Nói đến nhà thơ Lê Thanh My
là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Thất Sơn, ai cũng biết. Hoặc kể chị còn là
Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ An Giang, ắt phải nhiều người hay. Nhưng chuyện nữ sĩ
phải đi lại hàng ngày, từ nhà đến cơ quan, vừa đi vừa về hơn 100km, hẳn nhiều
người chưa tỏ.
Gia đình chị ở Châu Đốc,
nhưng trụ sở Hội và tạp chí Thất Sơn của tỉnh An Giang lại đóng ở Long Xuyên.
Hai thành phố cách nhau hơn 50km. Vì hoàn cảnh gia đình, nhà thơ Lê Thanh My phải
thường sáng đi, tối về, từ năm 2009 đến nay. Thật như một chuyện khó tin.
Nhà thơ Lê Thanh My
Phận em như hạt mưa sa…
Đến An Giang tôi nhắn tin
cho My sẽ gặp nhau ở Long Xuyên, nhưng đến chiều My lại vội về Châu Đốc. Sáng
hôm sau tôi đi Châu Đốc, cùng bạn bè hành hương lễ miếu bà Chúa Xứ, rồi hẹn gặp
nhau, nhưng My đã đi Long Xuyên. Lại nhỡ, tôi dặn sẽ chờ đến tối My quay về,
nhưng rồi chuyến xe của tôi bất ngờ đổi chuyến thế là phải đi sớm hơn trước giờ
My về khoảng 20 phút. Xe tôi đi quay lại Long Xuyên, còn xe của My đi ngược về
Châu Đốc. Thật đúng là… tuổi Ngựa của My và cái tuổi Chó của tôi cứ phải là chạy
rông trên đường ngược chiều nhau. Xuống xe, My hổn hển gọi điện, nói một thôi một
hồi là tôi quá đáng, là đồ con… Tuất, hẹn rồi mà không chịu đợi. Tôi đành cười
trừ. Thật đúng là tuổi Bính Ngọ, nóng giận đùng đùng đấy, nói cho hả giận rồi lại
hiện thân lành hiền, cam chịu. Thân phận ngựa mà, làm mọi chuyện hết sức xông
pha, nhưng cuối cùng bữa ăn chiều, chỉ là nắm cỏ nhai chậm chạp.
Đúng là thế, nên cái chuyện
hàng ngày cứ đi lại, như con thoi giữa hai thành phố, chỉ có My mới chịu thế.
Chăm chỉ việc cơ quan, lại còn tận tâm chăm sóc gia đình; nếu cần đi xa hơn,
tôi chắc My cũng quyết sáng đi, tối về. Ngồi trên xe, tôi thầm nghĩ có lẽ My muốn
gìn giữ vẹn toàn một điều gì đó, và luôn luôn sợ mất nó. Có thể, vì mọi chuyến
đi đều có mục đích để dừng chân. Nhưng trong linh cảm, tôi thấy hình như My
không muốn hạnh phúc tuột khỏi tay mình, hay chăng…
Có lần My kể với tôi về một
cuộc tình của mình thuở sinh viên, khi học ở khoa Văn (Niên khóa 1984-1988), trường
Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. Phải nói đó là mối tình thơ theo đúng nghĩa của
nó. Chàng yêu nàng và hết sức chăm chút làm thơ tỏ tình. Ai lại viết thơ ngày
ngày đưa cho bạn gái, đúng chỉ có một anh chàng này. Không ngờ nàng càng đọc lại
càng say và cũng làm thơ đáp lại. Vậy là sự nghiệp thơ của cô sinh viên Lê
Thanh My manh nha từ đây. Ngày đó My bắt đầu tìm đọc những thi sĩ nổi tiếng, với
mục đích học cách làm thơ để đối lại với người tình.
Mối tình thơ trải dài mấy
năm mộng mơ, lãng mạn với bao điều tươi đẹp và hồn nhiên, tưởng như chẳng thể
nào rời xa. Vậy mà số trời run rủi sao khi tốt nghiệp năm 1988, My không giữ nổi
người tình thơ của mình, mà đi tới một cuộc hôn nhân khác nhanh chóng, có tính
quyết định cho số phận. Âu đó cũng là cái mệnh khó cưỡng nổi. Bởi hoàn cảnh gia
đình ư? Có thể vì My là một trong năm chị em gái, lại sớm mất mẹ từ khi 10 tuổi.
Cha sống vậy nuôi con và chỉ mong những đứa con mình có chỗ dựa vững chắc và
yên phận gia đình. Tuổi trẻ chưa kịp bước vào cuộc sống và nhận biết hết sức
non nớt về hôn nhân. Cần một việc làm, cần một chỗ dựa, hay cần một cuộc sống
thoát khỏi sự nghèo khó? Dường như My chấp nhận và trở về Châu Đốc để có những
điều mình muốn. Đơn giản vậy thôi.
Nhưng tất cả lại là từ đây,
đã hai mươi lăm trôi qua, My luôn luôn vượt qua những dồn nén âm thầm về những
nỗi ân cần sẻ chia, cùng với những đồng cảm trong công việc và mọi rung động
trong nỗi cô đơn. My một mình một ngựa đi trong cõi thi ca. My viết cho mình để
giải tỏa mọi nỗi niềm mà mình đã đánh mất. Chính vì thế mà ngay những bài thơ đầu
tiên cho đến gần đây, với My là mênh mông nỗi niềm mong nhớ và sầu muộn. Tập
thơ thứ sáu, “Lặng im lên tiếng” có thể nói đã thể hiện góc cạnh sâu thẳm của
Lê Thanh My nhất. Đúng với phong cách nghệ thuật có nhiều tố chất siêu thực đặc
sắc khi thể hiện niềm mong nhớ chôn chặt và nỗi khao khát được là chính mình.
Khi leo lên “Đỉnh nhớ”, nữ
sĩ trải lòng bày tỏ: “Giấc mơ chập chờn những cánh cò trắng không nhà / Tiếng
bìm bịp than giữa mùa nước cạn / Bậu xa rồi ta tìm đâu thấy bạn / Nơi đỉnh nhớ
mù sương…” Rồi đó là tiếng lòng than: “Ta biết chờ ai khi đã cuối con đường / Rừng
cũng bỏ ta quay về một phía”. Đôi khi nỗi nhớ của My được vẽ lên hình cụ thể:
“Em vẽ nụ cười hình trái tim / Có mây chiều nồng ấm / Và một chút gì lạ lẫm /
Giống như là men say” (Em vẽ nụ cười của anh). Và, có khi nỗi nhớ thật sự bơ
vơ, khi My viết: “ Nỗi nhớ cùng tôi dắt díu nhau về/ Tôi biết tìm đâu bóng người
trên lối” (Trên cánh đồng nỗi nhớ). Rồi cuối cùng là sự hoang mang: “Dòng mãi
trôi qua đôi bờ mắt đỏ/ Một nửa đời em/ Ngơ ngác/ Và trông” (Dòng sông trước
mặt).
Cái còn ở lại bến sông…
Nhìn lại đời người con gái
giữa mười hai bên nước, đôi khi là tiếng thở dài nuối tiếc, nhưng với My sau những
quẫy đạp thân phận bùng phát trong thơ ca, thì lại rất đời trong cuộc sống. Đó
là sự trở về. Những chuyến đi dằng dặc dặm trường, hàng ngày, My mong lối về
cũng tràn ngập ký ức sẽ là động lực để soi roi tâm hồn mình. Bắt đầu từ những
ký ức của bến sông quê ở Cồn Tiên, Đa Phước, My đã cất tiếng chào đời…
Không ít lần My kể với tôi về
Trịnh Bửu Hoài, một người thày cũng như một người anh dẫn dắt My, từ những câu
thơ đầu tiên, tại Châu Đốc. My từng nói thành thực rằng, nếu như không có chuyện,
trong một lần say sỉn, ông Trịnh Bửu Hoài, khi đó là Chủ tịch Hội Văn nghệ Châu
Đốc, đã “khen đại” một câu, về những bài thơ viết đầu tay của My, thì chắc bây
giờ My đã đi tìm nghề khác. Thế mới nói, cái tri âm từ cuộc tình thơ sinh viên,
tưởng như đã chết, thì giờ đây cái tri kỷ với một người thầy lại là sự giải
thoát. Tôi được biết, hai năm sau âm thầm phấn đấu, My đã được nhà thơ Trịnh Bửu
Hoài tập họp bản thảo đầu tiên, cho in thành tập “Mơ hoa”(VNAG-1992). Vậy mà
lúc in xong, My chẳng dám đem khoe, hay tặng bạn, mà giấu nhẹm đi chỉ sợ ai đó
đọc xong rồi cười. Kỷ niệm đó đã trôi qua 22 năm, nhưng không lúc nào My quên
ơn nhà thơ Trịnh Bửu Hoài.
Rồi nhiều khi My lại nhớ cái
còn của mình ở bến sông quê, chính là những buổi gặp mặt các sinh viên hay học
sinh trường Thủ Khoa Nghĩa ở TP Châu Đốc, nơi My đã từng ngồi học trong suốt tuổi
học trò. Ở đó có nhiều cây bút trẻ đọc My và chia sẻ với My nhiều điều về cuộc
sồng và tình yêu trong thơ ca. Mỗi lần như vậy, tâm hồn My lại sống dậy những
ký ức không thể nào quên dưới mái trường thân yêu. Với bạn,với thày, My được
chia sẻ để bù đắp lại những sự dồn nén và đơn độc giữa cuộc sống bề bộn lo
toan. Vì ở nơi đó, My không dám thể hiện mình và không bày tỏ được những khát
khao trong sáng tạo nghệ thuật thi ca.
Có ngày gần đây, giáp cái tết
con ngựa này, My gọi điện nhắn đã gửi tôi tập bản thảo tập thơ mới, với cái tên
“Sóng trong mưa”, để đọc cho vui và hiểu thêm về My. Tôi nghĩ là My muốn chốt lại
25 năm sáng tác kể từ ngày về Hội, năm 1989. Quả nhiên, nơi trở về đã hiện lên
trong những thi phẩm mới này, nói lên nhiều câu chuyện mà vì sao My vẫn phải
hàng ngày trở về với gia đình, cho dù phải đi hơn trăm cây số.
Lửa ấm cuối ngày
Giờ đây, sau những ngày miên
man trên những chuyến xe trở về quê, My đã nhận ra rằng phải gìn giữ, hay cho
là níu kéo cũng được, nói cho cùng là phải bảo vệ những gì mình đã có. Đó là
hai con trai đã lớn, học đại học ở TP Hồ Chí Minh, với tương lai đầy hứa hẹn.
Và còn đó là một gia đình cần được bù đắp và sẻ chia cùng nhau. Một bữa cơm chiều
thường nhật làm ấm ngọn lửa hạnh phúc có những lúc chập chờn trước ngọn gió thị
trường khắc nghiệt. Những chuyến trở về là như thế. Nụ cười và niềm vui cần được
bù đắp, chăm nom vun xới, như vườn dâu quê My. Nó cần phải xanh tốt để tạo nên
những sợi tơ vàng óng từ những con kén cần mẫn, chắt chiu.
Vương Tâm
(Trích tập “Nước mắt thời
gian”)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét