Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Thơ Tiền chiến 2

Thơ Tiền chiến 2
1. Tống Biệt (Tản Đà)        
2. Gửi Trương Tửu (Nguyễn Vỹ)    
3. Màu Thời Gian (Đoàn Phú Tứ)
4. Anh Biết Em Đi... (Thái Can)  
5. Mòn Mỏi (Thanh Tịnh)       
6.Những Ngày Nghỉ Học (Tế Hanh)
7. Tình Quê (Hàn Mặc Tử)   
8. Về Thăm Nhà Cảm Tác (Quách Tấn)  
9. Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)
10. Nắng Mới (Lưu Trọng Lư)            
11. Tràng Giang (Huy Cận)    
12. Lời Kỹ Nữ (Xuân Diệu)
13. Trên Đường Về (Chế Lan Viên) 
14. Nhớ Rừng (Thế Lữ)           
15. Bến My Lăng (Yến Lan)
16. Tỳ Bà (Bích Khê)             
17. Nghỉ Hè (Xuân Tâm)                     
18. Tống Biệt Hành (Thâm Tâm)
19. Tương Tư (Nguyễn Bính)  
20. Tiếng Việt Miền Nam (Bàng Bá Lân)    
21. Mưa (Anh Thơ)
22. Trăng Hè (Đoàn Văn Cừ)  
23. Nét Nhìn Rạng Đông (Tuệ Mai)   
24. Từ Giã Tuyên Quang (Nhượng Tống)
25. Dặm Về (Nguyễn Đình Tiên)
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
CHẾ LAN VIÊN
Sinh năm 1920. Quê ở Bình Định. Học trường Qui nhơn. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Tin văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Phụ nữ, Trong khuê phòng, Người mới. Đã xuất bản: Điêu tàn (1937).
Chế Lan Viên (1920 - 1989)
Một ngày biếc, thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời:..
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi,
Những đền xưa đổ nát dưới Thời gian,
Những sông vắng lê mình trong bóng tối,
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn,
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng tử quy!
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận,
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang.
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.
Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm quốc,
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi;
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp,
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui.
Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh.
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng;
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.
Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ, mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn mình hoa.
Những cảnh ấy trên Đường Về ta đã gặp,
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi.
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập
Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời.
(Điêu Tàn)
Chế Lan viên
(1920-1989)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
NHỚ RỪNG
THẾ LỮ
Chính tên lả Ngụyễn Thứ Lễ. Sinh tháng 10 năm Đinh mùi (1907). Nơi sinh Thế Lữ lấy làm lạ thấy người nhà nói là Thái-hà ấp Hà nội, còn thi-sĩ thì cứ tưởng là Lạng-sơn, nơi đã ở từ khi còn bé đến năm 11 tuổi. 11 tuổi, xuống Hải-phòng học đến năm thứ ba ban thành chung thì bỏ để theo sở thích riêng. Sau đó lên Hà Nội học trường Mỹ-thuật, nhưng lại thôi ngay. Bắt đầu viết từ hồi này. Được ít lâu bị đau lại về Hải-phòng tĩnh dưỡng. Những ý thơ và đôi bài thơ đầu tiên, như bài "Lựa tiếng đàn" nẩy ra trong lúc này.
Có chân trong Tự-lực văn-đoàn và trong tòa-soạn các báo Phong-hóa, Ngày nay, Tinh hoa. Đã xuất bản: Mấy vần thơ (1935). Mấy vần thơ, tập mới (Đời nay, Hà Nội, 1941).
Lời con Hổ ở vườn Bách thú
(Tặng Nguyễn Tường Tam)
Thế Lữ (1907–1989)
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
(Mấy vần thơ, tập mới)
Thế Lữ
(1907–1989)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
KHẢO LUẬN:
Về hình thức Thế Lữ là người đầu tiên xông xáo đi tìm điệu mới cho thơ và dần dần đưa thơ mới vào mấy thể trở thành phổ thông sau ông. Kiểm điểm tập Mấy vần thơ của ông (tập mới l941), ta thấy một bài năm chữ trường thiên vần chéo (Mộng ảnh), một bài hoàn toàn phá thể (Tiếng trúc tuyệt vời), còn đa số là thơ 7 chữ trường thiên phân đoạn 4 câu vần chéo. (Khúc ca hoài xuân, Khúc hát bên sông), hoặc 4 câu 3 vần lối cũ (Lời than thở của nàng Mỹ Thuật, Tiếng gọi bén sông, Ngày xưa còn nhỏ, Vẻ đẹp thoáng qua, Hái hoa, Bên sông đưa khách), và thơ 8 chữ trường thiên vần liền đôi một, đắp đổi bằng trắc (Nhớ rừng, Lựa tiếng đàn, Con người vơ vẩn, Cây đàn muôn điệu, Bâng khuâng, Nhan sắc, Hoa thủy tiên, Giục hồn thơ). Ngoài ra còn có 4 bài lục bát (Mấy vần thơ, Bông hoa rừng, Lời tuyệt vọng, Ma túy) và một bài song thất lục bát (Hồ xuân và thiếu nữ), nhưng không hề có một bài đường luật bát cú nào.
Làm thơ Thế Lữ đã luôn luôm theo một qui tắc, một quy tắc mà buổi đầu các nhà thơ mới đều cho là chí lý, là tìm cho mỗi cảm hứng, mỗi đề tài một cái điệu riêng, cái điệu đây phần chính cốt ở số chữ câu thơ đã đành mà còn ở cách ngắt trong câu, ở vần thơ, giọng đọc, âm chữ, tất cả sao cho diễn tả được đúng, được hay cái ý đặc biệt của đề tài. Như dùng câu lục bát ẻo lả để tả tiếng sáo thiên thai:
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi
Bên rừng thổi sáo một hai kim đồng
Dùng câu thơ 8 chữ rộng rãi chững chạc để tả con hổ:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng.
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng.
Dùng câu thơ hỗn tạp bất nhất để tả tiếng trúc uyển chuyền gợi những ấn tượng biến đổi:
Tiếng địch thổi đâu đây,
Cớ sao mà réo rắt?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngát.
Mây bay... gió quyến... mây bay...
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
Thế Lữ là một thi công cần mẫn không những ở việc tìm điệu như trên mà còn ở cách dùng chữ, đặt câu, lựa vần. Thơ mới Thế Lữ không buông thả dễ dàng như thơ Lưu Trọng Lư chẳng hạn, mà thường săn sóc uốn nắn, đôi khi mang dấu vết gọt dũa, khổ luyện. Những bài Nhớ rừng, Vẻ đẹp thoáng qua, Giục hồn thơ, Tiếng sáo thiên thai thường được ca tụng, đều là những tuyệt tác về phương diện này...
(Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên III, Nxb Đại Nam)
BẾN MY LĂNG
YẾN LAN
Chính tên là Lâm Thanh Lang. Sinh năm 1918 ở làng An Ngãi, phủ An Nhơn (Bình Định). Chỉ học quanh mấy trường trong tỉnh.
Đã đăng thơ: Phụ Nữ, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Nghệ Thuật.
Yến Lan (1916-1998)
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng.
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
(Bến My Lăng)
Yến Lan
(1916-1998)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
TỲ BÀ
BÍCH KHÊ
Chính tên là Lê Quang Lương. Quê quán: Thu Xà, Quãng Ngãi.
Đã đăng thơ: Tiếng Dân, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Người Mới... (ký Lê Mộng Thu hoặc Bích Khê).
Đã xuất bản: Tinh huyết (1939). Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Bích Khê (1916-1946)
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Tôi qua tìm nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Bích Khê
(1916-1946)
NGHỈ HÈ
XUÂN TÂM
Chính tên là Phan Hạp. Sinh ngày 1-1-1916 ở làng Bảo An, phủ Điện Bàn (Quảng Nam). Học: trường Chaigneau, trường Quốc-học (Huế). Có bằng Thành-chung.
Đã đăng thơ: Tân Văn, Sông Hương. 
Đã xuất bản: Lời tim non (1941).
Xuân Tâm (1916 -  2012)
Sung sướng quá, giờ cuối cùng đã hết,
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về.
Chín mười ngày nhảy nhót ở miền quê,
Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ!
Một nét mặt, trăm tiếng cười rộn rã,
Lời trên môi chen chúc nối nghìn câu.
Chờ đêm nay; sáng sớm bước lên tàu,
Ăn chẳng được, lòng nôn nao khó ngủ.
Trong khoảnh khắc sách, bài là giấy cũ,
Nhớ làm chi. Thầy mẹ đợi, em trông.
Trên đường làng huyết phượng nở thành bông.
Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt.
Kiểm soát kỹ, có khi còn thiếu sót;
Rương chật rồi, khó nhốt cả niềm vui.
Tay bắt tay, hôn không chút bùi ngùi,
Các bạn hỡi, trời mai đầy ánh sáng.
(Lời tim non)
Xuân Tâm
(1916-2012)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
TỐNG BIỆT HÀNH
THÂM TÂM
Thâm Tâm chết trong khi đang làm báo kháng chiến, trong một căn nhà sàn ở Việt Bắc, vì bệnh sốt rét. Đưa tiễn chỉ có một cậu liên lạc viên. Anh sinh 12.5.1917, mất 18.8.1950. (VL)
Thâm Tâm (1917 - 1950)
Đưa người ta không đưa sang sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước:
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay:
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say
1940
Bài này Thâm Tâm làm trong một tiệc rượu để tặng một người bạn đi kháng chiến trước ông, tên là Phạm Quang Hòa. Theo ông Hòa, bài đó có 4 câu cuối mà không hiểu sao tất cả các bản in từ trước tới nay đều bỏ sót." (Thâm Tâm và T.T.KH trang 67-68) Bốn câu ấy như dưới đây, có đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, năm 1940, mà khi in ở trong Thi Nhân Việt Nam năm 1941, không thấy hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân chép vào:
Mây thu đầu núi gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.
Nay xin chép vào cho đủ và cho đúng. VL.
Thâm Tâm
Khởi Hành 191, Tháng 9.2012
TƯƠNG TƯ
NGUYỄN BÍNH
Sinh năm 1919 ở làng Thiện vịnh, huyện Vụ bản (Nam Định). Không hề học ở nhà trường, chỉ học ở nhà với cha và cậu. Làm thơ từ năm 13 tuổi. Đã làm gần một nghìn bài. Được giải khuyến-khích về thơ của Tự lực văn đoàn năm 1937.
Đã đăng thơ: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, Nam-cường.
Đã xuất bản: Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi (Lê-cường, Hà nội,
1940), Hương cố nhân (Á châu, Hà nội 1941).
(Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh & Hoài Chân)
Nguyễn Bính (1918-1966)

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn trầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Lỡ Bước Sang Ngang)
Nguyễn Bính
(1918-1966)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
BÌNH:
Bài thơ này tả lại mối tình của tác giả hay của một người nào đó tại một vùng quê nào đó ở Việt Nam? Có thể. Như một cảm hứng. Nhưng đó chỉ là bề mặt. Rất cạn. Và điều chắc chắn là qua bài thơ, chúng ta không thể tìm thấy một bằng chứng nào cho một mối tình như thế.
Hai câu đầu chân chất mà lại sâu sắc. Câu trên mở ra chiều rộng của không gian. Câu dưới mở ra chiều dài của thời gian. Tương tư, nghĩ cho cùng, là một ám ảnh day dứt về không gian và về thời gian. Nhớ nhau, người ta đo từng khoảng cách. Nhớ nhau, người ta đếm từng khoảnh khắc.
Không phải ngẫu nhiên mà, trong cõi thiên hà thơ tương tư của nhân loại, từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, đâu đâu cũng chập chùng những sông những núi, đâu đâu cũng có tiếng đồng hồ gõ nhịp và những bước mùa đi.
Ở câu đầu, để nhấn mạnh và cũng để cụ thể hoá ám ảnh về khoảng cách trong tâm trạng tương tư, Nguyễn Bính đồng nhất con người và địa phương họ cư ngụ. Anh là thôn Đoài. Em là thôn Đông. Cách xa vời vợi. . . .
Nguyễn Bính không ồn ào, không la thét, không quằn quại. Nguyễn Bính bao giờ cũng rất hiền lành với những nỗi bâng khuâng dìu dịu, chơi vơi.
Tương tư, dưới ngòi bút Nguyễn Bính, cũng chỉ là một nỗi niềm chơi vơi. Muôn đời chơi vơi. Như sương nương theo trăng ngừng lưng trời.
Bài Tương tư, do đó, không phải là một chuyện tình, một mối tình của Nguyễn Bính hay của bất cứ ai khác. Nó chỉ là một nỗi niềm chơi vơi. Một làn sương bay lãng đãng trong tâm tưởng. Nguyễn Hưng Quốc (Thơ, v.v... và v.v..., Nxb Văn Nghệ, 1996).
TIẾNG VIỆT MIỀN NAM
BÀNG BÁ LÂN
Thi sĩ Bàng Bá Lân vốn họ Nguyễn - Xuân, sinh tháng 11 Nhâm Tý (1913) tại Phủ Lạng Thương, song chính quán huyện Bình Lục, Hà Nam, nổi tiếng từ thời Tiền chiến là một nhà thơ nồng nàn tình yêu đồng ruộng, mà thi phẩm đầu tay là Tiếng Thông Reo, xuất bản từ 1934 tại Hà Nội. Thơ ông mộc mạc, chất phác như tâm tình chân thật của ông với cuộc sống, bởi ông làm thơ từ cảnh từ tình trong cuộc sống của chính mình. Nếu nói về toàn thể, sự nghiệp thơ ông không đồ sộ, song nếu có thi sĩ chỉ cần một bài mà lưu danh hậu thế, thì ông chỉ cần bài "Đói". Bàng Bá Lân -và chỉ có ông-, làm bài thơ cảm xúc nhất, dài nhất, kỹ nhất, về nạn đói năm Ất Dậu 1945. Để nhớ thi sĩ, mất vào 21.10.1988, xin chọn bài sau đây, như một điển hình cho Bàng Bá Lân, và một tiêu biểu trong Thơ Miền Nam. VL.
Bàng Bá Lân (1913-1988)
Ôi! Tiếng Việt miền Nam
Nghe sao mà âu yếm!
Giọng ngân dài lưu luyến
Cho lòng ta thương vương.
Ôi! Thương ai em thương thiệt là thương
Em, cô gái Đồng Nai lòng cởi mở
Từ quen em, nắng vàng thêm rực rỡ
Dừa thêm xanh và vú sữa thêm ngon
Lời em thơm như măng cụt no tròn
Giọng em ngọt như xoài vừa chín tới
Những chữ ngân dài như gió thổi
Còn chữ C, G nghe đọc lỗi mà yêu
Giọng TR trong trẻo đúng bao nhiêu
Và anh nữa, ôi tiếng anh nũng nịu.
- Mong "ăn" mãi! Nhớ "ăn" hoài!
"Ăn" có hiểu!
Em thương "ăn" quá xá là thương!"
Lời em ngon như có mật có đường
Ta sung sướng gần em nghe giọng nói.
- Hãy nói nữa! Nói nhiều đi em hỡi!
Qua không cần hiểu ý, chỉ cần nghe
Giọng nói du dương say đắm đê mê
Như nhạc sóng của Đồng Nai,
sông Cửu.
Nhưng em bỗng ngừng im.
Em nũng nịu
- Nói đi "ăn",
nghe giọng Bắc em thương!
Cầm tay em say ngắm cặp môi hường
Lòng tràn ngập niềm mến thương đằm thắm.
Ôi Nam Bắc dù xa nhau vạn dặm
Vẫn cùng chung tiếng mẹ, tiếng quê cha
Gặp nhau đây trong ánh nắng chan hòa
Hai giọng nói cùng đồng ca hợp tấu
Hai huyết quản vẫn cùng chung dòng máu
Hai tâm hồn hòa hợp cảm thông nhau
Tiếng Việt miền Nam, giọng nói nhiệm mầu
Có phép lạ khiến tình ta lưu luyến.
Em!
Cô gái miền Nam ta thương mến
Muốn gần em, gần mãi để nghe em! 
(Bàng Bá Lân, Vào Thu)
Bàng Bá Lân
Khởi Hành 192, Tháng 10.2012
MƯA
ANH THƠ
Chính tên là Vương Kiều ân - Vương họ cha, Kiều họ mẹ. Sinh tháng janvier 1919 tại Ninh giang. Học từ năm lên bảy, năm 12 tuổi mới lên lớp ba (Hải dương, Thái-bình, Bắc-giang). Bỏ học sau một buổi bị cô giáo phạt quỳ.
Đã đăng thơ: Hanoi báo (ký Hồng-anh), Tiểu-thuyết thứ năm, Ngày nay, Phụ nữ. Được giải thưởng khuyến-khích về thơ của Tự-lực văn-đoàn năm 1939.
Đã xuất bản: Bức tranh quê (Đời nay, Hà-nội, 1941), Xưa (hợp-tác với Bàng Bá Lân, 194l). 
(Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh & Hoài Chân)
Anh Thơ (1921-2005)
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội
Cau thẳng mình dang lá đón mưa rơi,
Đồng chìm xuống bông lúa vàng rũ rợi,
Ao rềnh lên bè rau muống xanh tươi.
Trên nhà vắng gió lùa hơi ướt át,
Cu bé ngồi nhào đất nặn tò te.
Dưới bếp lạnh, lũ gà vào bới rác
Mặc đàn ruồi, đàn nhặng lượn vo ve.
Ngoài đường lội một vài người về chợ
Trĩu gánh hàng như trĩu quang mưa.
Yên ổn nhất trong gian chuồng êm cỏ
Lũ lợn nằm mát mẻ ngủ quên trưa.
Anh Thơ
(1921-2005)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
KHẢO LUẬN:
Những năm 1940-1945 chứng kiến cùng với sự bột phát của văn học, một sự nẩy mọc rộn ràng của thơ. Nhiều nẻo mới được vạch ra đưa tới những chân trời đầy triển vọng. Tuy nhiên bởi thời gian ngắn ngủi, nên ở đây cũng như ở tiểu thuyết không một thi tài mới quan trọng nào kịp thành hình, chỉ thấy rõ những khuynh hướng hơn là những thi nghiệp.
Một khuynh hướng mới thứ nhất là thơ tả chân quê hương mà đại biểu là Anh Thơ và Đoàn Văn Cừ. Lối này về trước đã có một hai người, thảng hoặc đi vào như Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, nhưng chỉ từ khi năm 1940 Tự Lực văn đoàn tặng giải Bức tranh quê của cô Anh Thơ mới trở nên thịnh hành. Ta hãy mượn lời giám khảo Nhất Linh để giới thiệu tập ấy: "Bức tranh quê có 30 bài thơ, bài nào cũng 12 câu, tả những cảnh ở thôn quê từ đầu năm đến Tết, hết mùa nọ sang mùa kia. Điều mới mẻ là tác giả đứng về mặt khách quan, suốt tập không bao giờ nói đến mình, không dùng một chữ "tôi" nào. Tác giả đứng ngoài cảnh vật, cố nhận xét rồi ghi lên giấv, hình như không có chút cảm động nào. Những điều nhận xét của cô đúng, đúng đến nỗi làm cho ta phải ngạc nhiên và chịu phục". Nhất Linh dẫn những câu làm cho ông phục như như tả cảnh mưa:
Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội,
Cau thẳng mình dong lá đón mưa rơi.
Đồng chìm xuống bông lúa vàng rũ rợi.
Ao dềnh lên bè rau muống non tươi.
Tả cảnh chợ mùa hè:
Chó lè lưỡi ngồi thừ nhìn cũi đóng,
Lợn trói nằm hồng hộc thở căng dây.
Tả cảnh sang thu:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác,
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay.
Tả cảnh bến đò ngày phiên chợ:
Thuyền ghé bến người người chen chúc xuống,
Tiếng chó kêu lợn hét nổi vang lừng.
Với tiếng người ồn lên trong luống cuống,
Đặt gánh gồng bồ bịch đổ lung tung.
Một đặc sắc thứ hai của Bức tranh quê, theo Nhất Linh, là"sự liên lạc rất mật thiết của hoa cỏ với bốn mùa, của công việc làm ăn và những nỗi lo lắng cỏn con của dân đồng ruộng với thời tiết. Mùa xuân các cô gái cào cỏ ruộng lúa sắp ra hoa, mùa thu hoa mướp rụng, ong cất cánh bay đi tìm nhị mướp, tiếng trống cúng ra hè, sự lo lắng nước không vơi, người đi phá bờ lấy nước tràn qua, anh tuần nghe tiếng trống hộ đê..., cô đều chú ý và ghi lấy".
... Người ta cho rằng ngay cái quan niệm tả chân bằng thơ đã là một quan niệm mâu thuẫn. Thơ không phải để chụp lại ngoại cảnh phồn tạp, dung tục và khách quan. Thơ là tinh túy, là chắt lọc, là để nói ít mà cho mơ nghĩ nhiều. Nhất là thơ phải có cảm, cảnh phải có tình. Nhất Linh chấm Bức tranh quê cũng phàn nàn về chỗ đó: "Thơ cô rõ ràng minh bạch quá, thiếu chút sương mù bao phủ để dấu diếm một huyền bí, thiếu cái tiếng vang ở cảnh núi nó làm cho ta nghĩ đến sự rộng rãi của không gian. Thơ Anh Thơ tả thứ gì chỉ nói được thứ đó thôi, không gợi cho người đọc những rung động mung lung".
(Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên III, Nxb Đại Nam)
http://www.hocxa.com/Top_X.gif
TRĂNG HÈ
ĐOÀN VĂN CỪ
Đoàn Văn Cừ (1913-2004), quê gốc xã Nam Lợi, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Tốt nghiệp Đại học ngành Văn-Sử-Địa. Tác phẩm đã xuất bản: Thôn ca I (thơ, 1944); Thôn ca II (1960); Thơ lửa (thơ, in chung, 1947); Việt Nam huy hoàng (thơ, 1948) (Nguồn: Internet)
Đoàn Văn Cừ (1913-2004)
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa,
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ.
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu,
Đêm vắng, người im, cảnh lặng tờ.
Ông lão nằm chơi ở giữa sân,
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về,
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước,
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.
Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm,
Tiếng chày giã gạo đã ngừng im.
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi,
Đom đóm bay qua dải nước đen.
Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha,
Gió lay cót két rặng tre già.
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
(Ngày nay)
Đoàn Văn Cừ
(1913-2004)
Nguồn: Thi Nhân Việt Nam
(Hoài Thanh & Hoài Chân)
BÌNH:
Những hìnn ảnh cuộc đời Việt Nam xưa còn lưu lại trong thời nay chẳng bao lâu sẽ mất hết. Nếu ta không gấp gấp ghi chép lấy thì rồi chẳng còn biết tìm kiếm vào đâu. Gần đây đã có một ít nhà viết tiểu-thuyết ưa thuật chuyện đồng quê, nơi nương náu cuối cùng của dĩ-vãng. Nhưng đời sống ở đồng quê có một nhịp-nhàng riêng, thể văn tiểu-thuyết không diễn tả được. Phải có thơ. Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi-dào mà rực rỡ như Đoàn văn Cừ.
Những bức tranh trong thơ Đoàn văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như các bức tranh xưa của Á đông. Bức tranh nào cũng đầy rẫy sự sống và rộn-rịp nhũng hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế-giới linh hoạt. Người xem tranh hoa mắt vì những nét những màu hình như rối rít cả lại; nhưng nhìn kỹ thì màu nào nét nào cũng ngộ-nghĩnh vui vui
Đây trong chợ Tết, bên cạnh thầy khóa đương gò lưng viết:
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Kia, giữa đám hội nhà quê:
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu,
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió
Đoàn Văn Cừ đã biết nhận xét rất tinh lại sẵn hồn thơ phong phú, hai điều thường ít đi với nhau. Phải có hồn thơ mới thấy được dưới ánh bình-minh:
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa.
Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh:
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời-gian gội tóc trắng phau phau.
Và bao giờ cuối bài thơ cũng có một vài câu khêu gợi. Cuối bài "Chợ Tết":
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
Cuối bài "Đám cưới mùa xuân":
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca inh-ỏi trên cành xanh tắm nắng.
Nhũng câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới: khép một thế giới thực, mở một thế giới mộng. Cảnh trước mắt vừa tan thì tình trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng.
Đoàn Văn Cừ trước sau đăng báo chỉ có sáu bảy bài thơ. Bài nào cũng hay. Cũng có bài đăng Ngày Nay số thường, nhưng nghĩ đến Đoàn Văn Cừ là tôi lại nghĩ đến Tết. Cái tên Đoàn Văn Cừ trong trí tôi đã lẫn với màu bánh chưng, mùi thuốc pháo, vị mứt gừng. Cứ mỗi lúc xuân về người lại gởi trên báo một chuỗi cười ngũ sắc. Tiếng cười ta còn nghe văng vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác...
Octobre 1941
Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân
NÉT NHÌN RẠNG ĐÔNG
TUỆ MAI
Thi sĩ Tuệ Mai Trần Thị Gia Minh sinh năm 1923 tại Hà Nội, mất năm 1983 tại Sài gòn (chưa rõ hẳn, vì có chỗ in sinh 1928, mất 1982), nguyên quán làng Quang Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, có thơ đăng báo từ năm 1941. 
Các thi phẩm đã xuất bản: Thơ Tuệ Mai 1962 (tựa Nguyễn Sỹ Tế), Không bờ bến 1964, Như nước trong nguồn 1969, Trên nhánh sông mưa 1970, Về phía trời xanh 1973. Tuệ Mai tham gia sinh hoạt, nói chuyện văn nghệ, diễn thuyết tại nhiều nơi như Tao Đàn Bạch Nga của Nguyễn Vỹ, Trung tâm Văn Bút của Vũ Hoàng Chương, Thanh Lãng, cùng với Hỷ Khương, Xuân Đài.
Theo tiểu sử in trong Thi Ca Việt Nam Hiện Đại (1880-1965) "Tuệ Mai bàn về thơ thật rắn rỏi, nhiệt thành. Trong giới Phụ nữ Việt Nam hiện nay, chi được nhiều người yêu thơ mến mộ." Từng được Giải Văn chương Toàn quốc về Thơ năm 1966, song các "nhà phê bình thơ" đã không viết gì về thơ bà. Không rõ vì lý do gì, các cuốn sách biên khảo về thơ sau đây không viết về bà: "Thơ Việt hiện đại 1900-1960" của Uyên Thao, "Những nhà thơ hôm nay" của Ng. Đ. Tuyến, "Thi nhân Việt Nam hiện đại" của Phạm Thanh, và Văn học Miền Nam, Thơ, của Võ Phiến. Mong bạn đọc Khởi Hành bổ sung tài liệu cho, xin cảm ơn.
VL (phamcongkh@yahoo.com).
Tuệ Mai (1923-1983)
(Nguồn: Khởi Hành)
Này tôi, tôi với đêm dài
Như ngày tháng đã, như mai mốt còn
Xe khuya chào vội phố buồn
Bánh quay ra riết nghe mòn dấu sương,
Cây nghiêm bóng lặng mặt đường
Lá ngong ngóng gió, cành thương lá sầu.
Này tôi, tôi với đêm thâu
Nghe thương ngơ ngác, nghe cao dỗi hờn
Vòng tay còn lại trống trơn
Mùa xuân còn chuyện dã tràng, thế thôi.
Còn tôi, tôi với đêm dài
Ngủ trên trang sách, ngủ ngoài sân mưa
Ôm vùng đất hẹn trăm hoa
Mộng xây biết mấy cho vừa trước sau.
Và tôi, tôi với đêm sâu
Chợt đau vai yếu, chợt đau sử buồn
Quãng dài tanh tưởi máu xương
Quê hương thí điểm
- quê hương nát nhầu.
Còn gì đâu! Có gì đâu!
Muôn con mắt lạc trông nhau rã rời
Nhưng tôi, tôi với đêm dài
Thức trong dòng họ
- thức ngoài trăm dân.
Điêu linh hằn sử bao lần
- Cũng qua
- Cũng vượt
- Cũng dần vươn lên.
Nên tôi, tôi với đêm hiền
Vòng tay mở rộng
Nét Nhìn Rạng Đông.
(In lại từ "Thi Ca Việt Nam Hiện Đại - 1880- 1965", Trần Tuấn Kiệt, Khai Trí, Sài gòn, 1967, tr-667-768.)
Tuệ Mai
Khởi Hành 193, Tháng 11.2012
TỪ GIÃ TUYÊN QUANG
NHƯỢNG TỐNG
Nhà thơ, dịch giả, nhà cách mạng Nhượng Tống tên khai sinh là Hoàng Phạm Trân, nên cũng lấy bút hiệu khác là Hoàng Kiếm Thu, người xã Phú Khê, Hà Nam được cha là Tú tài Hán học dạy văn nghĩa từ nhỏ, riêng ông tự học mà trở thành uyên bác, không đỗ đạt gì, và trở thành nhà báo tên tuổi, viết cho Nam thành báo, Thực Nghiệp dân báo, Hà Nội Tân Văn, đồng sáng lập Nam Đồng Thư Xã chuyên đăng truyện đề cao lòng ái quốc của thiếu niên. Cùng các bạn trong có Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1927. Vào Trung gặp cụ Phan Bội Châu. Hai năm sau bị Pháp bắt, lên án tù 10 năm cấm cố đày ra Côn Đảo. Tám năm sau được thả nhưng lãnh thêm án 5 năm biệt xứ. Bị ám sát chết tại Hà Nội năm 1949, chưa rõ thủ phạm là Việt Minh hay thanh toán nội bộ. Văn thơ ông hàm xúc, đậm đà mà thanh thoát, nghề dịch thuật của ông được các nhà phê bình cho là tài tình, trác tuyệt.
Nhượng Tống để lại các tác phẩm: 
- Lan và Hữu (tiểu thuyết, 1940) 
- Mái Tây, 1942 
- Ly Tao, 1943 
- Sử Ký Tư Mã Thiên, 1944 
- Nam Hoa Kinh, 1944 
- Hoàng Diệu (chèo cổ) 
- Nguyễn Thái Học... 
Khởi Hành từng hai lần có bài về nhà thơ này.
* Có sách viết ông sinh năm 1906, có sách viết 1897, chúng tôi chưa thể tìm hiểu được hết; quí thức giả nào hay, vui lòng mách bảo, đặng sửa cho đúng khi loạt bài này được in thành sách. Trân trọng cảm ơn. VL (namkh.nguyen@gmail.com)
Nhượng Tống (19..-1949)*
(Từ điển văn học)
Dứt tiếng ly ca ném chén vàng
Bồi hồi từ giã đất Tuyên Quang
Biết tìm đầu thấy người trong mộng
Khéo não nùng thay, cảnh dọc đường.
Cây cỏ ba đông trời cố quốc
Nước non muôn dặm bóng tà dương
Xanh xanh sông nọ bao nhiêu khúc
Một khúc xa nhau một dặm trường.
Người một phương trời khách một phương
Đôi lòng ai giắt sợi tơ vương
Không quen thuộc đã thành dan díu
Có biệt ly đành phải nhớ thương.
Ơn nặng chưa đền cho đất nước
Tình riêng tạm gởi với văn chương
Thăm nhau muốn hỏi đường trong mộng
Núi Tản sông Lô mấy dặm đường?
Người bến sông Lô kẻ chợ Bờ
Tìm nhau chẳng thấy ruột vò tơ
Chiếc thân đất khách ta buồn lắm
Giấc mộng đêm trường khách tỉnh chưa?
Sự trước đã lầm ra thế ấy
Đường xa sớm liệu tự bây giờ
Mông mênh bốn bể ai tri kỷ?
Canh tối đèn tàn, tiếng gió mưa!
In lại từ "Thi Nhân Việt Nam Hiện Đại", Phạm Thanh, Khai Trí, Sài gòn, 1959.)
Nhượng Tống
Khởi Hành 194, Tháng 12.2012
DẶM VỀ *
NGUYỄN ĐÌNH TIÊN
Mai chị về, em gửi gì không?
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió, lòng sao lạnh?
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Sương buông khắp lối đường muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây, lá rạt vương chân ngựa
Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo.
Rừng đêm nhoà bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị vừa qua thác sao vàng
Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa
Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn.
Thu 1945
Nguyễn Đình Tiên
(1924-1995)
Nguồn: Nguyễn Trọng Tạo blog
*) Bài thơ này, gần nửa thế kỷ lưu truyền với tên "Mai Chị Về" tác giả là Quang Dũng, mặc dầu Quang Dũng không bao giờ nhận là của mình. Đến 27.9.1989, tòa soạn báo Văn Nghệ nhận được thư ông Nguyễn Đình Tiên nhận là tác giả bài thơ, trong thơ có kể sơ lược xuất xứ:
... Tháng 9.1945, có ba chị em một chị trí thức dòng dõi đại điền chủ Nam Bộ tránh giặc Pháp, dạt ra miền Trung và đến Thanh Hóa... Cũng 21 tuổi nhưng chị ra đời trước tôi khoảng nửa năm, lại là con gái hiểu biết sớm hơn về cuộc sống, nên tôi gọi chị là “chị” rất mực kính trọng. Một lý do nữa vì hoàn cảnh gia đình, tôi học chậm, đang học trung học, còn chị đã đỗ tú tài triết học năm 19 tuổi. Giữa tôi và chị rất thân nhau như bạn bè, nhưng vẫn có cái hố ngăn cách về tình cảm do sự mặc cảm của tôi dựng lên.
Đến tháng 10.1945, chị bỗng im lặng rồi thông báo một tuần nữa ba chị em sẽ ra Hà Nội liên lạc với anh em sinh viên Nam Bộ tìm đường về Nam với gia đình. Lúc đó, tôi còn quá trẻ, nghe tin như sét đánh ngang tai. Đêm đó, tôi chong đèn suốt đêm và viết bài thơ Dặm về... (trích thơ Nguyễn Đình Tiên).
Theo http://www.hocxa.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...