ
bài tùy bút vào mùa Thu năm 1939 đến nay cũng chỉ nhằm mục đích là để trả lại
sự “trong sạch”cho người ông yêu-bà Vân Chung-T.T.Kh trước những lời đồn đại
của người đời.Cho nên nếu bảo rằng đây chính là cuộc hành trình “dang dở” của
nhà văn Thanh Châu cũng đâu phải là không có lý?...
2-Vì sao nhà văn Thanh
Châu cũng không chịu tiết lộ ai là T.T.Kh?:
Ngày xưa T.T.Kh đã viết: -Cố
quên đi nhé câm mà nín…như một lời giao hẹn giữa hai người, ngày nay (1994) bà
Vân Chung cũng lại viết trong bức thư ngỏ đề ngày mùng 4 tháng 11: trải
qua bốn mươi năm,cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận
đối với gia đình mình. Và ông Thanh Châu cũng đã viết trong bài tùy bút khi
xưa: Tôi thì tôi chưa được biết mặt,biết tên thực của T.T.Kh, tôi chỉ biết
rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực
thà cảm xúc.Còn muốn gì hơn nữa? Còn bây giờ (1990) ông đã gần như lặp lại: T.T.Kh
là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai?Tôi không tin rằng ai đó tìm
ra bà,nếu bà còn đã đáng bậc bà-không thể được bà sẵn lòng tiếp đón.Một người
đã cố tình quên đi,đào sâu chôn chặt mối tình đau xót bất hạnh của mình mà có
những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt hẳn không giống kẻ kém
tài, kém đức chỉ mong có nổi bài thơ tình được lên báo,vì danh hay vì lợi. Đó
chính là lời tự sự đầy trách nhiệm, đầy nhân cách chỉ có ở những người thực sự
đã & mãi mãi yêu nhau trên thế gian này. Đó cũng chính là câu trả lời cho
câu hỏi ở trên kia một cách đủ đầy nhất, ý nghĩa nhất khiến cho ta vô cùng
trân trọng...
Bây giờ, chúng ta hãy cùng
nhà văn Trần Đình Thu “ghé thăm” ông, nhà văn Thanh Châu vào một buổi chiều cuối
thu nhạt nắng của năm 2003 trong một căn gác nhỏ ở quận Tân Bình-tp.HCM,một
buổi chiều giống như ngày ấy năm xưa bà Vân Chung-T.T.Kh đã mô tả:Nhuộm ánh nắng
tà qua mái tóc-Tôi chờ người đến với yêu đương…
“…Khi đó ông đang nằm trên
giường bệnh,nói năng rất khó khăn nhưng vẫn cố gắng trả lời những câu hỏi tò
mò của tôi.Dù phải chắp nối để nghe cho rõ câu chuyện nhưng tôi cảm nhận được
sự thổn thức trong tim ông khi ông nhắc lại mối tình đã tan vỡ gần bảy mươi
năm về trước.Có lẽ đó là lần đầu tiên ông tiết lộ vài chi tiết về mối tình bi
thương ấy cho một người nghiên cứu như tôi nghe…Tôi đã đưa đích danh Trần Thị
Vân Chung ra để hỏi,nhưng trong lòng tôi cứ sợ ông chối,không nhận mình là
người yêu của bà Trần Thị Vân Chung…vì thế tôi đã lặng người đi khi ông gật đầu
trước câu hỏi đó của tôi.Sợ ông nghe nhầm câu hỏi,tôi phải hỏi đi hỏi lại ba,
bốn lần,ghi âm cẩn thận & ông vẫn gật đầu: “Vâng,bà Vân Chung & tôi
có yêu nhau”.Sau câu trả lời đó của ông,tôi đi sâu vào chuyện tình & ông
đã không ngần ngại kể cho tôi nghe một số tình tiết câu chuyện…Tôi sung sướng
tột độ trước những thông tin từ tiết lộ chân thành này của nhà văn Thanh
Châu.Cùng đi với tôi có nhà văn Nguyễn Khoa Đăng…Tôi ghé sát vào tai ông
& hỏi (vì khi đó ông đã khá nặng tai rồi):- Trần Thị Vân Chung có phải là
T.T.Kh không ạ? Hai,ba lần hỏi ông mới nghe rõ & ngó mặt đi chỗ
khác:Không!Không phải!Bà Vân Chung không phải là T.T.Kh.Toàn bày vẽ chuyện.
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng
thất vọng ra mặt, nhưng tôi thì khác.Tôi không hề đón chờ câu trả lời “Vâng,
Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh” vào lúc này.Dù rằng tôi phải hỏi bằng được
câu hỏi ấy.Câu trả lời,nếu có phải là lúc ông sắp sửa đi xa mãi mãi vào cõi
vô cùng.Hoặc có thể là không bao giờ có câu trả lời ấy…”
Nhận định của Trần Đình
Thu là hoàn toàn chính xác,với nhân cách & tình yêu sâu nặng mà hai người
đã (và có lẽ mãi mãi vẫn dành cho nhau) trong trái tim không ngừng thổn thức
để chờ một ngày nào đó có thể cùng nhau trên con thuyền ngược về dĩ vãng,ông
Thanh Châu sẽ không bao giờ tiết lộ điều mà họ đã ước hẹn từ những năm xa lắm,ngày
xưa…
Nhưng chúng ta cũng đừng
nên thất vọng,vì như ông nói:- Toàn bày vẽ chuyện lại không phải là
một lời phủ định,vì sao?.Theo nghĩa tiếng Việt thì “bày vẽ chuyện” chỉ là Đừng
có mà nhiều chuyện,đừng có mà tò mò-thóc mach (chuyện của người khác)…Còn nói
theo ngôn từ Miền Nam là :
- Đừng có mà rách việc…Vậy,chúng ta còn mong gì hơn thế?
Nhà văn Thanh Châu-Ảnh
chụp năm 2003
3- Bí ẩn cuối cùng về bút
danh T.T.Kh: Có lẽ bút danh không xa lạ với loài Người kể từ khi xuất hiện
chữ viết,nhất là đối với các nhà văn,nhà thơ,nhà báo v.v...Dĩ nhiên là chẳng
có qui định nào về bút danh phải thế này hay phải thế kia mà hoàn toàn phụ
thuộc vào mỗi cá nhân,ví dụ có người lấy tên con hay tên đệm (tên lót) của
hai vợ-chồng hay người yêu làm bút danh,thậm chí lấy một cái tên nào đó chẳng
liên quan gì đến tên thật của mình hoặc là dùng bút danh với mấy chữ cái viết
tắt,thông thường là dùng chữ cái đầu của Họ-Tên đệm (lót) & Tên thường
dùng...đấy là những nét chính của việc dùng bút danh mà chúng ta thường thấy,chưa
kể trường hợp người dùng bút danh nếu không muốn cho ai biết "mình là
ai" chỉ với mấy chữ cái chẳng theo thứ tự nào thì không biết đâu mà
đoán...Ở các phần trên chúng ta cũng đã chứng minh được bà Trần Thị Vân Chung
là nữ thi sĩ T.T.Kh!.Còn lại điều bí ẩn cuối cùng chính là cái bút danh
này,bây giờ chúng ta hãy cùng nhau khám phá:Trước hết,đây là bút danh thuộc
"dạng" dùng những chữ cái đầu tiên của Họ-Tên đệm (tên lót) & Tên
thường dùng như chúng ta thường thấy,nhìn vào ảnh minh hoạ chúng ta dễ dàng
nhận ra 2 chữ cái đầu là Họ (Trần)-Tên đệm (Thị) nhưng không có chữ V(Vân) điều
này không khó để lý giải bởi lẽ khi tác giả đã cố tình dấu kín danh phận thì
việc bỏ (thậm chí là dùng chữ khác hẳn) một tên đệm nào đấy là hoàn toàn dễ
hiểu & chấp nhận được...nhưng rắc rối nhất lại là: -Tại sao cụm chữ Ch (Tên
thường gọi) lại có thể là Kh? Để lý giải được điều này chúng ta phải ngược
thời gian về cách nay hơn 100 năm trước,đầu tiên việc dùng tên đệm Thị là chỉ
con gái & chữ Văn để chỉ con trai là truyền thống từ xa xưa của các Cụ
còn các tên đệm (lót) khác (ví dụ như: Vân,Thuý...) lại đa phần rơi vào những
gia đình khá giả ngày xưa (xin lưu ý: Đừng nhìn sự việc theo nhãn quan của ngày
hôm nay mà hãy "đặt" mình trong bối cảnh xã hội cách nay trên-dưới
một thế kỷ...) Lật lại lịch sử chúng ta cũng sẽ thấy rằng có khá nhiều tên gọi
hay địa danh giữa người Việt và người Pháp "đá nhau" như thế nào
xoay quanh hai chữ cái C & K (chữ trong ngoặc là người
Pháp dùng) ví dụ: Bắc Cạn (Bac Kan)-Móng Cái (Mong Kay)-Lào Cai (Lao Kay) một
trong những vấn đề lịch sử để lại như sau: Ngày 12/7/1907 toàn quyền Đông
Dương Beau ký sắc lệnh thành lập tỉnh Lào Cai,đăng trên công báo Đông Dương số
1053 ra ngày 18/7/1907 (bản có dấu mang ký hiệu N 1053-mã lưu 400 hiện đang
được lưu tại TT lưu trữ Quốc Gia tại Hà Nội) địa danh Lào Cai được chính quyền
Pháp sử dụng trong các loại văn bản & con dấu chính thức lại viết & gọi
là LAO KAY cho đến tháng 11/1950 (sau chiến dịch biên giới) chính
quyền nước VNDCCH mới thống nhất đổi tên gọi là Lào Cai cho đến ngày
nay.Trong tác phẩm "Đường Kach Mệnh" của Nguyễn Ái Quốc chúng ta đã
thấy chữ C (cách) lại được viết thành chữ K (kach) nhưng có một điều chắc chắn
là cụ Hồ không phải là người đầu tiên "nghĩ ra" để viết chữ C thành
chữ K mà là do ảnh hưởng từ hệ thống hành chính & giáo dục thời thuộc
Pháp...Ông Thanh Châu & Bà Vân Chung cũng từng theo học trong hệ thống
hành chính & giáo dục ấy thì không thể không biết và không thể không bị ảnh
hưởng…Phải chăng vì thế mà bà Vân Chung cũng "sáng tạo" viết chữ C tên
mình thành chữ K & bỏ hẳn chữ Vân để tạo thành cụm chữ cái viết
tắt T.T.Kh mà không để lộ Danh tính?
4- Nhìn lại “chặng đường”
đã qua:
Chúng ta cũng vừa “đi” hết
chặng đường tái khám phá bí ẩn:
-Ai là T.T.Kh? & đã có thể mở toang được cánh cửa chứa đựng toàn bộ những điều bí mật từ hơn 70 năm qua để tất cả những ai quan tâm đến câu chuyện tình buồn này cùng được biết, cùng thấu hiểu,cùng tiếc nuối cho một mối tình đầy lãng mạn nhưng cũng vô cùng đớn đau của một thời dĩ vãng chưa thể lãng quên & chúng ta cũng có thể tin rằng đến đây điều bí ẩn Ai là T.T.Kh? sẽ chính thức được khép lại…
Kết thúc việc tái “khám
phá bí ẩn” này chúng ta chắc chắn đã có được những dữ kiện sau:
A- Cũng như ông Thanh
Châu, chúng ta đã chứng minh được rằng:-Mọi đồn đoán về các nhà thơ như Nguyễn
Bính,Thâm Tâm hay Trần Thị Khánh.v.v…chẳng liên quan gì đến T.T.Kh!
B- Rõ ràng là khi truyện ngắn Hoa
Tigôn của nhà văn Thanh Châu ra đời thì mới xuất hiện bài thơ Hai sắc
hoa Tigôn của T.T.Kh & những bài thơ tiếp theo trong hai năm
1937-1938. Sự liên quan ấy đến nay cũng đã được “người trong cuộc”-nhà
văn Thanh Châu xác nhận qua bài viết của ông.Như vậy cũng dẫn đến sự liên
quan giữa hai tác giả là nhà văn Thanh Châu & Nữthi sĩ ẩn
danh T.T.Kh!
C-Từ điều đã biết về mối
tình giữa ông Thanh Châu & bà Vân Chung do chính họ xác nhận.Chúng ta
cũng đã chứng minh được rằng bà Trần Thị Vân Chung chính là Nữ
thi sĩ T.T.Kh,bởi không ai có được một “Nhân thân”quá phù hợp & trùng khớp
so với tình yêu ngoài đời thực như Bà, mà điều đó đến nay cũng đã được một “nửa
kia” của Bà-nhà văn Thanh Châu gián tiếp thừa nhận.
D-Do hoàn cảnh lịch sử những
năm chiến tranh 1954-1975 cũng như một số năm sau đó cho nên ở ngoài miền Bắc
đa phần chỉ biết đến hai bài thơ của bà Vân Chung-T.T.Kh là:-Hai sắc hoa
Tigôn & Bài thơ thứ nhất,ngược lại ở miền Nam suốt từ sau năm
1954 đến 1975 vẫn đều đặn xuất bản các tác phẩm văn-thơ của thời tiền chiến
(giai đoạn 1930-1939) & kể cả giai đoạn sau đến năm 1945…
nên nguồn tư liệu nhờ thế
mà không bị gián đoạn & cho đến hôm nay,chúng ta cũng đã biết được một điều
chắc chắn là ngoài hai bài thơ nêu trên,bà Vân Chung-T.T.Kh còn có hai bài
thơ nữa là: Bài thơ đan áo & Bài thơ cuối cùng như
chính nhà văn Thanh Châu xác nhận,bởi ngoài “sự liên quan” ông còn là một
thành viên trong tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy nơi đã đăng báo ba
trong số bốn bài thơ đã dẫn vào hai năm 1937-1938!.
E-Đây là thể loại “điều
tra” về văn học sử,chúng ta không thể trông đợi những người trong cuộc phải
chính thức lên tiếng thừa nhận ai là T.T.Kh thì mới là điều xác tín vì như thế
thì lại không đúng với nhân cách cũng như hoàn cảnh thực tế của họ!Chúng ta
chỉ có thể nhận được sự thật ở họ một cách gián tiếp mà thôi,vì thế ta phải
“đi đường vòng” bằng chính những sự kiện có thật ngoài đời-các tác phẩm của
chính họ & của những người liên quan đến câu chuyện để từ đó phân tích,lý
giải,phản biện & chứng minh nhằm tìm ra sự thật vốn có một cách thuyết phục
nhất có thể,còn nếu vẫn nghi ngờ thì chính chúng ta sẽ lại phải chứng minh những
điều ngược lại từ những tài liệu mà ta có!. Bạn có phản biện được không?
VỀ NGUỒN GỐC TÀI LIỆU:
Những tài liệu có liên
quan trực tiếp đến câu chuyện tình buồn này đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng,
được trích dẫn qua những tác phẩm,bài viết hay thư tín của các tác giả đã được
in ở những nhà xuất bản cũng như các tờ tạp chí,tờ báo có uy tín từ xưa cho đến
ngày nay!.Tuy nhiên,có hai bài viết & tác phẩm cho đến nay chưa biết rõ
chính xác đã được đăng ở báo nào? Đây là ý kiến của nhà văn Lại Nguyên
Ân về vấn đề này gửi cho tôi khi loạt bài này được đăng trên trang Văn
chương Việt
*Về bài viết của Bùi
Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm
1951)ông viết:-“…Tạp chí Văn Nghệ kháng chiến nào?Nếu là tạp chí Văn Nghệ của Hội
văn nghệ ViệtNam, xuất bản tại Việt Bắc,thì tạp chí này không có số nào ra
vào tháng 5/1951, cũng chưa từng đăng bài nào của tác giả Bùi Viết Tân suốt từ
số 1(ra năm 1948) đến số 56 (ra tháng 10/1954,là số cuối cùng in ở Việt Bắc). Nói
rõ hơn: Sau số kép 27 & 28 (tháng 11 & tháng chạp năm 1950) Văn Nghệ đổi
đề tài, trên thực tế là ngừng khá lâu; số 29 được ghi là “loại mới” ra ngày
15/8/1951 & trong năm 1951 chỉ ra thêm được 4 số nữa,tới số 34(ra ngày
15/12/1951)mà thôi.Vậy đào đâu cho thấy số ra vào tháng 5/1951?.Xin nhắc:-Toàn
bộ tạp chí Văn Nghệ thời kháng chiến 1946-1954 của Hội văn nghệ Việt Nam đã
được làm thành sưu tập, NXB Hội Nhà Văn in từ năm 1996 đến 2006 gồm 7 tập, do
nhà báo Hữu Nhuận & tôi sưu tầm và biên soạn, bạn nào cần tìm bài vở xuất
hiện ở thời kỳ đó,xin tìm sưu tập đó, hiện có tại các thư viện”
Câu hỏi được đặt ra ở đây
là:-Liệu trong thời gian kháng chiến ngoài tạp chí của Hội văn nghệ Việt
Nam xuất bản tại Việt Bắc còn có tờ tạp chí Văn nghệ nào khác,in ở Liên
khu nào đó ngoài Việt Bắc hay không?và nếu không thì tại sao bài viết ấy
ở đâu ra mà lại được các tác giả Thế Phong & Trần Đình Thu cũng như nhiều
tờ báo sau này đăng lại? ví dụ như:-Tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn,tạp trí
Kiến thức ngày nay v.v…
**Về bài thơ Bài thơ
đan áo thì một “người trong cuộc” là nhà văn Thanh Châu viết(năm 1990):
“Đã thế lại còn Bài thơ đan áo(1938).Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh
đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)?...” Nhà văn Lại Nguyên
Ân cho biết về xuất xứ của mấy tờ báo,trong đó có tờ báo mà ông Thanh Châu vừa
nhắc đến: “Phụ nữ thời đàm không hề đóng tòa soạn ở phố Hội Vũ bao giờ!
Đây là tờ báo tư nhân của ông,bà Nguyễn văn Đa ở 11-13 phố sông Tô Lịch(nay
là phố Hàng Lược) ban đầu hoạt động như một tờ nhật báo; số 1 ra ngày
8/12/1930; đến năm 1933 chủ nhân tờ này mời Phan Khôi làm chủ bút, ổi sang tuần
báo, ra số 1 ngày 17/9/1933 kéo dài đến số 26(5/6/1934)sang năm 1938 một nhóm
theo xu hướng Đệ tam quốc tế đã tục bản Phụ nữ thời đàm tại trụ sở 59 phố Hà
Trung-Hà Nội,tờ này chỉ tồn tại được trong gần 4 tháng(25/8/1938-12/1938).
Trên thực tế, không hề có
việc Phụ nữ thời đàm đăng bài thơ của T.T.Kh…Tờ báo có thể đã can dự việc
đăng thơ T.T.Kh là tờ báo có tên Phụ Nữ đóng tòa soạn tại nhà số 7 phố Hội
Vũ-Hà Nội, chủ nhiệm là bà Nguyễn Thị Thảo. Chính Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho
tờ này nên khi làm bài thơ “Gửi Trương Tửu” mới có câu “còn tôi bưng thúng
cho đàn bà…”(trích theo trí nhớ,có thể chưa chuẩn xác).Tờ này hiện không còn
sưu tập nào lưu ở mấy thư viện lớn ở Hà Nội,nên ai nói căn cứ vào nó thì hẳn
là nói dựa,lấy nguồn gián tiếp từ các bài hồi ức hoặc bài báo vu vơ nào đó,rất
khó chuẩn xác.”
Như vậy ở đây phải chăng đã
có sự nhầm lẫn giữa tờ báo Phụ nữ với Phụ nữ thời đàm vì
quá lâu ngày của nhà văn Thanh Châu như chính ông đã viết:Nửa đêm chợt tỉnh
anh Lư có còn nhớ nhiều không,với sức nhớ của người trên 70 rồi?...
Một câu hỏi nữa là nếu như Chính
Nguyễn Vỹ đã làm biên tập cho tờ này (tức báo Phụ Nữ tòa soạn
tại số 7 phố Hội Vũ-Hà Nội) thì tại sao khi viết câu chuyện “Thâm Tâm
& Sự thật về T.T.Kh” (từ trang 297 đến trang 312) in trong cuốn
“Văn-Thi sĩ tiền chiến”-Xuất bản lần đầu năm 1970-Tái bản năm 2007 ông lại
không hề nhắc tới việc Bài thơ đan áo đã được đăng ở báo này vào
năm 1938?. Phải chăng điều đó cũng là một dạng (trích theo trí nhớ,có thể
chưa chuẩn xác) của nhà văn Lại Nguyên Ân?...Ông Hoàng Tiến trong bài viết
năm 1989 có nhắc đến Bài thơ đan áo in ở báo Phụ nữ nhưng
lại không cho biết trụ sở tòa soạn nằm ở đâu? Theo như kết luận của nhà văn Lại
Nguyên Ân thì hiện nay tờ báo Phụ nữ này không còn được lưu trữ tại
mấy thư viện lớn ở Hà Nội.Vậy nếu tờ báo này vẫn có thể có ở những nhà sưu tập
cá nhân hoặc tại những thư viện nhỏ thì sao?vì vậy nếu cho rằng:… lấy
nguồn gián tiếp từ các bài hồi ức hoặc bài báo vu vơ nào đó,rất khó chuẩn xác liệu
có quá vội vàng?Hơn nữa nếu không có Bài thơ đan áo thì chắc chắn
T.T.Kh sẽ không thể có Bài thơ cuối cùng để làm gì & chúng ta
cũng không thể nào phản bác được sự liên quan “cơ hữu” với nhau giữa hai bài
thơ nêu trên!...cho nên thực ra việc tờ báo nào đã đăng bài thơ này cũng
không hề làm ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật về T.T.Kh!...nhưng dẫu sao việc
tìm ra được tờ báo nào thực sự đã đăng tải nó cũng là một việc cần thiết nhằm
trả lại một sự thật vốn có của một thời đã qua trong lịch sử báo chí và văn
chương nước nhà…
* THAY LỜI KẾT:
Ngày 28 tháng 9 năm 2007
tôi gặp tác giả của “Giải mã Nghi án văn học T.T.Kh” Trần Đình
Thu lần đầu,tác giả đã ký tặng vào cuốn sách …Trần Đình Thu chỉ kém tôi
vài tuổi cũng coi là cùng một thế hệ,hai chúng tôi cũng còn gặp nhau vài lần
nữa,chủ yếu là cùng bàn luận về cuốn sách cũng như về bà T.T.Kh, tôi có nêu
lên vài thắc mắc về một số dữ kiện chưa được rõ lắm, Trần Đình Thu kể về cuộc
nói chuyện với nhà văn Thanh Châu mà anh đã ghi âm lại, cũng như lần
gặp bà Thư Linh người được ví như Nguồn sáng đầu tiên soi rọi vào một
“cánh cửa” chứa đựng những bí ẩn bên trong mà sau đó Trần Đình Thu chính là
người đã tìm ra chiếc “chìa khóa” để mở cánh cửa này, tuy nhiên có lẽ do lâu
ngày “chiếc chìa khóa” ấy vẫn còn bị bám nhiều “bụi thời gian” nên hơi khó mở,nó
giống như những thắc mắc mà tôi nêu lên chủ yếu là vì tác giả chưa chú ý
phân tích, lý giải thật cặn kẽ cho đến tận cùng về nhiều sự kiện được đưa ra
làm dẫn chứng, đặc biệt là những“bí ẩn” đằng sau việc tại sao những người
trong cuộc lại phủ nhận mình là T.T.Kh...một cách thuyết phục. Khiến cho độc
giả vô cùng hoang mang nhất là sau khi đọc hai lá thư ngỏ gửi từ Pháp về
của bà Vân Chung nhân vật mà trước đó đã được tác giả chứng minh chính là Nữ
thi sĩ “bí ẩn” T.T.Kh được đăng công khai trên một số tờ báo điều đó
cũng dẫn đến sự “phản biện” khá gay gắt của một số tác giả như: -Thanh Hải viết
trên báo Pháp Luật-tp.HCM số ra ngày Chủ Nhật 18-3-2007 hoặc từ nước ngoài
(Việt Duy-Paris 20/3/2007-newvietart.com).v.v… Trong khi mục đích xuyên suốt
của cuốn sách là để nhằm chứng minh một sự việc có thật đã xảy ra cho đúng với
sự thật vốn có thì ngoài các sự kiện,các dẫn chứng phải là những Sự Thật thì
việc phân tích,chứng minh,diễn giải của người viết phải lấy tiêu chí
thuyết phục được mọi người làm yếu tố quan trọng nhất… Trần Đình Thu cũng
hoàn toàn đồng ý với ý kiến đó.Tuy nhiên,dù còn tồn tại những điểm nêu trên
thì cũng phải nói rằng anh đã làm được điều mà Thế Phong chưa làm được,chỉ
riêng việc những “người trong cuộc” không có phản ứng gì đã là một
chứng chỉ được “cấp” cho những cố gắng không biết mệt mỏi của Trần Đình Thu rồi
(lưu ý là trong bài viết của tác giả Thanh Hải có cho rằng:
-Sau khi tác phẩm “Giải mã nghi án văn học T.T.kh” ra đời thì bà Vân Chung cũng viết thư phản ứng,nhưng tác giả lại không đưa ra được bằng chứng là bức thư ấy đăng ở báo nào,ở đâu & ngày nào?...)…Tôi quyết định viết lại câu chuyện này xem như làm nốt phần việc còn lại là sắp xếp các sự kiện,dẫn chứng cho có lớp lang, dễ hiểu,lược bớt những phần trích dẫn dài dòng không liên quan đến câu chuyện từ những gì Trần Đình Thu đã có công phát hiện, thu thập trong cuốn sách của anh, ngoài ra dưới mỗi sự kiện hay những câu thơ đưa ra làm dẫn chứng tôi có thêm vào những phần bình luận, phân tích, diễn giải, chứng minh của mình sau khi xem lại nhiều lần các tài liệu liên quan mà tôi có hoặc những phân tích,chứng minh của Trần Đình Thu còn thiếu do chưa diễn giải đến tận cùng của sự việc hay còn bỏ sót khi viết cuốn sách nêu trên,nhất là từ lá thư của bà Thư Linh,hai lá thư ngỏ của bà Vân Chung cũng như bài viết cuối cùng của nhà văn Thanh Châu năm 1990…
Tôi cũng đã đến tìm chị Phạm
Minh Chi (cháu gọi bà Vân Chung là bác ruột) tại 333/14/8 Lê Văn Sỹ-Q.Tân
Bình-tp.HCM, nhưng rất tiếc là theo hàng xóm cho biết thì chị & gia đình
đã đi xuất cảnh…ngày 28/5/2013 tôi điện thoại gặp bà Đ.T.M.Đ là chủ mới của
căn nhà nêu trên (vì lần trước đến tìm thì bà ấy đi vắng) bà M.Đ cho biết gia
đình bà mua lại căn nhà này từ năm 2003, vừa rồi có hai người con của chị Minh
Chi từ Mỹ về có ghé thăm, xin được vào nhà như muốn tìm lại những kỷ niệm về một
thời thơ ấu…
Trước & sau khi viết
xong toàn bộ loạt bài này,tôi cũng đã gặp lại nhà văn Trần Đình Thu &
cũng đã gửi đến anh như một “tặng phẩm”… Trần Đình Thu rất ủng hộ,anh bộc lộ
nhiều dự định liên quan đến câu chuyện này cho ngày mai của mình…Câu chuyện
tình buồn 75 năm về trước sẽ được đưa lên màn ảnh,kịch bản phim truyện “T.T.Kh-Hai
sắc hoa Tigôn” do chính Trần Đình Thuviết, biên tập là nhà biên kịch Phạm
Thùy Nhân. Chúng ta cùng chờ đón để hòa mình vào với câu chuyện tình năm
xưa là lúc bộ phim được hoàn thành vào một ngày không xa…
Khi viết loạt bài này thì
nhà văn Thanh Châu đã trở về miền cực lạc được hơn 5 năm, ông mất ngày mùng 8
tháng 5 năm 2007 hưởng thọ 96 tuổi.Còn bà Vân Chung đến nay nếu còn cũng đã
94 tuổi, không biết bà có còn không,một mình trên thế gian này? Đời người như
“bóng câu qua sổ” khiến cho ta không khỏi bùi ngùi khi chợt nhớ đến những vần
thơ đớn đau thuở nào của bà Vân Chung-T.T.Kh và dường như cũng rất hợp để tiễn
ông về với cõi hư không:
-Anh hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau…
Bà Vân chung đã định cư tại
Pháp từ năm 1986 nên chúng ta không có điều kiện biết được nhiều về bà,cầu
mong bà tuổi già chân cứng đá mềm, sống vui vầy cùng con, cháu ở một chân trời
xa tít tắp cho đến ngày theo qui luật muôn thuở của Trời-Đất…như ngày
xưa Hoài Thanh-Hoài Chân khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã cảm
thán rằng:“…Ai biết Con người vườn Thanh bây giờ ra sao? Liệu rồi đây người ấy
có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về nơi chín suối?... ”
Nếu có kiếp sau,xin cầu
chúc cho ông,bà gặp lại & thành vợ thành chồng.Bởi vì họ xứng đáng có được
một cái kết có hậu như thế với tình yêu đầu đời mang vẻ đẹp thật chân
thành,thật nhân văn của tình người & cũng vô cùng lãng mạn như những bông
hoa Tigôn bé nhỏ mang hình trái tim e ấp trước sân nhà người con gái đang yêu
& được yêu,nhưng họ lại không thể cùng nhau đi đến đích cuối cùng, một bến
bờ của hạnh phúc lứa đôi,mà vì thế đã tạo nên một tình khúc buồn suốt 75 năm
qua trong cuộc đời này…
Ngày hôm nay,quan niệm
“môn đăng-hộ đối” tuy không còn quá nặng nề như ngày xưa,nhưng cũng chưa hẳn
là đã chấm dứt & cũng còn có ở đâu đây, những người vẫn phải đớn đau chia
tay người yêu để theo chồng về nhà khác hay đưa người “không yêu” về nhà mình
với rất nhiều lý do khác nhau,đôi khi cũng chỉ có mình họ biết với những nỗi
niềm dấu kín trong tim & mang theo suốt cả cuộc đời…bởi vì Tình yêu đích
thực thì ít lắm nhưng những tình cảm “gần giống” với tình yêu vốn lại rất nhiều.Phải
chăng cũng vì thế mà ở trên thế gian này có không ít những mối tình dang dở
giống như những vần thơ như khóc,như than của T.T.Kh thuở trước?...
Và tôi muốn dành tặng những
trang viết này cho tất cả những ai ở trong hoàn cảnh như thế,xem như một lời
an ủi chân thành nhất, bất kể họ là đàn ông hay đàn bà thì nỗi bất hạnh vì yêu
mà không lấy được nhau, lấy nhau mà không có được tình yêu đôi lứa hoặc phải
chấp nhận một tình cảm gần giống với tình yêu thì cũng có gì là khác nhau mấy
đâu?...
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1-Giải mã nghi án
văn học T.T.Kh-NXB Văn hóa Sài Gòn-2007- tác giả Trần Đình Thu
2-T.T.Kh Nàng là
ai?-NXB VHTT-2001-tác giả Thế Phong
3-Việt Nam Thi nhân
tiền chiến-NXB Sống Mới-SG-1968-Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng
4-Thi nhân VN-NXB
Văn học-2008- tác giả Hoài Thanh-Hoài Chân
5-Văn-Thi sĩ Tiền
chiến-NXB Văn học-2007-tác giả Nguyễn Vỹ (in lại từ bản in năm 1970)
6-Thâm Tâm &
T.T.Kh -NXB Hội nhà Văn-1991-tác giả Hoài Việt
7-Tuyển tập Nguyễn
Bính-NXB Văn học-1986-tác giả Vũ Quốc Ái,Đỗ Đình Thọ,Quang Huy,Kim Ngọc Diệu
8-Thơ Thơ -Xuân Diệu-NXB
Hải Âu Sài Gòn-1968
9-Đoạn tuyệt-NXB Hội
Nhà văn-2008-tác giả Nhất Linh
10-Gánh hàng Hoa- NXB Hội
Nhà văn-2006-Nhất Linh-Khái Hưng
11-Xin hãy kiểm tra lại
các nguồn tư liệu-Trang Vanchuongviet.org-Lại Nguyên Ân.
12-Huyền thoại hoa Ti Gôn-NXB
Hội Nhà Văn-2008-tác giả Ngọc Thiên Hoa.
Tp.HCM tháng 7 năm 2012-Tháng 8 năm 2015
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét