Nhạc sĩ Phạm Duy đã khép lại
một cuộc đời tài hoa và…
Nói ông khép lại một cuộc đời
tài hoa cùng kho tàng ngôn ngữ của một thiên tài âm nhạc, nghe không vô lý chút
nào, và điều này cũng hợp ý với rất nhiều khán/thính giả yêu nhạc của ông, phù
hợp với những người phong ông là bậc thầy trong ngôn ngữ nhạc trữ tình, “Phù thủy
phổ nhạc”. Nhưng, khi nói ông ba hoa, e rằng động chạm đến rất nhiều người từng
xem ông là thần tượng, không chừng, họ sẽ nổi giận và cho rằng người viết bài
này nói năng vô lễ, không biết đầu biết đũa… Nhưng (lại nhưng!), khách
quan mà nói, ông là một nghệ sĩ tài hoa thuộc vào bậc nhất, ông đã ghi dấu ấn
sâu đậm vào nhiều thế hệ yêu âm nhạc, yêu tiếng Việt, ông làm cho tiếng mẹ đẻ
trở nên lung linh, áo huyền và lấp lánh. Có thể nói, những năm trước 1975, “Hòn
ngọc viễn Đông” tỏa sáng, trong ánh sáng của nó, có một phần ánh sáng của âm nhạc
Phạm Duy. Rất tiếc, đó là một Phạm Duy của nghệ thuật, ngoài con người ấy ra, một
Phạm Duy của chính trị và đối đãi xã hội, có vẻ như ông không dừng ở mức tài
hoa mà đã chuyển sang ngưỡng ba hoa, đây là điểm yếu mà cũng là đặc trưng của
Phạm Duy.
Những năm tôi học phổ thông
trung học, thời đó còn ngăn sông cấm chợ, những ca khúc của Phạm Duy, Phạm Đình
Chương, Trầm Tử Thiêng, Vũ Thành An, Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác và một số nhạc sĩ nổi
tiếng khác đang sống lưu vong đều bị xếp vào diện “nhạc phản động”, cấm nghe, cấm
lưu hành. Tôi nhớ, trong lần đi thi đại học ở Sài Gòn, trên đường về quê, buổi
tối trên chuyến xe đường dài, không biết chuyện thi cử sẽ ra sao, với một gia
đình nghèo, thuần nông, chuyện đi thi đại học đối với tôi lớn hơn bất cứ chuyện
gì, vì nó có thể giúp tôi, gia đình tôi và dòng tộc tôi thay đổi số phận, chí
ít là thay đổi thân phận trong cộng đồng làng xóm, láng giềng, nhưng khi vào
trường thi xong, nhìn cảnh con nhà giàu, con cán bộ đi thi, mặc dù làm bài một
cách tự tin, nhưng tôi chẳng dám hy vọng gì, lan man, vô định… Giữa lúc đang
thiu thiu, ngái ngủ, tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly cất lên “Bên ni thành phố
tráng lệ/ Giai nhân nằm khoe lõa thể, Bên kia phố vắng, ôi lòng ngoại ô… Phút
giây chia lìa, ăn mày xán lạn ngày mai…” (Bên ni bên nớ). Tự dưng, tôi thấy ớn
lạnh, một cảm giác khó tả, và tôi bắt đầu sưu tầm nhạc Phạm Duy, để biết thêm Bến
Xuân, Còn chút gì để nhớ, Màu tím hoa sim, Thà như giọt mưa, Tình ca, Đạo ca, Tục
ca… Càng nghe nhạc của ông, cảm giác yêu mến ông càng lúc càng đậm đà, hình ảnh
người nhạc sĩ tài hoa, phúc hậu với đôi mắt sáng, mái tóc bạc, nói năng diễn cảm
và hóm hĩnh. Đó là những gì tôi cảm được từ người nhạc sĩ này.
Những năm 2000, tin ông về
nước, định cư ở Việt Nam, ban đầu, nó đến như một phúc âm cho những tín đồ nhạc
Phạm Duy, trong đó có tôi. Nhưng càng về sau, dường như phúc âm đó tan dần theo
mây khói và thay thế vào đó là những thứ cuồng âm rất khó chịu được xây dựng
nên từ một Phạm Duy không phải của âm nhạc, nghệ thuật mà là một Phạm Duy chính
trị, đãi bôi xã hội, với hàng loạt những tuyên bố hùng hồn về chuyện “đi và về”,
dường như con người của Phạm Duy lưu vong, Phạm Duy đau đáu về cố quốc lầm than
từ một chân trời tự do không còn nữa. Càng về sau, tôi càng nhận ra một Phạm
Duy hiện tiền đầy thực dụng, gió chiều nào chao theo chiều đó, thậm chí, một Phạm
Duy chuyên “đi khách” cùng với những lãnh đạo chóp bu Cộng sản, nói năng xu phụ
chế độ… Dường như tất cả những thứ gì có thể tạo nên đối lập với một Phạm Duy của
nghệ thuật, thì Phạm Duy xã hội, chính trị đều có đủ. Gần đây nhất, sau những
thông tin bên lề về chuyện Khánh Ly sẽ về nước biểu diễn, Phạm Duy lên tiếng,
trả lời phỏng vấn ngay, nội dung nôm na: “‘Chim bay về tổ, cá lội về nguồn’
là đúng với tất cả mọi người. Đây cũng là bằng chứng hùng hồn của chính
sách đại đoàn kết dân tộc. Lẽ dĩ nhiên, việc trở về của Khánh Ly có gặp ít
nhiều khó khăn. Nhưng cuối cùng mọi sự cũng đều được giải quyết. Chỉ tiếc là
khi cô ấy trở về quê hương thì Trịnh Công Sơn đã qua đời!”.
Cách nói chuyện, trả lời phỏng
vấn của Phạm Duy không làm tôi ngỡ ngàng hay ngạc nhiên gì nữa, vì tất cả nhửng
gì ông làm kể từ ngày về nước vào ngày 17 tháng 5 năm 2005 cho đến thời điểm
ông nói ra câu này luôn thể hiện ông là con người sống rất thật, sống hết mình,
ông sống thật ngay trong nghệ thuật cho đến tính cách đĩ thõa, dễ thỏa hiệp và
chuộng chăn êm, nệm ấm, gái đẹp, bất chấp những người lưu vong đồng sàn đồng cảnh
trước đây lên tiếng chê trách, ông vẫn cứ ung dung sống thật với một Phạm Duy bắt
tay với Việt Cộng và đôi khi múa lửa lắc vòng cho được chuyện.
Và có lẽ, chưa chắc gì ông
đã có ý sống thực dụng, nhưng sự thực dụng vận vào số mệnh của ông, đẩy ông đến
chỗ con người thực dụng. Trong vấn đề này, dường như con người xã hội và con người
nghệ thuật của Phạm Duy có một điểm để bắt tay với nhau, cùng chung đích đến,
chính vì thế mà kho tàng tác phẩm đồ sộ của ông không được xếp vào diện vô giá
mà nó có giá cụ thể với 400 ngàn USD tiền bản quyền bán cho công ty Phương Nam.
Và, đó cũng chính là lúc nhạc Phạm Duy trở thành thứ biểu tượng của giá trị quá
vãng nhiều hơn là sáng tạo hiện tại. Dường như ông không có ca khúc nào cho xuất
sắc, xuất thần như những ca khúc ông đã bán. Trong chuyện này, ông là một nạn
nhân nhiều hơn là kẻ không tử tế. Hình ảnh, hoàn cảnh ông bán bản quyền dưới
vòm trời Cộng sản, chế độ từng đẩy hằng triệu người xuống lòng Biền Đông, vào
trại cải tạo và trại tị nạn cũng chẳng khác gì mấy hình ảnh chị Dậu bồng đứa
con nhỏ bán cho nhà Nghị Quế để kiếm vài đồng. Cái khác giữa ông và chị Dậu nằm
ở chỗ, chị Dậu bán con để nuôi chồng, còn ông, ông không bán đứa con tinh thần
để nuôi ông chồng tinh thần nào cả, mà ông bán để nuôi bản thân trong những
ngày cuối đời.
Dường như, rất ít và hình
như chưa bao giờ thấy ông có một chia sẻ nào với cộng đồng không may mắn, các
buổi lưu diễn diễn của ông cho đến các hoạt động cá nhân đều không cho thấy điều
này! Nếu có nghe thông tin về ông, phần lớn độc giả, khán giả, thính giả, người
hâm mộ đều xì xầm bàn tán về chuyện ông “trúng mánh” sau nhiều năm lưu vong, được
chế độ Cộng sản trọng vọng, biệt đãi, nhà cao cửa đẹp, chơi chỗ sang, ăn trên
ngồi trốc với các quan. Hay nói khác đi, Phạm Duy là một biểu tượng, bằng chứng
của vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc, chính sách đại đoàn kết toàn dân… Nhiều
người còn khen ông già rồi mà con “sung”, vẫn có em út mười mấy đôi mươi phục vụ
bên cạnh…
Đương nhiên, tất cả những đồn
đoán về hoạt động đời tư của ông sẽ khép lại kể từ ngày hôm nay (27 tháng 1 năm
2013), những tai tiếng thị phi cũng khép theo từ giây phút này, và ngay cả nếu
như tất cả mọi đồn đoán là thật chăng nữa, thì cũng từ giây phút này, nó thành
tro bụi, không có ý nghĩa gì nữa. Người ta sẽ nhớ đến những ca khúc ông viết vừa
trữ tình, vừa lý lơi mà hàm chứa triết lý sâu xa về thân phận dân Việt điêu
linh, đôi khi, thân phận người Việt trong tác phẩm của Phạm Duy buồn bã như một
cô gái điếm cuối mùa, gắng gượng và điêu ngoa, mệt mỏi và lạnh lùng. Âu đó cũng
là một dự cảm vốn đã vận vào số phận riêng chung! Xin vĩnh biệt ông, một nhạc
sĩ tài hoa và…!.
VietTuSaiGon’s blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét