Phát triển ngôn ngữ tiếng Việt
qua góc nhìn âm nhạc
Bước sang những năm đầu thế
kỷ XXI, câu nói “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” không còn giá trị bởi tốc
độ phát triển ngôn ngữ thế hệ mới. Đọc báo ngày thường du nhập quá nhiều từ ngữ
nước ngoài, viết tắt không chú giải, từ lóng…Đặc biệt báo mạng, các bloog,
facebook, Nick name, tuổi teen còn ngụy tạo ngôn ngữ riêng, người ngoài không đọc
nổi.
Chỉ qua mấy dòng vừa viết
ra đã vay mượn nhiều từ nước ngoài, đây là quy luật vận động ngôn ngữ trước
bước tiến hội nhập xã hội thời đại mới. Trong các công trình nghiên cứu thường
sử dụng từ ngữ nước ngoài, một số thuộc về chuyên môn, số khác lấy từ ngữ các
nhà báo. Phải công nhận ngay khi có chữ quốc ngữ, các nhà báo những người
tiên phong phát triển ngôn ngữ nhanh, góp nhiều từ dân tộc khái niệm mới cả
tiếng ngoại lai. Vào năm 1865, tờ Gia Định báo phát hành số đầu tiên, tiếp
các báo tư nhân nhiều nhà báo viết về nội dung xã hội nghệ thật phát
triển ngôn ngữ mới như các từ: Tài tử, Ca ra bộ, Cải lương…đưa vào cả
từ Pháp vay mượn Ca ra bo, opera, comedi…các đường phố tràn ngập tên tiếng
pháp: Rạp hát Modera- cunera, có gánh cải lương lấy tên Vergue Sa Dec… Ngôn
ngữ Việt khi mở ra thế giới phương Tây pha trộn, vay mượn nhiều từ nước
ngoài. Ngày nay, đọc báo nhan nhản từ tiếng Anh, nếu thời thuộc Pháp đọc báo
thường gặp từ Pháp Việt, bây giờ Anh Việt. Người Hà Nội xưa quen giao tiếp,
nói tiếng Việt lại đá một câu tiếng Pháp, còn biểu hiện hành động văn hóa
Pháp: Nhún vai, mỉm cười…Tôi không quên ấn tựơng nhìn ông Nguyễn Cao Kỳ khi
nói chuyện kiểu cách: Nhún vai, giơ tay…thấm nhuần sâu sắc hành động văn hóa
Pháp. Ngày nay, giới trẻ sử dụng nhiều vốn từ Anh nhưng chưa ngấm hành động
con người văn hóa Mỹ. Vì sao giới trẻ xính tiếng Anh bởi họ tiếp xúc thường
xuyên, các báo xính sử dụng từ Anh…Nguyên nhân từ ngữ Việt viết quá dài, còn
nhiều từ chưa thể bao quát hết ý nghĩa buộc phải vay mượn sử dụng gọn hơn,
nhiều từ tiếng Việt không thể thay thế. Nhưng khốn khổ cho mỗi lần đọc
báo hay gặp từ ngữ Anh, nhiều độc giả bỏ qua, gặp chữ viết tắt, tiếng lóng
đành “bắc thang lên hỏi ông trời”. Đến đây phần giải nghĩa từ ngữ Anh gồm một
số từ phổ biến trong âm nhạc như Điva, Tophits, nhạc DJ, nhạc Đance…
Các nhà báo xính sử dụng từ
Diva trong các bài viết âm nhạc, thậm chí còn khởi xướng bình chọn phong tặng
danh hiệu một số ca sỹ xếp hạng Diva. Ý nghĩa tích cực là tôn vinh ca sỹ dòng
ca nhạc đại chúng, tuy vậy lại người nhận, người từ chối. Vì sao nảy sinh hiện
tượng tôn vinh bị khước từ? Có lẽ ca sỹ hiểu tính hai mặt của danh từ
này, hay cho mình ở thứ bậc cao hơn thuộc dòng âm nhạc khác? Riêng các ca sỹ
phương Tây, họ bị sok khi ai gọi mình là Diva vì những biến nghĩa hai mặt
của từ.
Nguồn gốc từ diva theo các
nhà nghiên cứu lúc đầu tiếng Ý, diva là “Nữ thần”. Danh từ này dành phong tặng
các nữ, nam ca sỹ opera hàng đầu giọng hát: Soprano, terno. Khoảng năm 1883,
tiếng anh sử dụng khái niệm diva, sang những năm đầu thế kỷ XX trở thành phổ
biến dành tặng những ca sỹ hàng đầu dòng nhạc đại chúng. Sau này, khái niệm
diva phong tặng cho bất cứ ai tài giỏi trong thể thao, nhảy múa…Đến những năm
đầu thế kỷ XX, chữ diva nhiều biến nghĩa: “Người đàn bà khinh ghét, con điếm
(tiếng lóng dân chơi Anh).Hiện nay tại xã hội Mỹ, châu Âu những năm đầu thế kỷ
mới, chữ diva thường bị hiểu theo nghĩa xấu xa về thái độ ứng xử, tính ganh
ghét đố kỵ tài năng, ích kỷ nhỏ nhen trong giới ca sỹ diễn viên. Là nghệ sỹ
thế kỷ XXI, ai nhận danh hiệu “Diva” thật thảm họa, phải chăng Mỹ Linh sợ
quá! không dám nhận danh hiệu người đàn bà Điva.
Những thuật ngữ đĩa nhạc
theo nhà nghiên cứu sản xuất đĩa nhạc, các từ khóa: CD, VCD, DVD, DVD
Digitan…Thường hiểu đơn giản đĩa CD-đĩa nhạc không hình, viết đầy đủ: Audio
CD. Đĩa VCD là loại đĩa nhạc hình ảnh, ghi là: VCD-Video compact. Đĩa DVD là
Digitai Video Disc, loại đĩa nén nhiều bản nhạc, hình ảnh độ nét cao.
Top hit, những bản nhạc
nhiều người nghe, nhiều người yêu thích…Top hit còn nghĩa bước ngoạt bất ngờ,
điểm nhấn của bài hát, hay một Abum… Nghĩa là theo ngữ cảnh khi nói, vận dụng
cách hiểu. Như thế chỉ viết một từ gồm hai chữ chứa đựng đa nghĩa, sử dụng tiếng
Việt tốn nhiều từ. Đây là điều báo chí hay nhiều văn bản, cả công trình
nghiên cứu ngày nay vận dụng nhiều từ vay mượn tiếng Anh như phải bảo tồn nghệ
thuật cổ dưới dạng logictic, hoặc xây dựng cầu cảng theo logictic…
Nhạc Dance: Nhạc nhảy điện
tử sterio, xuất hiện vào năm 1970 tại các câu lạc bộ, vũ trường châu Âu, do
các DJ điểu khiển âm thanh điện tử. Nhạc Dance là nhạc vũ trường âm thanh điện
tử sterio, thay thế các ban nhạc sống âm thanh mo no.Tuy nhiên nhạc Dance-nhạc
nhảy nhiều thể loại.
Cover, Phối khí, dàn dựng
lại, ghi âm lai một bài hát, dàn nhạc trước đó đã ghi âm coi là bản gốc,
nay Cover làm lại. Cover nghĩa là trình diễn theo cách làm mới tác phẩm ban đầu…Theo
nghĩa này, cover nhiều cấp độ khác nhau, cover phối khí lại tác phẩm thay đổi
màu sắc hòa thanh, nhưng giữ nguyên nhịp điệu tiết tấu, biểu diễn gần nguyên
tác. Ngược lại cover thay đổi hoàn toàn hòa thanh phối khí, nhịp điệu tác phẩm
từ giai điệu dân ca chuyển sang pop hay rock, hip hop, trình diễn múa
nhảy hiện đạị. Nghĩa cover làm lại tác phẩm âm nhạc, không như bản gốc, đây
là phiên bản. Nghệ thuật ca nhạc thế giới xuất hiện nhiều phiên bản cover, nổi
tiếng hơn tác phẩm ban đầu.
Nhạc DJ, là nhạc gì? Năm
2006, tôi mở sàn nhảy cổ điển tại tầng II khu nhà Triển lãm Giảng Võ-Hà Nội.
Ngày ấy thuê một DJ hạng bét, giá dao động từ 6 đến 8 triệu đồng/tháng. DJ hạng
hai từ 12-15 triệu đồng/ tháng, hạng nhất:18-20 triệu đồng, khi đó một vũ
công dẫn khách nhảy 03 ca/ngày, lương cả tháng 0-3 triệu đồng. Nhưng vũ công
ăn khoản bo khách hàng, một lần dẫn nhảy khách bo từ 20 ngàn đến 50-100 ngàn
đồng. Một số cô, bà nhìn ngon mắt bo vũ công xe SH, tiền mua nhà đất.
Nhạc DJ chỉ là DJ, sau hậu
trường chẳng ai biết, chẳng ai bo. Nên người phụ trách nhạc DJ trả lương quá
cao, bởi không có anh ta miễn nhảy. Phải nói ngày xưa hầu hết các sàn nhảy
đánh “nhạc sống” tạo không khí vui hơn, vào những năm cuối thế kỷ XX, công
nghệ ghi âm phát triển cao, các gã “Đi Giây” lại lựa chọn, kết nối, chỉnh sửa
những bản nhạc nhảy thành kỹ nghệ âm thanh đỉnh cao, giết chết ban “nhạc sống”.
Các vũ trường thay thế nhạc công bằng người “Đi Giây”. Đây là thuật ngữ dân
làm sàn gọi để chỉ những người phụ trách âm thanh, ánh sáng ca nhảy. Những
người chơi nhạc vũ trường, các ban nhạc nhảy ra đời vào năm 1930, kéo dài thịnh
hành thống trị suốt đến những năm 1970 thế kỷ XX, khi công nghệ ghi âm phát
triển họ bị rơi ra ngoài quỹ đạo sàn nhảy vũ trường. Dù công nghệ DJ đến muộn
ở nước ta sau năm 1980, nhưng hiện nay nó thống trị các vũ trường, nhiều người
gọi là một thể loại nhạc DJ. Nhạc DJ, nói về lịch sử nó xuất hiện cùng thời với
các ban nhạc vũ trường, nhưng thường thấy ở đài phát thanh chưa tiến vào các
sàn nhảy.
Bây giờ do cách gọi quen
thành thể loại nhạc DJ, cách gọi và giải thích này không đúng? Bởi những “người
DJ”, không phải nhạc sỹ sáng tác nhạc, không tạo ra một hình thức thể loại âm
nhạc riêng. Họ là người có công chọn cắt, chỉnh sửa, hòa trộn nâng cao chất
lượng kỹ thuật âm thanh những bản nhạc nhảy, còn nguyên tác vẫn là của nhạc sỹ.
Nên gọi nhạc DJ là nhạc vũ trường, không có nhạc DJ, chỉ có “người DJ” theo
cách gọi dân làm sàn.
Mới lướt qua một số thuật
ngữ tiếng anh sử dụng vào âm nhạc biểu hiện phong phú, đa nghĩa, đòi hỏi người
thưởng thức ca nhạc thế kỷ XXI mất nhiều công tra cứu từ khóa tiếng Anh. Thời
nay nhờ Google muốn gì được ấy, giảm bới thư viện sách tra cứu mất nhiều thời
gian, bằng không hãy học Anh ngữ.
Hà Nội 25-10-2014
.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét