Từ
sau 1975, đặc biệt là từ 1986 đến nay Đổi mới thơ Việt Nam đã thu hút sự quan
tâm của giới sáng tác, lý luận, phê bình và đông đảo bạn đọc. Đã có nhiều ý kiến
sâu sắc có tác dụng gợi mở cho công việc sáng tác và tiếp nhận thơ đương đại.
Theo dõi các bài viết, chúng tôi thấy một ý kiến khá thống nhất. Đó là Đổi mới
thơ rút cục phải có thơ hay. Khó có thể đồng ý với nhà thơ Hoàng Cầm khi ông
cho rằng: “Tôi lên đường nghĩa là tôi đã đến” (Báo Văn nghệ số
39, 24-9-1994). Thơ hay là một giá trị thẩm mỹ cụ thể, có thể thưởng thức một
cách “khoái trá” như người xưa nói.
Nhưng
thế nào là thơ hay?
Trả
lời câu hỏi này không đơn giản do sự phân hóa về thị hiếu, quan điểm thẩm mỹ.
Lưu Hiệp - nhà thi học cổ điển Trung Hoa đã phân tích rất rõ điều này trong cuốn Văn
tâm điêu long: “Người khảng khái gặp được âm điệu kích ngang thì vỗ nhịp.
Người hàm súc gặp bài văn chặt chẽ cứ theo đi. Người hời hợt thấy văn chương
màu mè đã rung động. Người ưa tân kỳ được câu thơ lạ cứ thích nghe. Hợp mình
thì ngợi khen, khác mình thì bỏ mặc”. Sự phân hóa về thị hiếu, quan điểm thẩm mỹ
càng trở nên phức tạp cùng với sự phân hóa về các mặt văn hóa, xã hội. Cuộc sống
đương đại đã trở nên vô cùng phong phú, phức tạp. Khi cánh cửa nhìn ra thế giới
rộng mở, các quan điểm, trường phái thơ thế giới cũng theo đó mà ảnh hưởng vào
Việt Nam. Những tranh luận quyết liệt xung quanh các xu hướng “thơ hiện đại”,
“hậu hiện đại”, “tân hình thức”… trong thơ hôm nay là ví dụ tiêu biểu.
Tuy
vậy, cũng lại phải thừa nhận rằng, thơ dù có hàng ngàn vạn nhánh phát triển thì
cũng chung một gốc là nghệ thuật ngôn từ và phải là thơ trong bản chất. Thơ
không chấp nhận bán thành phẩm và các loại hàng giả dù tinh xảo đến mấy. Có thể
kể ra mấy tiêu chí đã trở thành bản chất của thơ để phân biệt với những văn bản
không phải là thơ và phân biệt với các loại hình nghệ thuật ngôn từ khác. Đó là
thơ phải có tính nhạc, phải giàu tính nghệ thuật, kết hợp, tổ chức ngôn từ theo
nguyên tắc “lạ hóa”… Trên cơ sở chung ấy có khoảng tự do mênh mông cho sáng tạo.
Có bao nhiêu nhà thơ chân chính thì cũng có bấy nhiêu cách cảm nhận thế giới, cảm
nhận con người và cách thể hiện nghệ thuật khác nhau, tạo nên sự đa dạng, phong
phú muôn mặt của thơ. Sự đa dạng đó không loại trừ cái chung trong quan niệm về
thơ hay. Sự khác biệt thậm chí đến mức đối lập thường chỉ mang tính thời gian.
Thơ tượng trưng, siêu thực của Hàn Mặc Tử, Bích Khê từ sự tri âm của Hoài
Thanh, Chế Lan Viên dần dần đã được đông đảo người đọc tiếp nhận.
Điểm
gặp gỡ có được trong quan niệm về thơ hay, theo chúng tôi là xuất phát từ các
nguyên lý: “Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi” và “Nghệ thuật
sáng tạo theo quy luật của cái đẹp”.
Thơ
hay dù cao siêu, tân kỳ đến mấy cũng sẽ đến được với độc giả nhờ khả năng đồng
cảm kỳ diệu của con người, trước hết là của những người có cảm quan tinh tế và
am hiểu thơ ca hàng đầu. Thơ vô cùng phong phú. Nhưng tôi cho rằng thơ hay là
thơ đẹp về phẩm chất nhân bản trong nội dung trữ tình, đẹp bởi những ý tưởng
minh triết về đời sống, đẹp về ngôn ngữ và sáng tạo về thi pháp. Mỗi bài thơ
hay có một vẻ đẹp độc đáo, không lặp lại nhưng nhìn chung có thể quy về mấy trường
hợp chính sau đây.
1.
Thơ hay là thơ xúc động lòng người bằng phẩm chất trữ tình cao đẹp và cường độ
cảm xúc mãnh liệt.
Thi
sĩ làm thơ khi có điều gì đó không viết ra không được. Thơ là giải thoát, giải
thoát những suy tư, cảm xúc, tâm trạng, kinh nghiệm thẩm mỹ… chất chứa trong
lòng. Trạng thái cân bằng, vừa phải trong cảm xúc là điểm chết của thơ. Thương
người như Nguyễn Du đã thương Kiều, đã thương “thập loại chúng sinh”; yêu như
Xuân Diệu đã yêu trong “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”; ghét thói tục như thơ
Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Maicovxky… đó là thơ hay. Cái đẹp ở đây nghiêng
về cái đẹp của nội dung trữ tình. Câu thơ “Đòn gánh tre chín rạn hai vai” của
Nguyễn Du trong “Văn tế thập loại chúng sinh” đẹp ở tấm lòng nhà
thơ đối với những kiếp người lao khổ. Câu thơ “Cầu cho em được người
tình như anh đã yêu em” của A. Pushkine làm ta xúc động bởi vẻ đẹp cao thượng
của tâm hồn thi sỹ. Các thời đại đi qua nhưng trái tim con người có những hằng
số, trong đó có sự xúc động trước cái đẹp, cái cao thượng. Thơ hay đi từ trái
tim đến trái tim. Giản dị đến tận cùng là câu thơ dân gian:
Người
về em có dặn rằng:
Nơi
hơn người kết, nơi bằng đợi em!
Giản
dị vậy thôi mà làm nao lòng hết thảy mọi người Việt Nam.
Thơ
hay được sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, mà đẹp trước hết là ở nội dung trữ
tình. Những bài thơ dung tục bị phản ứng chính vì lẽ đó. Người đọc hôm nay có
thể gạt bỏ thói đạo đức giả để chia sẻ những cuốn sách, những thông tin khoa học
về tình dục một cách bình thường, nhưng lại dị ứng với những vần thơ về quan hệ
nam nữ một cách trần trụi. Dị ứng của người đọc ở đây có nguyên nhân ở quy ước
thể loại. Không có tài thơ nào đủ bào chữa cho việc kéo tình yêu của con người
xuống hàng quan hệ động vật. Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm: “Thơ lấy điều
chí thiện làm tiêu chuẩn tuyệt đối”. Chủ nghĩa nhân đạo mỗi thời có những nội
dung khác nhau nhưng không ngoài nguyên tắc cảm thông, tôn trọng, nâng đỡ con
người, vươn tới chân, thiện, mỹ. Trong thơ Việt Nam đương đại không hiếm những
bài thơ xúc động về mẹ, về quê hương, đất nước, về tình yêu làm xúc động người
đọc một cách sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn là nguồn mạch muôn đời của thơ. Chả có
lý do gì để lánh xa nguồn mạch đó chỉ vì để mà “mới”.
2.
Thơ hay là thơ sâu sắc, lóe sáng những tư tưởng minh triết về đời sống.
Thoạt
kỳ thủy văn học của loài người nằm trong một hợp chất văn - sử - triết bất
phân. Một phần không nhỏ thơ của các thi hào R. Tagor, B. Brecht, R. Gamzatov,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… đậm chất minh triết. “Di cảo thơ” của Chế Lan Viên được
đón đọc vì đó là tiếng nói của con người cuối đời nhìn lại, nhận thức lại bao
điều từng giả trang chân lý trong cuộc sống. Vẻ đẹp của thơ “minh triết” là vẻ
đẹp của chân lý được cảm nhận từ chính sự từng trải máu thịt của nhà thơ trước
cõi đời, cõi người. Loại thơ này khác với thứ thơ lý sự khô khan hoặc phát ngôn
cho những tư tưởng được “bao cấp” ở bên ngoài nhà thơ mà đôi khi ta nhầm tưởng
là “thơ trí tuệ”. Một số nhà lý luận, nhà thơ hiện đại trên thế giới và kể cả ở
ta đang lớn tiếng đòi đuổi trí tuệ ra khỏi vương quốc của thơ ca. Một nhà thơ
phương Tây đã viết: “Vai trò của trí tuệ trong thơ cũng giống như vai trò
của cô giáo đối với một ả đại giang hồ”. Viết vậy đọc rất vui nhưng không đúng
với thực tế thi ca nhân loại. Trí tuệ và cảm xúc là hai cánh của con chim thi
ca. Vấn đề là thể hiện trí tuệ trong thơ như thế nào mà thôi.
Điểm
tựa của những người ra sức phủ nhận trí tuệ trong thơ, là lý thuyết vô thức
trong sáng tạo nghệ thuật của S. Freud: “Quan niệm về hoạt động tinh thần vô thức
lần đầu tiên cho phép ta có được khái niệm về thực chất hoạt động sáng tạo của
nhà thơ” (S. Freud: Gesammelte verke, B. d. x London, 1950, tr. 76). Đây là một
tư tưởng cực đoan, không đúng với thực tế sáng tạo của nhà thơ. Vô thức (và cả
tiềm thức, trực giác nữa) có tham gia vào việc hình thành tác phẩm, nhưng vai
trò chủ yếu vẫn là trí tuệ và cảm xúc của nhà thơ.
Trên
báo Văn nghệ số 8 (ngày 22 - 2 - 1990) nhà nghiên cứu Hoàng Thiệu
Khang cho rằng: “Với thơ ca mà giương cao ý thức thì đó chỉ là sự tự hủy bản
chất thể loại” và tiên đoán: “Thế kỷ XXI thơ ca sẽ là một dòng tinh
thần hồn nhiên lấp lánh chất tiềm thức nguyên khởi”. Vừa sáng tác vừa phát biểu,
Hoàng Hưng cổ vũ cho lối thơ “vụt hiện”. Thơ vô thức, “thơ vụt hiện” có thể là
những bông hoa lạ và hãy cứ để những bông hoa ấy tự tỏa hương sắc bí ẩn nếu nó
thật sự là thơ. Điều đáng nói là ngả đường tìm tòi này không hứa hẹn bao nhiêu
sự gặt hái. Trong thơ của nhóm “Xuân Thu nhã tập” (1942) may ra người đọc còn
nhớ được bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ. Ở thời điểm hiện nay, khi
con người Việt Nam đang phải căng óc ra để tìm đường cho sự phát triển có lẽ cần
đến thứ thơ sáng suốt hơn chăng? Xu hướng “thơ hiện đại” hôm nay có tác dụng
kích thích sự tìm tòi và tính sáng tạo của chủ thể. Nhưng xem đó là loại thơ
duy nhất mà nền thơ Việt Nam phải hướng tới thì thật vô lý.
Thơ
truyền thống Việt Nam nghiêng về trữ tình. Từ phong trào Thơ mới trở đi yếu tố
trí tuệ đã dần được tăng cường do con người hiện đại quen sống với tư duy phân
tích, nhận thức, khái quát hóa. Những câu thơ minh triết cổ kim, Đông Tây luôn
làm ta yêu thích:
-
Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
(Marat)
- Cái
bay không đợi cái trôi
Từ
tôi phút ấy sang tôi phút này
(Đi
thuyền - Xuân Diệu)
- Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi
ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Tiếng
hát con tàu - Chế Lan Viên)
Có
thể nói trí tuệ trong triết học là trí tuệ của cái đầu, trí tuệ trong thơ là
trí tuệ của trái tim.
Lịch
sử thi ca cũng là lịch sử của sự tìm tòi những biện pháp nghệ thuật mới, bởi vì
trong bản chất, thơ không cho phép lặp lại. Thơ và văn học nói chung luôn luôn
đặt ra vấn đề “nói cái gì?” và “nói bằng cách nào?”. Trong thơ “nói bằng cách
nào?” có một tầm quan trọng đặc biệt. Đỗ Phủ từng trăn trở: “Ngữ bất kinh nhân
tử bất hưu”. Có tư tưởng sâu sắc, cảm xúc đẹp chưa đủ mà những yếu tố nội dung
đó cần chan hòa trong một hình thức thơ đẹp như ánh nắng chan hòa trong pha lê.
Một bài thơ hay phải là một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn, hay ở mọi phương diện.
Nói rõ hơn là:
-
Bài thơ hay thường có tứ thơ mới lạ.
Tôi
nhớ mãi một bài thơ chống chiến tranh phát xít của Bertol Brecht chỉ gồm 2 câu:
Hôm
nay những lứa đôi yêu nhau
Ngày
mai những đứa trẻ mồ côi ra đời.
Thật
là độc đáo!
Tứ
thơ như thiết kế của một công trình kiến trúc. Mọi thành phần kết cấu đều tập
trung cho ý đồ nghệ thuật, không thiếu, không thừa. Koleritgiơ đã viết: “Một
bài thơ hay là những ngôn từ sáng giá trong một cấu trúc hoàn hảo”. Tứ thơ cho
thấy rất rõ tài năng của nhà thơ.
-
Bài thơ hay thường có nhạc tính độc đáo.
Thơ
lãng mạn và đặc biệt là thơ tượng trưng rất quan tâm đến nhạc tính của thơ. Bàn
về thơ, Mallarmé cho rằng: “Nhạc phải đi trước mọi sự”. Các bài thơ
bình thanh của Bích Khê như: Hoàng hoa, Tỳ bà có một chất nhạc rất lạ
và hấp dẫn. Còn có thể dẫn ra rất nhiều bài thơ hay có nhạc tính độc đáo như: Say (Vũ
Hoàng Chương), Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ), Nguyệt cầm (Xuân
Diệu)… Có một thực tế là khi đọc thơ hiện đại nhiều bài ta chưa kịp hiểu thì đã
bị nhạc tính của bài thơ lôi cuốn, hấp dẫn.
- Bài
thơ hay thường có ngôn ngữ thơ mới lạ.
Thơ
là nghệ thuật ngôn từ. Nhà thơ là nghệ sĩ ngôn từ. Thơ không chấp ngôn ngữ quen
thuộc đến sờn mòn. Mới lạ là yếu tính của thơ. Đã có hàng triệu câu thơ về tình
yêu, Maiacovsky vẫn tìm được cách nói mới:
Anh
yêu em
Như
người thương binh yêu cái chân còn lại của mình.
Có
nhiều câu thơ găm vào trí nhớ của ta như vậy:
-
Từ trời xanh rơi vài giọt tháp Chàm
(Văn Cao)
-
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông
chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
(Thu
Bồn)
-
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại
khóc những người bay không có chân trời
(Trần
Dần)
Một
nguyên lý thường trực của thơ là ngôn ngữ phải lạ hóa. Thơ không chấp nhận ngôn
ngữ văn xuôi, ngôn ngữ hàng ngày và rất kỵ lời nói thẳng. Có vô vàn thủ pháp
nghệ thuật để lạ hóa ngôn ngữ thơ: Nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, cường điệu, nói giảm,
nói vòng, động từ hóa tính từ…
Thơ
đồng nghĩa với sáng tạo và sáng tạo thì nới rộng đường biên lãnh địa thơ. Nghĩ
về Bích Khê, Chế Lan Viên đã viết: “Có những người làm thơ. Lại có những
người vừa làm thơ vừa đẩy thơ về phía trước. Khê thuộc loại thứ hai”. Các
trường phái thơ hiện đại đã mở rộng quan niệm thơ, khám phá miền vô thức, tiềm
thức, tâm linh, bản năng và chấp nhận cả cái phi lý. Đó là thứ thơ dành cho lớp
người đặc tuyển. Cách đây nửa thế kỷ, Hoài Thanh - Hoài Chân đã viết: “Chúng
ta cần một thứ thơ không chỉ dành cho một bọn người có học mà làm nao lòng hết
thảy mọi người Việt Nam” (Thi nhân Việt Nam). Ngày hôm nay chúng ta có thể
nghĩ khác. Thơ là một hiện tượng nghệ thuật, mà đặc trưng của nghệ thuật là sự
đa dạng, phong phú. Hãy cứ để cho mọi tài năng, mọi khuynh hướng được tự do nảy
nở và phát triển. Đó mới là đổi mới thật sự.
Cũng
cần xem lại một số phát biểu mang tính tranh luận. Chế Lan Viên khi bàn về thơ
đã viết: “Phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ mới, cũ chẳng có ý nghĩa gì”.
Voznexenxky - nhà thơ Nga hiện đại cũng cho rằng: “Không có mới và cũ, chỉ có
tài và bất tài mà thôi. Ai có tài thì người đó mới”. Theo chúng tôi, vấn đề
không đơn giản như vậy. Có nội dung thời đại thì cũng có hình thức của thời đại.
Nhu cầu thẩm mỹ của bạn đọc luôn luôn có tính lịch sử. Cùng một cô gái đẹp
nhưng ăn vận áo tứ thân, nón thúng, quai thao và diện “model 2016” cho ta hai vẻ
đẹp khác nhau: Một cái đẹp đã thuộc về quá khứ và một cái đẹp cho hôm nay. Thơ
cũng vậy. Tuổi trẻ hôm nay không ai tỏ tình bằng ca dao: “Đến đây mận mới hỏi
đào/ Vườn hồng có lối ai vào hay chưa? hay làm một bài thơ thất ngôn bát
cú. Để diễn tả cảm xúc yêu đương thơ hôm nay sẽ có cách nói khác, phù hợp
với tâm lý cảm nhận của người đọc hiện đại.
Chúng
ta đang chứng kiến một sự đổi mới toàn diện đất nước trong đó có văn học. Việt
Nam đang vươn lên hòa nhập vào thế giới hiện đại. Con người Việt Nam hôm nay có
khát vọng và tâm lý mới. Con người đô thị hiện đại với tất cả sự tồn tại phong
phú, phức tạp đầy kịch tính của nó đang được văn học quan tâm thể hiện. Quan niệm
nghệ thuật về con người trong thơ vừa có mặt tiếp tục truyền thống, vừa vượt
lên để đạt tới tầm cao của con người đầu thiên niên kỷ mới. Chắc chắn đó không
phải là con người mang chủ nghĩa cá nhân cực đoan mà tìm sự hòa hợp với cộng đồng,
với cái ta nhân loại. Con người mới sẽ không phải là con đà điểu rúc đầu vào
các loại ảo tưởng hoặc đống chữ nghĩa hỗn độn, phi lý mà vươn tới sự minh triết.
Con người trong thơ hôm nay sẽ sống hết mọi chiều kích của mình. Theo chiều rộng,
đó là tương quan nhân loại. Theo chiều sâu, đó là khám phá cái chưa biết, cái
vô thức, tâm linh…
Có
nhu cầu, sẽ có đáp ứng nhu cầu. Nền thơ Việt Nam đang cần những tài năng có niềm
say mê những tư tưởng nhân bản mới và tình cảm thiết tha với sự phục hưng dân tộc.
Thiếu những tư tưởng, tình cảm lớn, sáng tác của nhà thơ sẽ chỉ còn là nghệ thuật
bonsai. Tự do sáng tạo và ý thức trách nhiệm cao trước đất nước và dân tộc sẽ
là điều kiện nảy nở những tài năng. Có thể tin ở điều đó, bởi vì “Tài năng bao
giờ cũng sống trong nhân dân như tia lửa nằm trong đá lửa” (Stendahl).
Phạm
Quốc Ca
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét