Nhạc sĩ Cung Tiến với ca khúc
Nhạc sĩ Cung Tiến (sinh
27 tháng 11 năm 1938) là một nhạc sĩ nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Ông
được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài Cảm”
năm 14 tuổi. Mặc dù NS Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng
ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị trong kho tàng âm nhạc Việt Nam như
“Thu Vàng”, “Hương Xưa”, “Hoài Cảm”.
Ông tên thật là Cung
Thúc Tiến, sinh tại Hà Nội. Thời kỳ trung học, NS Cung Tiến học xướng âm và ký
âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng NS Chung Quân và NS Thẩm Oánh. Trong khoảng thời
gian 1957 đến 1963, NS Cung Tiến du học ở Úc ngành kinh tế và ông có theo tham
dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối cụ tại Âm Nhạc Viện Sydney.
Trong những năm 1970 đến
1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu
kinh tế học phát triển tại Cambridge, Anh, ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học,
và nhạc lý hiện đại tại đó.
Về ca khúc, NS Cung Tiến
sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954, trừ bài “Thu
Vàng”, “Hoài Cảm” được ông viết năm 1953 khi mới 14-15 tuổi, nhưng chúng thường
được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận
mình là một người nghiệp dư trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, NS
Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc.
Các nhạc phẩm “Hoài Cảm”, “Hương Xưa” của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ
của Tân Nhạc Việt Nam.
Ra hải ngoại NS Cung Tiến viết
nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần
đầu vào ngày 27 tháng 3, 1988 tại San Jose, California, Hoa Kỳ, với dàn nhạc
thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Quốc Khánh
1988.
Năm 1992, NS Cung Tiến hoàn
thành tập Ta Về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, dẫn đọc, ngâm thơ và một đội
nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, với tài trợ của The Saint Paul Companies để
nghiên cứu nhạc Quan Họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã
soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland
Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi
tiếng quốc tế này. Năm 2003, NS Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương
đại “Lơ Thơ Tơ liễu Buông Mành” dựa trên một điệu dân ca Quan Họ. Ông là hội
viên của Hội Nhạc Sĩ Sáng Tác ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ.
Ngoài sáng tác, NS Cung Tiến
còn đóng góp nhiều khảo luận và nhận định về nhạc dân gian Việt Nam cũng như nhạc
Hiện đại Tây phương. Trong lãnh vực văn học, những thập niên 1950 và 1960, với
bút hiệu Thạch Chương, NS Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận
định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan
Điểm, và Văn. Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là
cuốn Hồi ký viết dưới hầm của Dostoievsky và cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan
Denisovitch của Solzhenitsyn. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số
báo với bút danh Đăng Hoàng.
Dưới đây mình có các bài:
– Phỏng vấn tác giả “Hoài Cảm”:
“Âm giai ngũ cung là một kho tàng”
– Nhạc sĩ Cung Tiến, người viết nhạc cho tương lai
– Nhạc sĩ Cung Tiến, người viết nhạc cho tương lai
Cùng với 10 clips tổng hợp
“Thu Vàng”, “Hương Xưa”, “Hoài Cảm”, do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các
bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Phỏng vấn tác giả ‘Hoài Cảm’: ‘Âm giai ngũ cung là một kho
tàng’
Ngày 10 tháng 7, 2010 sắp tới,
Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt-Mỹ (VAALA) sẽ thực hiện chương trình nhạc Cung Tiến
với chủ đề “Vết Chim Bay.” Nhân dịp này, Người Việt nói chuyện với người nhạc
sĩ tài hoa, cũng là một nhà kinh tế, về nhiều vấn đề; về những bản nhạc xưa, và
cả câu hỏi: có hay không, một mối liên hệ giữa âm nhạc và… luật cung cầu. Bài
phỏng vấn do phóng viên Ngọc Lan thực hiện.
Ngọc Lan (NV): Nhắc đến nhạc
sĩ Cung Tiến, không thể không nhắc đến “Hoài Cảm.” Thật khó để hình dung ra ở
tuổi 14, 15 lại có một nỗi khắc khoải như vậy, về nỗi nhớ, về cố nhân. Nhạc sĩ
có thể chia sẻ một chút gì về tác phẩm này?
Nhạc sĩ Cung Tiến: “Hoài Cảm”
không phải là tác phẩm quan trọng lắm, bởi vì ở cái tuổi 14, 15 thì đâu có nghĩ
sẽ viết một tác phẩm quan trọng đâu.
Hoài Cảm là bài hát mà tôi viết ra trong tưởng tượng. Tưởng tượng ra là mình nhớ một người nào mình yêu mến thôi, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì đằng sau cả. Ðó chỉ hoàn toàn là trí tưởng tượng trong âm nhạc cũng như trong lời ca. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ mình học ở trường, như thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn của Việt Nam hồi đó.
Hoài Cảm là bài hát mà tôi viết ra trong tưởng tượng. Tưởng tượng ra là mình nhớ một người nào mình yêu mến thôi, chứ không có ý nghĩ sâu xa gì đằng sau cả. Ðó chỉ hoàn toàn là trí tưởng tượng trong âm nhạc cũng như trong lời ca. Lời ca bị ảnh hưởng từ những bài thơ mình học ở trường, như thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, những nhà thơ lãng mạn của Việt Nam hồi đó.
Âm nhạc hay bất cứ sáng tác
nghệ thuật nào, cũng là sự tưởng tượng cả. Tưởng tượng về cái này, tưởng tượng
về cái kia, gây lên một mối sầu, mối buồn hay mối vui hay mối khoan thai, hoàn
toàn là tưởng tượng của người sáng tác.
NV: Mặc dù nhạc sĩ nói là do
trí tưởng tượng, nhưng sự tưởng tượng cũng phải xuất phát từ một nguyên nhân
sâu xa nào đó, chẳng hạn như có ý kiến cho rằng ở thời điểm đó, cái đẹp, cái
hay thường gắn với nỗi buồn?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Hồi đó
nghĩ gì mình đâu có biết, mấy chục năm rồi, đi học thì nghĩ lơ tơ mơ vậy. Tất
nhiên bài đó không có một đối tượng nào cả – no object, hoàn toàn là trong tưởng
tượng. Trong tưởng tượng, nhớ một người nọ, nhớ một người kia, nhớ một người
yêu, nhớ một người bạn, hay là nhớ bất cứ ai. Nhớ là hồi đó tôi mới ở ngoài Bắc
vào, năm 1952. Tôi đi sớm, tức là từ Hà Nội vào Sài Gòn sớm lắm. Lúc đi, nhớ tất
cả những gì mà ở Hà Nội ghi vào ký ức mình, thì là có bản nhạc đó.
NV: Nhạc sĩ có từng mơ mình
sẽ trở thành một nhạc sĩ trước khi trở thành một chuyên gia kinh tế không?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Không. Chả
bao giờ mơ làm nhạc sĩ. Có một chuyện này, hôm tôi mới vào Sài Gòn, trên đài
phát thanh quốc gia có tổ chức tuyển lựa ca sĩ các thứ. Tôi cũng lên hát dự
thi, nhưng tôi không nhớ hát bài gì. Khi về nhà, thấy ông bố của tôi vứt hết quần
áo, sách vở của tôi ra trước cửa. Bởi vậy, mình đâu có mơ đâu, mặc dù mình có
mơ cũng bị ám ảnh vì trong gia đình không muốn mình làm như vậy.
NV: Khi Cung Tiến nổi tiếng
với những nhạc phẩm như “Hoài Cảm,” “Thu Vàng,” “Hương Xưa,” nhạc sĩ thích người
ta biết đến trong vai trò nào? Một nhạc sĩ hay một nhà kinh tế?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi nhiều
sở thích lắm, như văn chương, tiểu thuyết, thơ, thích hội họa, toán học và kinh
tế học. Kinh tế học là ngành hồi đó tôi được học bổng đi ra ngoại quốc học.
Tôi có rất nhiều sở thích nhưng âm nhạc vẫn là sở thích đầu tiên và cuối cùng trong đời của tôi.
Tôi có rất nhiều sở thích nhưng âm nhạc vẫn là sở thích đầu tiên và cuối cùng trong đời của tôi.
NV: Ngoại trừ một vài ca
khúc như “Hoài Cảm,” “Thu Vàng,” “Hương Xưa,” còn lại hầu hết các tác phẩm của
Cung Tiến đều phổ từ thơ của Thanh Tâm Tuyền, Phạm Thiên Thư, Trần Dạ Từ, hay ý
thơ của Xuân Diệu… Nhạc sĩ có thể chia sẻ gì về điều đó không?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Hồi nhỏ học
trung học thì tôi chỉ biết âm nhạc tôi viết là “popular song,” tức là những ca
khúc phổ biến, phổ thông. Trong âm nhạc có nhiều khía cạnh, nhiều thứ, nhiều những
trật tự mình phải theo, như hòa âm, đối điểm, tổ khúc, phối âm… mà hồi đó ở Việt
Nam tôi chưa được học. Lúc học xong trung học, năm 1956, được học bổng sang Úc
học về kinh tế. Trong thời giờ rảnh, tôi đi học thêm âm nhạc ở Nhạc Viện
Sydney, từ đó tôi mới khám phá ra những khía cạnh khác của âm nhạc, không phải
chỉ một melody, một làn điệu mà còn nhiều yếu tố khác tạo nên âm nhạc.
Từ đó trở đi, tôi rất ý thức
việc phổ thơ, phổ nhạc vào thơ vì thơ đứng một mình đọc cũng được, nhưng nếu có
nhạc đi kèm vào, phụ họa vào thì nó có một chiều kích (dimension) khác, một
kích thước khác, gọi là ca khúc nghệ thuật, “art song,” tức là lấy một văn bản
có giá trị như thơ viết thành nhạc và cho vào bối cảnh hòa âm hoặc là bằng
piano, hoặc bằng một cái đàn ghita hoặc một ban nhạc.
NV: Nếu một người bắt đầu học
kinh tế, nhạc sĩ có khuyên họ sẵn đó nên học nhạc luôn không?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Không. Với
tôi, kinh tế là một sở thích bắt buộc vì tôi nhận được học bổng đi học cái đó.
Nhưng học kinh tế rồi mới thấy nó cũng là một nghệ thuật, nghệ thuật đoán trước
người tiêu thụ muốn gì và đoán để người sản xuất làm ra cái đó, phải có sự quân
bình giữa cung và cầu. Giản dị như vậy thôi. Ðó là vấn đề nghệ thuật chứ khoa học
thì lại khác, hoặc là vật lý học hoặc gì khác thì nó chính xác hơn. Cái này
không chính xác cho nên có những rủi ro, vì thế nó là một nghệ thuật. Thế
nhưng, áp dụng nghệ thuật kinh tế vào âm nhạc thì không thể được.
NV: Xin nhạc sĩ giải thích sự
giống nhau và khác nhau giữa những ca khúc sau này của nhạc sĩ so với những bài
hát xưa, như “Hoài Cảm,” “Thu Vàng,” “Hương Xưa…”
Nhạc sĩ Cung Tiến: Ngày xưa
tôi không biết xài chất liệu âm thanh của Á Ðông, như âm giai ngũ cung chẳng hạn.
Nhưng về sau, khi được học nhiều về nhạc, tôi mới ý thức thêm là mình có cái
kho tàng về giai điệu, làn điệu Việt Nam chưa khai thác được là âm giai ngũ
cung.
Vì thế, một trong những tác
phẩm của tôi khác ngày xưa là bản “Hoàng Hạc Lâu,” thơ của thi sĩ Thôi Hiệu đời
Ðường, được Vũ Hoàng Chương dịch sang tiếng Việt. Ðó là bản đầu tiên tôi có ý
thức dùng chất liệu quý báu của âm nhạc dân tộc ta khi phổ nhạc.
NV: Trong những sáng tác
không nhiều của mình, bài hát nào để lại cho nhạc sĩ nhiều kỷ niệm, nhiều cảm
xúc nhất, cho đến bây giờ?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Khó nói lắm.
Như thể mình có 10 đứa con mà phải nói xem mình thương đứa nào nhất vậy.
Có những bài ca như những đứa con lạc đi đâu mất. Ví dụ như bản Mùa Hoa Nở, tôi viết năm 1956. Khi rời Việt Nam, tôi không mang theo bất cứ một thứ gì. Tất cả tài liệu, sách vở để lại Sài Gòn hết.
Có những bài ca như những đứa con lạc đi đâu mất. Ví dụ như bản Mùa Hoa Nở, tôi viết năm 1956. Khi rời Việt Nam, tôi không mang theo bất cứ một thứ gì. Tất cả tài liệu, sách vở để lại Sài Gòn hết.
Tình cờ một hôm, ca sĩ Mai
Hương gửi cho tôi một bản “Mùa Hoa Nở.” Tôi ngạc nhiên: “Ủa, đứa con này bị thất
lạc đi đâu mà mặt mũi lem luốt quá!” Về nhà tôi mới thương nó, mới sửa lại
thành ra hợp xướng khúc.
Nói tóm lại, không bản nào tôi hoàn toàn coi là thương hơn bản khác, bởi mỗi một thời kỳ tôi sáng tác có một kỷ niệm riêng của thời kỳ đó. Thời nhỏ đi khỏi Hà Nội là nhớ Hà Nội. Rồi từ hồi di cư vào Nam, nhớ những đoàn người từ ngoài Bắc xuống miền Nam bỏ chế độ Cộng Sản đi vào, gây cho tôi một cảm tưởng, một xúc động khác. Rồi đến khi là sinh viên, lại một xúc động khác.
Nói tóm lại, không bản nào tôi hoàn toàn coi là thương hơn bản khác, bởi mỗi một thời kỳ tôi sáng tác có một kỷ niệm riêng của thời kỳ đó. Thời nhỏ đi khỏi Hà Nội là nhớ Hà Nội. Rồi từ hồi di cư vào Nam, nhớ những đoàn người từ ngoài Bắc xuống miền Nam bỏ chế độ Cộng Sản đi vào, gây cho tôi một cảm tưởng, một xúc động khác. Rồi đến khi là sinh viên, lại một xúc động khác.
Thế nhưng, có thể nói tác phẩm
tôi trân quý nhất đến bây giờ là tập “Vang Vang Trời Vào Xuân.” Ca khúc đó của
một người bạn thân là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền và những bài thơ đó được sáng tác
trong trại tù cải tạo mà ông ta nhớ, bằng cách nào ông đưa ra ngoài để in… Những
điều đó làm tôi hết sức cảm động. Tôi viết thành 12 bản rồi sau rút lại còn 10
bản. Ðó là những gì suốt đời tôi trân quý nhất về tình người, tình bằng hữu và
tình cảnh đất nước chúng ta hồi đó.
NV: Xin nhạc sĩ chia sẻ với
độc giả chúng tôi về cuộc sống hiện tại của ông.
Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi về
hưu hơn hai năm nay rồi. Hiện tôi ở Minnesota cùng vợ. Con trai tôi sống ở tiểu
bang khác. Tôi có hai con chó, hàng ngày nuôi chúng, đi chơi với chúng, viết nhạc
và đọc sách.
Nhạc
sĩ Cung Tiến,
người viết nhạc cho tương lai
người viết nhạc cho tương lai
(Bách Lam - Viễn Đông)
Cuối tuần tới, nhạc sĩ Cung
Tiến từ Minnesota sẽ đến hội ngộ với những người yêu nhạc tại Little Saigon qua
hai buổi sinh hoạt.
Tối thứ Sáu, ngày 9-7-2010,
tại phòng sinh hoạt Việt Báo, nhạc sĩ Cung Tiến sẽ ra mắt hai tuyển tập Hoàng Hạc
Lâu và Vang Vang Trời Vào Xuân, tổng hợp hầu hết các ca khúc ông sáng tác trải
dài gần sáu thập niên, kể từ ca khúc Thu Vàng viết năm 1953. Hội Văn Học Nghệ
Thuật Việt Mỹ (VAALA) cũng sẽ thực hiện một chương trình nhạc Cung Tiến với chủ
đề Vết Chim Bay vào lúc 7 giờ tối thứ Bảy, 10-7-2010, tại La Mirada Theater,
thành phố La Mirada. Chương trình quy tụ hơn 80 ca nhạc sĩ với giàn nhạc giao
hưởng Hội Hiếu Nhạc Việt Mỹ.
Chiều ngày 22-6-2010, nhạc
sĩ Cung Tiến đã dành cho nhật báo Viễn Đông một buổi phỏng vấn, nội dung xoay
quanh những suy nghĩ của ông về âm nhạc.
Viễn Đông: Thưa ông, đâu là
ranh giới giữa ca khúc phổ thông và ca khúc nghệ thuật?
Nhạc sĩ Cung Tiến: Như tôi
đã viết trên nhiều tài liệu, ca khúc phổ thông (popular music) thường thường
người ta viết giai điệu chứ không có hòa âm. Như hồi nhỏ, tôi viết một giai điệu
có lời, nhưng mà không có hòa âm; người trình diễn đệm đàn theo lối nào cũng được,
tùy tiện. Ca khúc nghệ thuật là ca khúc dùng bản văn một bài thơ có phẩm chất
cao để viết nên phần giai điệu, xong rồi phải có phần hòa âm để làm bối cảnh
cho ca khúc đó. Ca khúc cũng như một bức tranh, đằng trước là hình ảnh, là tiền
cảnh, còn đằng sau là bối cảnh, như mây, nước, hoặc cảnh nọ, cảnh kia; cái đó
chính là hòa âm hay là phối khí trong âm nhạc. Sau một thời gian sáng tác ca
khúc phổ thông, tôi được trau giồi về âm nhạc, và bắt đầu phổ nhạc vào những
bài thơ mà tôi thích.
Viễn Đông: Trong hai tập nhạc
mà ông vừa cho xuất bản, tất cả là do ông viết hòa âm, trừ một vài bài có ghi
chú?
Ns. Cung Tiến: Vâng, tất
nhiên, tất cả là do tôi viết hòa âm. Chỉ có một vài bài, như “Đôi Bờ”, chẳng hạn,
có một người nhạc sĩ người Thụy Sĩ, chơi lục huyền cầm cổ điển, từng đệm guitar
cho một cô ca sĩ tên là Camille Huyền rất là giỏi, người Huế, sau đó viết luôn
phần đệm guitar cổ điển, rồi gửi phần hòa âm đó cho tôi. Còn phần lớn, 99 phần
trăm là tôi viết hòa âm hết, và viết cho giàn nhạc nữa.
Viễn Đông: Xin ông cho biết
định nghĩa của ông về một nhạc sĩ? Và có nên chăng có danh từ “nhạc sĩ chuyên
nghiệp”?
Ns. Cung Tiến: Theo tôi hiểu,
“nhạc sĩ chuyên nghiệp” là người sống bằng nghề nhạc. Như ông Phạm Duy, chẳng hạn,
ông là một nhạc sĩ chuyên nghiệp vì ông sống bằng nghề đó, và nhiều người khác
nữa. Còn tôi là một người tài tử, “tài tử” theo định nghĩa lấy từ chữ Latin
“amatore”, tức là “người yêu”, người yêu nhạc hay người yêu nghệ thuật. Tôi là
loại người đó. Tôi không phải sống về nghề âm nhạc. Trong đời tôi có rất nhiều
sở thích, nhưng mà âm nhạc là sở thích lớn nhất và vẫn ở với tôi cho đến nay.
Suốt đời tôi.
Ns. Cung Tiến: Riêng đối với
tôi, những ca khúc nghệ thuật, nhất là những bài thơ mà tôi phổ nhạc của thi sĩ
Thanh Tâm Tuyền, Xuân Diệu, Phạm Thiên Thư, Trần Dạ Từ, v.v., đó là những bài
thơ tôi đọc và tôi thích. Tự nhiên, mình mường tượng ra phong cảnh âm thanh
(soundscape). Một thí dụ rõ ràng nhất trong tập nhạc là bản “Khói Hồ Bay”
(trong Tuyển Tập Ca Khúc “Hoàng Hạc Lâu”), thơ của ông Nguyễn Tường Giang, người
bạn tôi rất thân. Bài thơ đó có tựa ban đầu là “Thu ở Vermont”. Tôi đọc bài
thơ, tôi khoái ngay. Vừa mường tượng ra cái cảnh đi mùa thu ở Vermont, đi trên
đường gập ghềnh, nhìn thấy lá rơi, rồi tất cả, cả một chân trời màu vàng hết.
Thế rồi, sực nhớ đến một người tình hồi xưa… Trong đầu tôi tưởng tượng ra tất cả
những cảnh đó. Tôi dùng bài thơ đó để tôi lồng vào một giai điệu. Thế nhưng,
cái đó chỉ là một phần nhỏ. Phần lớn là phần piano dùng làm bối cảnh, để tả lại
hình ảnh chập chùng đồi núi, mà nhà thơ đã đi lên Vermont, trong mùa thu, để ngắm
lá thu, nhớ đến tình nhân.
Viễn Đông: Trong bài “Khói Hồ
Bay”, ông đưa từ nhịp 3/4 qua 2/4, rồi có 6/8 nữa, xong lại trở về 3/4 hoặc là
9/8.
Ns. Cung Tiến: Vâng, nhịp tiết
còn tùy khung cảnh, tùy lời thơ. Còn nếu từ đầu đến cuối chỉ một nhịp như vậy,
như bài “Thu Vàng” của tôi ngày xưa, chẳng hạn, thì nó có tính cách phổ thông,
dễ nghe, nhưng không có nghệ thuật mấy. Nhịp tiết trong bài “Khói Hồ Bay” thay
đổi tùy theo tình cảm của người làm thơ, cũng như cảnh vật bên ngoài. Nếu đọc lời
thơ đó và nhìn phần piano, thì quý vị sẽ thấy nó trùng hợp như thế nào. Thí dụ
như đoạn cuối cùng, khi nhắc đến khói hồ bay, cần đến kỹ thuật viết nhạc như thế
nào để làm cho người nghe có cảm tưởng là khói hồ đang bay thật. Đó là một kỹ
thuật thôi, nhưng mà cũng phải phù hợp với lời thơ.
Viễn Đông: Ông có cảm thấy
những ảnh hưởng của trường phái Cổ Điển (Classical) và Lãng Mạn (Romantic) ở
Tây phương trong những ca khúc hay phần hòa âm của mình?
Ns. Cung Tiến: Vâng, tất
nhiên. Nhất là hồi nhỏ, độ mười mấy tuổi, tôi nghe nhạc cổ điển của Haydn,
Mozart, Beethoven, Schubert chẳng hạn. Như bài “Hương Xưa”, tôi viết bản đó sau
khi tôi lần đầu tiên được nghe giàn nhạc giao hưởng đầu tiên của Việt Nam trình
diễn “sống” trong một dịp kỷ niệm 200 năm sinh của nhạc sĩ Mozart. Tôi mê đến bỏ
học, để đến nghe giàn nhạc tập dợt. Rồi Beethoven, tôi cũng có ảnh hưởng chứ.
Tôi nghe một giai điệu của Beethoven, rồi nó cứ ở mãi trong đầu tôi. Và tôi
cũng lấy đó ra làm một ý tưởng, để viết nên giai điệu. Về sau này, khi trau giồi
thêm về âm nhạc, tôi cũng có ảnh hưởng khá nhiều trường phái Lãng Mạn, Ấn Tượng
(Impressionist) của Tây phương như là Gabriel Fauré, Debussy, Ravel, và những
người viết ca khúc nghệ thuật của Pháp mà tôi rất thích.
Viễn Đông: Theo ông, tại sao
trường phái Lãng Mạn lại kéo dài tuổi thọ được đến ngày nay?
Ns. Cung Tiến: Nhạc Lãng Mạn
nói riêng, hay nhạc cổ điển (classical music) nói chung, không bao giờ cũ cả.
Nhạc xưa nhưng nghe không bao giờ cũ cả, lúc nào cũng khám phá ra những cái mới.
Viễn Đông: Thưa ông, nhưng nếu
các nhạc sĩ cứ theo đường lối sáng tác của trường phái Lãng Mạn, hay nhạc cổ điển,
thì có thể gọi là “sáng tạo” không? Thí dụ như bài “Khói Hồ Bay” viết theo kiểu
“program music” (âm nhạc miêu tả, có chương trình, một hình thức có từ thời
Lãng Mạn thế kỷ 19 trong âm nhạc Tây phương).
Ns. Cung Tiến: Vẫn là sáng tạo
chứ. Ở chỗ rằng là, trong không khí đó, mình vẫn sáng tạo theo lối của mình. Vì
âm nhạc là cả một vũ trụ âm nhạc, mặc dù người ta đặt tên là trường phái Lãng Mạn
hay là trường phái Ấn Tượng hay Biểu Tượng (Expressionist), đó chỉ là việc đặt
tên. Debussy là một nhạc sĩ mà người ta gọi là thuộc trường phái Ấn Tượng,
nhưng những người thầy của ông thuộc trường phái Lãng Mạn. Thế rồi ông muốn đi
khỏi những khuôn khổ đó; ông viết nhạc để tạo ra ấn tượng âm thanh, về màu sắc
âm thanh, chứ không về một chủ đề nào cả.
Viễn Đông: Những nhạc sĩ đi
ra ngoại quốc thường có cái nhìn có thể nói là khoan dung hơn, hoặc là khám phá
trở lại, đối với âm nhạc dân tộc Việt Nam. Có phải đó là một trong những lý do
khiến ông tìm cách khám phá lại cái vốn âm thanh cổ truyền?
Ns. Cung Tiến: Đối với nhạc
sĩ Việt Nam bị di tản đi ra ngoại quốc, rồi những người nào muốn tiếp tục viết
âm nhạc, thì phải tìm ra một cái gì mới lạ cho lỗ tai của những thính giả ở ngoại
quốc. Khởi thủy, nền văn hóa nào cũng có dân ca. Không biết ai sáng tác, hoàn
toàn vô danh. Dân ca có những làn điệu rất là đẹp, rất quyến rũ. Lối trình bày
xưa bao giờ cũng là qua giọng hát. Đó là một trong những phong cách để mình viết
nhạc cho mình để khác với người khác. Thí dụ, tôi vẫn có thể viết theo lối Biểu
Tượng (Expressionist), nhưng nó không phải của mình nữa, nó không mới lạ nữa.
Nhiều người viết lối đó lắm rồi, từ Schoenberg cho tới Webern, chẳng hạn, và
còn khám phá ra nhiều điều trước mình rất nhiều. Nếu đi vào hướng đó thì có thể
không bằng người ta, vì người ta khám phá hết rồi. Vì thế, tôi thấy là một số
nhạc sĩ Việt Nam muốn quay lại, dùng cái danh từ nôm na là “trở về nguồn”, cũng
do đó mà ra. Họ muốn tìm một cái gì mới, đối với xã hội họ đang sống. Nhạc ngũ
âm, chẳng hạn. Nhạc ngũ cung, chẳng hạn. Ngũ cung mà nhiều loại lắm, không
riêng gì ngũ cung Việt Nam, như ngũ cung Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Nhật…
Tất cả những cái đó là màu sắc âm thanh của Đông Á. Mình dùng những cái đó như
chất liệu để viết nhạc của mình. Cũng là một phương pháp để khai thác những gì
mình có sẵn của dân tộc mình, chứ không phải dùng những chất liệu của Tây
phương mà mình đã học ở trường nữa. Vì thế, khi sang đây, tôi đã viết một số nhạc
sử dụng chất liệu dân tộc Việt Nam, như điệu sa mạc, quan họ, chèo cổ… để tôi
viết nên mấy tập, thí dụ như tập Chinh Phụ Ngâm. Mới đây tôi viết Lơ Thơ Tơ Liễu
Buông Mành, lấy từ chèo cổ, tôi viết cho giọng ca, đàn harp (thụ cầm), với lại
giàn dây, dùng nhạc cụ Tây phương.
Viễn Đông: Tức là ông phải
có hòa âm cho bản nhạc này? Mà hòa âm Tây phương thường đi theo cột dọc, khác với
Á Đông đi theo hàng ngang. Như vậy, làm sao ông giải quyết vấn đề hòa âm này
cho một giàn nhạc cụ dây?
Ns. Cung Tiến: Phải có hòa
âm, mà hòa âm theo lối Á Đông. Cô phải nghe mới biết nó khác Tây phương ra làm
sao. Hòa âm hàng dọc của Á Đông là do tình cờ mà gặp nhau thôi, chứ không phải
cột dọc, đúng như cô nói. Trong bản Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành, có những lúc các
nhạc cụ tình cờ gặp nhau để tạo ra hợp âm, có khi tôi cũng dùng một hợp âm mới,
ngũ cung, tứ cung, chẳng hạn, có khi mấy dòng giai điệu đi với nhau theo kỹ thuật
đối điểm (counterpoint).
Viễn Đông: Thưa ông, trong
buổi trình diễn sắp tới, khán thính giả có được nghe những bản nhạc mới sau này
của ông không ạ?
Ns. Cung Tiến: Vâng, sẽ có
trích đoạn trong tổ khúc Chinh Phụ Ngâm và Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành nữa. Giàn
nhạc bên đó kiếm được người chơi rất là tốt, nhất là người đánh đàn harp. Cô sẽ
ngạc nhiên khi thấy có nhiều người chơi đàn rất giỏi, như là Bằng Lăng, chẳng hạn.
Ở Nam Cali, chúng ta có nhiều nhân tài rất trẻ, và họ hiểu nhạc.
Viễn Đông: Thưa ông, các nhạc
cụ truyền thống Việt Nam khi hòa đàn thì tuân thủ theo một số quy luật chung,
nhưng cũng tương đối thoải mái, để nhiều không gian cho việc ứng tấu
(improvisation), không có sự khắt khe về tiết nhịp (dưới quyền điều khiển của một
nhạc trưởng) như âm nhạc Tây phương. Vậy thì làm sao ông tái tạo lại không gian
ứng tấu đó cho một giàn nhạc Tây phương?
Ns. Cung Tiến: Tất nhiên,
như tôi đã nói nhiều lần, tôi dùng dân ca Việt Nam như một chất liệu, chứ không
phải tôi tạo lại hoàn toàn thứ âm nhạc đó. Giai điệu Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành
có thể hát một mình cũng được, không kèn không trống, nhưng nếu có phần hòa âm
đệm theo thì lại thành ra một lối thể hiện khác. Như tổ khúc Chinh Phụ Ngâm,
tôi có viết cho một số nhạc cụ Việt Nam như đàn bầu, đàn tranh, đàn cò, nhưng
không kiếm ra người chơi được. Nên tôi phải dùng violon, để chơi phần giáo đầu,
để “ngâm” mấy câu thơ. Đáng lẽ tôi viết cho giọng người ngâm điệu sa mạc mấy
câu thơ đó, nhưng hồi đó, tôi không có ai hát cả; có người hát được điệu sa mạc,
nhưng không nhìn được nốt nhạc Tây phương. Thành thử tôi phải viết cho violon độc
tấu với giàn nhạc phụ họa. Đó chỉ là vấn đề kỹ thuật thôi. Nhưng mà nói là như
vậy không phải là dân ca nữa thì cũng không đúng. Nếu cô nghe nhạc của Nga
trong thế kỷ 19, của Rimsky-Korsakov, chẳng hạn, hoàn toàn lấy dân ca, hay là
Dvorak ở xứ Tiệp, cũng lấy dân ca làm chất liệu nhưng dùng giàn nhạc Tây phương
để thể hiện. Thành ra không có gì mới lạ đâu. Không có gì khó khăn, vì người ta
đã giải quyết 200 năm nay rồi.
Viễn Đông: Thưa ông, thế
nhưng vẫn còn một khúc mắc. Có lẽ dân ca các nước phương Tây gần gũi với giàn
nhạc Tây phương hơn là dân ca Á Đông? Và khoảng cách đó làm sao người viết nhạc
dùng chất liệu dân ca Á Đông có thể thu ngắn lại được? Một câu hỏi nữa là có
nên thu ngắn hay không?
Ns. Cung Tiến: Tất nhiên là
muốn chơi nhạc phẩm dùng chất liệu dân ca đúng theo lối chơi, thì phải chơi
đúng theo những gì tôi viết ra. Thí dụ, tôi mường tượng đàn bầu chơi thế này,
đàn tranh chơi thế này, và tôi viết ra, thì người chơi đàn harp phải biết dùng
kỹ thuật nào để chơi ra những âm thanh như tôi đã viết, để nghe tiếng giống như
đàn tranh, tức là nó bắt chước được chứ.
Còn làm thế nào để rút ngắn
lại hay kéo dài ra khoảng cách (giữa Đông và Tây)? Nghệ thuật thì phải biến
hóa, chứ không thể cứng đơ một chỗ.
Đối với một người viết nhạc
hay một người vẽ tranh, chẳng lẽ lúc nào cũng vẽ tranh con gà hay con lợn thì mới
là tranh dân tộc hay sao? Âm nhạc cũng vậy, người nghệ sĩ phải hoàn toàn có tự
do sử dụng chất liệu âm thanh ở Tây phương, ở các nền văn hóa khác, ở dân tộc
mình… tất cả là những chất liệu sẵn có trong trời đất, trong văn hóa của loài
người. Người nghệ sĩ có tự do hoàn toàn trong việc dùng những chất liệu đó để tạo
nên tác phẩm của mình. Chứ không phải lúc nào cũng phải hát quan họ mới gọi là
dân tộc.
Hiện giờ trên thế giới, chắc
cô cũng biết, có một số nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng trên thế giới: ông Tôn Thất
Tiết, ông Nguyễn Thiện Đạo ở bên Pháp, ông P.Q. Phan ở bên Mỹ. Đó là những người
dùng rất tự do mọi chất liệu, kể cả chất liệu Việt Nam, nhưng kỹ thuật là kỹ
thuật của Tây phương, có thể có một số kỹ thuật Đông phương như là những nốt uốn,
1/4, 1/6 tông. Cây đàn Tây phương có thể bắt chước được.
Tất nhiên, những nhà phê
bình họ có ý kiến của họ. Họ có tự do để phê bình. Họ thích hay không thích. Thế
nhưng mà, nhạc của người ta viết ra vẫn đi trước. Có một câu nói (về các ngành
nghệ thuật sáng tạo), “Ai không sáng tác được thì làm thầy. Ai không dạy học được
thì đi phê bình”. Đó là một câu tôi học từ hồi nhỏ. Lời ong tiếng ve, chả ai cần
để ý tới.
Viễn Đông: Thưa ông, nhưng
cũng có những lý luận phê bình trở thành chất xúc tác cho các nhà sáng tác chứ ạ?
Vì trong một nền kinh tế âm nhạc thì cũng cần có người sáng tác, người tiêu thụ,
và những nhà phê bình?
Ns. Cung Tiến: Rất đúng,
trong âm nhạc cũng như các ngành nghệ thuật khác đều có vòng tròn kinh tế. Người
sáng tác phải có người trình diễn, người tiêu thụ, người sản xuất, dưới nhiều
nghĩa. Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là người sáng tác.
Viễn Đông: Thưa ông, chắc chắn
ông nói điều đó không phải vì ông là một nhà sáng tác?
Ns. Cung Tiến: Tại sao vậy?!
Có người chỉ muốn viết nhạc để bán thôi, bài nào cũng giống bài nào, thì lại là
chuyện khác.
Viễn Đông: Nhưng nếu mở tập
nhạc của ông thì có thể thấy được là không phải chỉ để bán tại vì…
Ns. Cung Tiến: Chả ai mua!
Viễn Đông: … E rằng ít có
người mua! Thật sự mà nói, có lẽ cũng ít có người hát được. Ông có cảm thấy
mình cô đơn khi sáng tác những nhạc phẩm như vậy không?
Ns. Cung Tiến: Không, tôi chẳng
thấy cô đơn. Việc tôi làm thì vẫn phải làm. Tôi làm cho tương lai thôi. Bằng chứng
là ngày xưa có những tác phẩm của tôi, chẳng ai buồn nhìn tới, rồi từ khi nghe
một, hai lần, họ truyền nhau, bảo là cái này có gì mới lạ. Thế rồi, sau này lớp
trẻ ở Việt Nam, bên Pháp, ở bên Mỹ, ở bên Anh, họ đi học nhạc và mới biết giá
trị của những người sáng tác Việt Nam, và họ hát được. Đến hôm thứ Bảy tuần tới,
cô đến dự buổi hòa nhạc của chúng tôi, cô sẽ thấy những giọng ca rất trẻ, rất vững,
có học đàng hoàng, có trình độ thưởng thức những gì mới lạ, những gì khác những
loại nhạc thương mại. Và đó là điều rất mừng.
Viễn Đông: Xin cám ơn nhạc
sĩ Cung Tiến.
Thu Vàng – Ca sĩ Nhật Thiên
Lan
Thu Vàng – Ca sĩ Thanh Lan
Thu Vàng – Ca sĩ Hồng Nhung
Hương Xưa – Ca sĩ Duy Trác
Hương Xưa – Ca sĩ Trần Đức
Hương Xưa – Ca sĩ Lệ Thu
Hoài Cảm – Danh ca Thái
Thanh
Hoài Cảm – Ca sĩ Sĩ Phú
Hoài Cảm – Ca sĩ Duy Trác
Hoài Cảm – Ca sĩ Bằng Kiều
Túy Phượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét