“Một thế kỷ - Mấy
vần thơ” vẫn còn sống mãi!
Nhà thơ Truy Phong
(1-10-1925 - 8-5-2005), tên thật là Dương Tấn Huấn, sinh tại xã Thanh
Bình (Cù lao Dài), huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Thuở nhỏ, ông Truy Phong
học ở trường làng rồi trường huyện Càng Long, đậu bằng Certificat
của Pháp. Sau đó ông học trường tư ở Sa Đéc và đi làm việc ở tòa
báo Tân Tiến ở Sa Đéc năm 1943. Có lúc ông về dạy học ở Trà Vinh.
Lĩnh vực hoạt động của ông là viết báo, sáng tác thơ văn trong phong
trào văn hóa - văn nghệ yêu nước công khai ở thành thị, cùng với các
ông Sơn Nam, Nguyễn Phương, Kiên Giang, ông Bùi Kinh Lăng ở Tiểu ban văn
nghệ Trung ương Cục miền Nam…
Thời chống Pháp, ông đã
từng đoạt giải nhất về thơ của Hội Văn nghệ kháng chiến khu 9 với
tác phẩm “Tấm lòng quê” năm 1948.
Bài thơ “Một thế kỷ –
Mấy vần thơ” ra đời năm 1956, đã thật sự có tác dụng to lớn đối với
nhiều cán bộ trong phong trào thanh niên học sinh, sinh viên Sài Gòn,
trí thức và các đô thị lớn ở miền Nam trước đây. “Một thế kỷ – Mấy
vần thơ” âm thầm len lỏi vào các nhà tù của Mỹ – Ngụy ở Sài Gòn
đến tận Côn Đảo, vào trong công nhân lao động, văn nghệ sĩ… Nhiều
người đã thuộc nằm lòng bài thơ và sử dụng nó như một thứ vũ khí
sắc bén trong công tác vận động của mình. “Một thế kỷ – Mấy vần
thơ” đã đem đến một sức mạnh mãnh liệt đi vào lòng người, trong rèn
luyện ý chí đấu tranh, trau dồi tình cảm yêu nước, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào, căm thù giặc, xây dựng và củng cố niềm tin đối với nhiều
cán bộ cách mạng. Đây là một bài trường ca rất đặc biệt vừa mang
phong cách biền ngẫu của văn tế, của phú, của cáo, vừa mang âm hưởng
hò Nam bộ, thể thơ trường đoản chuyên chở được phần nào đề tài rộng
lớn vừa “tráng”, vừa “bi”.
Ngày 27-4-1956, tờ báo
Tiến Thủ đăng bài “Một thế kỷ – Mấy vần thơ”. Ngay sáng hôm ấy, ở
Sài Gòn báo Tiến Thủ bị tịch thâuvà tòa báo bị đóng cửa ngay. Lần
đầu tiên, Tiến Thủ đăng bài thơ của ông Truy Phong trên trang nhất với cái
“tít” màu đỏ thật lớn, thật đẹp chạy suốt bề ngang tờ báo khổ
rộng. Hàng chữ “Một thế kỷ - Mấy vần thơ” nổi hẳn lên cốt làm cho
độc giả đặc biệt chú ý như một tin thắng lợi lớn lao, 1/3 bài thơ
(khoảng 50 câu) cùng đăng liền bên phải dưới cái “tít” hoành tráng ấy
(chưa có tờ báo nào ở Sài Gòn đăng thơ một cách đặc biệt và trang
trọng như vậy). Lối trình bày như trên như là thách thức làm “xốn
mắt” nhà cầm quyền lúc bấy giờ.
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Theo thiển ý của chúng tôi thì đây là một trong những bài thơ đẹp
nhất của thế kỷ XX này”.
Ông Việt Tha, Chủ nhiệm
tờ báo Tiến Thủ viết: “Theo tôi thơ như vậy mới là thơ, thơ của thời
đại chúng ta”.
Thi sĩ Kiên Giang (Nhật
báo Tin Sáng) nói: “Ông Truy Phong là một thi sĩ có chân tài với hồn
thơ nồng đậm tình yêu quê hương đất nước… Truy Phong đã làm chấn động
thi đàn năm 1956 với bài “Một thế kỷ – Mấy vần thơ”, một thi phẩm mang
giá trị vượt thế kỷ…”.
Tuần báo Khởi Hành:
“Những người trẻ hôm nay đã không quên ông, không quên một tác phẩm
đáng lưu lại mãi mãi trong lòng người dân Việt”.
Anh Lê Hồng Tư, một chiến
sĩ tử tù ở Côn Đảo, kể: “Năm ấy, giữa lúc địch đánh phá ác liệt
thì “Một thế kỷ – Mấy vần thơ” xuất hiện trên trang nhất báo Tiến
Thủ Sài Gòn là một tin vui, một người đọc, mười người đọc, trăm và
ngàn người đọc, không riêng học sinh, sinh viên, trí thức, mà cả công
luận ở Sài Gòn và các thành thị miền Nam phấn khởi vì bài thơ công
khai lên án tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt
Nam suốt một thế kỷ qua. Bài thơ hấp dẫn đến nỗi đọc qua một vài
lần trên 100 câu, ai cũng muốn thuộc, chúng tôi coi bài thơ như là một
thứ vũ khí tuyên truyền sắc bén chống lại kẻ thù. Tận dụng lợi
khí này, chúng tôi kéo nhau lên Đà Lạt dàn dựng và trình diễn với
đồng bào “Một thế kỷ – Mấy vần thơ” như một vở nhạc kịch rất “thời
sự” ai cũng tin là ăn khách. Chúng tôi mượn đồn điền của người Pháp
gần suối Cam Ly làm sân khấu, mục đích nhắm họ làm đối tượng tuyên
truyền. Đêm ấy, đồng bào hiện diện khá đông. Hầu hết chồng là người
Pháp, vợ là người Việt và công nhân trong đồn điền đến xem (người
Pháp ở đây nghe và nói được tiếng Việt).
… Giờ trình diễn đến,
màn kéo lên hiện ra một nghĩa địa âm u, một tốp lính Pháp cúi đầu
ủ rũ̉… trông thật buồn thảm. Tất cả chủ và người làm công của đồn
điền có vẻ quan tâm chú ý… Cả một đoạn thơ dài kể tội ác thực dân
không làm họ khó chịu. Đến màn “thân thiện” mô tả nước Pháp có
thành Paris đẹp rực rỡ, có Côte d’Azur người thanh cảnh lịch, có bờ
Marseille đẹp nhất sơn hà, có anh hùng dân tộc Joffre Jeanne d’Arc… thì
Tây bộc lộ cảm tình, tỏ thái độ thân thiện… Tới hai câu:
Sau cùng, khi chấm dứt
vở kịch bằng câu “Au revoir”, nghe đây đó có tiếng vỗ tay cười nói…
Xong buổi trình diễn, Tây trên đồn điền đối xử với chúng tôi rất
lịch sự, tử tế.
Trong các tiết mục đêm
ấy, cũng như trong các lần biểu diễn sau này, “tiễn chân quân viễn
chinh Pháp” là tiết mục thành công hơn cả! Cho đến bây giờ nhắc lại,
chúng tôi thấy còn nguyên cảm giác năm xưa. Bài thơ sẽ sống mãi!
Có thể nói “Một thế kỷ
– Mấy vần thơ” cái phát minh về hình thức chính là sự kết hợp văn
biền ngẫu với thơ ca dân gian, tạo ra một phong cách đặc biệt vừa gần
gũi, uyển chuyển, vừa bi hùng. Bằng phong cách ấy, tác giả khám phá
cảm xúc của mình về chiến thắng thực dân Pháp của dân tộc và cổ
vũ nhân dân chống Mỹ.
Suốt những năm chiến
tranh ác liệt, cho đến ngày 30-4-1975 anh em học sinh chúng tôi cố tìm
tác giả bài thơ có bút danh là T.P không biết là ai, ở đâu? Mãi
những năm sau, trên báo Sài Gòn Giải Phóng có tin anh Ba Cảnh, tức Lê
Minh Châu, người chiến sĩ tử tù ở Côn Đảo, nguyên là Phó chủ tịch
UBND TP.HCM đã đến tận nơi thăm tác giả T.P. Từ đó chúng tôi lần theo
thăm gia đình tác giả và khi nhà thơ qua đời, chúng tôi cũng đến tận
nơi thắp nén hương cuối cùng tiễn biệt nhà thơ.
Nhà thơ Truy Phong đã
viết “Một thế kỷ – Mấy vần thơ” tạo được sự xúc động mãnh liệt
đối với người đọc, tình cảm khêu gợi phong phú hơn, sự thưởng thức
đa dạng hơn.
Bắt đầu tác giả xót
thương đoàn quân viễn chinh Pháp bại trận xuống tàu về nước:
Cờ rũ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Cúi đầu và lặng thinh
Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
Đất lạ trời xa sớm bỏ mình.
Trước cảnh rút về nước
của đoàn quân thực dân chiến bại:
Giựt mình bấm đốt ngón
tay
Trăm năm một giấc
mộng dài hãi kinh.
Trăm năm một giấc
mộng dài hãi kinh.
Đó là thời gian từ năm
1862-1956.
Nghĩ đến 100 năm “hãi
kinh”, nhà thơ như thấy hiện lên trước mắt:
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn!
Anh giết!
Anh đâm!
Anh vằm!
Anh đày Bà Rá, Côn Nôn
Anh đọa Sơn La, Lao Bảo
Anh đoạt hết cơm, hết áo
Anh giựt hết bạc, hết vàng.
Bước nghinh, bước ngang
Anh bắn!
Anh giết!
Anh đâm!
Anh vằm!
Anh đày Bà Rá, Côn Nôn
Anh đọa Sơn La, Lao Bảo
Anh đoạt hết cơm, hết áo
Anh giựt hết bạc, hết vàng.
Cảnh đàn áp dã man của
quân giặc:
Chặt đầu ông lão treo
hàng thịt
Mổ mật thanh niên
giữa chiến trường
Cối quết trẻ thơ văng nát óc
Phanh thây sản phụ đốt thành than.
Mổ mật thanh niên
giữa chiến trường
Cối quết trẻ thơ văng nát óc
Phanh thây sản phụ đốt thành than.
Nhà thơ thấy rằng, “hận
thù nhắc lại” không bao giờ “dứt” và “bút mực” không làm sao “kể hết
lời”. Nhưng với tâm hồn cao thượng cố hữu của dân tộc, tác giả nghĩ
mình có thể nói với anh lính Pháp bại trận:
Những gì tôi hận
Những gì tôi khinh
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ
thôi mình bỏ qua.
Những gì tôi khinh
Bây giờ anh xuống tàu binh
Trăm năm chuyện cũ
thôi mình bỏ qua.
Đó chính là chất nhân
văn trong tâm hồn người Việt. Lê Lợi từng cấp ngựa và lương thực cho
tướng bại trận Vương Thông:
“Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân”.
Hơn thế, nhà thơ còn
thẳng thắn nói cho anh lính Pháp biết rằng mình vốn coi trọng những
thành tựu sáng chói của nước Pháp, như những vị anh hùng cứu quốc
của dân tộc anh, những đóng góp của đất nước anh vào nền văn minh
nhân loại như cuộc cách mạng 1789 với bản tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền, sau đó việc thay thế chính thể quân chủ bằng chính thể cộng
hòa:
Tôi là người ở phương xa
Ngày anh xán lạn cũng hòa niềm vui.
Ngày anh xán lạn cũng hòa niềm vui.
Nhưng nhà thơ cũng nhắc
quân lính bại trận nhớ rằng:
Việt Nam nước của tôi
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
Thì “giặc vào đây, chết ở đây!”.
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
Thì “giặc vào đây, chết ở đây!”.
Và sau cùng, tác giả
khuyên anh lính Pháp:
Tàu anh rời bến Việt Nam
Hãy xuôi một ngả, một đàng mà đi!”.
Hãy xuôi một ngả, một đàng mà đi!”.
Bài thơ của Truy Phong
sinh động và khiến người đọc xúc động với những tủi sầu, oán hận,
xót thương, hứng khởi của cuộc sống trong cả một thế kỷ.
Thơ có tiết tấu nhặt
khoan theo kết cấu bài văn tế. Những vế đối dạng biền ngẫu, đối
từng vế trong câu, từng cặp câu đối ý chan chứa, từng đoạn đối nhau
tạo nên văn tế “hồn ma” bi thương của đội quân viễn chinh Pháp. Lịch sử
đã lập lại: họ thất bại giống như những đội quân xâm lược Nguyên - Mông trước đây ở Bạch Đằng, Hàm Tử.
Chiều nay trên nghĩa địa
Có một đoàn tinh binh
Cờ rũ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Có một đoàn tinh binh
Cờ rũ và súng xếp
Cúi đầu và lặng thinh.
Những hình ảnh, những
bóng ma thực dân cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Câu thơ:
Mang âm hưởng của văn tế,
thể hiện sự bi thương của đội quân viễn chinh, nhưng lại làm hiện lên
cái hùng tráng của lịch sử dân tộc Việt. Kết thúc, đoạn thơ trở về
câu thơ lục bát mang âm hưởng hò Nam bộ, như một cây đinh được đóng
nhẹ nhàng mà sâu sắc để chốt trên “nắp quan tài” chủ nghĩa thực dân:
Bước đi những bước nặng
nề
Ngày đi chẳng biết ngày về chẳng hay.
Ngày đi chẳng biết ngày về chẳng hay.
Cái vô thủy, vô chung
trong tiềm thức thực dân chính là cái bắt đầu và kết thúc của
những tham vọng. Một câu lục bát nhẹ nhàng kiểu hò Nam bộ, nhưng mang
một triết lý phương Đông.
Khi người Pháp đến Việt
Nam, “Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước. Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu
mây” trong thơ cụ Đồ Chiểu. Thì giờ đây, trong thơ Truy Phong: “Kèn kêu
tức tưởi nghẹn lời, tiếng ngân xúc động, dạ người viễn chinh”.
Khi họ đến đem tang tóc
cho dân tộc bao nhiêu, thì khi thất bại, họ ra đi trong tức tưởi, nhục
nhã bấy nhiêu.
Bằng sự kết hợp tài
tình giữa phong cách thơ truyền thống của dân tộc, được kế thừa từ
nghệ thuật phú, cáo, văn tế với thơ mới, thơ dân gian, Truy Phong tạo
ra một phong cách thơ đặc biệt, dùng nó để nói lên tư thế của người
chiến thắng, để “tế” chủ nghĩa thực dân. Sức mạnh của phong cách thơ
Truy Phong hàm chứa cả một lịch sử, văn hóa dân tộc và thời đại mà
ông đang sống. Kẻ thù sau này như đế quốc Mỹ cũng không hiểu nổi nền
văn hóa của Việt Nam.
Tiếp theo, cũng với
giọng văn biền ngẫu, có hơi hướng dân ca, có chất thơ mới, tác giả
kể rõ tội ác của thực dân Pháp trong suốt một thế kỷ xâm lược. Thế
nhưng, người đọc liên hệ và cảm thấy ngay đó chính là tội ác tày
trời của bọn Mỹ - Diệm: những năm họ lê máy chém giết hại những
“người kháng chiến”:
Hỡi ơi! Xương máu dẫy
đầy
Chân anh dẫm tới, đất này tóc tang
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang…
Chân anh dẫm tới, đất này tóc tang
Tay gươm, tay súng
Bước nghinh, bước ngang…
Tác giả dùng mũi tên mà
bắn chính xác hai đối tượng. Tất cả tội ác ấy cũng chính là tội
ác của bọn Mỹ - Diệm đang thay chân thực dân Pháp xâm chiếm miền Nam.
Văn biền ngẫu của đoạn này được sử dụng như một bản cáo trạng đanh
thép. Người đọc cảm nhận một giọng thơ vừa quen vừa mới, nhưng không
cảm thấy gò bó của loại văn biền ngẫu cổ điển.
Tác giả khẳng định một
chân lý bất biến sáng ngời chính nghĩa và nêu ra bài học nhớ đời
đối với mọi kẻ thù xâm lược:
Cái gì bạo ngược và phi
nghĩa
Là trái lòng dân nghịch ý trời
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được
trái tim người!
Là trái lòng dân nghịch ý trời
Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ
Không sao thắng được
trái tim người!
Kết thúc khúc ca bi
tráng, hào hùng, một lần nữa tác giả muốn nhấn mạnh lời cảnh báo
nhắn gửi thực dân Pháp và với “ai” đang lao vào vết xe đã đổ:
Việt Nam nước của tôi
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
Thì giặc vào đây chết ở đây!
Già như trẻ
Gái như trai
Chết thì chịu chết
Không cúi lòn ai
Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
Thì giặc vào đây chết ở đây!
Tác giả minh chứng lịch
sử kháng chiến để nói lên một chân lý: đế quốc đã, đang và sẽ thất
bại trước quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt Nam với một niềm tin
tất thắng không gì lay chuyển được:
Thì anh hãy nhớ một lời
Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ.
Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ.
Lịch sử dân tộc đã điễn
ra đúng như thế. Niềm tin của nhà thơ Truy Phong đã thành sự thật. Có
lẽ giá trị lớn nhất của bài thơ “Một thế kỷ- Mấy vần thơ” là ở
chỗ ấy.
Đỗ Quốc Hùng
Nguồn Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 381
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét