Quê nghèo
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn
chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc
ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời
ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo
hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời
cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu
bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng
đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Tiếng oan khiên từ thời
Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai
hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH:
Tôi là bạn đọc thường xuyên
của trang dangxuanxuyen.blogspot.com và
rất thích bài thơ Quê Nghèo của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Vì không phải
là dân văn chương nên tôi không có khả năng lý luận để giới thiệu với bạn đọc
cái hay, cái đẹp của Quê Nghèo theo cách cảm nhận của riêng mình,
đành làm theo cách tổng hợp cảm nhận của một số tác giả và bạn đọc về bài
thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến.
“Bài thơ Quê nghèo gồm
4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe
như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4
khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về
cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều
giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn
chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc
ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba
đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng
thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng. Tuy nhiên, vẫn
lác đác nhà tranh thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn
tiếng thở dài những chiều giáp hạt/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát”
thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức
vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà
hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào giấc
ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào
cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời
ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải
là cánh cò bay lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh
cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh
cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…”. (1)
“Quê Nghèo thật sự là
bài thơ hay. Là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói
nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn
nhau cắt rốn của mình:
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc
ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời
ru.
Tôi không biết khi viết bài
thơ này, nhà thơ của Quê Nghèo quặn thắt gan ruột thế nào? Nhưng tôi tin anh phải
xót xa, đau đớn lắm!”. (2)
“Hình ảnh trong bài thơ của
Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những
vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây
số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp
bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù
không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán
đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho
những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc
miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được
cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại
vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài
còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị
trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí
truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một
nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ
tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như thế
bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ,
hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn
mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt
nghèo hơn
Răm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
… Chợ quê xác xơ già cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng
Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở. Làng thơ Việt Nam bây giờ có
nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng
mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt
Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ,
quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn
đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân…
Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày
vây bủa thì còn đâu thơ phú…” (3)
“Sau hơn 60 năm đi theo con
đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê
tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của
nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ
đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với
Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ
nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là
nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào
giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không
thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và
phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê
không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi
thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn
hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao
người ao ước:
Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi
về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của
nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt’ với vài dăm món hàng rẻ tiền
như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như
vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều
chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến
xót xa cõi lòng khi thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
(…) Những thân hình đói khổ ấy
làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như chiếu
bạc
Với sự sống quẩn quanh chật
hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của
mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn
gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu? Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau
truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo
Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên thật
đẹp
Ô hay, sao lại là tội của
chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở
làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của
làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được
dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng
làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm,
kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với
những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu
làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng
trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn
nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá.
Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính
của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người ta
đâu biết:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Tù túng giấc mơ.” (4)
"Cái cổng làng đã
không còn là cổng làng của làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể
chế đã giam hãm, trói buộc con người trong đói nghèo, tù túnǵ...
Một tiếng kêu đau thương, một sự phản kháng yếu ớt: Cần phải phá bỏ sự
trói buộc, giam hãm con người trong đói nghèo, tù túng của thể chế thì cuộc sống
của người dân mới có cơ được cải thiện.". (5)
“Bài thơ “Quê Nghèo” không
có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là
tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ.
(…) Bài thơ cho ta thấy một
nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói
rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy
không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu
nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người /
Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê
của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.” (6)
“Bài thơ kết thúc với
hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và
trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì
nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ
thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ!”
(…) Trong muôn vạn bài thơ của
các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài
thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc,
thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được
những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà
thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động
thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những
tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người
đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo. (7)
Xin mượn lời nhà phê bình
Châu Thạch trong bài viết “Đọc thơ Đặng Xuân Xuyến” để kết thúc bài tổng hợp
này:
“Với hai bài thơ “Bạn Quan”
và “Quê nghèo” của mình, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến không làm nổi lên một cơn sốt
trên mạng xã hội như bài thơ “Đất nước mình lạ quá phải không anh” của cô giáo
Trần Thị Lam nhưng gây ấn tượng mạnh cho bạn đọc trên các trang web, nhất là giới
văn nghệ sĩ và trí thức. Từ hai bài thơ đó tôi đi tìm đọc thơ của Đặng Xuân Xuyến
và cảm nhận được phong cách riêng lạ của một nhà thơ đương đại. Hình như nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến làm thơ không nhiều lắm nhưng mỗi bài thơ của anh như ngón
tay chỉ ta nhìn thẳng vào cuộc sống và buộc ta phải suy nghiệm bức tranh hiện
thực đó, hoặc cho ta hưởng thụ những phút giây sâu nhiệm diễn biến trong tâm hồn
nhạy cảm của người thơ.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét