Mùa xuân là mùa của cây cối sinh sôi nảy nở, mùa xuân cũng là mùa của biết
bao nhiêu thế hệ thi sĩ đắm chìm vào những bài thơ miêu tả xuân. Nếu như đa số
những nhà thơ nói đến cái màu sắc yêu kiều tinh khôi của xuân vào buổi sáng
bình mình xây xanh nắng dội thì Anh Thơ lại chọn riêng cho mình tả mùa xuân vào
buổi chiều. Và bài thơ Chiều Xuân ra đời như thế, qua đây ta thấy được thêm những
nét đẹp của mùa xuân vào buổi chiều – vẻ đẹp êm đềm trên những cánh đồng quê
hương dịu ngọt.
Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi
chiều, bức tranh ấy cũng bắt đầu bằng hình ảnh của mưa xuân êm đềm:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Không gian mở ra trên bến đò xưa cũ và bức
tranh mùa xuân hiên lên có sự có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh. Tứ thơ mùa
xuân lan tỏa trong từng hình ảnh từng chi tiết, từng lời thơ. Đó là những hình ảnh
đặc trưng của mùa xuân xứ Bắc: mưa bụi êm đềm, chùm hoa xoan tím rụng trên quán
nhỏ…hình ảnh cơn mưa bụi gợi lên sự êm đềm phảng phất của những hạt mưa xuân nhỏ
nhẹ êm êm. Chiều xuân cũng vắng như những buổi chiều, con đò được nhân hóa như
biết lười biếng để mặc cho nước trôi lững lờ cong mình thì nằm im lìm trên bến
vắng đó. Trước mắt ta là một cảnh tượng hữu tình sông nước bến vắng với con đò.
Anh Thơ không phải tìm đâu xa mà những hình ảnh bình thường nhưng lại nên thơ ấy
đã như phô trước mắt chỉ cần một tâm hồn biết cảm nhận là toát lên những lời
thơ tuyệt vời. Quán nước cũng lim lìm trong sự vắng lặng ấy, chòm xoan hoa tím
rụng tơi bời. Mùa chiều vốn tàn tạ nhưng mùa xuân thì nảy nở sinh sôi. Vậy Anh
Thơ đã cho ta biết thêm một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lờ của mùa xuân nữa. Mọi thứ
đều hoạt động một cách nhẹ nhàng phảng phất buồn trong sự vắng lặng của con người.
Sang khổ thơ thứ hai lại là một phiên cảnh
khác, không phải là cảnh bến vắng con đò lười nữa mà là cảnh mùa xuân trên những
triền đê:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Màu sắc của cỏ cũng trở nên thật dịu nhẹ làm
sao, sắc cỏ dịu dàng tràm biếc cỏ. Sắc màu ấy không rực rỡ không chói chang
không nổi sóng như bài xuân chín của Hàn Mạc Tử, cũng không bàng bạc thời gian
như trong thơ Quach Tấn, mà sắc màu ấy là gam màu của cuộc sống được khúc xạ
qua một tâm trạng ngẩn ngơ một chút buồn vu vơ của thi sĩ. Những con sáo đen sà
xuống mổ vu vơ, mấy cánh bướm thì chập chờn trong gió, những đàn trâu thong thả
ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân. Ở đây ta cảm thấy được nghệ thuật ngôn từ của
nhà thơ quả thật rất hay. Những con số như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự
nhiều, sự đầy đủ nhưng cũng không quá đông của những con vật làm đẹp cho bức
tranh chiều mùa xuân ấy. Và đặc biệt là hình ảnh cánh bướm thì trôi trước gió,
đàn trâu thì ăn mưa. Người ta chỉ hay nói rằng trôi theo nước, ăn cỏ hay uống
mưa chứ không ai nói như thi sĩ cả. Những cái vô lý ấy lại trở thành cái có lý
thành những hình ảnh nghệ thuật vô cùng đẹp. Nó nhằm thể hiện lên sự dập dìu của
thiên nhiên cảnh vật, cánh bướm mỏng manh bay trong gió tựa như đang trôi theo
những làn gió nhẹ nhàng ấy. Đàn trâu gặm những búi cỏ ướt đẫm những hạt mưa
xuân như đang ăn mưa vậy.
Chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê bãi cỏ
chúng ta đến với cảnh xuân trên trong ruộng lúa nước thân quen:
“Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”
Cơn mưa xuân êm êm kia cũng làm cho những cây
lúa trên đồng ướt lặng. Cái chữ lặng kia làm cho chúng ta thấy được sự lặng lẽ
êm đềm của cảnh vật xuân nơi làng quê. Cánh đồng không thiếu đi hình ảnh những
con cò chân đứng chân co rồi lại chốc chốc bay vút lên bầu trời kia. Cánh cò cứ
bay lả rập rờn như thế. Cái hành động chốc chốc bay ra ấy khiến cho những cô
gái yếm thắm giật mình. Cái giật mình ấy thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh những
người con gái xưa duyên dáng vơi chiếc yếm trên thân mình gợi cho ta bao niềm
liên tưởng về những con người ngày xưa. Đặc biệt câu thơ cuối với bốn từ liền
nhau đều mang âm đầu là “c” “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự nhịp nhàng trùng điệp.
Những cô gái yếm thắm ấy không chỉ duyên dáng trong trang phục của người xưa mà
còn đẹp với cái nết na chăm chỉ vun vén cho những cây lúa tốt tươi, cuốc những
cây cỏ đang ra hoa kia đi.
Như vậy có thể nói ba cảnh ấy hợp lại thành một
bức tranh chiều xuân với nét đẹp vẫn sinh sôi nảy nở nhưng lại êm đềm vắng vẻ
và thoáng chút buồn vu vơ của người thi sĩ. Có thể nói ta cảm nhận được sau bức
tranh ấy là một tâm hồn thuần phát trong sáng của nhà thơ.
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 - 2005) tên thật là Vương
Kiều Ân, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Quê gốc của nữ
sĩ ở thị xã Bắc Giang nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải
Dương. Tuy chưa học hết tiểu học nhưng vốn có khiếu văn chương nên bà rất thích
đọc sách và làm thơ. Bút danh AnhThơ xuất hiện trong phong trào Thơ mới với những
bài thơ viết về đề tài nông thôn tràn ngập những hình ảnh gần gũi, quen thuộc,
gợi nhớ những ki niệm êm đềm về làng mạc, quê hương trong tâm thức của mỗi con
người. Thơ của bà mỗi bài là một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hoà, gợi
nên không khí và nhịp sống êm đềm ở miền quê Bắc Bộ. Nữ sĩ Anh Thơ được Nhà nước
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2007.
Chiều xuân được in trong tập Bức tranh quê
(xuất bản năm 1941) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê tĩnh lặng,
thanh bình khiến cho con người thêm gắn bó với quê hương.
Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ làm nảy
sinh cảm xúc và thi hứng của thi nhân. Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn những
hình ảnh, chi tiết đặc trưng của cảnh vật để phác họa nên ba bức tranh chiều
xuân êm ả, thanh bình.
Bức tranh thứ nhất tả cảnh một chiều mưa bụi
với hình ảnh bến sông vắng khách, con đò nằm gần như bất động, quán tranh xơ
xác bên chòm xoan rụng đầy hoa tím:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”
Nữ sĩ quan sát, thưởng thức bằng cái nhìn tâm
tưởng nên đã cảm nhận được cái hồn của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh,
quang cảnh bến sông ven làng càng tiêu điều, vắng vẻ. Một bức tranh dường như
thiếu sắc màu và ánh sáng. Trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối của không gian
vẫn có sự hoạt động của cảnh vật, dù là nhẹ đến mức như có như không: Mưa đổ bụi
êm êm trên bến vắng. Con đò thường ngày tất bật chở khách sang sông, giờ đây dường
như mệt mỏi, biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Còn quán tranh cũng như thu
mình lại, đứng im lìm trong vắng lặng bởi không còn khách vào ra với tiếng cười,
tiếng nói rộn ràng. Chòm xoan hoa tím rụng tơi bời trước ngọn gió xuân còn
vương hơi lạnh của buổi tàn đông. Tất cả đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín
khó nói thành lời.
Bức tranh thứ hai:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.”
Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân qua cảm
nhận của nữ sĩ thật thân thương và bình yên. So với cảnh bến vắng đìu hiu ở
trên thì cảnh đường đê vui hơn và nhiều sức sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non
mơn mởn trải dài hút tầm mắt khiến nhà thơ có một liên tưởng bất ngờ và thú vị:
Đàn trâu bò đang ung dung gặm cỏ mà như đang thong thả cúi ăn mưa. Đó là một ảo
giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua lăng kính lãng mạn của nhà thơ. Trên
cái phông nền xanh mát mắt và mát cả hồn người ấy điểm xuyết vài nét chấm phá của
Đàn sáo đen và Mấy cánh bướm rập rờn. Đoạn thơ có nhiều nét tươi mát và thơ mộng,
chứng tỏ tác giả có tài quan sát và có sự rung động tinh tế nên nhận thấy cảnh
vừa thực lại vừa ảo, vừa quen, vừa lạ.
Thế nhưng bức tránh quê dù đẹp đẽ, thanh bình
đến đâu chăng nữa cũng sẽ trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Con người xuất
hiện làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh sinh hoạt:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”
Khung cảnh thực mà giống như trong một giấc
mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh rờn nổi bật lên hình ảnh một cô nàng yếm thắm tràn
đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đáng yêu ấy thể hiện chất trữ tình lãng mạn
đậm đà trong tâm hồn nữ thi sĩ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Tiếng động bất
ngờ của Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra khiến cô gái giật mình ngơ ngác là một
điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô thôn nữ với cái dáng cắm cúi, chuyên cần làm
việc giữa khung cảnh chiều xuân êm đềm như thế quả đã làm xúc động lòng người,
vẻ đẹp của cô thôn nữ bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên khiến cho cảnh sắc bình
thường, thân quen bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Thủ pháp lấy động tả tĩnh đã
làm nổi bật vẻ thanh bình, vắng lặng của chiều xuân chốn đồng quê.
Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau nhưng
trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh binh dị,
quen thuộc xung quanh và tỏ ra có thế mạnh ở lối miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, thâu
tóm được cái hồn của cảnh vật thiên nhiên. Mặc khác, Anh Thơ còn đóng góp cho
Thơ mới ở cách dùng từ độc đáo, mới lạ chưa từng có trong thi ca. Đó là những cụm
từ mưa đổ bụi, đò biếng lười; rụng tơi bời, mổ vu vơ; Những trâu bò thong thả
cúi ăn mưa… Những nét độc đáo, mới lạ ấy được thể hiện qua sự duyên dáng, mềm mại
của các câu thơ càng làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng
thể về buổi chiều xuân yên ả, thanh bình vừa hoà hợp với tâm hồn nữ sĩ vừa gợi
nên tình cảm làng mạc, quê hương sâu sắc trong lòng mỗi con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét