Truyền thuyết về các loài hoa 2
Ngày xửa ngày
xưa thật xưa lắm, có một quốc vuơng ở tận phương trời xa xôi bên một khu rừng rộng
lớn và rậm rạp. Vương quốc nầy sống thật hòa bình và yên vui sau một thời gian
dài triền miên người dân phải đấu tranh để dành quyền độc lập. Và vị anh hùng
chỉ huy người dân của quốc gia này đã được dân chúng tôn lên làm vị vua đầu
tiên.
Sau thời gian
dài chinh chiến, họ chỉ lo an hưởng thái bình và sống cho những quyền lợi của
cá nhân mình. Vị hoàng đế kia cũng vậy, ngất ngưỡng trên ngai vàng và hào quang
của quyền vị, ông đã bỏ bê việc nước, quên cả chăm sóc cho dân và để mặc lũ bầy
tôi tham danh lợi cai trị dân chúng. Vì muốn hoàng đế lảng quên với việc triều
chính, bọn tham quan đã chọn một thiếu nữ đẹp tuyệt vời để vua lập làm hoàng hậu.
Nhưng trái với ý muốn của bọn quan lại, hoàng hậu lúc nào cũng hết lời khuyên
năn nhà vua nên lo cho dân chúng và chỉnh đốn việc triều chính. Lũ quan lại rất
ghét hoàng hậu, nhưng không làm gì được vì nhà vua quá thương yêu nàng.
Cho đến ngày
kia, sau một thời gian thụ thai, hoàng hậu sinh ra một đứa bé thật kháu khỉnh,
dễ thương. Lạ lùng thay, thân thể của đứa bé trai đó lại trong suốt như pha lê,
đến độ thấy rõ từng đường gân, mạch máu và trái tim. Thấy cơ hội đã đến, bọn
tham quan bèn dèm pha với nhà vua rằng hoàng hậu là một phù thủy trá hình và
tuyên truyền tin này ra ngoài cho toàn dân.
Trước áp lực của
bầy tôi và sự phản đối của dân chúng, nhà vua đã truất phế hoàng hậu ra khỏi
hoàng cung cùng với đứa bé lạ lùng kia. Trở thành một thường dân, hoàng hậu đem
con đi khỏi hoàng cung. Đi tới nơi đâu cũng bị dân chúng chửi mắng và xua đuổi.
Suốt con đường tìm nơi ẩn trú, hoàng hậu đã bị bao kẻ ném đá, dùng gậy đánh đập
mà chỉ biết cắn răng dùng thân thể mình để che chở cho đứa con thơ. Với bao vết
thương trên mình, hoàng hậu bồng con đến khu rừng già và ngã ra vì kiệt sức.
Nhìn hài nhi mới ra đời trong lúc biết mình sắp chết, hoàng hậu không biết làm
gì hơn là đưa tay vuốt ve con mình vài lần, nước mắt tuôn ra và trút hơi thở cuối
cùng.
Đứa bé nằm bên
mẹ không ai cho ăn nên khóc lên thảm thiết vì cơn đói. Tiếng khóc vang lên tận
chín tầng trời làm Thượng Đế động lòng ngó xuống trần gian. Khi thấy hoàn cảnh
thương tâm đó, Thượng Đế nổi giận vì lòng tàn ác của người dân vương quốc kia.
Ngài bèn sai thiên thần mang đứa bé vô rừng chăm sóc cho nó lớn lên trong tình
thương của thiên nhiên và muôn cầm. Sau đó, ngài ban một lời nguyền khiến cho
toàn thân thể của từng người dân bị gai nhọn mọc đầy người, để suốt đời không
ai được gần gủi ai cho đến khi mọi người biết thương yêu nhau. Từ đó người dân
của quốc gia nầy đều mang trên mình một lớp gai, từ vua tôi cho đến hạng bần
cùng. Nhưng dù cho lớp gai trên mình ngày một dài và cứng nhọn theo lòng tham
ngày càng to lớn, họ cứ sống cho cá nhân mình mặc dù phải trả giá cho lòng vị kỷ
đó bằng sự cô đơn khủng khiếp dằn vật tâm linh.
Một ngày kia,
nghe tin vương quốc này đang trở nên yếu thế, một quốc gia khác bèn đem quân
sang xâm lấn lãnh thổ. Khi quân xâm lăng tràn qua bờ cõi, toàn dân trong nước
ai cũng tự lo thân và trốn tránh nghĩa vụ. Nhà vua lúc đó đã lớn tuổi mà vẫn bị
lũ bầy tôi tham sống sợ chết làm áp lực bắt đem một toán quân ra chiến đấu. Sức
mình thì yếu, sức địch thì mạnh. Sự thất bại đến với nhà vua thật nhanh chóng.
Dẫn tàn quân chạy về hoàng thành thì mới hay lũ tham quan đã đem dâng cho giặc
tự bao giờ. Phẫn chí, nhà vua quyết liều mình đem quân cố chiếm lại thành trì
nhưng cuối cùng phải ngã ngựa vì một mũi tên có tẩm thuốc độc. Nhà vua được một
số quân trung thành cứu thoát và chạy trốn đến bên bìa rừng. Nhìn lại binh sĩ lớp
bị thương, lớp bỏ mình chung quanh, nhà vua lấy làm hối hận rằng mình đã không
nghe lời hoàng hậu khuyên ngày trước. Nhớ đến hoàng hậu, nhà vua lại nhớ đến đứa
con thơ vô tội của mình ngày xưa. Rồi nhà vua ngã bệnh vì vết thương hành hạ.
Bên ngoài thì địch quân vây khốn, trong rừng thì binh sĩ liều mạng để tử thủ với
quân thù. Nhà vua lập đồn trong rừng làm chiến khu và để tập luyện binh sĩ.
Ngày qua ngày,
dưới ách đô hộ nghiệt khắc của quân xâm lăng, người dân của vương quốc đó càng
nghe đồn thêm về một quốc gia trong khu rừng già huyền bí nọ. Dần dần, người
dân tìm cách trốn đi và tìm vào rừng để gia nhập. Phía quân xâm lăng cũng điêu
ngoa, họ cho người trà trộn vào trong rừng nhưng kế hoạch không thi hành được
vì không thể nào giả mạo được lớp gai cứng mọc trên thân thể của người dân bản
xứ. Người dân đã biết đoàn kết để tạo cho khuyết điểm trên thân thể mình thành
ưu điểm để chống giặc ngoại xâm. Một ngày kia, với binh hùng tướng mạnh, nhà
vua bắt đầu công cuộc dành lại quê hương. Lần nầy, với đoàn quân thiện chiến và
với lòng tin thống nhất, nhà vua đã chiếm lại được thành trì và xua đuổi quân
xâm lăng ra khỏi lãnh thổ.
Không may,
trong trận chiến cuối cùng nhà vua lại bị thương. Vốn đã yếu sức vì tuổi già, lại
còn lao lực trong trận chiến dài đăng đẳng, nhà vua bệnh ngày càng thêm nặng.
Toàn dân trong nước chưa kịp reo mừng dành lại độc lập đã phải mang nỗi buồn
cho tình trạng ngày càng nguy ngập của nhà vua. Biết mình sắp chết, nhà vua
trong cơn sốt đã thốt lên rằng:
“Ta chết cũng
đành lòng, nhưng trời ơi, sao ta thèm được một lần ôm đứa con mà ta chưa hề biết
mặt !…”
Bỗng nhiên có
tin báo từ bên ngoài thành có một người thầy thuốc nói sẽ trị hết bệnh cho nhà
vua. Cửa hoàng thành rộng mở. Người thầy thuốc bước vào hoàng cung với tấm vải
thô che kín thân thể mà không ai nhìn thấy mặt. Khi đến gần giường bệnh, người
thầy thuốc đứng lặng yên thật lâu bên nhà vua mà không nói tiếng nào. Khi nghe
nhà vua gọi con trong cơn sốt, người thầy thuốc rơi lệ. Giọt lệ nhỏ xuống trên
gò má nhăn nheo của nhà vua làm nhà vua thức tỉnh và mở mắt nhìn người đang đứng
bên cạnh mình. Khi nhà vua đua tay lên vói, người thầy thuốc bèn nắm chặt lấy
tay nhà vua, quì xuống bên cạnh người và nói rằng:
“Thưa phụ
hoàng, con đây !”.
Rồi người thầy
thuốc hất tấm vải thô che mình xuống đất để lộ ra một thân thể trong suốt như
pha lê. Để chữa bệnh cho cha, vị hoàng tử nâng vua cha lên và ôm người thật chặt
vào lòng, mặc cho những gai nhọn đâm vào người thật sâu. Và máu chàng đã chảy
ra. Lạ thay, khi máu của chàng thấm lên thân thể của nhà vua thì nhà vua cũng
thấy mình khỏe lại. Và kỳ diệu hơn nữa, lớp gai nhọn trên thân thể nhà vua cũng
tan biến dần theo từng giọt máu của vị hoàng tử đổ xuống.
Sau đó vị
hoàng tử bèn đặt nhà vua nằm lại trên giường để dưỡng bệnh. Từ từ đứng dậy và
bước đến người đứng gần mình nhất, vị hoàng tử ôm lấy người đó và nói:
“Chúng ta hãy
thương yêu nhau. Bất cứ hình phạt nặng nề nào của Thượng Đế cũng đều được giảm
bớt nếu chúng ta biết chân thành yêu thương nhau”.
Rồi cứ thế từ
người này sang người khác, chàng đi khắp thành mà ôm từng người một, từ ông lão
nghèo nàn đến người thương gia giàu sang, từ em bé tật nguyền đến chàng thanh
niên khỏe mạnh. Và cứ thêm mỗi người được ôm thì vị hoàng tử càng yếu dần theo
từng giọt máu ứa ra trên thân thể họ. Cho đến lúc kiệt sức, chàng quị xuống bên
đường. Tuy vậy, chàng vẫn mở rộng vòng tay kêu gọi mọi người đến cùng chàng mà
chia sự sống. Mọi người nức nở khóc trước tình thương bao la của chàng. Những
người sau cùng chưa được thoát bệnh đồng quì xuống bên chàng mà nói:
“Chúng tôi xin
hoàng tử đừng lao lực thêm nữa. Chúng tôi thành tâm nguyện mang lớp gai này
trên mình để người còn được sống cùng chúng tôi”.
Lạ thay, từ
trên thinh không bỗng có tiếng nhạc thánh thót vang lên và có lời truyền của
Thượng Đế phán rằng:
“Lành thay !
Các người hiểu được tình yêu thương chân thật và bỏ đi lòng tị hiềm, ích kỷ.
Dám hy sinh bản thân mình cho đồng loại là định nghĩa của yêu thương vậy”.
Rồi cùng với
thinh âm tan dần vào không gian, các lớp gai trên thân hình của những người còn
lại đều biến mất đi. Khi người ta nhìn lại thì vị hoàng tử đang khép mắt lại với
lời nói thật hiền hòa thoát ra theo làn hơi thở sau cùng:
“Hạnh phúc là
có nhau hôm nay để sống. Yêu thương là biết sống làm sao để ta có nhau ngày
mai. Các bạn của tôi ơi, hãy nhớ rằng hạnh phúc không phải là của riêng ta để
cho đi hay lấy lại. Hạnh phúc chỉ đến với ta khi ta biết yêu thương lẫn nhau và
chia xẻ cho nhau tình thương đó…”
Rồi chàng lìa
đời sau câu nói đó. Ngày hôm sau, dưới sự hướng dẫn của nhà vua, toàn dân trong
thành đã đưa di thể của chàng xuống lòng đất muôn đời, bên cạnh khu rừng nọ. Lạ
thay, khi xác của chàng vừa được chôn dưới lòng đất xong, người ta bỗng thấy có
những chim muông, cầm thú kéo thành đoàn từ trong rừng ra nằm quanh ngôi mộ của
chàng thật lặng yên và buồn bã. Một năm sau, người ta thấy trên ngôi mộ của
chàng và chung quanh khu vực đó mọc lên những bông hoa đỏ tươi như máu với thật
nhiều gai nhọn từ gốc đến ngọn. Người ta cho đó là sự kết tinh lại của tình
thương của chàng hoàng tử để nhắc nhở cho người đời bài học cao cả nhất về yêu
thương và hạnh phúc. Và người ta gọi loài hoa đó là hoa Hồng.
Và mãi mãi đến
ngày nay, dù mang nhiều màu sắc khác nhau, loài hoa đó vẫn tượng trưng cho sự
yêu thương
HOA HỒNG
Hoa hồng: là
tỏ lòng ái mộ, tỏ sự hạnh phúc vinh dự.
Hoa hồng gai: tỏ
lòng tốt.
Hoa hồng đỏ: Một
tình yêu mảnh liệt và đậm đà, tỏ sự hạnh phúc vinh dự.
Hồng trắng: Tình
yêu trong sáng và cao thượng.
Hoa hồng BB: Tình
yêu ban đầu.
Hoa hồng bạch: Ngây thơ duyên dáng và dịu dàng.
Hoa hồng nhung: Tình yêu say đắm và nồng nhiệt.
Hoa hồng vàng: Một tình yêu kiêu sa và rực rỡ. Tình yêu sút giảm và sự phản bội tỏ ý cắt
đứt quan hệ.
Hoa hồng phớt: Bắt đầu một tình yêu mơ mộng.
Hoa hồng đậm: Người
đẹp kiêu kỳ.
Hoa hồng thẩm: Tình yêu nồng cháy.
Hoa hồng cam: Tình
yêu hòa lẫn với ghen tuông.
Hoa hồng viền
trắng: Tình yêu kín đáo, sâu sắc, sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu.
Hoa hồng phấn: Sự trìu mến.
Hoa hồng tỉ muội: Khi được tặng, nếu là bạn trai thì cần hiểu rằng: Bạn là một đứa em
ngoan
TRUYỀN THUYẾT
HOA TULIP
Có một chàng
trai, trong một buổi liên hoan cuối năm ở trường đã quen một cô gái. Người con
gái đó có nụ cười giống như hoa hàm tiếu hé nở trong nắng sớm, cuốn hút đến lạ
kì, lại là một người con gái rất thông minh nhạy cảm. Từ giây phút đó, chàng
trai đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng con tim. Nhưng anh vẫn giấu kín trong
lòng không thổ lộ cùng cô. Bởi vì lúc đó anh đang trải qua giai đoạn học hành vất
vả căng thẳng dưới sự quản lý nghiêm khắc của cha mẹ. Vì thế đối với chuyện
tình cảm anh không thể tự mình quyết định, chỉ tự nhủ với lòng mình rằng: “Phải
cố gắng chờ đợi, khi nào mọi việc hoàn tất, sẽ thổ lộ với cô.
Một năm sau,
vào một buổi tối trăng sáng, cuối cùng anh đã lấy hết dũng khí hẹn cô gái ra
ngoài, nói với cô tình cảm của mình chôn dấu bấy lâu nay. Nào ngờ, cô không dám
nhìn anh, chỉ nói một cách ấp úng: “Em … em nghĩ em không thể nhận lờii với anh
…, một tuần trước… em đã … đã chấp nhận tình yêu của một… người con trai khác.
Em thật không biết anh… lại có thể yêu em…Nói xong, cô vội vã quay mình bước
nhanh vào phòng, tránh để anh không nhìn thấy những giọt nước mắt đã ướt nhòa
trong mắt cô.
Sau này, học
sinh trong trường đều nhìn thấy anh sánh đôi với một “hoa khôi của trường. Mọi
người nghĩ rằng anh đã si mê vẻ đẹp của mĩ nhân nhưng chẳng ai có thể hiểu được,
bởi vì “hoa khôi ấy có nụ cười giống như hoa hàm tiếu, có nụ cười của cô gái
anh yêu. Không ai có thể hiểu được nỗi khổ tâm của anh, chỉ có anh biết trái
tim mình đang nghĩ gì. Và rồi cũng chẳng được bao lâu, anh lại chia tay với cô
gái ấy.
Cuộc sống ở
trường đại học qua đi thật nhanh.
Sau khi tốt
nghiệp, cô gái khoác áo hoa theo người khác về nhà chồng, còn anh vẫn chưa từng
yêu một ai. Bởi vì anh hiểu một điều rằng, chỉ có cô ấy mới là tình yêu đích thực
của đời anh.
Qua sự giúp đỡ
của bạn bè, anh biết được ngày sinh nhật và địa chỉ nơi cô ở. Mỗi khi đến ngày
sinh nhật của cô, anh đều gửi tặng cô một bó hoa có chín bông Uất Kim Hương rất
đẹp. Bản thân anh không biết cô thích hoa gì, nhưng đó là loài hoa anh thích nhất.
Anh cũng biết là cô là người đã có chồng nên không bao gì để lại tên hay số điện
thoại liên hệ trong bưu thiếp, anh không muốn tình cảm của mình làm ảnh hưởng đến
cuộc sống của cô ấy.
Lại vài năm nữa
thấm thoát trôi nhanh, anh vẫn một mình đơn chiếc, và vẫn nhớ tặng hoa cho cô mỗi
dịp sinh nhật. Một lần, trước sinh nhật của cô hai ngày, anh tham gia một buổi
liên hoan họp cựu sinh viên của trường, và được biết rằng, trong mấy năm gần
đây cô đã trải qua hai lần li hôn, và đến bây giờ vẫn còn độc thân. Ngực anh bất
chợt nói đau, trái tim anh đập rộn rã như lần đầu nhìn thấy cô, anh vừa vui mừng
vừa lo sợ, anh thương cảm cho cô nhưng cũng hồi hộp cho chính bản thân mình…
Cuối cùng đã đến
ngày sinh nhật của cô! Chàng trai cảm thấy vui mừng khôn xiết. Anh muốn lần này
sẽ tự tay mình sẽ tặng hoa cho cô, rồi anh sẽ thổ lộ tình cảm của mình với cô.
Và vì thế, anh đã đi lùng sục hết các hàng hoa trong thành phố, cuối cùng mới
tìm ra những bông hoa Uất Kim Hương đẹp nhất.
Và khi cô bán
hàng bó những bông hoa một cách cẩn thận, chàng trai viết lên trên tấm bưu thiếp
những điều anh đã ấp ủ bao lâu nay: “Em có biết anh vẫn còn rất yêu em không?
Em nhận lời làm vợ anh nhé! Khuôn mặt đẹp của chàng trai bỗng chốc bừng sáng,
trên môi anh luôn thấp thoáng một nụ cười hạnh phúc, trái tim anh ngập tràn hi
vọng. Anh sải từng bước dài tiến đến nhà cô gái.
Và trong giây
phút đó, một chiếc xe chở hàng đã bất ngờ lao thẳng vào anh …
Khi cô gái nhận
được bó hoa Uất Kim Hương đó cũng là lúc nhận được tin báo tử của chàng trai.
Cô đã hiểu ra
tất cả, cô nhốt mình trong phòng khóc ròng một đêm. Cô nhớ lại buổi tối nhiều
năm trước khi mà chàng trai đến và đã thổ lộ tình cảm với cô. Mà cô cũng không
thể biết rằng, trong suốt mười mấy năm đó, người con trai vẫn chỉ si mê yêu và
chờ đợi cô! Nghĩ đến điều này, cô càng khóc nức nở hơn, những giọt nước mắt thấm
ướt trên những cánh hoa Uất Kim Hương vẫn đang khoe sắc, đẹp đến lạ lùng. Cô biết
rằng, cô đã thực sự mất đi một tình yêu chân chính, tình yêu mà không bao giờ
cô có thể tìm lại được nữa.
Và người con
trai đang yên giấc ngủ ngàn thu kia chắc cũng không thể biết rằng, loài hoa cô
gái thích nhất, cũng chính là hoa Uất Kim Hương … (Hoa tulip)
Hoa tulíp: tỏ
tình yêu, thắng lợi và đẹp đẽ, biểu tượng người yêu hoàn hảo.
Hoa tulíp vàng: tỏ tình yêu nhưng không hy vọng.
Hoa tulíp trắng: tỏ lòng yêu quý.
Hoa tulíp đỏ: tỏ lòng yêu chưa được đáp lại.
Hoa tulíp xanh: tỏ lòng chân thành.
Có một truyền thuyết rất thuyết phục của người Đức giải thích nguồn gốc tên của loài hoa màu xanh tím nhỏ bé xinh đẹp này, cũng như ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ các loài hoa: Ngày nọ, có một hiệp sĩ trẻ và người yêu đang đi dạo dọc theo bờ sông Danube. Cô gái trông thấy một đám hoa màu xanh đang trôi xuôi theo dòng sông: “Em muốn có đóa hoa xinh đẹp đó!”, cô gái la lên. Ngay tức khắc, người tình dũng cảm của cô phóng mình xuống dòng sông và vớt lấy đám hoa trôi. Nhưng hỡi ơi, do bị vướng víu bởi sức nặng của bộ áo giáp hiệp sĩ, anh ta đã không thể vượt qua được bờ sông trơn trợt dù đã cố gắng hết sức, cảm thấy mình đang nhanh chóng bị chìm xuống, anh ném hoa lên bờ cho người yêu và bằng những hơi thở tàn cuối cùng của mình trước khi chìm mãi, anh gọi nàng một lời như trăn trối : “Xin đừng quên nhau!”.
Lại có câu chuyện khác cũng nói về hoa Lưu ly. Chuyện kể rằng:
Ngày xửa ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời vợi. Họ dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn cành, nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần ngần ngắm nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô choài người ra bờ suối hái mấy nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước cuốn trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với “Xin đừng quên em”.
Được gắn liền với một bi kịch lãng mạn như vậy nên không có gì phải ngạc nhiên khi có rất nhiều vần thơ ca tụng loài hoa màu xanh thiên đường bé nhỏ này.
Hoa Cúc
Cúc nở nhà ai vàng liếp dậu
Hai chàng bị nỗi buồn nhớ quê hương, nỗi cay đắng vì mất tự do và thân phận nô lệ thấp hèn hành hạ khôn nguôi. Họ chỉ cầu xin Chúa một điều là được chết ngay tức khắc. Nhưng Chúa không bận tâm đến những lời thỉnh cầu của họ. Ngày lại ngày qua, hai chàng vẫn sống bình yên và khoẻ mạnh.
- Phải chăng Chúa đã sắp đặt cho chúng ta một số phận khác rồi - một hôm Têrét nói với Xép - và có thể những người này còn muốn dạy cho chúng ta bài học phải biết sử dụng thành thạo thanh gươm để rửa mối nhục cho dân tộc ta chăng?
- Nếu đến cả Chúa cũng không đủ sức che chở cho dân lành thì chúng ta làm điều đó sao được? - Xép thở dài nặng nề, nói với Têrét.
- Ta phải cầu xin nữ thần để bà nói cho chúng ta biết điều gì đang đợi chúng ta ở phía trước. - Têrét nói và được Xép đồng tình.
Một buổi sáng, Têrét kể cho Xép nghe về giấc mơ đêm qua của chàng, Têrét mơ thấy chàng cầm thanh gươm bước lên đấu đài, còn Xép cũng cầm thanh gươm bước ra thách đấu. Họ lúng túng nhìn nhau, còn đám đông la ó ầm ĩ đòi các chàng trai phải bắt đầu cuộc giao chiến. Trong khi không người nào vung gươm trước về phía bạn mình để gây chuyện bất hạnh cho nhau, bỗng một cô gái La Mã xinh đẹp chạy lại gần Têrét và nói: "Hãy giành chiến thắng, chàng sẽ được tự do và tình yêu của ta! Têrét vung gươm lên, nhưng ngay không khắc ấy, từ lòng đất vang lên một tiếng thét: "Hãy hành động theo trái tim!"
- Kìa, dường như em đã chứng kiến giấc mơ của ta! - Xép kinh ngạc thốt lên.
Trước lúc trời tối, khi đám bạn bè từ đấu trường trở về nhà hết, hai chàng bắt gặp cô gái La Mã dũng cảm, đó là ốctavia và Lêôcácđia, các con gái của Bácbagalô. Têrét và ốctavia, cả hai cùng không hẹn mà đưa mắt nhìn nhau. Họ không sao rời mắt khỏi nhau được nữa, vì vậy họ không hề biết giữa Xép và Lêôcácđia cũng đã xảy ra một chuyện tương tự như thế.
Tình yêu đâu phải lúc nào cũng mù quáng, mà trái lại rất sáng suốt, và những người yêu nhau bao giờ cũng tìm thấy lối thoát để được ở bên nhau, ngay cả khi giữa họ xuất hiện một vực thẳm giống như vực thẳm ngăn cách ngời chiến thắng và kẻ chiến bại. Ðã từ lâu, Bácbagalô không còn nghi ngờ gì về việc các con gái của ngài vẫn bí mật gặp gỡ hai tù nhân. Và ngài có ý chờ xem ốctavia cũng như Lêôcácđia có dám thú nhận tình yêu mù quáng của mình với Têrét và với Xép không. Bácbagalô rất hiểu tính nết cương trực của các con mình, ngài không nỡ bỏ tù chúng, không ngăn cấm được chúng gặp gỡ người tình một cách vội vã. Ngài chỉ báo cho các con biết rằng, sắp tới, hai tù nhân Têrét và Xép sẽ phi so gươm với nhau, và kẻ nào chiến thắng kẻ ấy sẽ được tự do. Bácbagalô khát máu hy vọng rằng hai đấu sĩ kia sẽ giáp chiến không phải vì cuộc sống mà là vì cái chết, và cả hai sẽ phải rời khỏi cõi đời này, chỉ có điều sự thật ấy thì ngời đến xem không thể thấy được.
Tất cả đều diễn ra như dự đoán của Bácbagalô. ốctavia khích lệ Têrét phải bằng mọi cách để giành được chiến thắng và chàng sẽ được tự do; Lêôcácđia cũng khích lệ Xép như vậy. Hai chị em bỗng dưng trở thành kẻ thù của nhau, vì người nào cũng muốn bảo vệ hạnh phúc của mình - hạnh phúc được đổi bằng nỗi bất hạnh của kẻ kia.
Ngày diễn ra trận đấu bắt đầu. Ðấu trường chật ních công chúng. Ngay ở hàng ghế thứ nhất, có Bácbagalô và các con gái.
Khi Têrét và Xép, mình trần như các chiến binh Phranki bước ra đấu đài, họ giơ cao các thanh gươm lấp loá và hô: "Những người đi tìm cái chết gửi lời chào em!" Lập tức đám đông reo hò vị bị kích động. ốctavia đa mắt khích lệ Têrét. Lêôcácđia dùng ngón tay cái dùi xuống thấp vừa chỉ vào Têrét vừa gật đầu với Xép.
Các đấu sĩ nâng gươm lên chuẩn bị giao chiến. Bầu không khí căng thẳng trùm lên đám khán giả, các cô gái thì chết giấc.
Nhưng đúng khoảng khắc mà Têrét xỉa gươm để đâm vào ngực Xép, bỗng anh nghe thấy tiếng trái tim mình thôi thúc.
- Hỡi chàng trai Phrăngkít Têrét, chàng sẽ trả lời thế nào trước người mẹ Tổ Quốc về việc chàng đã sát hại đứa con trai của bà?
Câu hỏi ấy cũng vang vọng trong trái tim của Xép, và cùng lúc đó hai đấu thủ đã lao vào ôm hôn nhau, khiến đám đông la ó phẫn nộ:
- Hai đứa phải chết!
ốctavia chồm lên hét:
- Têrét, hãy chiến đấu vì hạnh phúc của đôi ta!
Cũng những lời lẽ ấy, Lêôcácđia khích lệ Xép.
Têrét, sau khi vung gươm lên làm yên lòng khán giả, bèn ngẩng cao đầu một cách kiêu hãnh và nói:
-Các nguời có sức mạnh hơn, các người đã biến chúng ta thành nô lệ, nhưng các người đừng hòng buộc chúng ta phải làm những kẻ hèn hạ! Các người có thể giết chúng ta, song các người không phải là kẻ chiến thắng!
Dứt lời, chàng bèn cắm thanh gươm của mình xuống đất; Xép cũng làm như vậy.
Bácbagalô ra hiệu cho các chiến binh nổi loạn. Khi xác của Têrét và Xép được đưa ra khỏi đấu trường, một chuyện kỳ lạ đã xảy ra: những thanh gươm được cắm xuống đất cứ kêu leng keng, và ngay trên mảnh đất có hai thanh gươm ấy đã mọc lên những bông hoa. Những bông hoa người đời vẫn thường gọi: HOA LAY ƠN.
Cho đến ngày kia những đứa con của Camuds sẽ mắc vào lời nguyền nếu Laius (vua Thebes sau này) và vợ Jocasta khi nào sinh ra một đứa con mà chân có bớt đỏ màu máu thì chính đứa bé này ngày kia sẽ giết cha, rồi kết hôn với mẹ.
Vua Athens, Laius, sau khi nghe tin vợ mình, Jocasta, sanh một bé trai khỏe mạnh, gót chân bé có một màu đỏ máu, trước rất vua mừng, nhưng chợt nhớ đến lời nguyền truyền kiếp trăm năm trước nên vua lo sợ sai tên hầu cận, đêm khuya phải đem đứa bé lên núi cao mà giết nó, rồi đem trái tim nó về trình diện cho ta.
Người hầu cân nghe lời, nửa đêm đợi hoàng hậu ngủ yên, tên này mới bồng đứa bé, rồi cưỡi ngựa chạy về dãy núi cao. Dãy núi cao đó tên là Mt. Cithaeron. Đứa bé sơ sanh ngủ ngon lành, tên hầu cận không nỡ giết, nên giao bé cho một kẻ chăn cừu trên triền núi Cithaeron, rồi đem một trái tim cừu về trình diện vua Laius. Thấy trái tim con mình, vua Lauis bật khóc, nhưng làm sao hơn được.
Tên chăn cừu ôm đứa bé, xuống làng chân núi mà xin sữa cho bé, bé không chịu uống sữa cừu. Gõ ngay cửa nhà, người đàn bà ra mở cửa, thấy bé dễ thương nên cho tiền tên chăn cừu mà mua đứa bé cho mình. Merope, vợ vua Polybus (vua xứ Corynth) đặt tên bé là Oedipus Rex (Oedipus nghĩa là gót chân đỏ hay gót chân sưng danh từ Hy Lạp cổ xưa). Đứa bé lớn lên khỏe mạnh, làu thông võ nghệ, chân tay chắc nịch, gươm giáo, tên nỏ chàng làu thông.
Ngày kia lên trên đền thờ Delphi, thì chàng gặp một giáo sĩ tiên tri Pythia lập lại lời nguyền của Apollo là Oedipus sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Oedipus kinh hoàng, nên bỏ xứ Corynth mà trốn đi xa. Trên con đường rong ruổi, chàng thấy một cỗ xe ngựa chạy vùn vụt đến, trên xe có 2 người, chưa kịp tránh thì bánh xe ngựa cán ngang chân chàng trai, tên lái xe lại vụt Oedipus một roi vào mặt rồi cười khoái trá. Oedipus tức giận, dù chân bị thương nhưng chàng vẫn rượt kịp chiếc xe ngựa.
Giải quyết xong, Oedipus hướng về thành Athens. Lúc này dân trong thành đang cực kỳ hoảng hốt, vì thành Athens đang bị bệnh dịch. Cứ 10 năm thì đáo trở lại không ai trị được bệnh dịch này. Đồng thời kèm bệnh dịch thì có thêm một hung thần Sphinx (đầu người mình sư tử), xuất hiện mai chỗ này mốt chỗ kia. Hung thần này hay ăn thịt người. Trước khi ăn thịt thì thần Sphinx hỏi nạn nhân một câu: “Con vật gì mà ban mai thì đi bốn chân, trưa thì hai chân, chiều tối thì ba chân?” Nếu trả lời được, thì lời nguyền sẽ được tan biến theo hình ảnh của hung thần Sphinx. Dân chúng xứ Thebans không một ai trả lời được.
Cùng lúc đó, vua láng giềng Damasistratus được lính báo rằng vua Laius bị kẻ lạ mặt giết chết trên con đường về thành Delphi. Như vậy hoàng hậu Jocasta trở thành góa bụa rồi. Vua ban chiếu khắp xứ Creon, luôn thành Athens, nếu ai mà giết được hung thần Sphinx thì nhà vua sẽ chia nửa giang sơn cho người đó, và gả em gái mình là Jocasta cho người đó. Hung thần Sphinx rất dễ giết nếu giải được câu hỏi mà hung thần hỏi trước khi bị giết thì thần Sphinx sẽ bị biến hình bốc hơi mất lên cung đình Zeus. Phần thưởng được dán khắp ngã tư đường, từ mọi ngã đường về thành phố Athens. Dân Thebans càng lúc càng chết nhiều hơn và hung thần Sphinx xuất hiện thường xuyên hơn nữa. Dân xứ Creon kinh hoàng, thành phố Athens trở nên hoang vắng. Không một ai dám ra khỏi nhà khi màn đêm kéo đến.
Oedipus không biết chuyện này, chàng trai trẻ đi đến cổng thành Athens thì thấy bảng treo của vua láng giềng Damasistratus cho ai giải được câu hỏi của thần Sphinx thì sẽ cưới được em gái vua tên là Jocasta, rồi được chia nửa giang sơn Creon cho.
Thình lình hung thần đầu người mình sư tử Sphinx hiện ra, trước khi xé xác chàng trai lạ mặt, thần đưa câu hỏi kết thệ (riddle) như lần trước: “Vật gì mà ban mai đi bốn chân, trưa đến thì đi hai chân, chiều về thì đi ba chân?” Chàng trai Oedipus Rex không do dự trả lời liền: “Đó là con người. Lúc ấu thơ thì bò bằng bốn chân, khi lớn thì đi bằng hai chân, về già với cây gậy thì đi bằng ba chân.” Lời thệ nguyện (riddle) được giải lập tức hung thần Sphinx rùng mình biến hình, rồi bốc hơi tan mất trước hàng ngàn cặp mắt sợ sệt dân thành Athens. Bệnh dịch lập tức không còn nữa.
Giữ lời hứa, vua Damasistratus làm lễ thành hôn Jocasta, em gái mình cho chàng trai trẻ phương xa đến. Toàn dân hoan hỉ, hoàng hậu Jocasta xinh đẹp cũng nguôi ngoai tang lòng ngày xưa. Chàng trai làm vua được hai chục năm, thì biết được tin vua trước mình là Laius bị kẻ lạ mặt giết chết, hung thủ không tìm ra. Vua Oedipus Rex bèn treo giải thưởng cho toàn dân tìm cho ra hung thủ giết vua Laius. Oedipus và Jocasta có 4 người con, tên là Antigone, Ismene, Eteocles và Polyneices. Riêng người con gái Antigone trẻ nhất, xinh đẹp và rất có hiếu với cha mẹ.
Ngày kia, tin dữ dưa đến. Người hầu cận ngày xưa của vua Laius, người mà được lệnh vua đem đứa bé có gót chân đỏ vào núi rừng giết chết. Hầu cận này tình cớ thấy gót chân vua, khi vua bước qua một tảng đá cuội trên dòng suối cạn. Hầu cận này đã già, nhưng vẫn nhớ chuyện ngày xưa. Vua Oedipus nghe được chuyện, biết chính mình là kẻ đã giết cha ruột. Vua Oedipus nghe được câu chuyện ngày xưa của mình. Về cung điện, bỏ ăn bỏ ngủ ba ngày đêm liên tiếp. Chuyện kinh hoàng không thể nói nên lời.
Ngày kia, vua Oedipus không chịu nỗi cắn rứt lương tâm, không muốn thấy Jocasta, Antigone, Ismene, Eteocles. Vua Oedipus Rex bèn dùng tay móc cặp mắt của mình. Trọn đời mù lòa. Ông bỏ cung điện mà lang thang trong rừng sâu núi thẳm. Cô gái xinh đẹp nhất, Antigone thương cha mình tự dưng nổi điên mà tự làm đui mù, nên Antigone khóc nức nở mà chạy theo cha vào rừng sâu núi thẳm. Một lòng hiếu thảo vô biên, nhưng cô không hiểu tại sao cha mình, từ khi đui mù thì lại tìm cách xa lánh, không muốn nói chuyện gì với cô hết, ngày đêm than khóc mà thôi.
Cho tới ngày kia vua Oedipus chết héo rủ trong một ngôi đền Eumenides ở Colone. Chôn cất cha xong, Antigone trở về Athens. Antigone bị bắt, rồi Thượng hội Đồng kết án tử nàng. Bắt giam sống trong ngôi nhà mồ của dòng họ. Cửa nhà mồ bị bít kín, ngày đêm dưới mộ sâu, Antigone chiu không nỗi thảm cảnh xảy ra liên tiếp cho đời mình. Antigone đành quyên sinh. Dân làng sau đó lập một ngôi mộ mới chôn nàng. Nhưng tại ngôi mộ của cô gái đầy lòng hiếu thảo với cha, lòng thương anh và mẹ, có một loài hoa lạ mọc trên ngôi mộ của mình. Dân thành Athenes không dám gọi thẳng là tên Antigone, mà người ta gọi tắt là hoa Tigone.
Huyền thoại phương Đông kể rằng có một chàng trai người Persian tên gọi là Ferhad đem lòng yêu một thiếu nữ tên gọi Shirin. Khi nàng không chấp nhận những tình cảm mà chàng dành cho mình, người con trai bất hạnh đã bỏ đi vào giữa sa mạc tìm đến cái chết khi trái tim tan vỡ. Những giọt nước mắt của chàng như ước muốn của người khi rơi xuống cát đã hóa thành một bông hoa tulip tuyệt đẹp.
Đối với người Persian, hoa tulip là một lời đề nghị của người con trai trẻ với người trong mộng. Bằng cách tặng một bông hoa tulip, anh ấy muốn nói rằng "giống như màu đỏ của bông hoa, bên trong anh ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy".
Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, người dân Hà Lan đã chuyển hàng trăm
nghìn củ tulip sang Ottawa, thủ đô của Canada. Động thái mang tính biểu tượng
này nhằm tỏ thái độ cảm ơn của người HL không chỉ tới nhưng người chiến sĩ
Canada cho sự giải phóng đất nước Hà Lan từ sự chiến đóng của quân đội phát xít
Đức, mà còn cho sự chào đón của chính phủ Canada với nữ hoàng Maria tới trốn ở
đó khi chiến tranh đang trong giai đoạn khốc liệt nhất. Cử chỉ đáng ghi nhớ này
còn được tiếp tục cho đến ngày nay.
Công chúa và hoa tulíp
Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa ở vương quốc hoa Tulip,bị bắt buộc phải chạy trốn khỏi quê hương vì chiến tranh. Nàng công chúa vượt qua một đại dương với các con của mình và tìm được mộ nơi an tòan ở miền đất tuyết phủ. Trong nhiều năm chiến tranh diễn ra một cách khốc liệt. cuối cùng cuộc chiến kết thúc và vương quốc hoa Tulip được tự do. Nàng công chúa và các con của nàng có thể trở về nhà để sống trong an bình.
Sau khi về nước, nàng công chúa không quên miền đất và dân tộc đã giúp đỡ trong cuộc chiến giải phóng quê hương của nàng.Nàng muốn cảm ơn họ. Nhưng đất nước của nàng nhỏ bé và đã chịu đựng nhiều đau khổ vì chiến tranh. Nàng chẳng biết có của gì quí giá để bày tỏ lòng biết ơn của nàng?
Của quý giá nàng trao tặng là những bông hoa tulip, hàng ngàn củ tulip sẽ trổ hoa khi tuyết của những mùa đông dài tan đi. Hàng năm những bông hoa đẹp đẽ này là dấu hiệu báo mùa xuân đã đến làm vui sướng trong lòng những người xem hoa.
Chuyện này có vẻ giống như chuyện thần tiên phải không?
Nhưng đó là một câu chuyện có thật. Hà Lan là tên thật của vương quốc hoa Tulip và miền đất tuyết phủ là cái tên được đặt cho Canada.
Nàng công chúa đó là công chúa Juliana. Nước Hà Lan bị xâm lược trong thế chiến thứ II đã buộc nàng công chúa và gia đìng nàng phải rời bỏ xứ sở. Vào tháng 6 năm 1940, công chúa đưa hai con gái nhỏ của nàng tới một nơi bình yên ở Canada. Họ sống tại Ottawa ,thủ đô của Canada, cho đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945.
Vào ngày 19 tháng giêng năm 1943, công chúa Juliana sinh hạ người con gái thứ ba mà nàng đặt tên là Margriet. Khi đó một phần nhỏ lãnh thổ của Canada trở thành một phần nhỏ lãnh thổ của Hà Lan. Phòng sanh ở bệnh viện Nhân Dân Ottawa tạm thời trở thành lãnh thổ của Hà Lan , cho phép công chúa Margeriet được sinh ra là một công dân Hà Lan.
Sau chiến tranh hòang gia Hà Lan gởi 100.000 củ Tulíp đến Ottawa để cảm ơn Canada đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải phóng Hà Lan. Công chúa Juliana tặng riêng 20.000 củ Tulip khác để cảm ơn Canada.
Từ đó, hàng năm Hà Lan tiếp tục gửi 20.000 củ Tulip đến Ottawa làm quà tặng .Hiện giờ có khỏang 5 triệu cây tulip trổ hoa ở đó vào mỗi mùa xuân. nhiều người từ khắp thế giới đến tham quan Ottawa để dự lễ hội hoa Tulip hàng năm của Canada.
Thông điệp của màu sắc:
Ông ta có tất cả mọi thứ quí giá nhất trên đời, nhưng điều mà ông ta hãnh diện nhất đó chính là cậu con trai duy nhất. Cậu chủ Anfaret là một chàng trai thật tuyệt vời, rất đẹp trai, thông minh, hào hoa phong nhã và rất tài hoa. Chàng có sức hút rất mãnh liệt với tất cả các cô gái con nhà quí tộc trong vùng, chàng là niềm tự hào của cả dòng tộc. Cuộc sống bình yên trôi qua, cho đến một ngày xuất hiện cô gái làm vườn mới, tên nàng là Violeta.
Violeta là một cô gái con nhà nghèo, nhà nàng nghèo nhất trong vùng, thuộc tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội lúc bấy giờ. Nàng không có một sắc đẹp lộng lẫy nhưng vẻ hiền dịu trong trắng thanh thoát thơ ngây toát ra từ gương mặt dịu dàng như Đức mẹ của nàng đã khiến cả khu vườn như bừng sáng, khu vườn nhờ có bàn tay nàng càng rực rỡ sắc hoa. Và cũng chính gương mặt như thiên thần ấy đã làm cho trái tim chàng Anfaret rung động và tình yêu đã đến. Vượt qua khoảng cách giai cấp, họ đến với nhau thật nồng nàn say đắm, nhưng vào thời đó sự khác biệt giai cấp đã gây ra bao mối tình, không ai chấp nhận mối tình ấy và rồi tình yêu đó đã đến tai cha mẹ chàng, sóng gió bắt đầu nổi lên cho đôi bạn trẻ.
Cha chàng trai đã nổi trận lôi đình, ông cảm thấy thật nhục nhã và ra sức ngăn cản tình yêu của họ, mẹ chàng thì ngày càng căm ghét ra sức hành hạ nàng Violet, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng lẽ đời vốn vậy, tình yêu càng ngăn cản thì càng trở nên nồng thắm, gắn bó hơn. Họ vẫn lén lút gặp nhau, vẫn trao cho nhau những nụ hôn những vòng tay nồng ấm, dường như mọi thứ không thể ngăn cản được tình yêu của đôi bạn trẻ. Rồi một hôm cha mẹ chàng cũng phát hiện ra và trận bão phẫn nộ xoáy trút lên người nàng Violeta . Ông ta nhốt Anfaret vào phòng rồi cho gọi Violetta đến, sau một trận đòn ông ta tuyên bố nếu nàng vẫn còn tiếp tục gặp Anfaret thì ông ta sẽ đuổi nàng ra khỏi nhà. Ông không thể chấp nhận một người thuộc tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội như nàng trong nhà được, nếu nàng yêu Anfaret thì hãy rời xa chàng, vì nếu không chính nàng sẽ cản trở tương lai của chàng, nếu yêu nàng chàng Anfaret sẽ mất tất cả, sẽ không còn địa vị danh dự trong xã hội, ông ta còn đe doạ sẽ bắt mẹ nàng để làm áp lực. Biết là dù có khóc lóc van xin cũng vô ích trước sự sắc đá của Bá tước, vì tình yêu nồng thắm với Anfaret, vì lòng hiếu thảo, Violeta cuối đầu chấp thuận từ đó nàng bắt đầu xa lánh Anfaret…
Nhưng Anfaret là một chàng trai kiên định, chàng không vì thế mà khuất phục… Chàng vẫn tìm đến Violeta dù nàng cố tình tránh mặt. Ngày qua ngay cha mẹ chàng rất tức giận, Bá tước cố tìm mọi cách ngăn cản họ, nhưng vẫn bất lực. Cuối cùng, một hôm ông ta đã nghĩ ra một cách, bèn gọi Anfaret lại và nói
– Ta sẽ không ngăn cản con nữa, nhưng con phải hứa với ta một đìều kiện, con phải lên Paris học thành tài, sau 5 năm trở về ta sẽ cho con cưới Violeta, nếu con không chấp nhận ta sẽ gả cô ta cho Andrey người làm vườn xấu xí, hãy vì tương lai của con cũng như của nó mà quyết định đi. Một là sau khi trở về con sẽ có Violeta, hai là hai đứa sẽ mất nhau vĩnh viễn. Nhưng khi con ra đi, nó vẫn phải ở lại đây làm việc như trước. Hãy lựa chọn đi con trai yêu quí của ta!
Trước quyết định đó, đôi bạn trẻ đành phải xa nhau và hứa hẹn ngày trở về. Đêm cuối cùng bên nhau, nước mắt nàng thấm đẫm vai áo chàng, Anfaret hứa rằng sẽ trở về để cưới nàng làm vợ, chàng hứa rằng sẽ viết thư về thường xuyên cho nàng, hãy vững tin và chờ chàng trở về, bởi tình yêu chàng dành cho nàng mãi mãi không gì có thể ngăn cách được. Nhưng Violeta dường như linh cảm được rằng có lẽ đây là lần cuối cùng họ còn được bên nhau, nhưng nàng vẫn im lặng vì không muốn làm chàng xao lòng. Chàng Anfaret ra đi, mang theo trong lòng hình ảnh thân thương và đôi mắt đau đớn của người yêu.
Violeta ở lại trang trại chịu mọi sự hành hạ của gia đình Bá Tước, họ xem nàng như cái gai trong mắt nên không từ một thủ đoạn nào để hành hạ nàng, nhưng Violeta vẫn cắn răng chịu đựng tất cả vì tình yêu dành cho Anfaret. Nhưng rồi ngày qua ngày, bóng chim tăm cá, nàng không hề nhận đuợơc tin chàng, không một lá thư hay lời nhắn trở về trang trại. Nàng âm thầm mỏi mong chờ đợi, bao đêm nàng khóc ướt đẫm gối vì thất vọng…. Rồi một hôm, mẹ chàng đưa cho nàng một bức điện tín và nói rằng hãy quên Anfaret đi, vì chàng sắp cưới con gái Nam tước bạn của Bá Tước tại Paris. Nghe tin như sét đánh ngang mày, nàng ngất xỉu trước nỗi đau ấy, nàng đau đớn gần như chết lịm, cũng từ hôm ấy nàng trở nên câm lặng. Sự hành hạ cùa gia đình Bá tước ngày càng khắc nghiệt hơn, nàng không được ăn no, phải dậy từ sáng sớm, làm việc quần quật từ sớm tới khuya, lại thêm phần đau khổ trong lòng, uất ức vì chàng Anfaret phụ tình nên sức khoẻ của nàng ngày càng suy sụp. Và rồi một đêm mưa gió họ đã đuổi nàng ra khỏi nhà, từ đó không ai còn biết tin tức gì của nàng nữa. Còn về phần Anfaret, 5 năm sống nơi thủ đô Paris tráng lệ, TY của chàng không hề suy chuyển, hình bóng nàng Violeta vẫn lung linh trong trái tim chàng, chưa một ngày nào chàng không nhớ về người yêu đang ở trang trại chờ chàng trở về. Mỗi tuần chàng đều gửi một lá thư về cho nàng, động viên nàng hãy ráng đợi chàng trở về, tin tưởng tình yêu của chàng, rằng cuộc đời chàng chỉ yêu duy nhất có nàng mà thôi, chàng sẽ trở về và cưới nàng làm vợ. Những hỡi ơi, cả chàng và Violeta nào có ngờ đâu, những lá thư tình yêu ấy chưa bao giờ đến được tay nàng Violeta. Chàng có ngờ đâu khi chàng ra đi bao sóng gió đã đổ ập lên người chàng yêu dấu. Chàng vẫn tin rằng bằng sự cố gắng của mình để học thật nhanh mà trở về ….
Và rồi ngày cuối cùng của 5 năm đã đến, sắp đến ngày trở về. Trước ngày tốt nghiệp, chàng muốn quay về bất ngờ để báo tin cho nàng biết rằng chàng sắp được cưới nàng, rằng họ sắp được bên nhau. Nhưng hỡi ôi, khi chàng quay trở về nhà thì mọi thứ không còn như trước, nàng Violeta đã không còn ở đó nữa, gia đình chàng tìm mọi cách bôi xấu nàng nhưng Anfaret không hề tin. Chàng như điên dại chạy khắp nơi tìm kiếm hình bóng người yêu, chàng óan hận cha mẹ đã đuổi nàng, hành hạ nàng qua lời kể của Adrey người làm vườn, cũng là người đã đối xử với Violeta rất tốt. Chàng bôn ba khắp nước Pháp tìm nàng, dò hỏi người quen, chàng không tiếc gì tiền bạc đi khắp nơi nhưng vẫn bặt tin nàng. Cho đến một ngày, trải qua bao tháng tìm kiếm vô vọng, sức cạn lực kiệt, chàng lâm bệnh nặng tưởng chừng như không thể qua khỏi, cha mẹ chàng xót con nên đành phải tung tiền ra thuê người tìm kiếm lần nũa, nhưng bóng dáng nàng Violeta vẫn bặt tăm. Họ hối hận vì đã gây cảnh đau lòng để giờ đây nhìn đứa con trai yêu quý đang thoi thóp trên giường trong nỗi đau khổ tột cùng. Họ đã đưa tin khắp nước Pháp nếu ai tìm được nàng Violeta họ sẽ không tiếc bất cứ thứ gì…Hai năm trôi qua, bệnh tình chàng Anfaret ngày càng trầm trọng, cả dòng tộc gần như tuyệt vọng thì một hôm xuất hiện một cậu bé rách rưới với bộ dạng lo lắng hốt hoảng dừng lại ở trang trại đem lại tin tức về Violeta, nhưng cậu bé chỉ đòi gặp chàng Anfaret và chỉ muốn nói riêng với chàng. Nghe được tin này, chàng Anfaret chợt bật dậy, chạy như bay đến bên cậu bé, ôm chầm lấy cậu mừng rỡ mà không kịp nhìn vào đôi mắt đang rơi lệ của cậu, cậu bé ấy chính là em trai của Violeta. Cậu bé đưa tay ra cho chàng và nói: “ Cậu chủ hãy đi theo cháu!”
Dường nhu có một sức mạnh thúc đẩy, chàng Anfaret cố gượng đi theo cậu bé, đi thật xa, thật lâu, về tận một vùng thật hẻo lánh, một nơi rất xa trang trại mà không ai có thể ngờ tới,. Cậu bé liên tục thúc hối chàng đi thật nhanh, trông câu rất vội vã….Quãng đường xa khiến Anfaret như kiệt sức, cha mẹ chàng cũng gần như ko đủ sức để đi tiếp, muốn được nghỉ ngơi nhưng cậu bé vẫn không muốn dừng, cậu luôn thúc hối mọi người đi thật nhanh, cậu nói: “Xin các ngài hãy theo cháu mau lên kẻo không kịp.”
Anfaret dường như linh cảm được điều không lành đang xảy đến nên chàng vẫn tiếp tục lên đường. Và rồi, khuất sau những ngọn núi kia là một vùng quê thật hẻo lánh nghèo nàn, trong một căn nhà tối tăm nàng Violeta đang trong cơn hấp hối., xanh xao gầy gò, chỉ còn đôi mắt như đang trông ngóng điều gì, đôi môi nàng trong cơn mê sảng vẫn gọi tên Anfaret không thôi. Anfaret bàng hoàng đau đớn, chàng vừa chạy đến quỳ bên nàng thì cũng là lúc nàng nhắm mắt, không còn kịp nhìn thấy Anfaret. Chàng bật khóc gào thét tên Violeta, van xin mọi người hãy cứu lấy nàng…nhưng …mọi người đều quay đi và rơi lệ…Violeta đã mãi mãi ra đi mà không kịp nhìn thấy gương mặt của người nàng yêu dấu và chờ đợi…. Cậu bé đã kể cho chàng nghe tất cả mọi điều, từ ngày nàng rời khỏi nhà Bá tước, đã mang trong người căn bệnh hiểm nghèo, hậu quả của những ngày bị hành hạ ngày ấy…Nhưng nàng vẫn cố thoi thóp sống mong ngày chàng Anfaret trở về…nàng vẫn muốn chờ đợi ngày chàng về để nói với chàng rằng nàng vẫn yêu nàng, vẫn chờ đợi chàng…rằng vẫn không tin chàng đã phản bội lại lời thề hứa năm xưa…rồi mới thanh thản ra đi…nhưng tất cả đều đã muộn…nàng đã ra đi ko kịp nói lời trăn trối…ko kịp nhìn thấy chàng Anfaret…
Cha mẹ chàng nhìn thấy cảnh đau thương đó đã gục xuông trước mặt nàng mong nàng tha thứ…nhưng nàng nào còn biết gì?
- Cha mẹ đã vừa lòng chưa?- Anfaret gào lên thảm thiết – các người đã thoả mãn chưa? Nàng đã ra đi thật rồi, nàng bỏ ta rồi, ta còn sống để làm gì nữa” – Ánh mắt và giọng nói của Anfaret như vang từ cõi xa xăm nào đó….
Đám tang Violeta được đưa về trang trại tổ chức với những vòng hoa hồng trắng muốt, trắng tinh khiết như gương mặt im lìm lạnh giá của nàng Violeta. Còn Anfaret, chàng ôm lấy linh cữu của Violeta không rời, môi chàng mấp máy gọi tên ngườI yêu như một kẻ mất trí…Ai nhìn vào đều cũng phải rơi lệ, khuyên giải thế nào chàng cũng bỏ ngoài tai. Và từ đó, chàng không hề rời khỏi nàng, ngày này sang ngày khác chàng vẫn ngồi im lìm bên mộ nàng, nỗi đau ấy không thể vơi đi, Anfaret như một kẻ mất trí, chỉ biết kêu tên nàng trong nỗi đau tột cùng. Tình yêu ấy quá lớn, tình yêu ấy đã trở nên bất diệt trong lòng chàng. Cha mẹ chàng trở nên bất lực không thể khuyên gì chàng được nữa vì bản thân họ cũng cảm thấy quá ân hận. Trang trại phồn vinh ngày nào giờ đây chìm trong ảm đạm u uất… Rồi một ngày cuối Đông, vì kiệt sức và cũng vì quá đau khổ chàng Anfaret đã gục ngã trút hơi thở sau cùng tbên mộ nàng Violeta. Di chúc sau cùng chàng chỉ muốn được chôn chung cùng nàng. Mùa Đông lạnh lẽo trôi qua, mùa xuân lại trở về nơi trang trại, nơi đây chỉ còn lại vợ chồng Bá tước già hiu quạnh, ai cũng tiếc thương cho mối tình của chàng Anfaret và nàng Violeta.
Một buổi sáng thức dậy, người ta bỗng chợt nhìn thấy trên mộ hai người xuất hiện
một nhánh hoa màu tím vươn cao trong gió, một màu tím ngát thắm sắc cả khu vườn,
cành khẳng khiu nhưng vẫn vững vàng trước gió, vươn cao mạnh mẽ như tình yêu bất
diệt của chàng Anfaret và nàng Violeta. Người ta tiếc thương cho cô gái nết na
hiền dịu, tiếc thương cho một mối tình ngang trái chung thuỷ ấy bèn đặt tên cho
loài hoa ấy là VIOLET, loài hoa mang tên người con gái bạc mệnh. Một màu hoa
mang màu tím thủy chung!.
Ngày xửa ngày xưa ở vương quốc hoa hồng có một thằng ngốc tên Stupid. Thằng ngốc may mắn được nhà vua giao cho chăm sóc vườn hoa hồng. Nhà vua có một cô công chúa rất xinh tên Rose. Công chúa rất thích hoa hồng nên yêu cầu thằng ngốc mỗi ngày hãy mang cho mình một bó hoa hồng thật đẹp. Tuy nhiên thằng ngốc không biết bó hoa thế nào cả. Nó bèn xin với công chúa:
- Xin lỗi công chúa nhưng tôi có thể mang đến mỗi ngày chỉ một bông hoa được không.
Ban đầu công chúa thấy không vui một chút nào.Tuy nhiên thằng ngốc đều cố gắng mỗi ngày mang đến cho công chúa một bông hoa đẹp nhất. Thằng ngốc chẳng biết làm việc gì khác ngoài việc chăm sóc những bông hoa.Mỗi khi có ai đó bắt nó đi làm việc gì đó là nó lại nói:
- Xin lỗi nhưng tôi hậu đậu lắm! Tôi sẽ làm hỏng hết mất…
Vậy là người ta lại chán nản bỏ đi. Cũng bởi vậy nên không ai chơi với thằng ngốc cả. Thằng ngốc hàng ngày cứ thui thủi bên những bông hoa của nó. Dường như thằng ngốc chẳng bao giờ biết buồn là gì… Những bông hoa mà thằng ngốc mang đến cho công chúa mỗi ngày đều rất đẹp. Đôi khi công chúa ngắm nhìn những bông hoa đó và tự hỏi: “Một thằng ngốc thì làm thế nào mà tạo ra những bông hoa đẹp như vậy nhỉ”.
Rồi một ngày công chúa quyết định đến thăm vườn hoa của thằng ngốc. Thằng ngốc đang lúi cúi tưới cho một khóm hoa hồng. Với công chúa thì công việc này thật lạ. Công chúa tò mò đến gần thằng ngốc và làm nó giật mình. Thằng ngốc làm rơi bình tưới hoa và làm bắn bẩn lên váy áo của công chúa:
- Xin lỗi công chúa - Thằng ngốc hốt hoảng - Tôi thật là hậu đậu.
- Không sao! Ta sẽ tha tội cho ngươi nhưng ngươi phải chỉ cho ta cách ngươi tạo ra những bông hoa này.
Thằng ngốc ngạc nhiên quá “Công chúa mà quan tâm đến cách trồng hoa ư?!”
- Rất đơn giản thưa công chúa… - Và thằng ngốc say sưa nói với công chúa tất cả những gì nó biết về hoa hồng,về cách trồng hoa, cách chăm sóc chúng… Thằng ngốc cảm thấy rất lạ khi công chúa tỏ ra rất thích thú với những gì nó nói. Và khi thằng ngốc bắt gặp ánh mắt công chúa đang chăm chú nhìn nó thì tự nhiên nó trở nên luống cuống. Một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa. - Xin lỗi công chúa… tôi vụng về quá đi mất.
- Ngươi thật là ngốc! Nhưng những gì ngươi nói về hoa hồng rất hay. Ngày mai ta sẽ lại tới.
Công chúa trở lại cung điện và thằng ngốc lại say sưa tưới hoa. Tuy nhiên nó vừa tưới hoa vừa hát. Chưa ai nghe thất thằng ngốc hát bao giờ cả… Ngày hôm sau thằng ngốc dậy rất sớm. Nó quét dọn những lối đi, nhổ cỏ bên những khóm hoa. Nhưng công chúa không đến nữa. Thằng ngốc đợi mãi mà công chúa vẫn không đến. Nó đâu biết hôm đó là một ngày đặc biệt. Nhà vua tổ chức một lễ hội rất lớn trong cung đình. Có rất nhiều các vị vua, những hoàng tử của các nước láng giềng… Công chúa chẳng muốn đến lễ hội một chút nào. Nàng nhất định không chịu mặc bộ váy dạ hộ. Chỉ đến khi viên tổng quản xuất hiện và nhã nhặn:
- Xin lỗi công chúa nhưng đây là mệnh lệnh của nhà vua…
Công chúa phải có mặt trong lễ hội. Nhà vua muốn thông qua lễ hội tìm cho con
gái mình một vị hoàng tủ thích hợp. Tất cả các hoàng tủ tham gia lễ hội đều được
thông báo về điều đó. Ai cũng rất háo hức được gặp công chúa (vì nghe nói công
chúa rất xinh). Và mọi người không phải chờ đợi lâu. Công chúa xuất hiện trong
bộ váy dạ hội mầu trắng, vương niệm của nàng được kết bằng những bông hoa hồng
đỏ. Một vài hoàng tử đánh rơi ly rượu trong tay, một số khác phải mất một lúc
lâu mới biết mình đang đứng ở đâu. Ngay đến các nhạc công cũng quên mất những nốt
nhạc của mình. Ai cũng muốn được cùng nhảy với công chúa một bài, công chúa đều
nhiệt tình đáp lại. Tuy nhiên chẳng ai lọt vào mắt xanh của công chúa cả. Nàng
công chúa xinh đẹp chẳng thể tìm được cho mình một vị hoàng tử thích hợp. Khi
mà nhà vua gần như tuyệt vọng thì điều bất ngờ đã xãy ra. Đúng vào lúc bữa tiệc
sắp tàn thì một chàng hoàng tử cưỡi một con bạch mã tuyệt đẹp xuất hiện. Hoàng
tử đến trước mặt công chúa và mỉm cười:
- Xin lỗi cô bé! Ta không đến quá muộn đấy chứ.
Công chúa bỗng cảm thấy tim mình đập rộn ràng. Đó là những cảm xúc kì lạ mà công chúa không thể định nghĩa nổi… Giai điệu ngọt ngào của bản Vanx như hòa nhịp cùng bước nhẩy của hai người. Hoàng tử kể cho công chúa nghe về những miền đất xa lạ mà hoàng tử đã đi qua. Những câu chuyện kéo dài như bất tận. Thời gian dường như không còn là mối quan tâm của hai người nữa… Mãi đến khi những vì sao đã sáng lấp lánh trên bầu trời, khi mà cả thằng ngốc và những bông hoa hồng đều đã ngủ say, hoàng tử mới lên ngựa từ biệt công chúa… Công chúa trở về cung điện và cho gọi thằng ngốc tới. - Ngươi có biết làm thế nào để cung điện của ta thật đẹp không! Ngày mai hoàng tử sẽ lại tới. Ta muốn dành cho chàng một sự ngạc nhiên.
-Thưa công chúa… hoàng tử… à vâng thưa công chúa, tôi sẽ trang trí cung điện của công chúa bằng tất cả hoa hồng trong vườn. Cung điện của công chúa sẽ trở thành cung điện hoa hồng.
- Một ý tưởng tuyệt vời! Ngươi cũng không ngốc lắm đâu! Nhưng ta sợ ngươi sẽ không thể làm xong nó trong đêm nay.
- Tôi sẽ cố hết sức thưa công chúa…
Vậy là suốt cả đêm đó những bông hoa hồng còn ướt đẫm sương đêm được thằng ngốc cẩn thận hái từ vườn hoa mang vào cung điện. Khi cung điện của công chúa tràn ngập hoa hồng cũng là lúc trời vừa sáng. Khi công chúa thức dậy, nàng không thể tin vào mắt mình, trước mắt nàng là một cung điện đẹp như trong truyện cổ tích vậy. Công chúa đi dạo một vòng và thấy thằng ngốc ngủ gật bên cạnh một chiếc cột đá:
- Stupid. Dậy đi nào. Trời sáng rồi.
- Xin lỗi công chúa, tôi lại ngủ quên mất, tôi sẽ hoàn thành nốt công việc ngay thôi.
- Không cần nữa. Như vậy là được rồi. Nguơi hãy về nghỉ ngơi đi.
Thằng ngốc thở phào vì công chúa đã không trách nó chưa hoàn thành công việc. Nó vui vẻ trở về với vườn hoa giờ chỉ còn trơ những gốc. Công chúa đến bên cửa sổ và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi mà từ đó hoàng tử sẽ lại tới. Công chúa sẽ dẫn hoàng tử đi thăm cung điện hoa hồng của mình. Hoàng tử sẽ lại kể cho công chúa nghe câu chuyện về những miền đất xa lạ…
Nhưng rồi chẳng có hoàng tử nào đến cả. Chỉ có người hầu của Hoàng tử mang theo một bức thư: “…Cô bé của ta, ta không thể đến với em như đã hẹn. Đất nước của ta có chiến tranh. Ta phải tham gia vào cuộc chiến. Có lẽ chúng ta sẽ phải xa nhau một thời gian dài. Ta không muốn thế một chút nào. Ta sẽ rất nhớ em. Nhưng ta tin thời gian sẽ chứng minh cho tình yêu của chúng ta. Ta sẽ sớm gặp lại em…”
Công chúa buồn lắm. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi môi: “Em sẽ đợi! Nhưng nhất định chàng phải trở về đấy!…”
…Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm…Chẳng có tin tức gì của hoàng tử. Hoàng tử như một cơn gió cứ bay mãi, bay mãi mà chẳng biết bao giờ sẽ trở lại. Công chúa thường đứng một mình bên khung của sổ mỗi buổi hoàng hôn và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi ánh mặt trời dần tắt. Có thể một ngày nào đó… Cũng hơn một năm đó không thấy thằng ngốc mang hoa hồng cho công chúa mỗi buổi sớm nữa. Có thể là sau khi trang hoàng cho cung điện vuờn hoa của thằng ngốc đã chẳng còn một bông hoa nào cả. Công chúa hình như cũng chẳng quan tâm đến những bông hoa hồng của thằng ngốc nữa…
Rồi một buổi sáng sớm khi công chúa thức dậy, có ai đó đã đặt sẵn bên của sổ một bông hoa hồng tuyệt đẹp. Công chúa ngắm nhìn bông hoa và chợt nhớ tới thằng ngốc. “Một năm rồi Stupid không mang hoa tới..”. Công chúa trở lại vườn hoa của thằng ngốc. Trước mắt công chúa không phải là những gốc cây trơ trụi mà là muôn ngàn những bông hồng rực rỡ. Thằng ngốc vẫn lúi cúi bên những khóm hoa hồng. Thằng ngốc nhìn thấy công chúa và một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa: - Xin lỗi công chúa! Tôi đã cố hết sức nhưng không thể làm cho vườn hoa đẹp như xưa.
- Ồ không! Thật là kỳ diệu! Nói cho ta biết đi, ngươi đã làm thế nào vậy?
Lần đầu tiên trong đời có người nói với nó như vậy, mà lại là một công chúa nữa chứ. Thằng ngốc vui lắm, nó cười ngây ngô và lại say sưa nói với công chúa về những bông hoa… Những ngày sau đó ngày nào công chúa cũng đến vườn hoa của thằng ngốc. Công chúa tự mình trồng những bông hoa, tự mình tưới nước cho chúng. Ban đầu thằng ngốc cảm thấy rất lạ nhưng rồi nó cũng hiểu ra rằng công chúa đang cố làm tất cả để nguôi ngoai nỗi nhớ hoàng tử. Thằng ngốc rất vui vì dù sao cũng có người cùng nó trò chuyện, có người chịu nghe nó nói cả ngày về những bông hoa hồng. Thằng ngốc cố làm cho công chúa vui những lúc công chúa ở bên nó. Có một lần thằng ngốc nói với công chúa về ý nghĩa của các loài hoa:
- Hoa hồng bạch là tình bạn chân thành, hồng nhung là tình yêu nồng thắm, hồng vàng là…
- Vậy còn hồng xanh, nó tượng trưng cho điều gì
- Hồng xanh là tình yêu bất diệt! thưa công chúa,nhưng nó không có thật.
- Vậy tại sao nó lại tượng trưng cho tình yêu bất diệt?
- Đó là một huyền thoại, thưa công chúa. Người ta nói rằng nếu ta trồng một cây hoa hồng bằng cả trái tim dành cho người mình yêu thương thì nó sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh. Đó là bông hoa có phép mầu, nó sẽ cho một điều ước..
- Ta sẽ ước chiến tranh kết thúc và hoàng tử sẽ trở về bên ta…
- Thưa công chúa! Không có điều gì là không thể xãy ra. Tôi tin nếu công chúa thành tâm biết đâu cây hoa mà công chúa trồng sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh.
- Ta tin ngươi…
Và từ hôm đó công chúa dành hết thời gian để chăm sóc cho cây hoa hồng của mình. Nhưng không hiểu sao cây hoa mà công chúa trồng mãi vẫn không nở một bông hoa nào cả. Có một sự thật mà có lẽ thằng ngốc không bao giờ dám nói. Đó là câu chuyện về hoa hồng xanh chỉ là một lời nói dối. Thằng ngốc không muốn thấy công chúa quá đau buồn nên nó đã nghĩ ra câu chuyện về bông hoa hồng xanh và điều ước…
Nhưng rồi thằng ngốc mới thấy đó là một sai lầm rất lớn. Nó sợ cái ngày mà cây hoa của công chúa nở ra một bông hoa bình thường. Công chúa sẽ rất buồn. Thằng ngốc không muốn làm công chúa buồn một chút nào. Nó cố tìm trong vườn hoa bao la của nó một bông hoa hồng xanh nhưng chẳng có bông hồng xanh nào cả… Rồi một đêm thằng ngốc trằn trọc mãi không ngủ được. Bỗng nhiên nó nghe thấy một giọng nói như tiếng thì thầm vậy
- Stupid! Sao ngươi buồn thế?
- Ai vậy?
- Ta là hoa hồng đây.
- Hoa hồng ư? Sao ngươi có thể nói được?
- Ngươi ngốc quá, ta luôn nói chuyện với ngươi mà ngươi không để ý đấy thôi, loài hoa nào cũng nói được, chỉ là có bao giờ ngươi lắng nghe không mà thôi. Có chuyện gì mà ngươi buồn vậy? - Ta… Ta đã trót nói dối công chúa về hoa hồng xanh. Ta không nghĩ là công chúa lại đặt nhiều niềm tin vào hoa hồng xanh đến thế.
- Stupid! Ngươi đang nghĩ gì vậy. Ta nói cho ngươi biết điều này nhé: Huyền thoại mà ngươi đã nói với công chúa là có thật đấy.
- Sao cơ? Thế nghĩa là hoa hồng xanh là có thật. Ngươi biết làm thế nào để tạo ra hoa hồng xanh phải không?
- Ta biết… Nhưng ta không thể nói cho ngươi được.
- Tại sao chứ? Ta xin ngươi đấy
- Stupid à.. Ngươi thật là ngốc quá, ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ?
- Ta… Ta muốn công chúa có bông hoa hồng xanh. Ta muốn ước mơ của công chúa trở thành sự thực. Ta không muốn thấy công chúa buồn…
- Ôi Stupid! Ta không muốn nói cho ngươi một chút nào, nhưng thôi được rồi, nếu ngươi thực sự muốn có một bông hoa hồng xanh, ta sẽ chỉ cho ngươi cách…
Và hoa hồng ghé tai thằng ngốc thì thầm điều gì đó mà chỉ có thằng ngốc nghe rõ. Khuôn mặt thằng ngốc bỗng ngẩn ngơ đến khó hiểu. Rồi người ta thấy thằng ngốc ngước nhìn bầu trời đầy sao và mỉm cười… Sáng sớm hôm sau khi công chúa vừa thức dậy thì người hầu của nàng đã chạy vào:
- Thưa công chúa, thật không thể tin được, người hãy ra mà xem, cây hoa mà công chúa trồng đã nở một bông hoa màu xanh.
Hoa tulíp vàng: tỏ tình yêu nhưng không hy vọng.
Hoa tulíp trắng: tỏ lòng yêu quý.
Hoa tulíp đỏ: tỏ lòng yêu chưa được đáp lại.
Hoa tulíp xanh: tỏ lòng chân thành.
TRUYỀN THUYẾT HOA LƯU LY
(Tình yêu chân thật)Có một truyền thuyết rất thuyết phục của người Đức giải thích nguồn gốc tên của loài hoa màu xanh tím nhỏ bé xinh đẹp này, cũng như ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ các loài hoa: Ngày nọ, có một hiệp sĩ trẻ và người yêu đang đi dạo dọc theo bờ sông Danube. Cô gái trông thấy một đám hoa màu xanh đang trôi xuôi theo dòng sông: “Em muốn có đóa hoa xinh đẹp đó!”, cô gái la lên. Ngay tức khắc, người tình dũng cảm của cô phóng mình xuống dòng sông và vớt lấy đám hoa trôi. Nhưng hỡi ơi, do bị vướng víu bởi sức nặng của bộ áo giáp hiệp sĩ, anh ta đã không thể vượt qua được bờ sông trơn trợt dù đã cố gắng hết sức, cảm thấy mình đang nhanh chóng bị chìm xuống, anh ném hoa lên bờ cho người yêu và bằng những hơi thở tàn cuối cùng của mình trước khi chìm mãi, anh gọi nàng một lời như trăn trối : “Xin đừng quên nhau!”.
Lại có câu chuyện khác cũng nói về hoa Lưu ly. Chuyện kể rằng:
Ngày xửa ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời vợi. Họ dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn cành, nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần ngần ngắm nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô choài người ra bờ suối hái mấy nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước cuốn trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với “Xin đừng quên em”.
Được gắn liền với một bi kịch lãng mạn như vậy nên không có gì phải ngạc nhiên khi có rất nhiều vần thơ ca tụng loài hoa màu xanh thiên đường bé nhỏ này.
Hoa Cúc
Cúc nở nhà ai vàng liếp dậu
Nhớ người em hái nhãn vườn Long.
Từ thuở phiêu bồng xa thôn Nguyệt
Em có chờ không có đợi không?
Dạo ấy em là trăng mật ngọt
Tình ta như bưởi mới đơm bông.
Môi thắm em cười hoa lựu đỏ
Nắng hạ vàng rưng thấm ngọt lòng...
Bao mùa xuân đi, ta trở lại
Thiên Mụ đò về bến sông sâu.
Bên này Lương Quán thơm dâu mít
Vườn đây cảnh đó người xưa đâu?
Liếp dậu nhà ai cúc nở vàng
Người đi chết lặng giữa mùa trăng!
Ta nghe thổn thức hồn cây trái
Tỏa ngát mùi hương cõi vĩnh hằng.
Từ thuở phiêu bồng xa thôn Nguyệt
Em có chờ không có đợi không?
Dạo ấy em là trăng mật ngọt
Tình ta như bưởi mới đơm bông.
Môi thắm em cười hoa lựu đỏ
Nắng hạ vàng rưng thấm ngọt lòng...
Bao mùa xuân đi, ta trở lại
Thiên Mụ đò về bến sông sâu.
Bên này Lương Quán thơm dâu mít
Vườn đây cảnh đó người xưa đâu?
Liếp dậu nhà ai cúc nở vàng
Người đi chết lặng giữa mùa trăng!
Ta nghe thổn thức hồn cây trái
Tỏa ngát mùi hương cõi vĩnh hằng.
LÊ NGUYỄN TRẦM CA
Hoa cúc: tỏ sự cao thượng.
Hoa thuỷ cúc: tỏ sự lo xa, nhớ lại.
Hoa cúc đại đoá: tỏ sự vui mừng.
Hoa cúc vàng: tỏ ý mỉm cười, vui vẻ, tỏ sự chân thực, trong trắng.
Hoa cúc trắng: Ngây thơ và duyên dáng.
Hoa cúc tím (thạch thảo): Nỗi lưu luyến khi chia tay.
Hoa cúc vàng: Lòng yêu quí mến, nỗi hân hoan.
Hoa cúc Ba tư: tỏ sự trong trắng.
Hoa cúc vạn thọ: tỏ sự ghen ghét.
Hoa cúc mũi hài: tỏ ý bảo vệ.
Hoa cúc đồng tiền: tỏ ý chúc sống lâu.
Hoa thuỷ cúc: tỏ sự lo xa, nhớ lại.
Hoa cúc đại đoá: tỏ sự vui mừng.
Hoa cúc vàng: tỏ ý mỉm cười, vui vẻ, tỏ sự chân thực, trong trắng.
Hoa cúc trắng: Ngây thơ và duyên dáng.
Hoa cúc tím (thạch thảo): Nỗi lưu luyến khi chia tay.
Hoa cúc vàng: Lòng yêu quí mến, nỗi hân hoan.
Hoa cúc Ba tư: tỏ sự trong trắng.
Hoa cúc vạn thọ: tỏ sự ghen ghét.
Hoa cúc mũi hài: tỏ ý bảo vệ.
Hoa cúc đồng tiền: tỏ ý chúc sống lâu.
Phượng vĩ có nguồn gốc từ
Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây
Malagasy.
Sự tích hoa phượng
Ngày xưa, xưa lắm, ở một
vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết
sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con.
Ông đi xin năm người con
trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho
năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn
Tuổi năm người con xấp xỉ
ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá và
tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho
năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người
con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong
nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng
oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ
cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một
cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn
đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt
hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn
hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất
đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại.
Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai
cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước
những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm
ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên
tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.
Hắn thấy ông thầy dạy võ
đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi
mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống,
vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ
vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ
nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và
cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy
dạy võ lại rồi bảo:
- Tao nghe mày muốn đi đánh
tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy
giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi
mang đến chỗ ta đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ
không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội
thịt đến trước! Đội xôi đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi
trói cho ông. người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy
năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi.
Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập
tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại,
năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay.
Người bố liền khuyên:
- Không được! Lúc nào quân
lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm
chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi
vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để
vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ,
nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn
đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi
vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực.
Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm
ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên
tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục:
-Còn nong xôi nữa, mày về đội
đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng
hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến
đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy
người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập
lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt
ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: "Gắng lên! Chỉ cần một lúc
nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa
lo lắng. Hắn nghĩ: "Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được
nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn,
thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt.
Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại
gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên
lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia
chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng
đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc
tránh được.
Bỗng từ trong nong xôi, năm
người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn
chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú
lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính
giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con
trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng
năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp
cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu
mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng
năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã
có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ
trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ
người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng
năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc
áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa
nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố
đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày
nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời.
Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng
dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước...
Sự tích hoa mẫu đơn
(Tree Peony)
Ngày xưa... ở một làng miền núi có một bà mẹ. Bà mẹ sinh được mười người con
trai. Làng của mẹ bị giặc chiếm đóng. Người cha của mười anh con trai bị giặc
giết ngay từ ngày đầu tiên, khi chúng tiến vào làng. Mười người con trai của bà
vào đội quân chống giặc ở trong núi. Người con trai cả là chủ tướng của đội
quân. Đội quân nay đã làm cho bọn giặc thất điên bát đảo. Đã nhiều lần giặc mở
những trận càn quét mà không sao tiêu diệt được đội quân của cái làng bé nhỏ ấy.
Tên tướng giặc sai quân bắt bà mẹ đến, hắn bảo:
- Này mụ già, mụ hãy khuyên các con mụ trở về. Ta sẽ cho con mụ làm tướng. Bằng không, ta sẽ giết mụ.
Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt tên tướng giặc, nói lớn:
- Hỡi quân độc ác! Hẳn nhà ngươi cũng có một bà mẹ. Mẹ ngươi chắc không bao giờ dạy người phản bội lại quê hương. Là một người chân chính, ta cũng không thể dạy các con ta phản bội lại quê nhà.
Bọn giặc trói mẹ trên một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của mẹ đến cứu. Chúng bảo bà mẹ hãy đứng dậy mà gọi con, chúng sẽ tha. Tiếng người mẹ:
- Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản bội quê hương.
Mệnh lệnh của người mẹ là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi rừng. Bọn giặc run sợ. Những người con của mẹ thì thêm sức mạnh chiến đấu. Giặc bịt miệng bà mẹ. Chúng đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng...
Khi bọn giặc đi rồi, dân làng lên đồi tìm chỗ bà mẹ bị hành hình, người ta thấy trái tim của người mẹ vẫn nguyên vẹn và nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Đêm đêm, từ ngôi mộ, trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Mùa xuân đến. Từ ngôi mộ, trái tim ấy mọc lên một cái cây. Cây ra hoa. Bông hoa đỏ chót hình ngọn lửa bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loại hoa mang tên Mẫu Đơn. Cây hoa tượng trưng cho người mẹ đã chiến đấu bằng một trái tim.
Ý nghĩa - Biểu tượng : Mẫu đơn là loài hoa vương giả sang trọng ở Trung Quốc biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng, sắc đẹp. Ở Nhật Bản, Mẫu Đơn tượng trưng cho cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con cháu. Còn trong ngôn ngữ loài hoa phương Tây, nhờ những đặc tính y học tuyệt vời, Mẫu đơn còn được xem như một loại dược thảo chữa bệnh và mang ý nghĩa "sự e lệ".
Mẫu đơn có nguồn gốc từ Trung Quốc và Tây Tạng, là một trong những cây hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm. Khi những nhà truyền giáo đạo Phật đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa Mẫu đơn này. Người Nhật luôn là một dân tộc yêu hoa, nên bông hoa đẹp mới đến nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của Tháng Sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Peony được đặt tên theo Paeon, một thầy thuốc học trò của Thần Y Asclepius trong thần thoại Hy Lạp.Ông được nữ thần Leto (mẹ của thần Mặt Trời Apollo) mách bảo cách lấy được chiếc rễ thần kỳ mọc trên đỉnh Olympus mà nó có thể xoa dịu được cơn đau của người phụ nữ khi sanh nở. Asclepius trở nên ghen tức với Paeon. Để cứu Paeon thoát chết vì sự phẫn nộ của Asclepius, thần Zeus đã biến ông thành một bông hoa Mẫu đơn.
Ngày nay, Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh. Bạn có biết rằng, xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Trung Quốc. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh "Chúa của muôn hoa". Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau Công Nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Thành phố Luoyang (Giang Nam ?) - Trung Quốc, nổi tiếng về nhiều chủng loại Mẫu đơn phong phú, rực rỡ sắc màu nhờ thời tiết ôn hòa và đất đai thích hợp. Ngày 21/9/1982, người dân Luoyang chính thức chọn Mẫu đơn là biểu tượng hoa của thành phố mình. Tháng 4 là tháng của Hoa Mẫu Đơn, thật sự là mùa vui cho những người yêu hoa ở xứ sở này. Hoa Mẫu đơn nở đẹp lộng lẫy, hương thơm, sắc màu hoa hiện diện khắp nơi trong thành phố. Và lễ hội Mẫu đơn Louyang - Luoyang Peony Festival được tổ chức từ 15/4 - 25/4 hằng năm là một lễ hội văn hóa lớn, niềm tự hào của cư dân Luoyang. Suốt mùa lễ hội, tưng bừng những đèn lồng sặc sỡ, các hoạt động kinh tế cũng khá nhộn nhịp, không khí vui tươi và gây một ấn tượng sâu sắc cho tất cả các du khách trên khắp thế giới đến chơi. Ở Luoyang có những loài Mẫu đơn quý hiếm, màu sắc thay đổi lạ, hay cả những bông hoa lớn đến hàng trăm cánh, sống đã hàng trăm tuổi.
Võ Hậu ra lệnh cho muôn hoa trong vườn ngự uyển nở cùng lúc trong đêm bằng một bài thơ tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn. Linh ứng thay, tất cả trăm hoa phụng mệnh! Chỉ có một cây Mẫu đơn vẫn khẳng khiu trơ lá. Thế là Mẫu đơn bị đày khỏi kinh đô, xuống vùng ngoại ô Giang Nam. Kỳ diệu thay! Vừa đến đó, bông hoa bừng nở đẹp tuyệt vời ! Võ Hậu rất tức giận, ra lệnh đốt nó đi, nhưng thậm chí sau khi đốt, Mẫu đơn vẫn nở hoa. Từ truyền thuyết này, hoa Mẫu đơn càng được yêu quý hơn trong dân gian.Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh cao.
Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến những khả năng kỳ diệu lạ thường của cây hoa mà người ta đã lưu truyền trong dân gian. Dược tính của Mẫu đơn chủ yếu ở rễ và hạt. Rễ cây có tính kháng sinh, giúp giảm đau, trị bỏng, làm giảm huyết áp, giúp trẻ mọc răng, chữa bệnh vàng da, dị ứng, thận...Hạt hoa từng được xem như một loại gia vị thông dụng. Những tập tục mê tín còn tin rằng nếu đeo một vòng cổ kết bằng hạt Mẫu đơn, bạn sẽ tránh được các bệnh như hủi, động kinh, mất trí và nó còn xua tan những cơn ác mộng, như một lá bùa hộ mạng bảo vệ người ta chống lại ma quỷ hay những thế lực của bóng đêm!
Khoảng năm 77 sau Công Nguyên, trong cuốn sách Pliny''s Natural History đã mô tả chi tiết về cây hoa và 20 bệnh chữa bằng những bộ phận của nó. Không lâu sau đó, Dioscoride cũng đã viết một luận án về những cây thảo dược, trong đó có Peony. Vì là một cây thuốc quan trọng, dược liệu Mẫu đơn được sản xuất với lượng lớn hằng năm nhằm đáp ứng nhu cầu ở Trung Quốc và thể giới.
Tên tướng giặc sai quân bắt bà mẹ đến, hắn bảo:
- Này mụ già, mụ hãy khuyên các con mụ trở về. Ta sẽ cho con mụ làm tướng. Bằng không, ta sẽ giết mụ.
Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt tên tướng giặc, nói lớn:
- Hỡi quân độc ác! Hẳn nhà ngươi cũng có một bà mẹ. Mẹ ngươi chắc không bao giờ dạy người phản bội lại quê hương. Là một người chân chính, ta cũng không thể dạy các con ta phản bội lại quê nhà.
Bọn giặc trói mẹ trên một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của mẹ đến cứu. Chúng bảo bà mẹ hãy đứng dậy mà gọi con, chúng sẽ tha. Tiếng người mẹ:
- Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản bội quê hương.
Mệnh lệnh của người mẹ là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi rừng. Bọn giặc run sợ. Những người con của mẹ thì thêm sức mạnh chiến đấu. Giặc bịt miệng bà mẹ. Chúng đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng...
Khi bọn giặc đi rồi, dân làng lên đồi tìm chỗ bà mẹ bị hành hình, người ta thấy trái tim của người mẹ vẫn nguyên vẹn và nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Đêm đêm, từ ngôi mộ, trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Mùa xuân đến. Từ ngôi mộ, trái tim ấy mọc lên một cái cây. Cây ra hoa. Bông hoa đỏ chót hình ngọn lửa bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loại hoa mang tên Mẫu Đơn. Cây hoa tượng trưng cho người mẹ đã chiến đấu bằng một trái tim.
Ý nghĩa - Biểu tượng : Mẫu đơn là loài hoa vương giả sang trọng ở Trung Quốc biểu tượng cho sự giàu có, thịnh vượng, sắc đẹp. Ở Nhật Bản, Mẫu Đơn tượng trưng cho cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con cháu. Còn trong ngôn ngữ loài hoa phương Tây, nhờ những đặc tính y học tuyệt vời, Mẫu đơn còn được xem như một loại dược thảo chữa bệnh và mang ý nghĩa "sự e lệ".
Mẫu đơn có nguồn gốc từ Trung Quốc và Tây Tạng, là một trong những cây hoa được con người biết đến từ rất sớm, cách đây đã gần 4000 năm. Khi những nhà truyền giáo đạo Phật đến Nhật Bản, họ đã đem theo kiến thức về những bông hoa Mẫu đơn này. Người Nhật luôn là một dân tộc yêu hoa, nên bông hoa đẹp mới đến nhanh chóng trở thành một phần trong văn hóa của họ. Mẫu đơn là bông hoa của Tháng Sáu ở Nhật Bản. Từ Trung Hoa và Nhật Bản, nó chu du sang tận đỉnh núi Olympus, tìm cho mình một cái tên.
Peony được đặt tên theo Paeon, một thầy thuốc học trò của Thần Y Asclepius trong thần thoại Hy Lạp.Ông được nữ thần Leto (mẹ của thần Mặt Trời Apollo) mách bảo cách lấy được chiếc rễ thần kỳ mọc trên đỉnh Olympus mà nó có thể xoa dịu được cơn đau của người phụ nữ khi sanh nở. Asclepius trở nên ghen tức với Paeon. Để cứu Paeon thoát chết vì sự phẫn nộ của Asclepius, thần Zeus đã biến ông thành một bông hoa Mẫu đơn.
Ngày nay, Mẫu đơn là biểu tượng của sự thịnh vượng, phồn vinh. Bạn có biết rằng, xa xưa, loài hoa vương giả này chỉ thuộc sở hữu của giới quý tộc giàu có ở Trung Quốc. Bông hoa quốc sắc thiên hương này từng rất được ưu ái qua nhiều triều đại, với mệnh danh "Chúa của muôn hoa". Nhất là giai đoạn từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 13 sau Công Nguyên. Mẫu đơn được ca tụng trong văn thơ, nhạc và tranh vẽ lúc bấy giờ.
Thành phố Luoyang (Giang Nam ?) - Trung Quốc, nổi tiếng về nhiều chủng loại Mẫu đơn phong phú, rực rỡ sắc màu nhờ thời tiết ôn hòa và đất đai thích hợp. Ngày 21/9/1982, người dân Luoyang chính thức chọn Mẫu đơn là biểu tượng hoa của thành phố mình. Tháng 4 là tháng của Hoa Mẫu Đơn, thật sự là mùa vui cho những người yêu hoa ở xứ sở này. Hoa Mẫu đơn nở đẹp lộng lẫy, hương thơm, sắc màu hoa hiện diện khắp nơi trong thành phố. Và lễ hội Mẫu đơn Louyang - Luoyang Peony Festival được tổ chức từ 15/4 - 25/4 hằng năm là một lễ hội văn hóa lớn, niềm tự hào của cư dân Luoyang. Suốt mùa lễ hội, tưng bừng những đèn lồng sặc sỡ, các hoạt động kinh tế cũng khá nhộn nhịp, không khí vui tươi và gây một ấn tượng sâu sắc cho tất cả các du khách trên khắp thế giới đến chơi. Ở Luoyang có những loài Mẫu đơn quý hiếm, màu sắc thay đổi lạ, hay cả những bông hoa lớn đến hàng trăm cánh, sống đã hàng trăm tuổi.
Võ Hậu ra lệnh cho muôn hoa trong vườn ngự uyển nở cùng lúc trong đêm bằng một bài thơ tứ tuyệt khắc ngay cửa vườn. Linh ứng thay, tất cả trăm hoa phụng mệnh! Chỉ có một cây Mẫu đơn vẫn khẳng khiu trơ lá. Thế là Mẫu đơn bị đày khỏi kinh đô, xuống vùng ngoại ô Giang Nam. Kỳ diệu thay! Vừa đến đó, bông hoa bừng nở đẹp tuyệt vời ! Võ Hậu rất tức giận, ra lệnh đốt nó đi, nhưng thậm chí sau khi đốt, Mẫu đơn vẫn nở hoa. Từ truyền thuyết này, hoa Mẫu đơn càng được yêu quý hơn trong dân gian.Người đương thời thấy vậy dệt bài Phú Ngọc Lâu Xuân Tứ nhằm thương hại và tán thán vẻ đẹp, sự khẳng khái của hoa Mẫu Đơn, thà chịu cảnh phong trần lưu lạc tự giải phóng cuộc đời chớ không làm vương giả chốn kinh đô, chịu giam mình trong vườn hoa tù hãm của bạo chúa, đem sắc đẹp hương thơm ban rải cho mọi người để được dự phần thanh cao.
Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến những khả năng kỳ diệu lạ thường của cây hoa mà người ta đã lưu truyền trong dân gian. Dược tính của Mẫu đơn chủ yếu ở rễ và hạt. Rễ cây có tính kháng sinh, giúp giảm đau, trị bỏng, làm giảm huyết áp, giúp trẻ mọc răng, chữa bệnh vàng da, dị ứng, thận...Hạt hoa từng được xem như một loại gia vị thông dụng. Những tập tục mê tín còn tin rằng nếu đeo một vòng cổ kết bằng hạt Mẫu đơn, bạn sẽ tránh được các bệnh như hủi, động kinh, mất trí và nó còn xua tan những cơn ác mộng, như một lá bùa hộ mạng bảo vệ người ta chống lại ma quỷ hay những thế lực của bóng đêm!
Khoảng năm 77 sau Công Nguyên, trong cuốn sách Pliny''s Natural History đã mô tả chi tiết về cây hoa và 20 bệnh chữa bằng những bộ phận của nó. Không lâu sau đó, Dioscoride cũng đã viết một luận án về những cây thảo dược, trong đó có Peony. Vì là một cây thuốc quan trọng, dược liệu Mẫu đơn được sản xuất với lượng lớn hằng năm nhằm đáp ứng nhu cầu ở Trung Quốc và thể giới.
Sự tích hoa nhài (Jasmine)
Từ thuở xa xa, tất cả các loài hoa đều có màu trắng. Nhưng một ngày kia có một
hoạ sỹ đã đến khu vườn mang theo một hộp to đựng các loại mực màu và một nắm
bút lông. Chàng nói với các loài hoa và các khóm hoa:
- Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích màu gì.
Lập tức các đám hoa và cây cối trong vườn bèn đứng vào chỗ theo hàng lần lượt, bởi vì loài nào cũng muốn chọn cho mình thứ màu rực rỡ nhất. Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó muốn hoa của nó phải có màu vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó hằng yêu mến.
- Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng? - hoạ sỹ đẩy Nhài sang một bên.
- Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm rồi, - Nhài tức giận đáp lại.
- Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là ngời có quyền được đứng lên hàng đầu - Hoạ sỹ giải thích - Mi phải chịu hình phạt đứng cuối và muốn gì thì phải xin ta.
- Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai hết - Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họa sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà hoàng kiêu hãnh này không chọn cho mình được một thứ màu nào cả! Họ muốn cả màu đỏ thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lá thôi, bởi đó là thứ màu quá xuềnh xoàng, quê kiểng. Ðể màu xanh lá không khỏi uổng phí, hoạ sỹ bèn đem quét lên hoa Lu Ly và hoa Xa Cúc, mặc dù hai loài hoa này rất mê màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sỹ cứ khăng khăng rằng, với các anh chị nhà quê này thì màu xanh lá là hợp hơn cả.
Hoa Anh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sỹ và hoạ sỹ đã phóng tay phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm Chướng thì hết lời phỉnh nịnh hoạ sỹ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Hoạ sỹ lưu lại ở khu vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc khác nhau.
Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn. Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: "Màu gì cũng được!". Hoạ sỹ bèn bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói: "Tôi biết, tất cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích rực rỡ như nữ hoàng Hoa Hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng của từng loài hoa nữa!"
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời rất lịch thiệp. Ðối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa em gái bé bỏng, và chàng đã dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Ðinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách riêng của nó, nếu chàng không tiếc màu cho nó:
- Về mùa Xuân, chàng có thể bẻ cành của tôi và đem tặng người yêu của mình được đấy. - Tử Ðinh Hương nói - Cành của tôi càng được bẻ nhiều thì tôi càng khoe sắc lộng lẫy.
- Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng, - hoạ sỹ giận dỗi gạt Tử Ðinh Hương sang một bên. Nhưng rất may là nó đã được các chị gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sỹ một cốc Xmêtana (váng sữa).
Hoa Nhài chỉ biết tròn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu vàng, loại màu mà Nhài vốn yêu thích, cho Bồ Công Anh.
Trong lúc mải mê với màu vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
- Thế nào cô bạn? - Hoạ sỹ nhếch mép cười với Nhài - Thứ màu này còn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho tất.
- Ta không cần cầu xin. - Nhài đáp.
- Vậy là sao? - Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ sỹ bực mình - Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của mình thì mi hãy phục xuống đất, cho dù phải chịu còng lưng.
- Tôi thích õng ẹo chứ không muốn còng lưng! - Nhài kiêu hãnh đáp lại.
Hoạ sỹ vì quá tức giận đã trút tất cả màu vàng còn lại vào mặt Nhài và hét:
- Mi là cái thá gì mà không chịu cầu xin và hạ mình! Vậy vĩnh viễn với mi sẽ chỉ là màu trắng!
Vì thế Hoa Nhài mảnh dẻ vẫn mang những cánh trắng muốt mà chúng ta vẫn thấy ngày nay.
- Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích màu gì.
Lập tức các đám hoa và cây cối trong vườn bèn đứng vào chỗ theo hàng lần lượt, bởi vì loài nào cũng muốn chọn cho mình thứ màu rực rỡ nhất. Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó muốn hoa của nó phải có màu vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó hằng yêu mến.
- Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng? - hoạ sỹ đẩy Nhài sang một bên.
- Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm rồi, - Nhài tức giận đáp lại.
- Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là ngời có quyền được đứng lên hàng đầu - Hoạ sỹ giải thích - Mi phải chịu hình phạt đứng cuối và muốn gì thì phải xin ta.
- Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai hết - Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họa sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà hoàng kiêu hãnh này không chọn cho mình được một thứ màu nào cả! Họ muốn cả màu đỏ thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lá thôi, bởi đó là thứ màu quá xuềnh xoàng, quê kiểng. Ðể màu xanh lá không khỏi uổng phí, hoạ sỹ bèn đem quét lên hoa Lu Ly và hoa Xa Cúc, mặc dù hai loài hoa này rất mê màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sỹ cứ khăng khăng rằng, với các anh chị nhà quê này thì màu xanh lá là hợp hơn cả.
Hoa Anh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sỹ và hoạ sỹ đã phóng tay phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm Chướng thì hết lời phỉnh nịnh hoạ sỹ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Hoạ sỹ lưu lại ở khu vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc khác nhau.
Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn. Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: "Màu gì cũng được!". Hoạ sỹ bèn bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói: "Tôi biết, tất cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích rực rỡ như nữ hoàng Hoa Hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng của từng loài hoa nữa!"
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời rất lịch thiệp. Ðối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa em gái bé bỏng, và chàng đã dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Ðinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách riêng của nó, nếu chàng không tiếc màu cho nó:
- Về mùa Xuân, chàng có thể bẻ cành của tôi và đem tặng người yêu của mình được đấy. - Tử Ðinh Hương nói - Cành của tôi càng được bẻ nhiều thì tôi càng khoe sắc lộng lẫy.
- Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng, - hoạ sỹ giận dỗi gạt Tử Ðinh Hương sang một bên. Nhưng rất may là nó đã được các chị gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sỹ một cốc Xmêtana (váng sữa).
Hoa Nhài chỉ biết tròn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu vàng, loại màu mà Nhài vốn yêu thích, cho Bồ Công Anh.
Trong lúc mải mê với màu vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
- Thế nào cô bạn? - Hoạ sỹ nhếch mép cười với Nhài - Thứ màu này còn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho tất.
- Ta không cần cầu xin. - Nhài đáp.
- Vậy là sao? - Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ sỹ bực mình - Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của mình thì mi hãy phục xuống đất, cho dù phải chịu còng lưng.
- Tôi thích õng ẹo chứ không muốn còng lưng! - Nhài kiêu hãnh đáp lại.
Hoạ sỹ vì quá tức giận đã trút tất cả màu vàng còn lại vào mặt Nhài và hét:
- Mi là cái thá gì mà không chịu cầu xin và hạ mình! Vậy vĩnh viễn với mi sẽ chỉ là màu trắng!
Vì thế Hoa Nhài mảnh dẻ vẫn mang những cánh trắng muốt mà chúng ta vẫn thấy ngày nay.
Sự tích Hoa Mộc Lan
(Magnolia)
Hoa mộc lan khát vọng sang
giàu
Trên đất Nhật, có nàng Keiko mồ côi mưu sinh bằng nghề làm hoa giấy. Nàng làm
việc suốt từ sáng đến tối mịt, hoa bán cũng được nhiều nhưng lãi chẳng đáng là
bao. Thế nên đã đến tuổi cập kề mà nàng vẫn chẳng thể tích cóp đủ để mua nổi
cho mình một bộ kimono làm dáng. Rồi đến một ngày, nàng biết được bí quyết hoa
giấy thành hoa thật nhờ vào việc tiếp tế cho chúng những giọt máu của chính
mình.
Hoa của Keiko trở nên đẹp một cách kỳ lạ và nàng làm không kịp bán. Keiko giàu lên nhanh chóng. Tiền đã giúp cô thay đổi thành một thiếu nữ xinh đẹp, điệu đà. Tiền đã đưa cô đến với vụ hội, gặp được người cô yêu. Người yêu của Keiko muốn rằng cô sẽ kiếm đủ tiền để mua cho cả hai một ngôi biệt thự. Để thực hiện ước mơ này, hoa tươi cần được bán nhiều hơn, Keiko bắt đầu lao động cật lực hơn và tất nhiên máu ở đầu ngón tay cô cũng phải chích nhiều hơn.
Rồi Keiko cũng mua được ngôi nhà nhưng rất nhỏ nên chẳng làm chồng nàng thỏa nguyện. Hoa tươi lại buộc phải bán nhiều hơn nữa. Nhiều mãi, nhiều mãi cho đến một ngày cuối cùng của nàng cũng bị vắt kiệt trước cái giá quá hời của một vị khách Pháp. Cây hoa với một bông đỏ thắm này đã biến giấc mơ sống trong biệt thự của người chồng ích kỷ thành sự thực, nhưng nó cũng lấy đi hơi thở cuối cùng của Keiko. Còn vị khách đặc biệt yêu thích hoa tươi của Keiko thì hân hoan mang nó về nước và trìu mến gọi nó là mộc lan. Từ đó, loài người cùng lúc có thêm một huyền thoại buồn và một loài hoa quý.
Hoa của Keiko trở nên đẹp một cách kỳ lạ và nàng làm không kịp bán. Keiko giàu lên nhanh chóng. Tiền đã giúp cô thay đổi thành một thiếu nữ xinh đẹp, điệu đà. Tiền đã đưa cô đến với vụ hội, gặp được người cô yêu. Người yêu của Keiko muốn rằng cô sẽ kiếm đủ tiền để mua cho cả hai một ngôi biệt thự. Để thực hiện ước mơ này, hoa tươi cần được bán nhiều hơn, Keiko bắt đầu lao động cật lực hơn và tất nhiên máu ở đầu ngón tay cô cũng phải chích nhiều hơn.
Rồi Keiko cũng mua được ngôi nhà nhưng rất nhỏ nên chẳng làm chồng nàng thỏa nguyện. Hoa tươi lại buộc phải bán nhiều hơn nữa. Nhiều mãi, nhiều mãi cho đến một ngày cuối cùng của nàng cũng bị vắt kiệt trước cái giá quá hời của một vị khách Pháp. Cây hoa với một bông đỏ thắm này đã biến giấc mơ sống trong biệt thự của người chồng ích kỷ thành sự thực, nhưng nó cũng lấy đi hơi thở cuối cùng của Keiko. Còn vị khách đặc biệt yêu thích hoa tươi của Keiko thì hân hoan mang nó về nước và trìu mến gọi nó là mộc lan. Từ đó, loài người cùng lúc có thêm một huyền thoại buồn và một loài hoa quý.
Hoa Lưu Ly (forget-me-not)
- Không đâu như Đà Lạt, mọc
thật nhiều một loài cây thân thảo, thật bình dị nhỏ nhoi. Hoa của nó màu tím,
màu trắng hoặc vàng. Hoa nở tỏa mùi hương ấm áp như mùi trái chín và bánh ngọt
hết sức gần gũi thân quen. Đấy là hoa Lưu ly, tiếng Anh gọi là forget me not có
nghĩa là: xin đừng quên tôi. Biết tên rồi thì không một ai là không chú ý đến
hoa. Hoa đã trở thành nguồn thơ, nguồn gợi cảm của bao người về tình bạn, tình
yêu nam nữ, tình cảm của anh em. Không ít người khi lặng nhìn những khóm hoa mọc
trên phiến thạch bên các bờ suối lại không thấy lòng mình bồi hồi xao xuyến nhớ
lại câu chuyện cắt nghĩa tên hoa.
- Các cô thiếu nữ thường gọi
tên hoa là " xin đừng quên em ", còn các chàng trai một mực khăng
khăng gọi Lưu ly là "xin đừng quên anh". Cho dù gọi hoa theo tên nào
thì đây cũng là một loại hoa luôn luôn gợi nhớ một niềm thương cảm mênh mông, một
kỷ niệm sâu xa thầm lặng không quên được.
Đây là chuyện kể về hoa :
ngày xửa ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Một sáng mùa xuân trời trong vời
vợi. Họ dắt nhau dạo chơi bên bờ một con suối, hoa Lưu ly mọc dày, cố vươn
cành, nghiêng mình soi bóng xuống dòng nước trong xanh. Trong khi chàng trai tần
ngần ngắm nhìn dòng thác đổ thì cô gái say sưa hái hoa. Cô choài người ra bờ suối
hái mấy nhành hoa đẹp, chẳng may nàng bị trượt chân ngã xuống suối bị dòng nước
cuốn trôi. Nàng cố hết sức ném lại nhành hoa có ý trao tặng người yêu và gọi với
"Xin đừng quên em".
- Câu chuyện cảm động này
mãi mãi gắn liền với tên hoa và luôn luôn được người đời nhắc nhở hay đây là
tên hoa gợi nguồn cảm hứng bất tận, và đôi khi không cần lòi nói chỉ cần trao
cho ai đó cành hoa này thì tự khắc người đó hiểu rằng...:XIN ĐỪNG QUÊN TÔI.
Sự tích hoa Linh Lan
(Còn được gọi Hoa Trái
Tim Tan Vỡ)
Thời xa xưa có một chàng Gù bất hạnh, sống đơn độc, không biết cha mẹ mình là
ai, anh em thân thuộc cũng không có, chẳng ai coi chàng là bạn. Đối với tình
yêu, chàng chỉ biết qua sách vở. Chàng mang máng hiểu rằng tình yêu cũng giống
như một hơi thở nhẹ luôn ve vuốt trái tim, hoặc như ngọn lửa thiêu cháy nó, rằng
tình yêu có thể nâng con người lên chín tầng mây, và cũng có thể quăng họ xuống
địa ngục.
Chàng Gù còn tin rằng dù là hơi thở nhẹ hay sức nóng của lửa cũng không thể làm lay chuyển được con tim đau đớn đang đập loạn lên của chàng.
Ai có thể đem lòng yêu một con người như vậy, một khi trên đời này còn có biết bao chàng trai tuấn tú và khôn ngoan khác? Vả lại, làm sao chàng có thể yêu được một người khác giới khi chàng mang trái tim như vậy trong lồng ngực? Không, trái tim chàng chỉ biết căm ghét, đố kỵ; đôi môi chàng chỉ quen mấp máy một số từ thô thiển; cặp mắt ti hí của chàng không nhìn rõ được, dù là một tia nắng dịu dàng hay một ánh trăng mỏng mảnh; đôi mắt ấy lúc nào cũng chỉ nhìn xuống và chỉ thấy toàn những thứ thối tha, nhơ nhuốc; cái mũi nhọn hoắt của chàng không thể phân biệt được những điều kỳ diệu trong hương thơm của các loài hoa, mà chỉ biết đánh hơi được mùi hôi thối của xác súc vật và lá cây rữa nát. Chàng bị người đời xem thường và xa lánh.
Thế rồi một hôm, thật tình cờ, chàng nhìn thấy công chúa Rôda(1) đang dạo chơi trên công viên.
Mọi người dừng lại, ngả mũ chào nàng, chỉ có chàng là cứ lóng nga lóng ngóng, cặp mắt hấp háy, không sao hiểu được trên đời này lại có thể có một người đẹp nhường kia. Cặp má hồng, đôi mắt nâu, đôi môi đỏ thắm cùng với tấm thân tròn lẳn tràn đầy sức sống của nàng, khiến những ai được gặp nàng cũng đều cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ nhõm. Nhiều cụ già đã vượt qua những chặng đường xa lắc, lắm chông gai để mong được gặp nàng, dù chỉ là một lần, và lúc ra về thấy đời như trẻ lại.
Rôda đáp lại sự ngưỡng mộ của mọi người bằng một nụ cười thật cởi mở và chân tình. Chỉ có một người không cất tiếng chào nàng, không ngả mũ, đó là chàng Gù gầy gò, xấu xí đứng bên vệ đường nheo mắt nhìn công chúa đang nhẹ nhàng bước. Đối với Rôda, đấy là cả một sự lạ và rất khác thường. Nàng bèn dừng lại và nhìn sâu và cặp mắt không mấy thiện chí của chàng Gù. Con người khốn khó này sao cô đơn và đáng thương làm vậy! Rôda cảm thấy thương chàng vô hạn, và đã ban tặng cho chàng nụ cười ấm áp nhất của mình.
Chỉ sau khoảnh khắc ấy thôi, cuộc đời chàng Gù bỗng thay đổi hẳn! Bây giờ, cặp mắt chàng luôn ngước nhìn lên, chàng đã thấy những bông hoa Tử Đinh Hương tím nhạt và trắng xoá khoe sắc màu sặc sỡ, những bông hoa Sơn Trà đỏ tươi đang nở hết cỡ, và những đám cây tuyệt diệu có những tán lá lung linh giọt mặt trời. Những hơi gió nhẹ đem theo những làn hương kỳ diệu cứ phả mãi vào mặt chàng! Và đây, ngay bên mép đường, những bông hoa tim tím đã mọc lên. Vì sao những bông hoa nhỏ xíu này lại có đủ sức cảm hoá làm vui lòng người qua đường như vậy?
Chàng Gù bối rối, không thể hiểu được vì sao cặp mắt nhìn cũng như đôi tai nghe của chàng lại thay đổi như vậy, và sao bỗng nhiên giờ đây chàng lại biết yêu vẻ đẹp của thế giới quanh chàng "Biết hỏi ai bây giờ" - Chàng tự hỏi.
- Hãy hỏi ta đây này! - trái tim đáp.
- Ôi, trái tim của ta, mi chỉ là kẻ bất hạnh, lúc nào cũng u tối như màn đêm vậy, mi có thể giải đáp được gì cho ta, chàng Gù cằn nhằn.
- Ta đang cảm thấy đời thật là vui, bởi lẽ lúc này, ta mới hiểu cái gì, đã khiến hoa phải nở, giục giã chim phải hót; ta hiểu rằng cái gì đã mở cặp mắt và tai nghe của chàng! - Trái tim điềm tĩnh nói.
- Vậy là cái gì? Hãy nói ta nghe chàng Gù dò hỏi.
- Cái đó là tình yêu. Tình yêu vừa dịu dàng vừa khắc nghiệt, vừa êm đềm vừa sóng gió, vừa ấm áp vừa dữ dội! Chính vì chàng đang yêu! Chàng đã yêu công chúa Rôda!
- Yêu công chúa Rôda ư? - Chàng Gù sợ hãi - Ta mà dám cả gan phải lòng công chúa Rôda!
- Ai có thể ngăn cấm chàng yêu công chúa Rôda được? - Trái tim tranh cãi với chàng - Sáng sáng, chàng hãy đến đây, như mọi người, chàng hãy chào nàng đi.
Chàng Gù nghe lời khuyên của chàng trái tim. Ngày lại ngày, chàng đến gặp Rôda, khi nàng đến gần, chàng cúi đầu xuống chào vẻ lịch thiệp. Nàng đi rồi, gương mặt chàng như được ve vuốt bởi một hơi thở nhẹ.
Và thời kỳ tuyệt diệu nhất trong đời chàng đã tới. Vì sao chàng lại có đủ sức mạnh để tàn đêm, tận ngày ngồi đập từng tảng đá? Vì sao chàng lại có thể cao giọng hát đua cùng Sơn Ca và Hoạ Mi? Chàng Gù không hiểu Sơn Ca và Hoạ Mi hót gì, còn chàng, chàng chỉ hát về Rôda, về sắc đẹp của nàng và về tình yêu của mình thôi.
Chàng Gù bất hạnh đâu hiểu được rằng, con bão bất thần có thể đổ sập xuống đầu chàng bất kỳ lúc nào! Quả nhiên, cơn bão đã bất thần ập đến thật. ấy là vào một buổi sáng, khi chàng tới công viên để được ngắm công chúa, để được hưởng không khí trong lành; chàng đã thấy thành phố được trang hoàng lộng lẫy, phố xá đông nghẹt những người. Người nào cũng mang nhạc cụ, chỉ có một cô gái nhỏ nhắn là cầm trên tay một cái chuông con: Cô gái ấy tên là Maia bất hạnh, chuyên nghề chăn súc vật. Nàng không tìm đâu được đàn bà và sáo, nàng đành lấy cái chuông trên cổ một con dê là nhạc cụ. Nàng muốn bộc lộ, niềm vui của mình trong ngày hội trang trọng này.
Lúc đó chàng Gù hỏi một người gặp trên đường xem thành phố được trang hoàng đẹp như vậy để đón mừng ai, và vì sao phố xá lại đông người đến thế.
Người qua đường đáp:
- Chàng từ đâu đến mà không biết hôm nay là ngày công chúa của chúng tôi sẽ đi lấy chồng?
- Công chúa ư? Công chúa nào? - Chàng Gù lúng túng lắp bắp.
- Chẳng nhẽ chàng không biết thành phố chúng tôi chỉ có một công chúa, đó là nàng Rôda sao?
Chàng Gù khuỵu ngay xuống đống đá lạnh lẽo, nhưng rồi chàng vụt đứng dậy, bởi vì chàng có cảm giác như vừa bị ngã vào một bếp lửa đang cháy hừng hực. Như kẻ bị bỏng lửa, chàng chạy như bay về phía công viên, nơi mà ngày nào chàng cũng được gặp Rôda.
- Rôda của ta! Rôda của ta!
Chàng vừa hét to vừa cảm thấy trái tim mình đang bốc lên một ngọn lửa hừng hực và những giọt nước mắt chảy thành suối trên hai gò má chàng cũng không thể dập tắt nổi.
Dân chúng hoan hỉ đón chào Công Chúa và Hoàng Tử xứ lạ; cặp trai tài gái sắc ấy đang ban phát cho đám thần dân của họ những nụ cười ấm áp. Say sưa với hạnh phúc, họ đâu có ngạc nhiên khi thấy một chàng Gù lách qua đám đông tới quỳ mọp dưới chân công chúa Rôda, miệng lảm nhảm cầu xin:
- Rôda ơi, em là của ta cơ mà! Hãy tống cỏ kẻ lạ mặt này đi và hãy theo ta!
- Thằng điên! Dân chúng hét to - Mi không biết thế nào là liêm sỉ khi xuất hiện trước mặt nàng công chúa Rôda trong bộ quần áo rách rưới thế kia ư?
- Ta đã tìm được người ta yêu.
- Tốt nhất là nên cầu hôn cái chổi ấy! Đám đông giận dữ đứng che lấp hẳn chàng Gù. Dù có răn đe, dù có nhạo báng cũng không làm chàng tỉnh lại được.
Ngọn lửa tình yêu đã khiến chàng dần trở nên mù quáng, mất hết lý trí. Chàng rút con dao găm từ trong vạt áo ra và đâm thẳng vào trái tim công chúa.
Mọi người cúi gằm mặt xuống, vẻ đau buồn. Khi ngước mắt lên, ai nấy đều ngạc nhiên trước một tiếng kêu sửng sốt. Từ mảnh đất thấm đầy máu, mọc lên một bông hoa thanh cao có những cái cánh nhỏ màu đỏ lửa toả hương thơm. Nhưng nếu ai cố tình chạm vào nó thì sẽ bị những cái gai sắc như mũi dao đâm vào tay đau nhói.
- Đây là Rôda của chúng ta, - Dân chúng bàn tán - ngay cả sau khi đã chết rồi, nàng vẫn gửi lại cho chúng ta niềm vui sáng láng.
Theo luật pháp xứ này, hung thủ giết người tình của mình chỉ về ghen tuông sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, do vậy chàng Gù phải lưu đày lên một vùng núi hẻo lánh, kéo theo sau là những cơn mưa đá và những lời nguyền rủa.
Từ đó không ai thấy chàng Gù nữa. Mãi đến mùa Xuân năm sau, Maia, cô gái chăn cừu nhỏ nhắn trong lúc đi tìm chú dê con bị lạc bầy, đã phát hiện dưới chân núi một trái tim bị nứt nẻ.
Cô gái bỗng nhớ tới chàng Gù bất hạnh đã chết vì tình yêu điên dại, nàng bèn cúi xuống trước trái tim ta vỡ và khóc nức nở, vì nàng cũng là kẻ đơn độc, không được yêu.
Chàng Gù còn tin rằng dù là hơi thở nhẹ hay sức nóng của lửa cũng không thể làm lay chuyển được con tim đau đớn đang đập loạn lên của chàng.
Ai có thể đem lòng yêu một con người như vậy, một khi trên đời này còn có biết bao chàng trai tuấn tú và khôn ngoan khác? Vả lại, làm sao chàng có thể yêu được một người khác giới khi chàng mang trái tim như vậy trong lồng ngực? Không, trái tim chàng chỉ biết căm ghét, đố kỵ; đôi môi chàng chỉ quen mấp máy một số từ thô thiển; cặp mắt ti hí của chàng không nhìn rõ được, dù là một tia nắng dịu dàng hay một ánh trăng mỏng mảnh; đôi mắt ấy lúc nào cũng chỉ nhìn xuống và chỉ thấy toàn những thứ thối tha, nhơ nhuốc; cái mũi nhọn hoắt của chàng không thể phân biệt được những điều kỳ diệu trong hương thơm của các loài hoa, mà chỉ biết đánh hơi được mùi hôi thối của xác súc vật và lá cây rữa nát. Chàng bị người đời xem thường và xa lánh.
Thế rồi một hôm, thật tình cờ, chàng nhìn thấy công chúa Rôda(1) đang dạo chơi trên công viên.
Mọi người dừng lại, ngả mũ chào nàng, chỉ có chàng là cứ lóng nga lóng ngóng, cặp mắt hấp háy, không sao hiểu được trên đời này lại có thể có một người đẹp nhường kia. Cặp má hồng, đôi mắt nâu, đôi môi đỏ thắm cùng với tấm thân tròn lẳn tràn đầy sức sống của nàng, khiến những ai được gặp nàng cũng đều cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ nhõm. Nhiều cụ già đã vượt qua những chặng đường xa lắc, lắm chông gai để mong được gặp nàng, dù chỉ là một lần, và lúc ra về thấy đời như trẻ lại.
Rôda đáp lại sự ngưỡng mộ của mọi người bằng một nụ cười thật cởi mở và chân tình. Chỉ có một người không cất tiếng chào nàng, không ngả mũ, đó là chàng Gù gầy gò, xấu xí đứng bên vệ đường nheo mắt nhìn công chúa đang nhẹ nhàng bước. Đối với Rôda, đấy là cả một sự lạ và rất khác thường. Nàng bèn dừng lại và nhìn sâu và cặp mắt không mấy thiện chí của chàng Gù. Con người khốn khó này sao cô đơn và đáng thương làm vậy! Rôda cảm thấy thương chàng vô hạn, và đã ban tặng cho chàng nụ cười ấm áp nhất của mình.
Chỉ sau khoảnh khắc ấy thôi, cuộc đời chàng Gù bỗng thay đổi hẳn! Bây giờ, cặp mắt chàng luôn ngước nhìn lên, chàng đã thấy những bông hoa Tử Đinh Hương tím nhạt và trắng xoá khoe sắc màu sặc sỡ, những bông hoa Sơn Trà đỏ tươi đang nở hết cỡ, và những đám cây tuyệt diệu có những tán lá lung linh giọt mặt trời. Những hơi gió nhẹ đem theo những làn hương kỳ diệu cứ phả mãi vào mặt chàng! Và đây, ngay bên mép đường, những bông hoa tim tím đã mọc lên. Vì sao những bông hoa nhỏ xíu này lại có đủ sức cảm hoá làm vui lòng người qua đường như vậy?
Chàng Gù bối rối, không thể hiểu được vì sao cặp mắt nhìn cũng như đôi tai nghe của chàng lại thay đổi như vậy, và sao bỗng nhiên giờ đây chàng lại biết yêu vẻ đẹp của thế giới quanh chàng "Biết hỏi ai bây giờ" - Chàng tự hỏi.
- Hãy hỏi ta đây này! - trái tim đáp.
- Ôi, trái tim của ta, mi chỉ là kẻ bất hạnh, lúc nào cũng u tối như màn đêm vậy, mi có thể giải đáp được gì cho ta, chàng Gù cằn nhằn.
- Ta đang cảm thấy đời thật là vui, bởi lẽ lúc này, ta mới hiểu cái gì, đã khiến hoa phải nở, giục giã chim phải hót; ta hiểu rằng cái gì đã mở cặp mắt và tai nghe của chàng! - Trái tim điềm tĩnh nói.
- Vậy là cái gì? Hãy nói ta nghe chàng Gù dò hỏi.
- Cái đó là tình yêu. Tình yêu vừa dịu dàng vừa khắc nghiệt, vừa êm đềm vừa sóng gió, vừa ấm áp vừa dữ dội! Chính vì chàng đang yêu! Chàng đã yêu công chúa Rôda!
- Yêu công chúa Rôda ư? - Chàng Gù sợ hãi - Ta mà dám cả gan phải lòng công chúa Rôda!
- Ai có thể ngăn cấm chàng yêu công chúa Rôda được? - Trái tim tranh cãi với chàng - Sáng sáng, chàng hãy đến đây, như mọi người, chàng hãy chào nàng đi.
Chàng Gù nghe lời khuyên của chàng trái tim. Ngày lại ngày, chàng đến gặp Rôda, khi nàng đến gần, chàng cúi đầu xuống chào vẻ lịch thiệp. Nàng đi rồi, gương mặt chàng như được ve vuốt bởi một hơi thở nhẹ.
Và thời kỳ tuyệt diệu nhất trong đời chàng đã tới. Vì sao chàng lại có đủ sức mạnh để tàn đêm, tận ngày ngồi đập từng tảng đá? Vì sao chàng lại có thể cao giọng hát đua cùng Sơn Ca và Hoạ Mi? Chàng Gù không hiểu Sơn Ca và Hoạ Mi hót gì, còn chàng, chàng chỉ hát về Rôda, về sắc đẹp của nàng và về tình yêu của mình thôi.
Chàng Gù bất hạnh đâu hiểu được rằng, con bão bất thần có thể đổ sập xuống đầu chàng bất kỳ lúc nào! Quả nhiên, cơn bão đã bất thần ập đến thật. ấy là vào một buổi sáng, khi chàng tới công viên để được ngắm công chúa, để được hưởng không khí trong lành; chàng đã thấy thành phố được trang hoàng lộng lẫy, phố xá đông nghẹt những người. Người nào cũng mang nhạc cụ, chỉ có một cô gái nhỏ nhắn là cầm trên tay một cái chuông con: Cô gái ấy tên là Maia bất hạnh, chuyên nghề chăn súc vật. Nàng không tìm đâu được đàn bà và sáo, nàng đành lấy cái chuông trên cổ một con dê là nhạc cụ. Nàng muốn bộc lộ, niềm vui của mình trong ngày hội trang trọng này.
Lúc đó chàng Gù hỏi một người gặp trên đường xem thành phố được trang hoàng đẹp như vậy để đón mừng ai, và vì sao phố xá lại đông người đến thế.
Người qua đường đáp:
- Chàng từ đâu đến mà không biết hôm nay là ngày công chúa của chúng tôi sẽ đi lấy chồng?
- Công chúa ư? Công chúa nào? - Chàng Gù lúng túng lắp bắp.
- Chẳng nhẽ chàng không biết thành phố chúng tôi chỉ có một công chúa, đó là nàng Rôda sao?
Chàng Gù khuỵu ngay xuống đống đá lạnh lẽo, nhưng rồi chàng vụt đứng dậy, bởi vì chàng có cảm giác như vừa bị ngã vào một bếp lửa đang cháy hừng hực. Như kẻ bị bỏng lửa, chàng chạy như bay về phía công viên, nơi mà ngày nào chàng cũng được gặp Rôda.
- Rôda của ta! Rôda của ta!
Chàng vừa hét to vừa cảm thấy trái tim mình đang bốc lên một ngọn lửa hừng hực và những giọt nước mắt chảy thành suối trên hai gò má chàng cũng không thể dập tắt nổi.
Dân chúng hoan hỉ đón chào Công Chúa và Hoàng Tử xứ lạ; cặp trai tài gái sắc ấy đang ban phát cho đám thần dân của họ những nụ cười ấm áp. Say sưa với hạnh phúc, họ đâu có ngạc nhiên khi thấy một chàng Gù lách qua đám đông tới quỳ mọp dưới chân công chúa Rôda, miệng lảm nhảm cầu xin:
- Rôda ơi, em là của ta cơ mà! Hãy tống cỏ kẻ lạ mặt này đi và hãy theo ta!
- Thằng điên! Dân chúng hét to - Mi không biết thế nào là liêm sỉ khi xuất hiện trước mặt nàng công chúa Rôda trong bộ quần áo rách rưới thế kia ư?
- Ta đã tìm được người ta yêu.
- Tốt nhất là nên cầu hôn cái chổi ấy! Đám đông giận dữ đứng che lấp hẳn chàng Gù. Dù có răn đe, dù có nhạo báng cũng không làm chàng tỉnh lại được.
Ngọn lửa tình yêu đã khiến chàng dần trở nên mù quáng, mất hết lý trí. Chàng rút con dao găm từ trong vạt áo ra và đâm thẳng vào trái tim công chúa.
Mọi người cúi gằm mặt xuống, vẻ đau buồn. Khi ngước mắt lên, ai nấy đều ngạc nhiên trước một tiếng kêu sửng sốt. Từ mảnh đất thấm đầy máu, mọc lên một bông hoa thanh cao có những cái cánh nhỏ màu đỏ lửa toả hương thơm. Nhưng nếu ai cố tình chạm vào nó thì sẽ bị những cái gai sắc như mũi dao đâm vào tay đau nhói.
- Đây là Rôda của chúng ta, - Dân chúng bàn tán - ngay cả sau khi đã chết rồi, nàng vẫn gửi lại cho chúng ta niềm vui sáng láng.
Theo luật pháp xứ này, hung thủ giết người tình của mình chỉ về ghen tuông sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, do vậy chàng Gù phải lưu đày lên một vùng núi hẻo lánh, kéo theo sau là những cơn mưa đá và những lời nguyền rủa.
Từ đó không ai thấy chàng Gù nữa. Mãi đến mùa Xuân năm sau, Maia, cô gái chăn cừu nhỏ nhắn trong lúc đi tìm chú dê con bị lạc bầy, đã phát hiện dưới chân núi một trái tim bị nứt nẻ.
Cô gái bỗng nhớ tới chàng Gù bất hạnh đã chết vì tình yêu điên dại, nàng bèn cúi xuống trước trái tim ta vỡ và khóc nức nở, vì nàng cũng là kẻ đơn độc, không được yêu.
Thật là kỳ lạ, những giọt nước mắt của Maia cứ thấm sâu vào tảng đá, và ngay trên chỗ đó mọc lên hai bông hoa, một bông có những cái cánh nho nhỏ màu hồng quấn quanh thân cành giống như những trái tim nhỏ xíu bị nứt nẻ; còn bông kia thì nở ra những cái chuông nhỏ màu trắng treo lửng lẳng trên cành hệt như những giọt nước mắt trong suốt.
Sau này, con người đã đem những bông hoa đó vào trồng trong vườn và gọi bông hoa màu hồng là hoa Trái Tim Tan Vỡ, còn bông hoa màu trắng là Hoa Linh Lan;
Sau này, con người đã đem những bông hoa đó vào trồng trong vườn và gọi bông hoa màu hồng là hoa Trái Tim Tan Vỡ, còn bông hoa màu trắng là Hoa Linh Lan;
SỰ TÍCH HOA LAY-ƠN
HOA CỎ - Xuyến Chi
Hoàng đế La Mã Bácbagalô ra lệnh treo cổ tất cả các tù nhân Phranki chỉ để lại
hai chàng trai khoẻ mạnh và đẹp nhất, đó là Têrét và Xép. Ông dẫn hai chàng về
La Mã và đưa vào trường đấu. HOA CỎ - Xuyến Chi
Hai chàng bị nỗi buồn nhớ quê hương, nỗi cay đắng vì mất tự do và thân phận nô lệ thấp hèn hành hạ khôn nguôi. Họ chỉ cầu xin Chúa một điều là được chết ngay tức khắc. Nhưng Chúa không bận tâm đến những lời thỉnh cầu của họ. Ngày lại ngày qua, hai chàng vẫn sống bình yên và khoẻ mạnh.
- Phải chăng Chúa đã sắp đặt cho chúng ta một số phận khác rồi - một hôm Têrét nói với Xép - và có thể những người này còn muốn dạy cho chúng ta bài học phải biết sử dụng thành thạo thanh gươm để rửa mối nhục cho dân tộc ta chăng?
- Nếu đến cả Chúa cũng không đủ sức che chở cho dân lành thì chúng ta làm điều đó sao được? - Xép thở dài nặng nề, nói với Têrét.
- Ta phải cầu xin nữ thần để bà nói cho chúng ta biết điều gì đang đợi chúng ta ở phía trước. - Têrét nói và được Xép đồng tình.
Một buổi sáng, Têrét kể cho Xép nghe về giấc mơ đêm qua của chàng, Têrét mơ thấy chàng cầm thanh gươm bước lên đấu đài, còn Xép cũng cầm thanh gươm bước ra thách đấu. Họ lúng túng nhìn nhau, còn đám đông la ó ầm ĩ đòi các chàng trai phải bắt đầu cuộc giao chiến. Trong khi không người nào vung gươm trước về phía bạn mình để gây chuyện bất hạnh cho nhau, bỗng một cô gái La Mã xinh đẹp chạy lại gần Têrét và nói: "Hãy giành chiến thắng, chàng sẽ được tự do và tình yêu của ta! Têrét vung gươm lên, nhưng ngay không khắc ấy, từ lòng đất vang lên một tiếng thét: "Hãy hành động theo trái tim!"
- Kìa, dường như em đã chứng kiến giấc mơ của ta! - Xép kinh ngạc thốt lên.
Trước lúc trời tối, khi đám bạn bè từ đấu trường trở về nhà hết, hai chàng bắt gặp cô gái La Mã dũng cảm, đó là ốctavia và Lêôcácđia, các con gái của Bácbagalô. Têrét và ốctavia, cả hai cùng không hẹn mà đưa mắt nhìn nhau. Họ không sao rời mắt khỏi nhau được nữa, vì vậy họ không hề biết giữa Xép và Lêôcácđia cũng đã xảy ra một chuyện tương tự như thế.
Tình yêu đâu phải lúc nào cũng mù quáng, mà trái lại rất sáng suốt, và những người yêu nhau bao giờ cũng tìm thấy lối thoát để được ở bên nhau, ngay cả khi giữa họ xuất hiện một vực thẳm giống như vực thẳm ngăn cách ngời chiến thắng và kẻ chiến bại. Ðã từ lâu, Bácbagalô không còn nghi ngờ gì về việc các con gái của ngài vẫn bí mật gặp gỡ hai tù nhân. Và ngài có ý chờ xem ốctavia cũng như Lêôcácđia có dám thú nhận tình yêu mù quáng của mình với Têrét và với Xép không. Bácbagalô rất hiểu tính nết cương trực của các con mình, ngài không nỡ bỏ tù chúng, không ngăn cấm được chúng gặp gỡ người tình một cách vội vã. Ngài chỉ báo cho các con biết rằng, sắp tới, hai tù nhân Têrét và Xép sẽ phi so gươm với nhau, và kẻ nào chiến thắng kẻ ấy sẽ được tự do. Bácbagalô khát máu hy vọng rằng hai đấu sĩ kia sẽ giáp chiến không phải vì cuộc sống mà là vì cái chết, và cả hai sẽ phải rời khỏi cõi đời này, chỉ có điều sự thật ấy thì ngời đến xem không thể thấy được.
Tất cả đều diễn ra như dự đoán của Bácbagalô. ốctavia khích lệ Têrét phải bằng mọi cách để giành được chiến thắng và chàng sẽ được tự do; Lêôcácđia cũng khích lệ Xép như vậy. Hai chị em bỗng dưng trở thành kẻ thù của nhau, vì người nào cũng muốn bảo vệ hạnh phúc của mình - hạnh phúc được đổi bằng nỗi bất hạnh của kẻ kia.
Ngày diễn ra trận đấu bắt đầu. Ðấu trường chật ních công chúng. Ngay ở hàng ghế thứ nhất, có Bácbagalô và các con gái.
Khi Têrét và Xép, mình trần như các chiến binh Phranki bước ra đấu đài, họ giơ cao các thanh gươm lấp loá và hô: "Những người đi tìm cái chết gửi lời chào em!" Lập tức đám đông reo hò vị bị kích động. ốctavia đa mắt khích lệ Têrét. Lêôcácđia dùng ngón tay cái dùi xuống thấp vừa chỉ vào Têrét vừa gật đầu với Xép.
Các đấu sĩ nâng gươm lên chuẩn bị giao chiến. Bầu không khí căng thẳng trùm lên đám khán giả, các cô gái thì chết giấc.
Nhưng đúng khoảng khắc mà Têrét xỉa gươm để đâm vào ngực Xép, bỗng anh nghe thấy tiếng trái tim mình thôi thúc.
- Hỡi chàng trai Phrăngkít Têrét, chàng sẽ trả lời thế nào trước người mẹ Tổ Quốc về việc chàng đã sát hại đứa con trai của bà?
Câu hỏi ấy cũng vang vọng trong trái tim của Xép, và cùng lúc đó hai đấu thủ đã lao vào ôm hôn nhau, khiến đám đông la ó phẫn nộ:
- Hai đứa phải chết!
ốctavia chồm lên hét:
- Têrét, hãy chiến đấu vì hạnh phúc của đôi ta!
Cũng những lời lẽ ấy, Lêôcácđia khích lệ Xép.
Têrét, sau khi vung gươm lên làm yên lòng khán giả, bèn ngẩng cao đầu một cách kiêu hãnh và nói:
-Các nguời có sức mạnh hơn, các người đã biến chúng ta thành nô lệ, nhưng các người đừng hòng buộc chúng ta phải làm những kẻ hèn hạ! Các người có thể giết chúng ta, song các người không phải là kẻ chiến thắng!
Dứt lời, chàng bèn cắm thanh gươm của mình xuống đất; Xép cũng làm như vậy.
Bácbagalô ra hiệu cho các chiến binh nổi loạn. Khi xác của Têrét và Xép được đưa ra khỏi đấu trường, một chuyện kỳ lạ đã xảy ra: những thanh gươm được cắm xuống đất cứ kêu leng keng, và ngay trên mảnh đất có hai thanh gươm ấy đã mọc lên những bông hoa. Những bông hoa người đời vẫn thường gọi: HOA LAY ƠN.
Sự tích hoa bất tử
Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, các loài cây cũng có hoa đẹp như bây giờ. Chỉ
có điều là đầu họ nhẵn nhụi không hề có một sợi tóc nào nên thường hay khóc thầm
vì xấu hổ. Một hôm, họ quyết định rủ nhau cùng đến thảo nguyên tìm gặp các nàng
tiên nhờ họ tạo cho một mái tóc. Các bà tiên tốt bụng đồng ý dệt cho người thì
một mái tóc ánh vàng, người thì một mái tóc màu đỏ rực, người thì một mái tóc đủ
bảy màu… Mấy cây hoa đó soi mình xuống dòng nước chiêm ngưỡng mái tóc đẹp của
mình và cảm thấy vô cùng sung sướng.
Có duy nhất một bông hoa nhỏ khiêm nhường kiên nhẫn chờ đợi đến lượt mình mà không hề tỏ ra sốt ruột vì phải xếp hàng sau cùng. Tuy nhiên, khi các loài hoa khác đã xong hết và chỉ còn một mình bông hoa nhỏ đó thôi thì các nàng tiên mệt quá không muốn làm tiếp nữa vì còn nhiều việc khác phải tiến hành. Bông hoa nhỏ cứ lẽo đẽo theo sau họ khóc lóc, van nài các nàng tiên giúp mình có một bộ tóc mà vẫn không được. Nàng rất xấu hổ vì chiếc đầu nhẵn thín, bóng nhẩy của mình. Còn các loài hoa khác thì lại cười nhạo và chế giễu nàng.
Đúng ngày hôm đó, Thượng Đế tổ chức buổi dạ hội trong lâu đài bằng vàng của ngài. Các hoàng tử, công chúa, các chàng kỵ sĩ, nhạc sĩ từ khắp nơi trên thế giới đều đến đông đủ. Các loài hoa cũng kiêu ngạo đến dự nhằm khoa khoang vẻ đẹp của họ. Họ tập hợp thành một hàng dài đến lâu đài. Hơn thế nữa, họ còn tẩm rất nhiều hương thơm khác nhau để thêm phần quyến rũ vì các nàng tiên vẫn chưa ban cho họ được hương thơm. Bông hoa nhỏ bé cũng đến hòa vào đám đông đó với hy vọng từ sâu thẳm trong lòng là chỉ cần chiêm ngưỡng buổi lễ hội đó qua kẻ cửa mà thôi chứ không hề dám sẽ tự giới thiệu với Thượng Đế trong bộ dạng trọc đầu như thế này.
Vào thời đó, có một cô gái làm mũ rơm ở cạnh lâu đài. Bố mẹ cô đã qua đời từ rất lâu để lại một mình cô sống đơn độc trên cõi đời. Vì quá thương nhớ cha mẹ nên cô bị ngã bệnh và trở nên rất yếu. Thậm chí, cô không thể một mình đi lấy nước từ các giếng gần đó. Thấy đoàn người đi qua nhà cô về phía lâu đài đông như trẩy hội, cô đứng bên cửa sổ và cầu xin họ:
- Xin mọi người hãy giúp tôi một chút, tôi đang cần một ít nước. Hãy giúp tôi, bù lại tôi sẽ tặng chiếc mũ rất đẹp đảm bảo sẽ làm cho mọi người thích thú, hài lòng.
Tuy nhiên, trong lòng họ giờ chỉ nghĩ đến việc là làm sao đến kịp buổi khiêu vũ nên chẳng hề để ý đến lời cầu xin của cô gái. Tất cả đều hối hả đi qua mặc cho cô cầu xin tha thiết. Cũng có người nghe thấy nhưng đều phớt lờ hoặc trả lời với vẻ rất lạnh nhạt:
- Chúng ta chẳng có thời gian đâu mà giúp ngươi. Ngươi không thấy là mọi người đang hối hả đến buổi vũ hội ư? Chúng ta cần cái mũ của ngươi để làm gì cơ chứ? Ngươi không thấy là chúng ta ai cũng có tóc rất đẹp hay sao?
Duy chỉ có bông hoa nhỏ là cảm thấy thương cô bé mồ côi yếu ớt. Nàng liền lấy nước mang về nhà cô gái. Cô bé mồ côi vô cùng xúc động trước lòng tốt của bông hoa nhỏ. Chưa hết, nàng còn giúp cô gái lên giường đi ngủ và dọn dẹp phòng cô thật sạch sẽ, gọn gàng. Nhìn cái đầu trụi tóc của bông hoa nhỏ, cô gái cất tiếng hỏi rụt rè:
- Tôi thấy nàng có vẻ gì đó rất buồn. Chuyện gì xảy ra với nàng vậy?
Và bông hoa nhỏ bắt đầu kể lại câu chuyện đáng buồn của mình cho cô gái. Rồi cô gái khích lệ bông hoa nhỏ cùng mình đi đến xem buổi dạ hội qua khe cửa lâu đài. Tuy nhiên, nàng cười vẻ buồn rầu và trả lời:
- Không thể được đâu. Cô hãy nhìn cái đầu của tôi đây này. Tôi đến chỉ làm trò cười cho mọi người thôi.
- Tôi sẽ giúp nàng – cô gái mồ cô quả quyết – nàng hãy đội chiếc mũ của tôi lên. Nó làm bằng rơm vàng tươi đấy. Chắc chắn nó sẽ rất hợp với nàng.
Bông hoa nhỏ nghe theo lời khuyên của cô gái rồi cảm ơn cô và đi đến lâu đài. Khung cảnh của lễ hội thật là tuyệt vời. Tất cả mọi người đều đẹp rực rỡ như những vì sao lung linh. Các chàng hoàng tử, kỵ sĩ nắm tay các cô gái xinh đẹp say sưa trong điệu nhảy nhịp nhàng. Tuy vậy, các loài hoa vẫn nổi trội lên bởi vẻ đẹp lộng lẫy của họ. Các chàng vũ công đắm đuổi trong những câu chuyện vui vẻ cùng các cô nàng hoa xinh tươi. Còn bông hoa nhỏ khiêm tốn ngồi vào một góc nhỏ chiêm ngưỡng mọi người khiêu vũ.
Bỗng lúc đó, hoàng tử Mùa Xuân bước vào trong chiếc áo khoác lung linh vẻ đẹp của mùa xuân. Tuy nhiên, vẫn không thể sánh kịp vẻ đẹp quyển rũ của các nàng hoa xinh tươi được. Rồi sau đó, Thượng Đế thông báo sự có mặt của hoàng tử Mùa Hè. Chàng xuất hiện trong trang phục lóng lánh ánh vàng và trán chàng hoàng tử thì sáng rực lên những tia nắng mặt trời. Các nàng hoa ngây ngất như bay lên chín tầng mây trước vẻ đẹp của hoàng tử Mùa Hè. Các chàng kỵ sĩ cũng ngây ngất không kém trước sự rực rỡ của hoàng tử.
Rồi bỗng nhiên, vua Mùa Thu xuất hiện đột ngột làm cho không khí vui tươi của lễ hội tan biến mất. Nhà vua Mùa Thu khoác trên mình tấm áo choàng kết bằng những làn mây xám xịt. Gió từ đâu bỗng thổi từng cơn giá lạnh. Mái tóc của vua Mùa Thu rối bời và xám xịt như những chiếc lá héo tàn. Rồi những cơn mưa kéo đến. Các nàng hoa kiêu ngạo lúc này ran sợ nép dưới cánh tay của các chàng kỵ sĩ. Mái tóc đẹp tuyệt vời của họ bỗng dưng héo tàn và rụng như lá mùa thu. Họ lúng túng bỏ chạy về phía cánh đồng, thảo nguyên và rừng rậm run rẩy mong mùa thu qua, mùa đông lại đến rồi mới đến mùa xuân, lúc mà các nàng tiên mới xuất hiện giúp họ sửa sang lại mái tóc. Chỉ có bông hoa nhỏ là vẫn giữ được chiếc mũ vàng rơm tươi của mình. Nàng trở nên đẹp nổi bật trước ánh mặt ngạc nhiên của các hoàng tử, kỵ sĩ. Và trong số đó, một chàng hoàng tử đẹp đem lòng yêu mến nàng. Thế là bông hoa nhỏ cùng hoàng tử tổ chức lễ cưới và sinh con đẻ cái. Con cái của họ cũng đẹp tuyệt vời.
Thấy vậy, những bông hoa cùng họ với nàng cũng tìm đến cô gái làm mũ rơm và xin cô tặng cho chiếc mũ rơm. Mỗi hoa đội trên đầu một kiểu mũ riêng. Từ đó trở đi, loài hoa này không bao giờ héo tàn, thậm chí ngay cả khi bị con người ngắt đi. Chính vì thế, người ta gọi loài hoa này là hoa bất tử. Cả bốn mùa trong năm, hoa bất tử đều đẹp rực rỡ không như các loài hoa khác
Có duy nhất một bông hoa nhỏ khiêm nhường kiên nhẫn chờ đợi đến lượt mình mà không hề tỏ ra sốt ruột vì phải xếp hàng sau cùng. Tuy nhiên, khi các loài hoa khác đã xong hết và chỉ còn một mình bông hoa nhỏ đó thôi thì các nàng tiên mệt quá không muốn làm tiếp nữa vì còn nhiều việc khác phải tiến hành. Bông hoa nhỏ cứ lẽo đẽo theo sau họ khóc lóc, van nài các nàng tiên giúp mình có một bộ tóc mà vẫn không được. Nàng rất xấu hổ vì chiếc đầu nhẵn thín, bóng nhẩy của mình. Còn các loài hoa khác thì lại cười nhạo và chế giễu nàng.
Đúng ngày hôm đó, Thượng Đế tổ chức buổi dạ hội trong lâu đài bằng vàng của ngài. Các hoàng tử, công chúa, các chàng kỵ sĩ, nhạc sĩ từ khắp nơi trên thế giới đều đến đông đủ. Các loài hoa cũng kiêu ngạo đến dự nhằm khoa khoang vẻ đẹp của họ. Họ tập hợp thành một hàng dài đến lâu đài. Hơn thế nữa, họ còn tẩm rất nhiều hương thơm khác nhau để thêm phần quyến rũ vì các nàng tiên vẫn chưa ban cho họ được hương thơm. Bông hoa nhỏ bé cũng đến hòa vào đám đông đó với hy vọng từ sâu thẳm trong lòng là chỉ cần chiêm ngưỡng buổi lễ hội đó qua kẻ cửa mà thôi chứ không hề dám sẽ tự giới thiệu với Thượng Đế trong bộ dạng trọc đầu như thế này.
Vào thời đó, có một cô gái làm mũ rơm ở cạnh lâu đài. Bố mẹ cô đã qua đời từ rất lâu để lại một mình cô sống đơn độc trên cõi đời. Vì quá thương nhớ cha mẹ nên cô bị ngã bệnh và trở nên rất yếu. Thậm chí, cô không thể một mình đi lấy nước từ các giếng gần đó. Thấy đoàn người đi qua nhà cô về phía lâu đài đông như trẩy hội, cô đứng bên cửa sổ và cầu xin họ:
- Xin mọi người hãy giúp tôi một chút, tôi đang cần một ít nước. Hãy giúp tôi, bù lại tôi sẽ tặng chiếc mũ rất đẹp đảm bảo sẽ làm cho mọi người thích thú, hài lòng.
Tuy nhiên, trong lòng họ giờ chỉ nghĩ đến việc là làm sao đến kịp buổi khiêu vũ nên chẳng hề để ý đến lời cầu xin của cô gái. Tất cả đều hối hả đi qua mặc cho cô cầu xin tha thiết. Cũng có người nghe thấy nhưng đều phớt lờ hoặc trả lời với vẻ rất lạnh nhạt:
- Chúng ta chẳng có thời gian đâu mà giúp ngươi. Ngươi không thấy là mọi người đang hối hả đến buổi vũ hội ư? Chúng ta cần cái mũ của ngươi để làm gì cơ chứ? Ngươi không thấy là chúng ta ai cũng có tóc rất đẹp hay sao?
Duy chỉ có bông hoa nhỏ là cảm thấy thương cô bé mồ côi yếu ớt. Nàng liền lấy nước mang về nhà cô gái. Cô bé mồ côi vô cùng xúc động trước lòng tốt của bông hoa nhỏ. Chưa hết, nàng còn giúp cô gái lên giường đi ngủ và dọn dẹp phòng cô thật sạch sẽ, gọn gàng. Nhìn cái đầu trụi tóc của bông hoa nhỏ, cô gái cất tiếng hỏi rụt rè:
- Tôi thấy nàng có vẻ gì đó rất buồn. Chuyện gì xảy ra với nàng vậy?
Và bông hoa nhỏ bắt đầu kể lại câu chuyện đáng buồn của mình cho cô gái. Rồi cô gái khích lệ bông hoa nhỏ cùng mình đi đến xem buổi dạ hội qua khe cửa lâu đài. Tuy nhiên, nàng cười vẻ buồn rầu và trả lời:
- Không thể được đâu. Cô hãy nhìn cái đầu của tôi đây này. Tôi đến chỉ làm trò cười cho mọi người thôi.
- Tôi sẽ giúp nàng – cô gái mồ cô quả quyết – nàng hãy đội chiếc mũ của tôi lên. Nó làm bằng rơm vàng tươi đấy. Chắc chắn nó sẽ rất hợp với nàng.
Bông hoa nhỏ nghe theo lời khuyên của cô gái rồi cảm ơn cô và đi đến lâu đài. Khung cảnh của lễ hội thật là tuyệt vời. Tất cả mọi người đều đẹp rực rỡ như những vì sao lung linh. Các chàng hoàng tử, kỵ sĩ nắm tay các cô gái xinh đẹp say sưa trong điệu nhảy nhịp nhàng. Tuy vậy, các loài hoa vẫn nổi trội lên bởi vẻ đẹp lộng lẫy của họ. Các chàng vũ công đắm đuổi trong những câu chuyện vui vẻ cùng các cô nàng hoa xinh tươi. Còn bông hoa nhỏ khiêm tốn ngồi vào một góc nhỏ chiêm ngưỡng mọi người khiêu vũ.
Bỗng lúc đó, hoàng tử Mùa Xuân bước vào trong chiếc áo khoác lung linh vẻ đẹp của mùa xuân. Tuy nhiên, vẫn không thể sánh kịp vẻ đẹp quyển rũ của các nàng hoa xinh tươi được. Rồi sau đó, Thượng Đế thông báo sự có mặt của hoàng tử Mùa Hè. Chàng xuất hiện trong trang phục lóng lánh ánh vàng và trán chàng hoàng tử thì sáng rực lên những tia nắng mặt trời. Các nàng hoa ngây ngất như bay lên chín tầng mây trước vẻ đẹp của hoàng tử Mùa Hè. Các chàng kỵ sĩ cũng ngây ngất không kém trước sự rực rỡ của hoàng tử.
Rồi bỗng nhiên, vua Mùa Thu xuất hiện đột ngột làm cho không khí vui tươi của lễ hội tan biến mất. Nhà vua Mùa Thu khoác trên mình tấm áo choàng kết bằng những làn mây xám xịt. Gió từ đâu bỗng thổi từng cơn giá lạnh. Mái tóc của vua Mùa Thu rối bời và xám xịt như những chiếc lá héo tàn. Rồi những cơn mưa kéo đến. Các nàng hoa kiêu ngạo lúc này ran sợ nép dưới cánh tay của các chàng kỵ sĩ. Mái tóc đẹp tuyệt vời của họ bỗng dưng héo tàn và rụng như lá mùa thu. Họ lúng túng bỏ chạy về phía cánh đồng, thảo nguyên và rừng rậm run rẩy mong mùa thu qua, mùa đông lại đến rồi mới đến mùa xuân, lúc mà các nàng tiên mới xuất hiện giúp họ sửa sang lại mái tóc. Chỉ có bông hoa nhỏ là vẫn giữ được chiếc mũ vàng rơm tươi của mình. Nàng trở nên đẹp nổi bật trước ánh mặt ngạc nhiên của các hoàng tử, kỵ sĩ. Và trong số đó, một chàng hoàng tử đẹp đem lòng yêu mến nàng. Thế là bông hoa nhỏ cùng hoàng tử tổ chức lễ cưới và sinh con đẻ cái. Con cái của họ cũng đẹp tuyệt vời.
Thấy vậy, những bông hoa cùng họ với nàng cũng tìm đến cô gái làm mũ rơm và xin cô tặng cho chiếc mũ rơm. Mỗi hoa đội trên đầu một kiểu mũ riêng. Từ đó trở đi, loài hoa này không bao giờ héo tàn, thậm chí ngay cả khi bị con người ngắt đi. Chính vì thế, người ta gọi loài hoa này là hoa bất tử. Cả bốn mùa trong năm, hoa bất tử đều đẹp rực rỡ không như các loài hoa khác
Sự tích Hoa Xương Rồng
Ngày xưa, ở một miền quê
nghèo, có gia đình nọ sống đầm ấm và yêu thương nhau. Hàng ngày người
cha vào rừng đốn củi, người mẹ ở nhà lo cơm nước, còn cô gái lo canh
cửi dệt lụa. Năm ấy trời nắng hạn, khắp nơi đồng ruộng khô cháy, mặt
đất nứt nẻ, xóm làng hoang vu. Không còn gì để ăn, cô con gái cùng
cha mẹ đi tha phương khắp nơi. Đói, khát đã vắt kiệt sức lực của
người mẹ và bà qua đời. Vì muốn có tiền lo ma chay cho mẹ, cô gái
bán mình làm nô lệ cho một gã lái buôn.
Lão lái buôn nảy ra ý nghĩ đem cô đến một kinh thành xa lạ, nơi có chợ buôn nô lệ nổi tiếng, hắn chắc rằng sẽ bán cô với một cái giá rất hời. Không muốn xa con gái, người cha xin gã lái buôn:
_Cho tôi đi theo với! Tôi còn sức khỏe, tôi có thể có ích cho chuyến đi!
Thấy ông cụ còn khá khỏe mạnh, gã lái buôn đồng ý ngay.
_Được, ngươi sẽ lo việc ăn uống cho bọn nô lệ và chăm sóc lũ lạc đà.
Cuộc hành trình rất dài, qua bao đường đất gập ghềnh, bao đất nước xa lạ với những tập tục mà họ chưa từng thấy bao giờ. Rồi đoàn lữ hành tiến vào sa mạc. Khí hậu nơi đây thật khắc nghiệt, ban ngày thì mặt trời rừng rực cháy cứ như muốn nấu mọi vật tan chảy ra, ban đêm thì khí lạnh khủng khiếp bao trùm như muốn đóng băng tất cả. Không chống chọi nổi với sức mạnh của thiên nhiên, người cha lâm bệnh nặng. Gã lái buôn nhẫn tâm ra lệnh để ông cụ ở lại:
_ Ném hắn đi, hắn vô ích rồi!
Xin đừng bỏ rơi cha tôi
Lão lái buôn nảy ra ý nghĩ đem cô đến một kinh thành xa lạ, nơi có chợ buôn nô lệ nổi tiếng, hắn chắc rằng sẽ bán cô với một cái giá rất hời. Không muốn xa con gái, người cha xin gã lái buôn:
_Cho tôi đi theo với! Tôi còn sức khỏe, tôi có thể có ích cho chuyến đi!
Thấy ông cụ còn khá khỏe mạnh, gã lái buôn đồng ý ngay.
_Được, ngươi sẽ lo việc ăn uống cho bọn nô lệ và chăm sóc lũ lạc đà.
Cuộc hành trình rất dài, qua bao đường đất gập ghềnh, bao đất nước xa lạ với những tập tục mà họ chưa từng thấy bao giờ. Rồi đoàn lữ hành tiến vào sa mạc. Khí hậu nơi đây thật khắc nghiệt, ban ngày thì mặt trời rừng rực cháy cứ như muốn nấu mọi vật tan chảy ra, ban đêm thì khí lạnh khủng khiếp bao trùm như muốn đóng băng tất cả. Không chống chọi nổi với sức mạnh của thiên nhiên, người cha lâm bệnh nặng. Gã lái buôn nhẫn tâm ra lệnh để ông cụ ở lại:
_ Ném hắn đi, hắn vô ích rồi!
Xin đừng bỏ rơi cha tôi
_cô gái quỳ sụp xuống
Mặc cho cô gái kêu gào, gã lái buôn cho người xốc cô lên lưng lạc đà. Đoàn buôn đi xa dần,chỉ còn ông cụ kiệt sức nằm trên cát.
Một ngày trôi qua, đoàn buôn tiếp tục tiến sâu vào sa mạc. Bỗng trước mắt họ, một tòa thành cổ dần dần hiện ra sau lớp sương khói mờ ảo.
_Quái,ta đã qua lại sa mạc này bao nhiêu lần,làm gì có tòa thành này?
Gã lái buôn cẩn thận cho đoàn dừng lại đằng xa rồi cử người lại gần xem xét. Bỗng đâu bão cát nổi lên, bụi mịt mù phủ khắp nơi. Quá bất ngờ, cả đoàn buôn không kịp chạy trốn và bị chôn vùi trong biển cát sa mạc mênh mông. Riêng cô gái lại không hề hấn gì. Cô thấy một thanh niên cao lớn khác thường đang tiến đến.
_Nàng thật là xinh đẹp. Hãy làm vợ ta và trở thành hoàng hậu của thành phố này!
_Thưa ngài đáng kính, ngài chắc là một vị thần đầy quyền uy đã động lòng thương, xin giải thoát tôi khỏi tay bọn buôn nô lệ. Xin hãy cho tôi được đi tìm cha, tôi không thể bỏ ông trong lúc này.
_Không được, giờ thì nàng là của ta.
Nói xong, gã lắc mình hóa thành một con rắn hổ mang khổng lồ.
Rắn giam cô gái vào ngục chờ ngày tấn phong làm hoàng hậu. Mòn mỏi nhớ thương cha, cô gái khóc mãi từ ngày này qua ngày khác, đến lúc nước mắt cạn khô, cô gục xuống, ngất lịm. Kì lạ thay, những giọt nước mắt của cô len lỏi qua khe cửa nhà ngục, hóa thành một dòng suối nhỏ. Dòng suối lặng lẽ băng qua sa mạc, tìm đến chỗ người cha đang nằm. Nhờ dòng suối ấy mà người cha già dần dần hồi sinh. Nhưng nỗi nhớ thương con dày vò, ông cụ lại ra đi tìm con gái. Ông đi,đi mãi rồi mất hút trong sa mạc thăm thẳm. Gục ngã vì đói khát, ông hóa thân thành cây xương rồng khẳng khiu trân mình chịu đựng cát nóng dữ dôi của sa mạc. Cây xương rồng cứ đứng im lìm từ bấy đến nay, như bóng dáng của người cha đang khắc khoải chờ đợi đứa con gái yêu thương trở về.
Mặc cho cô gái kêu gào, gã lái buôn cho người xốc cô lên lưng lạc đà. Đoàn buôn đi xa dần,chỉ còn ông cụ kiệt sức nằm trên cát.
Một ngày trôi qua, đoàn buôn tiếp tục tiến sâu vào sa mạc. Bỗng trước mắt họ, một tòa thành cổ dần dần hiện ra sau lớp sương khói mờ ảo.
_Quái,ta đã qua lại sa mạc này bao nhiêu lần,làm gì có tòa thành này?
Gã lái buôn cẩn thận cho đoàn dừng lại đằng xa rồi cử người lại gần xem xét. Bỗng đâu bão cát nổi lên, bụi mịt mù phủ khắp nơi. Quá bất ngờ, cả đoàn buôn không kịp chạy trốn và bị chôn vùi trong biển cát sa mạc mênh mông. Riêng cô gái lại không hề hấn gì. Cô thấy một thanh niên cao lớn khác thường đang tiến đến.
_Nàng thật là xinh đẹp. Hãy làm vợ ta và trở thành hoàng hậu của thành phố này!
_Thưa ngài đáng kính, ngài chắc là một vị thần đầy quyền uy đã động lòng thương, xin giải thoát tôi khỏi tay bọn buôn nô lệ. Xin hãy cho tôi được đi tìm cha, tôi không thể bỏ ông trong lúc này.
_Không được, giờ thì nàng là của ta.
Nói xong, gã lắc mình hóa thành một con rắn hổ mang khổng lồ.
Rắn giam cô gái vào ngục chờ ngày tấn phong làm hoàng hậu. Mòn mỏi nhớ thương cha, cô gái khóc mãi từ ngày này qua ngày khác, đến lúc nước mắt cạn khô, cô gục xuống, ngất lịm. Kì lạ thay, những giọt nước mắt của cô len lỏi qua khe cửa nhà ngục, hóa thành một dòng suối nhỏ. Dòng suối lặng lẽ băng qua sa mạc, tìm đến chỗ người cha đang nằm. Nhờ dòng suối ấy mà người cha già dần dần hồi sinh. Nhưng nỗi nhớ thương con dày vò, ông cụ lại ra đi tìm con gái. Ông đi,đi mãi rồi mất hút trong sa mạc thăm thẳm. Gục ngã vì đói khát, ông hóa thân thành cây xương rồng khẳng khiu trân mình chịu đựng cát nóng dữ dôi của sa mạc. Cây xương rồng cứ đứng im lìm từ bấy đến nay, như bóng dáng của người cha đang khắc khoải chờ đợi đứa con gái yêu thương trở về.
Truyền thuyết hoa Tigôn
Theo truyền thuyết Oedipus Rex cho rằng Cadmus, người lập thành phố Athens, tức
giận thần Apollo nên giết chết vị thần rắn. Thần Apollo tức giận nên có lời
nguyền, dân Athens sẽ bị bệnh dịch cứ mười năm sẽ có một trân dịch lớn, giết hại
ngàn người.Cho đến ngày kia những đứa con của Camuds sẽ mắc vào lời nguyền nếu Laius (vua Thebes sau này) và vợ Jocasta khi nào sinh ra một đứa con mà chân có bớt đỏ màu máu thì chính đứa bé này ngày kia sẽ giết cha, rồi kết hôn với mẹ.
Vua Athens, Laius, sau khi nghe tin vợ mình, Jocasta, sanh một bé trai khỏe mạnh, gót chân bé có một màu đỏ máu, trước rất vua mừng, nhưng chợt nhớ đến lời nguyền truyền kiếp trăm năm trước nên vua lo sợ sai tên hầu cận, đêm khuya phải đem đứa bé lên núi cao mà giết nó, rồi đem trái tim nó về trình diện cho ta.
Người hầu cân nghe lời, nửa đêm đợi hoàng hậu ngủ yên, tên này mới bồng đứa bé, rồi cưỡi ngựa chạy về dãy núi cao. Dãy núi cao đó tên là Mt. Cithaeron. Đứa bé sơ sanh ngủ ngon lành, tên hầu cận không nỡ giết, nên giao bé cho một kẻ chăn cừu trên triền núi Cithaeron, rồi đem một trái tim cừu về trình diện vua Laius. Thấy trái tim con mình, vua Lauis bật khóc, nhưng làm sao hơn được.
Tên chăn cừu ôm đứa bé, xuống làng chân núi mà xin sữa cho bé, bé không chịu uống sữa cừu. Gõ ngay cửa nhà, người đàn bà ra mở cửa, thấy bé dễ thương nên cho tiền tên chăn cừu mà mua đứa bé cho mình. Merope, vợ vua Polybus (vua xứ Corynth) đặt tên bé là Oedipus Rex (Oedipus nghĩa là gót chân đỏ hay gót chân sưng danh từ Hy Lạp cổ xưa). Đứa bé lớn lên khỏe mạnh, làu thông võ nghệ, chân tay chắc nịch, gươm giáo, tên nỏ chàng làu thông.
Ngày kia lên trên đền thờ Delphi, thì chàng gặp một giáo sĩ tiên tri Pythia lập lại lời nguyền của Apollo là Oedipus sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Oedipus kinh hoàng, nên bỏ xứ Corynth mà trốn đi xa. Trên con đường rong ruổi, chàng thấy một cỗ xe ngựa chạy vùn vụt đến, trên xe có 2 người, chưa kịp tránh thì bánh xe ngựa cán ngang chân chàng trai, tên lái xe lại vụt Oedipus một roi vào mặt rồi cười khoái trá. Oedipus tức giận, dù chân bị thương nhưng chàng vẫn rượt kịp chiếc xe ngựa.
Giải quyết xong, Oedipus hướng về thành Athens. Lúc này dân trong thành đang cực kỳ hoảng hốt, vì thành Athens đang bị bệnh dịch. Cứ 10 năm thì đáo trở lại không ai trị được bệnh dịch này. Đồng thời kèm bệnh dịch thì có thêm một hung thần Sphinx (đầu người mình sư tử), xuất hiện mai chỗ này mốt chỗ kia. Hung thần này hay ăn thịt người. Trước khi ăn thịt thì thần Sphinx hỏi nạn nhân một câu: “Con vật gì mà ban mai thì đi bốn chân, trưa thì hai chân, chiều tối thì ba chân?” Nếu trả lời được, thì lời nguyền sẽ được tan biến theo hình ảnh của hung thần Sphinx. Dân chúng xứ Thebans không một ai trả lời được.
Cùng lúc đó, vua láng giềng Damasistratus được lính báo rằng vua Laius bị kẻ lạ mặt giết chết trên con đường về thành Delphi. Như vậy hoàng hậu Jocasta trở thành góa bụa rồi. Vua ban chiếu khắp xứ Creon, luôn thành Athens, nếu ai mà giết được hung thần Sphinx thì nhà vua sẽ chia nửa giang sơn cho người đó, và gả em gái mình là Jocasta cho người đó. Hung thần Sphinx rất dễ giết nếu giải được câu hỏi mà hung thần hỏi trước khi bị giết thì thần Sphinx sẽ bị biến hình bốc hơi mất lên cung đình Zeus. Phần thưởng được dán khắp ngã tư đường, từ mọi ngã đường về thành phố Athens. Dân Thebans càng lúc càng chết nhiều hơn và hung thần Sphinx xuất hiện thường xuyên hơn nữa. Dân xứ Creon kinh hoàng, thành phố Athens trở nên hoang vắng. Không một ai dám ra khỏi nhà khi màn đêm kéo đến.
Oedipus không biết chuyện này, chàng trai trẻ đi đến cổng thành Athens thì thấy bảng treo của vua láng giềng Damasistratus cho ai giải được câu hỏi của thần Sphinx thì sẽ cưới được em gái vua tên là Jocasta, rồi được chia nửa giang sơn Creon cho.
Thình lình hung thần đầu người mình sư tử Sphinx hiện ra, trước khi xé xác chàng trai lạ mặt, thần đưa câu hỏi kết thệ (riddle) như lần trước: “Vật gì mà ban mai đi bốn chân, trưa đến thì đi hai chân, chiều về thì đi ba chân?” Chàng trai Oedipus Rex không do dự trả lời liền: “Đó là con người. Lúc ấu thơ thì bò bằng bốn chân, khi lớn thì đi bằng hai chân, về già với cây gậy thì đi bằng ba chân.” Lời thệ nguyện (riddle) được giải lập tức hung thần Sphinx rùng mình biến hình, rồi bốc hơi tan mất trước hàng ngàn cặp mắt sợ sệt dân thành Athens. Bệnh dịch lập tức không còn nữa.
Giữ lời hứa, vua Damasistratus làm lễ thành hôn Jocasta, em gái mình cho chàng trai trẻ phương xa đến. Toàn dân hoan hỉ, hoàng hậu Jocasta xinh đẹp cũng nguôi ngoai tang lòng ngày xưa. Chàng trai làm vua được hai chục năm, thì biết được tin vua trước mình là Laius bị kẻ lạ mặt giết chết, hung thủ không tìm ra. Vua Oedipus Rex bèn treo giải thưởng cho toàn dân tìm cho ra hung thủ giết vua Laius. Oedipus và Jocasta có 4 người con, tên là Antigone, Ismene, Eteocles và Polyneices. Riêng người con gái Antigone trẻ nhất, xinh đẹp và rất có hiếu với cha mẹ.
Ngày kia, tin dữ dưa đến. Người hầu cận ngày xưa của vua Laius, người mà được lệnh vua đem đứa bé có gót chân đỏ vào núi rừng giết chết. Hầu cận này tình cớ thấy gót chân vua, khi vua bước qua một tảng đá cuội trên dòng suối cạn. Hầu cận này đã già, nhưng vẫn nhớ chuyện ngày xưa. Vua Oedipus nghe được chuyện, biết chính mình là kẻ đã giết cha ruột. Vua Oedipus nghe được câu chuyện ngày xưa của mình. Về cung điện, bỏ ăn bỏ ngủ ba ngày đêm liên tiếp. Chuyện kinh hoàng không thể nói nên lời.
Ngày kia, vua Oedipus không chịu nỗi cắn rứt lương tâm, không muốn thấy Jocasta, Antigone, Ismene, Eteocles. Vua Oedipus Rex bèn dùng tay móc cặp mắt của mình. Trọn đời mù lòa. Ông bỏ cung điện mà lang thang trong rừng sâu núi thẳm. Cô gái xinh đẹp nhất, Antigone thương cha mình tự dưng nổi điên mà tự làm đui mù, nên Antigone khóc nức nở mà chạy theo cha vào rừng sâu núi thẳm. Một lòng hiếu thảo vô biên, nhưng cô không hiểu tại sao cha mình, từ khi đui mù thì lại tìm cách xa lánh, không muốn nói chuyện gì với cô hết, ngày đêm than khóc mà thôi.
Cho tới ngày kia vua Oedipus chết héo rủ trong một ngôi đền Eumenides ở Colone. Chôn cất cha xong, Antigone trở về Athens. Antigone bị bắt, rồi Thượng hội Đồng kết án tử nàng. Bắt giam sống trong ngôi nhà mồ của dòng họ. Cửa nhà mồ bị bít kín, ngày đêm dưới mộ sâu, Antigone chiu không nỗi thảm cảnh xảy ra liên tiếp cho đời mình. Antigone đành quyên sinh. Dân làng sau đó lập một ngôi mộ mới chôn nàng. Nhưng tại ngôi mộ của cô gái đầy lòng hiếu thảo với cha, lòng thương anh và mẹ, có một loài hoa lạ mọc trên ngôi mộ của mình. Dân thành Athenes không dám gọi thẳng là tên Antigone, mà người ta gọi tắt là hoa Tigone.
Người ta cho rằng hoa tulip xuất xứ là một loài hoa dại từ một vùng đất có tên gọi
Persia ở Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1562 các củ tulip cập bến Hà Lan tại Antwerp. Cho đến
trước khi bước sang thế kỉ 17, hoa tulip vẫn là rất hiếm ở Hà Lan và chỉ có tầng
lớp thượng lưu giàu có mới có đủ tiền để mua, do vậy tulip trở thành biểu tượng
của sự giàu có. Tuy nhiên đến cuối những năm 1620 việc mua bán hoa tulip trở
thành một hoạt động của các tay lái buôn thời bấy giờ, và chứng cuồng tulip đã
xuât hiện. Thương mại tulip gặp khủng hoảng vào 1637 và đẩy Hà Lan vào tình trạng
tài chính kiệt quệ. Sau khi chính phủ HL ra quyết định nghiêm khắc về việc trồng
và bán, tulip trở thành biểu tượng của HL cho tới bây giờ.
Quan niệm và biểu tượng: Huyền thoại phương Đông kể rằng có một chàng trai người Persian tên gọi là Ferhad đem lòng yêu một thiếu nữ tên gọi Shirin. Khi nàng không chấp nhận những tình cảm mà chàng dành cho mình, người con trai bất hạnh đã bỏ đi vào giữa sa mạc tìm đến cái chết khi trái tim tan vỡ. Những giọt nước mắt của chàng như ước muốn của người khi rơi xuống cát đã hóa thành một bông hoa tulip tuyệt đẹp.
Đối với người Persian, hoa tulip là một lời đề nghị của người con trai trẻ với người trong mộng. Bằng cách tặng một bông hoa tulip, anh ấy muốn nói rằng "giống như màu đỏ của bông hoa, bên trong anh ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy".
Công chúa và hoa tulíp
Ngày xửa ngày xưa, có một nàng công chúa ở vương quốc hoa Tulip,bị bắt buộc phải chạy trốn khỏi quê hương vì chiến tranh. Nàng công chúa vượt qua một đại dương với các con của mình và tìm được mộ nơi an tòan ở miền đất tuyết phủ. Trong nhiều năm chiến tranh diễn ra một cách khốc liệt. cuối cùng cuộc chiến kết thúc và vương quốc hoa Tulip được tự do. Nàng công chúa và các con của nàng có thể trở về nhà để sống trong an bình.
Sau khi về nước, nàng công chúa không quên miền đất và dân tộc đã giúp đỡ trong cuộc chiến giải phóng quê hương của nàng.Nàng muốn cảm ơn họ. Nhưng đất nước của nàng nhỏ bé và đã chịu đựng nhiều đau khổ vì chiến tranh. Nàng chẳng biết có của gì quí giá để bày tỏ lòng biết ơn của nàng?
Của quý giá nàng trao tặng là những bông hoa tulip, hàng ngàn củ tulip sẽ trổ hoa khi tuyết của những mùa đông dài tan đi. Hàng năm những bông hoa đẹp đẽ này là dấu hiệu báo mùa xuân đã đến làm vui sướng trong lòng những người xem hoa.
Chuyện này có vẻ giống như chuyện thần tiên phải không?
Nhưng đó là một câu chuyện có thật. Hà Lan là tên thật của vương quốc hoa Tulip và miền đất tuyết phủ là cái tên được đặt cho Canada.
Nàng công chúa đó là công chúa Juliana. Nước Hà Lan bị xâm lược trong thế chiến thứ II đã buộc nàng công chúa và gia đìng nàng phải rời bỏ xứ sở. Vào tháng 6 năm 1940, công chúa đưa hai con gái nhỏ của nàng tới một nơi bình yên ở Canada. Họ sống tại Ottawa ,thủ đô của Canada, cho đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945.
Vào ngày 19 tháng giêng năm 1943, công chúa Juliana sinh hạ người con gái thứ ba mà nàng đặt tên là Margriet. Khi đó một phần nhỏ lãnh thổ của Canada trở thành một phần nhỏ lãnh thổ của Hà Lan. Phòng sanh ở bệnh viện Nhân Dân Ottawa tạm thời trở thành lãnh thổ của Hà Lan , cho phép công chúa Margeriet được sinh ra là một công dân Hà Lan.
Sau chiến tranh hòang gia Hà Lan gởi 100.000 củ Tulíp đến Ottawa để cảm ơn Canada đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải phóng Hà Lan. Công chúa Juliana tặng riêng 20.000 củ Tulip khác để cảm ơn Canada.
Từ đó, hàng năm Hà Lan tiếp tục gửi 20.000 củ Tulip đến Ottawa làm quà tặng .Hiện giờ có khỏang 5 triệu cây tulip trổ hoa ở đó vào mỗi mùa xuân. nhiều người từ khắp thế giới đến tham quan Ottawa để dự lễ hội hoa Tulip hàng năm của Canada.
Thông điệp của màu sắc:
Đa phần Tulip được xem là một lời tỏ tình,
một món quà từ một "người tình
hoàn hảo".
Hoa tulip có nhiều đốm màu được
dành cho "Những đôi mắt đẹp".
Hoa tulip đỏ biểu lộ một tình yêu không thể cưỡng lại được
Hoa tulip vàng nghĩa là một tình yêu
vô vọng và chẳng có một cơ hội cứu vãn
nào.
Truyền thuyết hoa Violet
Hoa Violet mang màu tím thủy
chung
Ở một tỉnh miền nam nước Pháp, nơi có những cánh đồng cỏ xanh rì như những dải
lụa xanh thăm thẳm, lóng lánh trong ánh nắng là những dòng suối trong veo, những
thảm hoa tươi thắm sặc sỡ màu sắc của sự phồn vinh, những đàn bò thản nhiên gặm
cỏ, từng đàn gia súc chen chúc nhau, nơi đó có một trang trại rộng xa ngút ngàn
của một vị Bá Tước đầy quyền uy và giàu cóÔng ta có tất cả mọi thứ quí giá nhất trên đời, nhưng điều mà ông ta hãnh diện nhất đó chính là cậu con trai duy nhất. Cậu chủ Anfaret là một chàng trai thật tuyệt vời, rất đẹp trai, thông minh, hào hoa phong nhã và rất tài hoa. Chàng có sức hút rất mãnh liệt với tất cả các cô gái con nhà quí tộc trong vùng, chàng là niềm tự hào của cả dòng tộc. Cuộc sống bình yên trôi qua, cho đến một ngày xuất hiện cô gái làm vườn mới, tên nàng là Violeta.
Violeta là một cô gái con nhà nghèo, nhà nàng nghèo nhất trong vùng, thuộc tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội lúc bấy giờ. Nàng không có một sắc đẹp lộng lẫy nhưng vẻ hiền dịu trong trắng thanh thoát thơ ngây toát ra từ gương mặt dịu dàng như Đức mẹ của nàng đã khiến cả khu vườn như bừng sáng, khu vườn nhờ có bàn tay nàng càng rực rỡ sắc hoa. Và cũng chính gương mặt như thiên thần ấy đã làm cho trái tim chàng Anfaret rung động và tình yêu đã đến. Vượt qua khoảng cách giai cấp, họ đến với nhau thật nồng nàn say đắm, nhưng vào thời đó sự khác biệt giai cấp đã gây ra bao mối tình, không ai chấp nhận mối tình ấy và rồi tình yêu đó đã đến tai cha mẹ chàng, sóng gió bắt đầu nổi lên cho đôi bạn trẻ.
Cha chàng trai đã nổi trận lôi đình, ông cảm thấy thật nhục nhã và ra sức ngăn cản tình yêu của họ, mẹ chàng thì ngày càng căm ghét ra sức hành hạ nàng Violet, nhưng nàng vẫn cắn răng chịu đựng tất cả. Nhưng lẽ đời vốn vậy, tình yêu càng ngăn cản thì càng trở nên nồng thắm, gắn bó hơn. Họ vẫn lén lút gặp nhau, vẫn trao cho nhau những nụ hôn những vòng tay nồng ấm, dường như mọi thứ không thể ngăn cản được tình yêu của đôi bạn trẻ. Rồi một hôm cha mẹ chàng cũng phát hiện ra và trận bão phẫn nộ xoáy trút lên người nàng Violeta . Ông ta nhốt Anfaret vào phòng rồi cho gọi Violetta đến, sau một trận đòn ông ta tuyên bố nếu nàng vẫn còn tiếp tục gặp Anfaret thì ông ta sẽ đuổi nàng ra khỏi nhà. Ông không thể chấp nhận một người thuộc tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội như nàng trong nhà được, nếu nàng yêu Anfaret thì hãy rời xa chàng, vì nếu không chính nàng sẽ cản trở tương lai của chàng, nếu yêu nàng chàng Anfaret sẽ mất tất cả, sẽ không còn địa vị danh dự trong xã hội, ông ta còn đe doạ sẽ bắt mẹ nàng để làm áp lực. Biết là dù có khóc lóc van xin cũng vô ích trước sự sắc đá của Bá tước, vì tình yêu nồng thắm với Anfaret, vì lòng hiếu thảo, Violeta cuối đầu chấp thuận từ đó nàng bắt đầu xa lánh Anfaret…
Nhưng Anfaret là một chàng trai kiên định, chàng không vì thế mà khuất phục… Chàng vẫn tìm đến Violeta dù nàng cố tình tránh mặt. Ngày qua ngay cha mẹ chàng rất tức giận, Bá tước cố tìm mọi cách ngăn cản họ, nhưng vẫn bất lực. Cuối cùng, một hôm ông ta đã nghĩ ra một cách, bèn gọi Anfaret lại và nói
– Ta sẽ không ngăn cản con nữa, nhưng con phải hứa với ta một đìều kiện, con phải lên Paris học thành tài, sau 5 năm trở về ta sẽ cho con cưới Violeta, nếu con không chấp nhận ta sẽ gả cô ta cho Andrey người làm vườn xấu xí, hãy vì tương lai của con cũng như của nó mà quyết định đi. Một là sau khi trở về con sẽ có Violeta, hai là hai đứa sẽ mất nhau vĩnh viễn. Nhưng khi con ra đi, nó vẫn phải ở lại đây làm việc như trước. Hãy lựa chọn đi con trai yêu quí của ta!
Trước quyết định đó, đôi bạn trẻ đành phải xa nhau và hứa hẹn ngày trở về. Đêm cuối cùng bên nhau, nước mắt nàng thấm đẫm vai áo chàng, Anfaret hứa rằng sẽ trở về để cưới nàng làm vợ, chàng hứa rằng sẽ viết thư về thường xuyên cho nàng, hãy vững tin và chờ chàng trở về, bởi tình yêu chàng dành cho nàng mãi mãi không gì có thể ngăn cách được. Nhưng Violeta dường như linh cảm được rằng có lẽ đây là lần cuối cùng họ còn được bên nhau, nhưng nàng vẫn im lặng vì không muốn làm chàng xao lòng. Chàng Anfaret ra đi, mang theo trong lòng hình ảnh thân thương và đôi mắt đau đớn của người yêu.
Violeta ở lại trang trại chịu mọi sự hành hạ của gia đình Bá Tước, họ xem nàng như cái gai trong mắt nên không từ một thủ đoạn nào để hành hạ nàng, nhưng Violeta vẫn cắn răng chịu đựng tất cả vì tình yêu dành cho Anfaret. Nhưng rồi ngày qua ngày, bóng chim tăm cá, nàng không hề nhận đuợơc tin chàng, không một lá thư hay lời nhắn trở về trang trại. Nàng âm thầm mỏi mong chờ đợi, bao đêm nàng khóc ướt đẫm gối vì thất vọng…. Rồi một hôm, mẹ chàng đưa cho nàng một bức điện tín và nói rằng hãy quên Anfaret đi, vì chàng sắp cưới con gái Nam tước bạn của Bá Tước tại Paris. Nghe tin như sét đánh ngang mày, nàng ngất xỉu trước nỗi đau ấy, nàng đau đớn gần như chết lịm, cũng từ hôm ấy nàng trở nên câm lặng. Sự hành hạ cùa gia đình Bá tước ngày càng khắc nghiệt hơn, nàng không được ăn no, phải dậy từ sáng sớm, làm việc quần quật từ sớm tới khuya, lại thêm phần đau khổ trong lòng, uất ức vì chàng Anfaret phụ tình nên sức khoẻ của nàng ngày càng suy sụp. Và rồi một đêm mưa gió họ đã đuổi nàng ra khỏi nhà, từ đó không ai còn biết tin tức gì của nàng nữa. Còn về phần Anfaret, 5 năm sống nơi thủ đô Paris tráng lệ, TY của chàng không hề suy chuyển, hình bóng nàng Violeta vẫn lung linh trong trái tim chàng, chưa một ngày nào chàng không nhớ về người yêu đang ở trang trại chờ chàng trở về. Mỗi tuần chàng đều gửi một lá thư về cho nàng, động viên nàng hãy ráng đợi chàng trở về, tin tưởng tình yêu của chàng, rằng cuộc đời chàng chỉ yêu duy nhất có nàng mà thôi, chàng sẽ trở về và cưới nàng làm vợ. Những hỡi ơi, cả chàng và Violeta nào có ngờ đâu, những lá thư tình yêu ấy chưa bao giờ đến được tay nàng Violeta. Chàng có ngờ đâu khi chàng ra đi bao sóng gió đã đổ ập lên người chàng yêu dấu. Chàng vẫn tin rằng bằng sự cố gắng của mình để học thật nhanh mà trở về ….
Và rồi ngày cuối cùng của 5 năm đã đến, sắp đến ngày trở về. Trước ngày tốt nghiệp, chàng muốn quay về bất ngờ để báo tin cho nàng biết rằng chàng sắp được cưới nàng, rằng họ sắp được bên nhau. Nhưng hỡi ôi, khi chàng quay trở về nhà thì mọi thứ không còn như trước, nàng Violeta đã không còn ở đó nữa, gia đình chàng tìm mọi cách bôi xấu nàng nhưng Anfaret không hề tin. Chàng như điên dại chạy khắp nơi tìm kiếm hình bóng người yêu, chàng óan hận cha mẹ đã đuổi nàng, hành hạ nàng qua lời kể của Adrey người làm vườn, cũng là người đã đối xử với Violeta rất tốt. Chàng bôn ba khắp nước Pháp tìm nàng, dò hỏi người quen, chàng không tiếc gì tiền bạc đi khắp nơi nhưng vẫn bặt tin nàng. Cho đến một ngày, trải qua bao tháng tìm kiếm vô vọng, sức cạn lực kiệt, chàng lâm bệnh nặng tưởng chừng như không thể qua khỏi, cha mẹ chàng xót con nên đành phải tung tiền ra thuê người tìm kiếm lần nũa, nhưng bóng dáng nàng Violeta vẫn bặt tăm. Họ hối hận vì đã gây cảnh đau lòng để giờ đây nhìn đứa con trai yêu quý đang thoi thóp trên giường trong nỗi đau khổ tột cùng. Họ đã đưa tin khắp nước Pháp nếu ai tìm được nàng Violeta họ sẽ không tiếc bất cứ thứ gì…Hai năm trôi qua, bệnh tình chàng Anfaret ngày càng trầm trọng, cả dòng tộc gần như tuyệt vọng thì một hôm xuất hiện một cậu bé rách rưới với bộ dạng lo lắng hốt hoảng dừng lại ở trang trại đem lại tin tức về Violeta, nhưng cậu bé chỉ đòi gặp chàng Anfaret và chỉ muốn nói riêng với chàng. Nghe được tin này, chàng Anfaret chợt bật dậy, chạy như bay đến bên cậu bé, ôm chầm lấy cậu mừng rỡ mà không kịp nhìn vào đôi mắt đang rơi lệ của cậu, cậu bé ấy chính là em trai của Violeta. Cậu bé đưa tay ra cho chàng và nói: “ Cậu chủ hãy đi theo cháu!”
Dường nhu có một sức mạnh thúc đẩy, chàng Anfaret cố gượng đi theo cậu bé, đi thật xa, thật lâu, về tận một vùng thật hẻo lánh, một nơi rất xa trang trại mà không ai có thể ngờ tới,. Cậu bé liên tục thúc hối chàng đi thật nhanh, trông câu rất vội vã….Quãng đường xa khiến Anfaret như kiệt sức, cha mẹ chàng cũng gần như ko đủ sức để đi tiếp, muốn được nghỉ ngơi nhưng cậu bé vẫn không muốn dừng, cậu luôn thúc hối mọi người đi thật nhanh, cậu nói: “Xin các ngài hãy theo cháu mau lên kẻo không kịp.”
Anfaret dường như linh cảm được điều không lành đang xảy đến nên chàng vẫn tiếp tục lên đường. Và rồi, khuất sau những ngọn núi kia là một vùng quê thật hẻo lánh nghèo nàn, trong một căn nhà tối tăm nàng Violeta đang trong cơn hấp hối., xanh xao gầy gò, chỉ còn đôi mắt như đang trông ngóng điều gì, đôi môi nàng trong cơn mê sảng vẫn gọi tên Anfaret không thôi. Anfaret bàng hoàng đau đớn, chàng vừa chạy đến quỳ bên nàng thì cũng là lúc nàng nhắm mắt, không còn kịp nhìn thấy Anfaret. Chàng bật khóc gào thét tên Violeta, van xin mọi người hãy cứu lấy nàng…nhưng …mọi người đều quay đi và rơi lệ…Violeta đã mãi mãi ra đi mà không kịp nhìn thấy gương mặt của người nàng yêu dấu và chờ đợi…. Cậu bé đã kể cho chàng nghe tất cả mọi điều, từ ngày nàng rời khỏi nhà Bá tước, đã mang trong người căn bệnh hiểm nghèo, hậu quả của những ngày bị hành hạ ngày ấy…Nhưng nàng vẫn cố thoi thóp sống mong ngày chàng Anfaret trở về…nàng vẫn muốn chờ đợi ngày chàng về để nói với chàng rằng nàng vẫn yêu nàng, vẫn chờ đợi chàng…rằng vẫn không tin chàng đã phản bội lại lời thề hứa năm xưa…rồi mới thanh thản ra đi…nhưng tất cả đều đã muộn…nàng đã ra đi ko kịp nói lời trăn trối…ko kịp nhìn thấy chàng Anfaret…
Cha mẹ chàng nhìn thấy cảnh đau thương đó đã gục xuông trước mặt nàng mong nàng tha thứ…nhưng nàng nào còn biết gì?
- Cha mẹ đã vừa lòng chưa?- Anfaret gào lên thảm thiết – các người đã thoả mãn chưa? Nàng đã ra đi thật rồi, nàng bỏ ta rồi, ta còn sống để làm gì nữa” – Ánh mắt và giọng nói của Anfaret như vang từ cõi xa xăm nào đó….
Đám tang Violeta được đưa về trang trại tổ chức với những vòng hoa hồng trắng muốt, trắng tinh khiết như gương mặt im lìm lạnh giá của nàng Violeta. Còn Anfaret, chàng ôm lấy linh cữu của Violeta không rời, môi chàng mấp máy gọi tên ngườI yêu như một kẻ mất trí…Ai nhìn vào đều cũng phải rơi lệ, khuyên giải thế nào chàng cũng bỏ ngoài tai. Và từ đó, chàng không hề rời khỏi nàng, ngày này sang ngày khác chàng vẫn ngồi im lìm bên mộ nàng, nỗi đau ấy không thể vơi đi, Anfaret như một kẻ mất trí, chỉ biết kêu tên nàng trong nỗi đau tột cùng. Tình yêu ấy quá lớn, tình yêu ấy đã trở nên bất diệt trong lòng chàng. Cha mẹ chàng trở nên bất lực không thể khuyên gì chàng được nữa vì bản thân họ cũng cảm thấy quá ân hận. Trang trại phồn vinh ngày nào giờ đây chìm trong ảm đạm u uất… Rồi một ngày cuối Đông, vì kiệt sức và cũng vì quá đau khổ chàng Anfaret đã gục ngã trút hơi thở sau cùng tbên mộ nàng Violeta. Di chúc sau cùng chàng chỉ muốn được chôn chung cùng nàng. Mùa Đông lạnh lẽo trôi qua, mùa xuân lại trở về nơi trang trại, nơi đây chỉ còn lại vợ chồng Bá tước già hiu quạnh, ai cũng tiếc thương cho mối tình của chàng Anfaret và nàng Violeta.
Truyền thuyết hoa hồng xanh
Ngày xửa ngày xưa ở vương quốc hoa hồng có một thằng ngốc tên Stupid. Thằng ngốc may mắn được nhà vua giao cho chăm sóc vườn hoa hồng. Nhà vua có một cô công chúa rất xinh tên Rose. Công chúa rất thích hoa hồng nên yêu cầu thằng ngốc mỗi ngày hãy mang cho mình một bó hoa hồng thật đẹp. Tuy nhiên thằng ngốc không biết bó hoa thế nào cả. Nó bèn xin với công chúa:
- Xin lỗi công chúa nhưng tôi có thể mang đến mỗi ngày chỉ một bông hoa được không.
Ban đầu công chúa thấy không vui một chút nào.Tuy nhiên thằng ngốc đều cố gắng mỗi ngày mang đến cho công chúa một bông hoa đẹp nhất. Thằng ngốc chẳng biết làm việc gì khác ngoài việc chăm sóc những bông hoa.Mỗi khi có ai đó bắt nó đi làm việc gì đó là nó lại nói:
- Xin lỗi nhưng tôi hậu đậu lắm! Tôi sẽ làm hỏng hết mất…
Vậy là người ta lại chán nản bỏ đi. Cũng bởi vậy nên không ai chơi với thằng ngốc cả. Thằng ngốc hàng ngày cứ thui thủi bên những bông hoa của nó. Dường như thằng ngốc chẳng bao giờ biết buồn là gì… Những bông hoa mà thằng ngốc mang đến cho công chúa mỗi ngày đều rất đẹp. Đôi khi công chúa ngắm nhìn những bông hoa đó và tự hỏi: “Một thằng ngốc thì làm thế nào mà tạo ra những bông hoa đẹp như vậy nhỉ”.
Rồi một ngày công chúa quyết định đến thăm vườn hoa của thằng ngốc. Thằng ngốc đang lúi cúi tưới cho một khóm hoa hồng. Với công chúa thì công việc này thật lạ. Công chúa tò mò đến gần thằng ngốc và làm nó giật mình. Thằng ngốc làm rơi bình tưới hoa và làm bắn bẩn lên váy áo của công chúa:
- Xin lỗi công chúa - Thằng ngốc hốt hoảng - Tôi thật là hậu đậu.
- Không sao! Ta sẽ tha tội cho ngươi nhưng ngươi phải chỉ cho ta cách ngươi tạo ra những bông hoa này.
Thằng ngốc ngạc nhiên quá “Công chúa mà quan tâm đến cách trồng hoa ư?!”
- Rất đơn giản thưa công chúa… - Và thằng ngốc say sưa nói với công chúa tất cả những gì nó biết về hoa hồng,về cách trồng hoa, cách chăm sóc chúng… Thằng ngốc cảm thấy rất lạ khi công chúa tỏ ra rất thích thú với những gì nó nói. Và khi thằng ngốc bắt gặp ánh mắt công chúa đang chăm chú nhìn nó thì tự nhiên nó trở nên luống cuống. Một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa. - Xin lỗi công chúa… tôi vụng về quá đi mất.
- Ngươi thật là ngốc! Nhưng những gì ngươi nói về hoa hồng rất hay. Ngày mai ta sẽ lại tới.
Công chúa trở lại cung điện và thằng ngốc lại say sưa tưới hoa. Tuy nhiên nó vừa tưới hoa vừa hát. Chưa ai nghe thất thằng ngốc hát bao giờ cả… Ngày hôm sau thằng ngốc dậy rất sớm. Nó quét dọn những lối đi, nhổ cỏ bên những khóm hoa. Nhưng công chúa không đến nữa. Thằng ngốc đợi mãi mà công chúa vẫn không đến. Nó đâu biết hôm đó là một ngày đặc biệt. Nhà vua tổ chức một lễ hội rất lớn trong cung đình. Có rất nhiều các vị vua, những hoàng tử của các nước láng giềng… Công chúa chẳng muốn đến lễ hội một chút nào. Nàng nhất định không chịu mặc bộ váy dạ hộ. Chỉ đến khi viên tổng quản xuất hiện và nhã nhặn:
- Xin lỗi công chúa nhưng đây là mệnh lệnh của nhà vua…
- Xin lỗi cô bé! Ta không đến quá muộn đấy chứ.
Công chúa bỗng cảm thấy tim mình đập rộn ràng. Đó là những cảm xúc kì lạ mà công chúa không thể định nghĩa nổi… Giai điệu ngọt ngào của bản Vanx như hòa nhịp cùng bước nhẩy của hai người. Hoàng tử kể cho công chúa nghe về những miền đất xa lạ mà hoàng tử đã đi qua. Những câu chuyện kéo dài như bất tận. Thời gian dường như không còn là mối quan tâm của hai người nữa… Mãi đến khi những vì sao đã sáng lấp lánh trên bầu trời, khi mà cả thằng ngốc và những bông hoa hồng đều đã ngủ say, hoàng tử mới lên ngựa từ biệt công chúa… Công chúa trở về cung điện và cho gọi thằng ngốc tới. - Ngươi có biết làm thế nào để cung điện của ta thật đẹp không! Ngày mai hoàng tử sẽ lại tới. Ta muốn dành cho chàng một sự ngạc nhiên.
-Thưa công chúa… hoàng tử… à vâng thưa công chúa, tôi sẽ trang trí cung điện của công chúa bằng tất cả hoa hồng trong vườn. Cung điện của công chúa sẽ trở thành cung điện hoa hồng.
- Một ý tưởng tuyệt vời! Ngươi cũng không ngốc lắm đâu! Nhưng ta sợ ngươi sẽ không thể làm xong nó trong đêm nay.
- Tôi sẽ cố hết sức thưa công chúa…
Vậy là suốt cả đêm đó những bông hoa hồng còn ướt đẫm sương đêm được thằng ngốc cẩn thận hái từ vườn hoa mang vào cung điện. Khi cung điện của công chúa tràn ngập hoa hồng cũng là lúc trời vừa sáng. Khi công chúa thức dậy, nàng không thể tin vào mắt mình, trước mắt nàng là một cung điện đẹp như trong truyện cổ tích vậy. Công chúa đi dạo một vòng và thấy thằng ngốc ngủ gật bên cạnh một chiếc cột đá:
- Stupid. Dậy đi nào. Trời sáng rồi.
- Xin lỗi công chúa, tôi lại ngủ quên mất, tôi sẽ hoàn thành nốt công việc ngay thôi.
- Không cần nữa. Như vậy là được rồi. Nguơi hãy về nghỉ ngơi đi.
Thằng ngốc thở phào vì công chúa đã không trách nó chưa hoàn thành công việc. Nó vui vẻ trở về với vườn hoa giờ chỉ còn trơ những gốc. Công chúa đến bên cửa sổ và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi mà từ đó hoàng tử sẽ lại tới. Công chúa sẽ dẫn hoàng tử đi thăm cung điện hoa hồng của mình. Hoàng tử sẽ lại kể cho công chúa nghe câu chuyện về những miền đất xa lạ…
Nhưng rồi chẳng có hoàng tử nào đến cả. Chỉ có người hầu của Hoàng tử mang theo một bức thư: “…Cô bé của ta, ta không thể đến với em như đã hẹn. Đất nước của ta có chiến tranh. Ta phải tham gia vào cuộc chiến. Có lẽ chúng ta sẽ phải xa nhau một thời gian dài. Ta không muốn thế một chút nào. Ta sẽ rất nhớ em. Nhưng ta tin thời gian sẽ chứng minh cho tình yêu của chúng ta. Ta sẽ sớm gặp lại em…”
Công chúa buồn lắm. Những giọt nước mắt lăn dài trên đôi môi: “Em sẽ đợi! Nhưng nhất định chàng phải trở về đấy!…”
…Một tuần, rồi một tháng, rồi một năm…Chẳng có tin tức gì của hoàng tử. Hoàng tử như một cơn gió cứ bay mãi, bay mãi mà chẳng biết bao giờ sẽ trở lại. Công chúa thường đứng một mình bên khung của sổ mỗi buổi hoàng hôn và nhìn về phía những ngọn núi xa, nơi ánh mặt trời dần tắt. Có thể một ngày nào đó… Cũng hơn một năm đó không thấy thằng ngốc mang hoa hồng cho công chúa mỗi buổi sớm nữa. Có thể là sau khi trang hoàng cho cung điện vuờn hoa của thằng ngốc đã chẳng còn một bông hoa nào cả. Công chúa hình như cũng chẳng quan tâm đến những bông hoa hồng của thằng ngốc nữa…
Rồi một buổi sáng sớm khi công chúa thức dậy, có ai đó đã đặt sẵn bên của sổ một bông hoa hồng tuyệt đẹp. Công chúa ngắm nhìn bông hoa và chợt nhớ tới thằng ngốc. “Một năm rồi Stupid không mang hoa tới..”. Công chúa trở lại vườn hoa của thằng ngốc. Trước mắt công chúa không phải là những gốc cây trơ trụi mà là muôn ngàn những bông hồng rực rỡ. Thằng ngốc vẫn lúi cúi bên những khóm hoa hồng. Thằng ngốc nhìn thấy công chúa và một lần nữa nó lại đánh rơi bình tưới hoa: - Xin lỗi công chúa! Tôi đã cố hết sức nhưng không thể làm cho vườn hoa đẹp như xưa.
- Ồ không! Thật là kỳ diệu! Nói cho ta biết đi, ngươi đã làm thế nào vậy?
Lần đầu tiên trong đời có người nói với nó như vậy, mà lại là một công chúa nữa chứ. Thằng ngốc vui lắm, nó cười ngây ngô và lại say sưa nói với công chúa về những bông hoa… Những ngày sau đó ngày nào công chúa cũng đến vườn hoa của thằng ngốc. Công chúa tự mình trồng những bông hoa, tự mình tưới nước cho chúng. Ban đầu thằng ngốc cảm thấy rất lạ nhưng rồi nó cũng hiểu ra rằng công chúa đang cố làm tất cả để nguôi ngoai nỗi nhớ hoàng tử. Thằng ngốc rất vui vì dù sao cũng có người cùng nó trò chuyện, có người chịu nghe nó nói cả ngày về những bông hoa hồng. Thằng ngốc cố làm cho công chúa vui những lúc công chúa ở bên nó. Có một lần thằng ngốc nói với công chúa về ý nghĩa của các loài hoa:
- Hoa hồng bạch là tình bạn chân thành, hồng nhung là tình yêu nồng thắm, hồng vàng là…
- Vậy còn hồng xanh, nó tượng trưng cho điều gì
- Hồng xanh là tình yêu bất diệt! thưa công chúa,nhưng nó không có thật.
- Vậy tại sao nó lại tượng trưng cho tình yêu bất diệt?
- Đó là một huyền thoại, thưa công chúa. Người ta nói rằng nếu ta trồng một cây hoa hồng bằng cả trái tim dành cho người mình yêu thương thì nó sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh. Đó là bông hoa có phép mầu, nó sẽ cho một điều ước..
- Ta sẽ ước chiến tranh kết thúc và hoàng tử sẽ trở về bên ta…
- Thưa công chúa! Không có điều gì là không thể xãy ra. Tôi tin nếu công chúa thành tâm biết đâu cây hoa mà công chúa trồng sẽ nở ra một bông hoa hồng xanh.
- Ta tin ngươi…
Và từ hôm đó công chúa dành hết thời gian để chăm sóc cho cây hoa hồng của mình. Nhưng không hiểu sao cây hoa mà công chúa trồng mãi vẫn không nở một bông hoa nào cả. Có một sự thật mà có lẽ thằng ngốc không bao giờ dám nói. Đó là câu chuyện về hoa hồng xanh chỉ là một lời nói dối. Thằng ngốc không muốn thấy công chúa quá đau buồn nên nó đã nghĩ ra câu chuyện về bông hoa hồng xanh và điều ước…
Nhưng rồi thằng ngốc mới thấy đó là một sai lầm rất lớn. Nó sợ cái ngày mà cây hoa của công chúa nở ra một bông hoa bình thường. Công chúa sẽ rất buồn. Thằng ngốc không muốn làm công chúa buồn một chút nào. Nó cố tìm trong vườn hoa bao la của nó một bông hoa hồng xanh nhưng chẳng có bông hồng xanh nào cả… Rồi một đêm thằng ngốc trằn trọc mãi không ngủ được. Bỗng nhiên nó nghe thấy một giọng nói như tiếng thì thầm vậy
- Stupid! Sao ngươi buồn thế?
- Ai vậy?
- Ta là hoa hồng đây.
- Hoa hồng ư? Sao ngươi có thể nói được?
- Ngươi ngốc quá, ta luôn nói chuyện với ngươi mà ngươi không để ý đấy thôi, loài hoa nào cũng nói được, chỉ là có bao giờ ngươi lắng nghe không mà thôi. Có chuyện gì mà ngươi buồn vậy? - Ta… Ta đã trót nói dối công chúa về hoa hồng xanh. Ta không nghĩ là công chúa lại đặt nhiều niềm tin vào hoa hồng xanh đến thế.
- Stupid! Ngươi đang nghĩ gì vậy. Ta nói cho ngươi biết điều này nhé: Huyền thoại mà ngươi đã nói với công chúa là có thật đấy.
- Sao cơ? Thế nghĩa là hoa hồng xanh là có thật. Ngươi biết làm thế nào để tạo ra hoa hồng xanh phải không?
- Ta biết… Nhưng ta không thể nói cho ngươi được.
- Tại sao chứ? Ta xin ngươi đấy
- Stupid à.. Ngươi thật là ngốc quá, ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ?
- Ta… Ta muốn công chúa có bông hoa hồng xanh. Ta muốn ước mơ của công chúa trở thành sự thực. Ta không muốn thấy công chúa buồn…
- Ôi Stupid! Ta không muốn nói cho ngươi một chút nào, nhưng thôi được rồi, nếu ngươi thực sự muốn có một bông hoa hồng xanh, ta sẽ chỉ cho ngươi cách…
Và hoa hồng ghé tai thằng ngốc thì thầm điều gì đó mà chỉ có thằng ngốc nghe rõ. Khuôn mặt thằng ngốc bỗng ngẩn ngơ đến khó hiểu. Rồi người ta thấy thằng ngốc ngước nhìn bầu trời đầy sao và mỉm cười… Sáng sớm hôm sau khi công chúa vừa thức dậy thì người hầu của nàng đã chạy vào:
- Thưa công chúa, thật không thể tin được, người hãy ra mà xem, cây hoa mà công chúa trồng đã nở một bông hoa màu xanh.
Công chúa như không tin vào
những gì mình nghe thấy. Nàng chạy ngay ra vườn hoa. Trước mắt nàng là một bông
hoa hồng xanh tuyệt đẹp. Những cánh hoa lấp lánh những giọt sương sớm long lanh
dưới ánh sáng mặt trời. Công chúa cầm bông hoa đặt lên trái tim. Nàng còn chưa
kịp nói điều ước thì người hầu của nàng đã vào báo:
- Thưa công chúa! Hoàng tử đã thắng trận trở về. Có lẽ hoa hồng xanh đã biết truớc điều ước của nàng nên không cần công chúa phải nói ra.
Công chúa băng qua quảng trường rộng mênh mông để đến bên cổng thành. Quả nhiên từ phía ngọn núi xa hoàng tử đã trở về, chiếc áo bào sạm đen vì khói bụi. Hoàng tử xuống ngựa ngay khi chàng trông thấy công chúa, quên đi cả những mệt mỏi bao tháng ngày qua, vòng tay ôm chặt công chúa như không bao giờ muốn buông ra vậy.
- Cô bé của ta! Ta nhớ nàng quá.
- Em gần như đã tuyệt vọng, chàng biết không. Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra. Chàng hãy nhìn xem, một bông hoa hồng xanh. Chính nó đã mang chàng về với em.
- Hoa hồng xanh! Ta tưởng làm gì có hoa hồng xanh trên thế gian này!
- Có chứ. Đó là một huyền thoại. Em sẽ dẫn chàng đến vườn hoa. Stupid sẽ kể cho cho chàng nghe huyền thoại về hoa hồng xanh.
Vậy là hoàng tử và công chúa cùng đến vườn hoa của thằng ngốc.
- Stupid! Ngươi đâu rồi. Ra đây đi nào, hoàng tử muốn nghe câu chuyện về hoa hồng xanh của ngươi…
Nhưng Stupid đã biến đi đâu mất. Công chúa gọi mãi, gọi mãi mà không thấy thằng ngốc đâu cả. Bên gốc hoa mà công chúa trồng chiếc bình tưới hoa được dựng ngay ngắn. Chẳng hiểu thằng ngốc đã biến đi đâu mất.
Chỉ còn cơn gió thổi những bông hoa hồng đung đưa như đang hát một bài hát từ rất xa xưa “Tình yêu chân thành bắt đầu từ trái tim, chỉ có máu từ con tim của một kẻ đang yêu mới tạo ra bông hồng xanh bất diệt. Và bông hồng xanh sẽ tạo nên điều kỳ diệu…”
- Thưa công chúa! Hoàng tử đã thắng trận trở về. Có lẽ hoa hồng xanh đã biết truớc điều ước của nàng nên không cần công chúa phải nói ra.
Công chúa băng qua quảng trường rộng mênh mông để đến bên cổng thành. Quả nhiên từ phía ngọn núi xa hoàng tử đã trở về, chiếc áo bào sạm đen vì khói bụi. Hoàng tử xuống ngựa ngay khi chàng trông thấy công chúa, quên đi cả những mệt mỏi bao tháng ngày qua, vòng tay ôm chặt công chúa như không bao giờ muốn buông ra vậy.
- Cô bé của ta! Ta nhớ nàng quá.
- Em gần như đã tuyệt vọng, chàng biết không. Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra. Chàng hãy nhìn xem, một bông hoa hồng xanh. Chính nó đã mang chàng về với em.
- Hoa hồng xanh! Ta tưởng làm gì có hoa hồng xanh trên thế gian này!
- Có chứ. Đó là một huyền thoại. Em sẽ dẫn chàng đến vườn hoa. Stupid sẽ kể cho cho chàng nghe huyền thoại về hoa hồng xanh.
Vậy là hoàng tử và công chúa cùng đến vườn hoa của thằng ngốc.
- Stupid! Ngươi đâu rồi. Ra đây đi nào, hoàng tử muốn nghe câu chuyện về hoa hồng xanh của ngươi…
Nhưng Stupid đã biến đi đâu mất. Công chúa gọi mãi, gọi mãi mà không thấy thằng ngốc đâu cả. Bên gốc hoa mà công chúa trồng chiếc bình tưới hoa được dựng ngay ngắn. Chẳng hiểu thằng ngốc đã biến đi đâu mất.
Chỉ còn cơn gió thổi những bông hoa hồng đung đưa như đang hát một bài hát từ rất xa xưa “Tình yêu chân thành bắt đầu từ trái tim, chỉ có máu từ con tim của một kẻ đang yêu mới tạo ra bông hồng xanh bất diệt. Và bông hồng xanh sẽ tạo nên điều kỳ diệu…”
Truyền thuyết hoa loa kèn
Những giọt nước mắt nào có giúp được gì! Giắc sẽ phải lên đường chinh chiến ở một xứ xa lạ, đành bỏ lại Lilia, người vợ chưa cưới của mình trên đất Pháp. Lúc chia tay, Giắc rút trái tim ra khỏi lồng ngực mình, trao cho Lilia và nói:
- Ðã là chiến binh thì phải sống không có tim. Trái tim chỉ gây phiền hà cho ta. Nàng hãy giữ lấy nó chờ ta về.
Lilia giấu trái tim của Giắc vào một cái tráp bạc và từng ngày, từng ngày chờ đợi người yêu quay trở về. Với một người đang trông đợi thì thời gian mới chậm chạp làm sao! Một ngày dài bằng cả năm, một năm bằng cả thế kỷ. Dù Lilia có làm gì và có đi đâu thì cái nhìn của nàng lúc nào cũng hướng về phía mà Giắc đã ra đi. Nàng đã mất thói quen tính ngày, tính tháng. Một lần nàng rất phẫn uất khi người cha nói với nàng:
- Con gái của ta, thế là đã mười năm trôi qua kể từ ngày người yêu cả con xông pha nơi trận mạc, không chắc nó có hồi hương. Ðã đến lúc con phải lo tấm chồng khác rồi đấy.
- Cha ơi, cha mà lại nói với con như vậy ư? - Nàng đau đớn nói với cha - Giắc đã trao trái tim của chàng cho con rồi và bây giờ trái tim ấy đang ở chỗ con, con không thể nào quên Giắc được đâu cha ạ.
Người cha chỉ biết lắc đầu, thở dài não nuột. Chắc chắn là ông không thể sống cho đến ngày ông được bế trên tay một đứa cháu trai.
Hại mười năm nữa qua đi, cuộc chiến cũng vừa tàn, các chiến binh lục tục trở về, người thì chống nạng, kẻ thì tay áo lủng lẳng. Lilia chờ đợi Giắc, nàng hỏi tin chàng khắp nơi, nhưng vẫn chẳng nhận thêm được điều gì.
- Có lẽ chàng đã phải lòng người con gái khác và ở lại xứ người rồi, - có lần em gái Lilia tỏ ý nghi ngờ, song Lilia không thể tin điều đó.
- Chàng có thể yêu người khác sao được một khi trái tim chàng đang còn ở chỗ ta? Một người không có tim thì không thể yêu được!
Chiến tranh đã qua rồi, nhưng một con người không có trái tim như Giắc, suốt trong những năm tháng ấy chỉ quen chém giết, cướp bóc không biết ghê tay, bây giờ chàng sống theo kiểu khác rồi. Chàng trở thành thủ lĩnh một băng cướp ở xứ người và nhiều khi còn trấn lột vàng bạc của quý của người qua đường.
Khi tên cướp Pie già, Giắc đã thẳng tay đuổi ra khỏi băng cướp. Sau này, khi quyết định phải trả thù thủ lĩnh, Pie liền tìm đường về quê hương của Giắc với mong muốn kể cho họ hàng thân thích và người quen biết Giắc hiểu rõ rằng, Giắc đang làm một công việc tầm thường như thế nào.
Pie phải đi mất cả chục năm mới về tới nước Pháp vậy mà vẫn không tìm thấy làng quê của Giắc. Và người đầu tiên mà gã ta gặp là một bà già tóc đã bạc phơ, có cái nhìn khắc khoải.
- Bà có biết Giắc không? - Pie hỏi
- Ôi lậy chúa, ông hỏi tôi về chuyện gì vậy? - người đàn bà kêu lên - Giắc là chồng chưa cưới của tôi, là người tôi đang mòn mỏi trông chờ, tôi không biết sao được? Hãy làm ơn nói mau, hiện chàng đang ở đâu và chàng đã gặp điều gì chẳng lành?
Pie thấy trong cặp mắt người đàn bà vẫn còn đang cháy lên niềm hy vọng, và gã hiểu ngay rằng bà vẫn còn yêu Giắc cháy bỏng như thời còn son trẻ. Gã không nỡ nói hết sự thật kinh hoàng về Giắc.
- Vậy ra bà là vợ chưa cưới của Giắc đấy! Pie thốt lên.
- Phải, tôi là Lilia, chúng tôi đã thề nguyện với nhau.
- Ôi, tôi mang đến cho bà một tin buồn - Pie cụp mắt xuống - Giắc đã lao vào cuộc chiến như một dũng sĩ. Anh ấy mới yêu bà làm sao! Trước lúc nhắm mắt, anh ấy cứ nhắc mãi cái tên của bà - Lilia.
Giắc của ta đã chết và đã yên giấc ngàn thu - Lilia đau buồn nghĩ - Nhưng chàng nằm xuống đất sao được khi chàng không có tim? Ta phải đi tìm mộ chàng và trả lại cho chàng trái tim nhân hậu đáng yêu.
Ôm cái tráp bạc, Lilia bắt đầu một cuộc hành trình gian khổ đến những miền đất xa xôi. Bà mất cả thói quen tính ngày, đếm tháng, nhưng gặp ai bà cũng hỏi thăm đường. Mọi người can ngăn bà không nên đi tiếp khi chỉ có một mình, vì biết đâu sẽ gặp bọn cướp ác độc, song Lilia không nghe. Quả nhiên, đến một khúc đường ngoặt, bà bị mấy tên cướp râu xồm trấn mất cái tráp đựng báu vật. Bà khóc lóc, vật nài, kể lể về mối tình bất hạnh của mình với Giắc, nhưng tất cả điều đó không hề làm bọn cướp động lòng. Bọn cướp mang cái tráp về dâng thủ lĩnh. Chúng vừa cười hô hố vừa thuật lại chuyện một bà già mất trí đi tìm mộ chồng để trao cho chồng trái tim mà ông ta đã trao cho bà làm tin trước lúc ra trận.
Trong lúc bối rối, thủ lĩnh toán cướp bèn mở tráp ra và trông thấy trái tim của chính mình mà bao năm tháng qua đã bị mất. Và thật lạ lùng, trái tim đã nói với người chủ của nó bằng tiếng nói của con người:
- Nếu còn là người, chớ có nói cho Lilia biết người là cái hạng gì. Hãy cứ để cho Lilia tin rằng người đã chết, như vậy bà ta sẽ giữ được trọn vẹn những kỷ niệm tốt đẹp về người.
Giắc vội vàng đậy nắp tráp lại và ra lệnh cho bọn đàn em phải đem trả lại ngay cho bà già, đồng thời phải chỉ cho bà thấy một nấm mộ cỏ mọc xanh rì, làm như đó là mộ của Giắc. Dọc đường đi, bọn cướp quyết định giữ cái tráp lại, song chúng vẫn không quên chỉ cho Lilia nấm mộ theo ý của Giắc.
Người đàn bà bất hạnh giờ đây vẫn còn mang tình yêu với Giắc như hồi còn trẻ, và bà không nỡ rời bỏ Giắc khi Giắc không có trái tim bên mình. Thế rồi bà đã lôi trái tim từ lồng ngực của mình ra vùi xuống nấm mộ, nơi bà nghĩ có hài cốt của Giắc. Từ nơi trái tim ấy đã mọc lên một bông hoa, mà đời nay vẫn gọi là BÁCH HỢP, hay LOA KÈN, HUỆ, LY. Loài hoa tượng trưng cho sự trinh trắng, lòng chung thuỷ và cao thượng.
Hoa loa kèn
Nguồn rauhoaquaVietNam
Hoa loa kèn hay còn gọi là Huệ Tây là tên gọi chung cho các loài hoa thuộc họ Liliaceae (cũng có sách ghi là họ Hành Tỏi). Tuy nhiên phần lớn các hoa thuộc họ này có một đặc điểm chung là hoa loe ra nhìn như cái kèn, nên được gọi là hoa Loa Kèn – tên đặt theo hình dáng bông hoa...
Hoa loa kèn là một loài thực vật có hoa với tên khoa học Lilium longiflorum Thunb. (họ Liliaceae). Loài cây này xuất xứ từ Nhật Bản và đảo Ryukyu nhưng được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Âu từ thế kỷ 20 với nhiều màu sắc khác nhau. Tuy nhiên đến nay thì loa kèn màu trắng là còn tồn tại và được ưa chuộng nhất.
Hoa loa kèn du nhập vào nước ta cùng với hoa phăng (hoa cẩm chướng)... Huệ tây được trồng đầu tiên tại Ðà Lạt, vì nơi đây có khí hậu ôn đới rất phù hợp với đặc tính của loa kèn, sau đó phát triển dần sang các tỉnh khác. Trong các loài hoa du nhập vào nước ta như các loài hồng, cẩm chướng, violet... thì hoa loa kèn được người tiêu dùng ưa chuộng hơn cả.
Nhất là với Hà Nội, hoa loa kèn được coi là một thứ hoa sang trọng, quyền quý... một thứ gì đó trong sáng, nhẹ nhàng đặc trưng của Hà Nội mỗi khi tháng tư về ... Trước Cách mạng Tháng Tám, hầu như loa kèn là một thú chơi của dân nhà giàu, có một chút gì hướng ngoại, hướng về phương Tây. Bởi vì, nước Pháp khi xưa được gọi là vương quốc của loa kèn hay huệ tây. Với người Pháp, huệ tây là biểu thị của lòng trong trắng, trinh tiết.
Hoa loa kèn có màu trắng pha thêm chút xanh và mùi hương thơm dịu. Một cành hoa thường có từ 1 đến 3 hoa. Lá hoa dày màu xanh hơi vàng, thân hoa là củ nằm dưới đất cành lá ở phần trên mặt đất. Cành hoa tương đối cứng nên ít bị đổ gãy. Hoa loa kèn nở vào dịp cuối xuân đầu hạ tức là vào khoảng tháng tư và chỉ nở rộ trong nửa tháng. Vì vậy, vào giữa tháng tư, ở đâu ta cũng gặp hoa loa kèn tràn ngập khắp phố phường, sau đó thì lại trở lên quý hiếm.
Hoa loa kèn được trồng chủ yếu vào tháng 9, 10 và đến tận tháng 4 năm sau mới cho thu hoạch. Nếu được chăm sóc tốt, đủ chất dinh dưỡng thì một củ giống cho tới 15-17 hoa nếu không nó chỉ cho từ 1-2 hoa. Để trồng cây hoa loa kèn đúng kỹ thuật phải cẩn thận từ khâu chọn và làm đất.
Đất phải có thành phần cơ giới nhẹ. Đất thích hợp là đất xốp, nhiều mùn, độ ẩm vừa phải, thoát nước nhanh nhưng phải giữ ẩm tốt. Đất thịt, đất nghèo dinh dưỡng pha sét hay cát pha nhiều không thích hợp cho sinh trưởng phát triển. Đất trồng hoa phải tránh nắng, tránh xa nơi có lò gạch, gần nhà máy có khói than.
Đất trồng hoa phải được cày bừa, đập vỡ khoảng 3 lần, mỗi lần cách nhau từ 5-7 ngày. Sau khi làm xong, đất phải nắm đựợc thành cục bỏ trong tay không bị vỡ ngay là được. Làm luống cao, mặt luống phải thật phẳng, sẻ rãnh rồi bón phân thật hoại hay bón trước mùa đông rồi mới trồng. Lượng phân bón phải đạt yêu cầu như sau: Phân ủ mục: 2m3/sào
Lân: 5kg/sào
Kali 5kg/sào
Khi trồng, đặt củ giống vào rãnh, các hàng cách nhau khoảng 45cm, các củ cách nhau 30cm, lấp đất sâu vừa phải từ 4-5cm, nếu lấp sâu thì cây sẽ khó mọc. Khi hoa vươn cao cần tưới nước phân pha loãng ½-1/5 lần, rồi xới xáo vun cao cho cây khỏi đổ. Cây loa kèn cứng nên không phải cắm cọc. Khi cây bắt đầu nhú hoa thì ngừng vun và xới xáo. Khi đến thời điểm thu hoạch nên cắt hoa vào lúc bông hé nứt đầu cánh, chừa lại phần gốc 20-15cm có cả lá để cây nuôi củ. Hoa cắt xong có thể cắm ngay vào nước hoặc có thể để trong tủ lạnh 10-18 độC trong vòng 15-18 giờ đồng hồ, để hạn chế hoa héo và nở sớm.
Phần củ thân còn lại tiếp tục chăm sóc, xới xáo cho đến tháng 4 rồi mới đào củ. Củ đào lên đem rũ đất rồi cho vào cát. Khi bảo quản củ, cần giữ nguyên cả thân tới vụ trồng sau. Khi đem củ đi trồng cần cắt bỏ phần thân củ, phân loại củ to, củ nhỏ, củ nhỡ để trồng theo từng lô riêng, để việc chăm sóc được đồng đều. Tuy nhiên, củ loa kèn trắng nhiều nước, rất dễ bị thối, không nên để quá lâu trong đất. Khi bảo quản củ giống trong cát, cứ 15-20 ngày nên đảo lại một lần, loại bỏ củ nhỏ, củ thối dịch bệnh. Những củ thối cần vứt bỏ cả phần cát nơi bảo quản.
Một điều cần chú ý khi trồng cây hoa loa kèn là lá thường bị khô đầu lá do thiếu dinh dưỡng. Vì vậy, cần bổ sung dinh dưỡng qua lá hay rễ bằng cách phun lên lá một lượng lân và 1% ure. Trường hợp lá bị sọc vàng gân lá, ta xới thoáng gốc và phun Zinép-Basudin. Khi đến thời điểm thu hoạch mà gặp thời tiết nóng ẩm cũng hay có hiện tượng bị rỉ sắt lá, nên phòng chống bằng Shimel 1%.
Những năm gần đây, hoa loa kèn đã được một số nơi trồng trái vụ để có hoa để cung cấp cho nhu cầu chơi hoa quanh năm nhất là vào Tết nguyên đán và ngày quốc tế phụ nữ 8-3. Tuy nhiên, hoa loa kèn không thích hợp với thời tiết nắng nóng, nếu trồng trước thời điểm tháng 9 và tháng 10, cây con bị nắng tỷ lệ chết cao. Vì vậy, để có hoa loa kèn trái vụ như mong muốn thì khi trồng cần tuân thủ các quy trình sau:
Nên rút ngắn thời gian củ hoa kèn nằm trong đất và dùng dung dịch gibberellin từ 10 đến 15mg/l phun ướt đẫm hoặc ngâm củ hoa. Sau đó cho vào sọt và đem đi xử lý lạnh trong một thời gian nhất định.
Khi cây hoa phát triển cao 10cm trở lên thì phun chế phẩm ra lá phát chồi, cứ 15 ngày phun l lần. Chế phẩm này giúp cho cây phát triển nhanh trong điều kiện không thuận lợi, chóng đạt độ cao cho phép hình thành. Tránh được hiện tượng ra hoa mà cây quá thấp, giá trị cành hoa sẽ không cao.
Khi cây chuẩn bị ra hoa, có thể phun chế phẩm kích thích ra hoa để cây ra hoa nhiều và to.Từ đó, giá trị hoa thương phẩm sẽ được nâng cao hơn nữa.
Những giọt nước mắt nào có giúp được gì! Giắc sẽ phải lên đường chinh chiến ở một xứ xa lạ, đành bỏ lại Lilia, người vợ chưa cưới của mình trên đất Pháp. Lúc chia tay, Giắc rút trái tim ra khỏi lồng ngực mình, trao cho Lilia và nói:
- Ðã là chiến binh thì phải sống không có tim. Trái tim chỉ gây phiền hà cho ta. Nàng hãy giữ lấy nó chờ ta về.
Lilia giấu trái tim của Giắc vào một cái tráp bạc và từng ngày, từng ngày chờ đợi người yêu quay trở về. Với một người đang trông đợi thì thời gian mới chậm chạp làm sao! Một ngày dài bằng cả năm, một năm bằng cả thế kỷ. Dù Lilia có làm gì và có đi đâu thì cái nhìn của nàng lúc nào cũng hướng về phía mà Giắc đã ra đi. Nàng đã mất thói quen tính ngày, tính tháng. Một lần nàng rất phẫn uất khi người cha nói với nàng:
- Con gái của ta, thế là đã mười năm trôi qua kể từ ngày người yêu cả con xông pha nơi trận mạc, không chắc nó có hồi hương. Ðã đến lúc con phải lo tấm chồng khác rồi đấy.
- Cha ơi, cha mà lại nói với con như vậy ư? - Nàng đau đớn nói với cha - Giắc đã trao trái tim của chàng cho con rồi và bây giờ trái tim ấy đang ở chỗ con, con không thể nào quên Giắc được đâu cha ạ.
Người cha chỉ biết lắc đầu, thở dài não nuột. Chắc chắn là ông không thể sống cho đến ngày ông được bế trên tay một đứa cháu trai.
Hại mười năm nữa qua đi, cuộc chiến cũng vừa tàn, các chiến binh lục tục trở về, người thì chống nạng, kẻ thì tay áo lủng lẳng. Lilia chờ đợi Giắc, nàng hỏi tin chàng khắp nơi, nhưng vẫn chẳng nhận thêm được điều gì.
- Có lẽ chàng đã phải lòng người con gái khác và ở lại xứ người rồi, - có lần em gái Lilia tỏ ý nghi ngờ, song Lilia không thể tin điều đó.
- Chàng có thể yêu người khác sao được một khi trái tim chàng đang còn ở chỗ ta? Một người không có tim thì không thể yêu được!
Chiến tranh đã qua rồi, nhưng một con người không có trái tim như Giắc, suốt trong những năm tháng ấy chỉ quen chém giết, cướp bóc không biết ghê tay, bây giờ chàng sống theo kiểu khác rồi. Chàng trở thành thủ lĩnh một băng cướp ở xứ người và nhiều khi còn trấn lột vàng bạc của quý của người qua đường.
Khi tên cướp Pie già, Giắc đã thẳng tay đuổi ra khỏi băng cướp. Sau này, khi quyết định phải trả thù thủ lĩnh, Pie liền tìm đường về quê hương của Giắc với mong muốn kể cho họ hàng thân thích và người quen biết Giắc hiểu rõ rằng, Giắc đang làm một công việc tầm thường như thế nào.
Pie phải đi mất cả chục năm mới về tới nước Pháp vậy mà vẫn không tìm thấy làng quê của Giắc. Và người đầu tiên mà gã ta gặp là một bà già tóc đã bạc phơ, có cái nhìn khắc khoải.
- Bà có biết Giắc không? - Pie hỏi
- Ôi lậy chúa, ông hỏi tôi về chuyện gì vậy? - người đàn bà kêu lên - Giắc là chồng chưa cưới của tôi, là người tôi đang mòn mỏi trông chờ, tôi không biết sao được? Hãy làm ơn nói mau, hiện chàng đang ở đâu và chàng đã gặp điều gì chẳng lành?
Pie thấy trong cặp mắt người đàn bà vẫn còn đang cháy lên niềm hy vọng, và gã hiểu ngay rằng bà vẫn còn yêu Giắc cháy bỏng như thời còn son trẻ. Gã không nỡ nói hết sự thật kinh hoàng về Giắc.
- Vậy ra bà là vợ chưa cưới của Giắc đấy! Pie thốt lên.
- Phải, tôi là Lilia, chúng tôi đã thề nguyện với nhau.
- Ôi, tôi mang đến cho bà một tin buồn - Pie cụp mắt xuống - Giắc đã lao vào cuộc chiến như một dũng sĩ. Anh ấy mới yêu bà làm sao! Trước lúc nhắm mắt, anh ấy cứ nhắc mãi cái tên của bà - Lilia.
Giắc của ta đã chết và đã yên giấc ngàn thu - Lilia đau buồn nghĩ - Nhưng chàng nằm xuống đất sao được khi chàng không có tim? Ta phải đi tìm mộ chàng và trả lại cho chàng trái tim nhân hậu đáng yêu.
Ôm cái tráp bạc, Lilia bắt đầu một cuộc hành trình gian khổ đến những miền đất xa xôi. Bà mất cả thói quen tính ngày, đếm tháng, nhưng gặp ai bà cũng hỏi thăm đường. Mọi người can ngăn bà không nên đi tiếp khi chỉ có một mình, vì biết đâu sẽ gặp bọn cướp ác độc, song Lilia không nghe. Quả nhiên, đến một khúc đường ngoặt, bà bị mấy tên cướp râu xồm trấn mất cái tráp đựng báu vật. Bà khóc lóc, vật nài, kể lể về mối tình bất hạnh của mình với Giắc, nhưng tất cả điều đó không hề làm bọn cướp động lòng. Bọn cướp mang cái tráp về dâng thủ lĩnh. Chúng vừa cười hô hố vừa thuật lại chuyện một bà già mất trí đi tìm mộ chồng để trao cho chồng trái tim mà ông ta đã trao cho bà làm tin trước lúc ra trận.
Trong lúc bối rối, thủ lĩnh toán cướp bèn mở tráp ra và trông thấy trái tim của chính mình mà bao năm tháng qua đã bị mất. Và thật lạ lùng, trái tim đã nói với người chủ của nó bằng tiếng nói của con người:
- Nếu còn là người, chớ có nói cho Lilia biết người là cái hạng gì. Hãy cứ để cho Lilia tin rằng người đã chết, như vậy bà ta sẽ giữ được trọn vẹn những kỷ niệm tốt đẹp về người.
Giắc vội vàng đậy nắp tráp lại và ra lệnh cho bọn đàn em phải đem trả lại ngay cho bà già, đồng thời phải chỉ cho bà thấy một nấm mộ cỏ mọc xanh rì, làm như đó là mộ của Giắc. Dọc đường đi, bọn cướp quyết định giữ cái tráp lại, song chúng vẫn không quên chỉ cho Lilia nấm mộ theo ý của Giắc.
Người đàn bà bất hạnh giờ đây vẫn còn mang tình yêu với Giắc như hồi còn trẻ, và bà không nỡ rời bỏ Giắc khi Giắc không có trái tim bên mình. Thế rồi bà đã lôi trái tim từ lồng ngực của mình ra vùi xuống nấm mộ, nơi bà nghĩ có hài cốt của Giắc. Từ nơi trái tim ấy đã mọc lên một bông hoa, mà đời nay vẫn gọi là BÁCH HỢP, hay LOA KÈN, HUỆ, LY. Loài hoa tượng trưng cho sự trinh trắng, lòng chung thuỷ và cao thượng.
Hoa loa kèn
Nguồn rauhoaquaVietNam
Hoa loa kèn hay còn gọi là Huệ Tây là tên gọi chung cho các loài hoa thuộc họ Liliaceae (cũng có sách ghi là họ Hành Tỏi). Tuy nhiên phần lớn các hoa thuộc họ này có một đặc điểm chung là hoa loe ra nhìn như cái kèn, nên được gọi là hoa Loa Kèn – tên đặt theo hình dáng bông hoa...
Hoa loa kèn là một loài thực vật có hoa với tên khoa học Lilium longiflorum Thunb. (họ Liliaceae). Loài cây này xuất xứ từ Nhật Bản và đảo Ryukyu nhưng được du nhập vào Việt Nam từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Châu Âu từ thế kỷ 20 với nhiều màu sắc khác nhau. Tuy nhiên đến nay thì loa kèn màu trắng là còn tồn tại và được ưa chuộng nhất.
Hoa loa kèn du nhập vào nước ta cùng với hoa phăng (hoa cẩm chướng)... Huệ tây được trồng đầu tiên tại Ðà Lạt, vì nơi đây có khí hậu ôn đới rất phù hợp với đặc tính của loa kèn, sau đó phát triển dần sang các tỉnh khác. Trong các loài hoa du nhập vào nước ta như các loài hồng, cẩm chướng, violet... thì hoa loa kèn được người tiêu dùng ưa chuộng hơn cả.
Nhất là với Hà Nội, hoa loa kèn được coi là một thứ hoa sang trọng, quyền quý... một thứ gì đó trong sáng, nhẹ nhàng đặc trưng của Hà Nội mỗi khi tháng tư về ... Trước Cách mạng Tháng Tám, hầu như loa kèn là một thú chơi của dân nhà giàu, có một chút gì hướng ngoại, hướng về phương Tây. Bởi vì, nước Pháp khi xưa được gọi là vương quốc của loa kèn hay huệ tây. Với người Pháp, huệ tây là biểu thị của lòng trong trắng, trinh tiết.
Hoa loa kèn có màu trắng pha thêm chút xanh và mùi hương thơm dịu. Một cành hoa thường có từ 1 đến 3 hoa. Lá hoa dày màu xanh hơi vàng, thân hoa là củ nằm dưới đất cành lá ở phần trên mặt đất. Cành hoa tương đối cứng nên ít bị đổ gãy. Hoa loa kèn nở vào dịp cuối xuân đầu hạ tức là vào khoảng tháng tư và chỉ nở rộ trong nửa tháng. Vì vậy, vào giữa tháng tư, ở đâu ta cũng gặp hoa loa kèn tràn ngập khắp phố phường, sau đó thì lại trở lên quý hiếm.
Hoa loa kèn được trồng chủ yếu vào tháng 9, 10 và đến tận tháng 4 năm sau mới cho thu hoạch. Nếu được chăm sóc tốt, đủ chất dinh dưỡng thì một củ giống cho tới 15-17 hoa nếu không nó chỉ cho từ 1-2 hoa. Để trồng cây hoa loa kèn đúng kỹ thuật phải cẩn thận từ khâu chọn và làm đất.
Đất phải có thành phần cơ giới nhẹ. Đất thích hợp là đất xốp, nhiều mùn, độ ẩm vừa phải, thoát nước nhanh nhưng phải giữ ẩm tốt. Đất thịt, đất nghèo dinh dưỡng pha sét hay cát pha nhiều không thích hợp cho sinh trưởng phát triển. Đất trồng hoa phải tránh nắng, tránh xa nơi có lò gạch, gần nhà máy có khói than.
Đất trồng hoa phải được cày bừa, đập vỡ khoảng 3 lần, mỗi lần cách nhau từ 5-7 ngày. Sau khi làm xong, đất phải nắm đựợc thành cục bỏ trong tay không bị vỡ ngay là được. Làm luống cao, mặt luống phải thật phẳng, sẻ rãnh rồi bón phân thật hoại hay bón trước mùa đông rồi mới trồng. Lượng phân bón phải đạt yêu cầu như sau: Phân ủ mục: 2m3/sào
Lân: 5kg/sào
Kali 5kg/sào
Khi trồng, đặt củ giống vào rãnh, các hàng cách nhau khoảng 45cm, các củ cách nhau 30cm, lấp đất sâu vừa phải từ 4-5cm, nếu lấp sâu thì cây sẽ khó mọc. Khi hoa vươn cao cần tưới nước phân pha loãng ½-1/5 lần, rồi xới xáo vun cao cho cây khỏi đổ. Cây loa kèn cứng nên không phải cắm cọc. Khi cây bắt đầu nhú hoa thì ngừng vun và xới xáo. Khi đến thời điểm thu hoạch nên cắt hoa vào lúc bông hé nứt đầu cánh, chừa lại phần gốc 20-15cm có cả lá để cây nuôi củ. Hoa cắt xong có thể cắm ngay vào nước hoặc có thể để trong tủ lạnh 10-18 độC trong vòng 15-18 giờ đồng hồ, để hạn chế hoa héo và nở sớm.
Phần củ thân còn lại tiếp tục chăm sóc, xới xáo cho đến tháng 4 rồi mới đào củ. Củ đào lên đem rũ đất rồi cho vào cát. Khi bảo quản củ, cần giữ nguyên cả thân tới vụ trồng sau. Khi đem củ đi trồng cần cắt bỏ phần thân củ, phân loại củ to, củ nhỏ, củ nhỡ để trồng theo từng lô riêng, để việc chăm sóc được đồng đều. Tuy nhiên, củ loa kèn trắng nhiều nước, rất dễ bị thối, không nên để quá lâu trong đất. Khi bảo quản củ giống trong cát, cứ 15-20 ngày nên đảo lại một lần, loại bỏ củ nhỏ, củ thối dịch bệnh. Những củ thối cần vứt bỏ cả phần cát nơi bảo quản.
Một điều cần chú ý khi trồng cây hoa loa kèn là lá thường bị khô đầu lá do thiếu dinh dưỡng. Vì vậy, cần bổ sung dinh dưỡng qua lá hay rễ bằng cách phun lên lá một lượng lân và 1% ure. Trường hợp lá bị sọc vàng gân lá, ta xới thoáng gốc và phun Zinép-Basudin. Khi đến thời điểm thu hoạch mà gặp thời tiết nóng ẩm cũng hay có hiện tượng bị rỉ sắt lá, nên phòng chống bằng Shimel 1%.
Những năm gần đây, hoa loa kèn đã được một số nơi trồng trái vụ để có hoa để cung cấp cho nhu cầu chơi hoa quanh năm nhất là vào Tết nguyên đán và ngày quốc tế phụ nữ 8-3. Tuy nhiên, hoa loa kèn không thích hợp với thời tiết nắng nóng, nếu trồng trước thời điểm tháng 9 và tháng 10, cây con bị nắng tỷ lệ chết cao. Vì vậy, để có hoa loa kèn trái vụ như mong muốn thì khi trồng cần tuân thủ các quy trình sau:
Nên rút ngắn thời gian củ hoa kèn nằm trong đất và dùng dung dịch gibberellin từ 10 đến 15mg/l phun ướt đẫm hoặc ngâm củ hoa. Sau đó cho vào sọt và đem đi xử lý lạnh trong một thời gian nhất định.
Khi cây hoa phát triển cao 10cm trở lên thì phun chế phẩm ra lá phát chồi, cứ 15 ngày phun l lần. Chế phẩm này giúp cho cây phát triển nhanh trong điều kiện không thuận lợi, chóng đạt độ cao cho phép hình thành. Tránh được hiện tượng ra hoa mà cây quá thấp, giá trị cành hoa sẽ không cao.
Khi cây chuẩn bị ra hoa, có thể phun chế phẩm kích thích ra hoa để cây ra hoa nhiều và to.Từ đó, giá trị hoa thương phẩm sẽ được nâng cao hơn nữa.
Săn hoa loa kèn
Tháng tư Hà Nội chẳng thể lẫn với tháng tư ở một nơi nào khác, bởi nó ngập tràn trong sắc trắng mong manh và hương thơm tinh khiết của một loài hoa có tên gọi “âm vang đất trời”: Hoa loa kèn.
Chỉ bừng nở trong mấy chục ngày ngắn ngủi nên loa kèn trở thành loài hoa “độc tôn” trong tháng ngày chuyển giao mùa...
Tháng tư Hà Nội chẳng thể lẫn với tháng tư ở một nơi nào khác, bởi nó ngập tràn trong sắc trắng mong manh và hương thơm tinh khiết của một loài hoa có tên gọi “âm vang đất trời”: Hoa loa kèn.
Chỉ bừng nở trong mấy chục ngày ngắn ngủi nên loa kèn trở thành loài hoa “độc tôn” trong tháng ngày chuyển giao mùa...
Có lẽ không đâu người ta yêu hoa loa kèn như người Hà Nội. Yêu vì cái đẹp của
Hà thành đã gắn với những gánh hoa rong, vì loài hoa này đã gắn với tháng tư ngọt
ngào của xứ kinh kỳ. Khi những chiếc xe đạp cũ kỹ chở lúc lỉu những búp loa kèn
mướt xanh thong dong dạo phố, chẳng ai cầm lòng được mà không sà vào một xe hoa
ven đường, chọn cho mình chục bông mơn mởn còn ướt đẫm sương đêm.
Những người “săn” hoa
Những ngày đầu tháng tư, làng hoa Nhật Tân đón rất nhiều đoàn khách nườm nượp đến thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa loa kèn. Người chụp ảnh, người mua hoa, cũng có người chỉ ngắm và…suy tư. Nhưng tất thảy đều mê mẩn trước vẻ đẹp sáng trong của những nụ loa kèn xanh biếc, đâu đó lấp ló vài bông hoa trắng tinh khôi nở sớm.
Hoa loa kèn bán tại vườn thường rẻ hơn so với trong thành phố từ 5.000 – 10.000 đồng. Bởi vậy sau khi ngắm nhìn “đã mắt” và hít căng lồng ngực hương thơm tinh khiết của hoa, hầu như ai cũng tranh thủ mua về một bó kèn trắng thật to.
Với Quỳnh Anh, SV Học viện Báo chí và Tuyên truyền: “Cái cảm giác được tự tay cắt những cành hoa mập mạp, tươi rói trên ruộng cũng khiến người ta thấy yêu thương, gắn bó hơn với chúng”.
Mùa loa kèn cũng là lúc những “tay máy” bắt đầu mùa… săn hoa. Máy ảnh trên tay, rong ruổi khắp các đường phố Hà thành, chợ hoa Nghi Tàm, Quảng Bá, vườn hoa Nhật Tân, bãi đá sông Hồng… chỉ để ghi lại những nét đẹp của mùa hoa ngắn ngủi này.
Những người “săn” hoa
Những ngày đầu tháng tư, làng hoa Nhật Tân đón rất nhiều đoàn khách nườm nượp đến thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa loa kèn. Người chụp ảnh, người mua hoa, cũng có người chỉ ngắm và…suy tư. Nhưng tất thảy đều mê mẩn trước vẻ đẹp sáng trong của những nụ loa kèn xanh biếc, đâu đó lấp ló vài bông hoa trắng tinh khôi nở sớm.
Hoa loa kèn bán tại vườn thường rẻ hơn so với trong thành phố từ 5.000 – 10.000 đồng. Bởi vậy sau khi ngắm nhìn “đã mắt” và hít căng lồng ngực hương thơm tinh khiết của hoa, hầu như ai cũng tranh thủ mua về một bó kèn trắng thật to.
Với Quỳnh Anh, SV Học viện Báo chí và Tuyên truyền: “Cái cảm giác được tự tay cắt những cành hoa mập mạp, tươi rói trên ruộng cũng khiến người ta thấy yêu thương, gắn bó hơn với chúng”.
Mùa loa kèn cũng là lúc những “tay máy” bắt đầu mùa… săn hoa. Máy ảnh trên tay, rong ruổi khắp các đường phố Hà thành, chợ hoa Nghi Tàm, Quảng Bá, vườn hoa Nhật Tân, bãi đá sông Hồng… chỉ để ghi lại những nét đẹp của mùa hoa ngắn ngủi này.
Mải mê lựa chọn hoa loa
kèn..
Lê Vương, SV ĐH Kiến trúc, một tay chơi ảnh nghiệp dư, tâm sự: “Cả tháng tư, đi
đâu mình cũng giữ máy ảnh kè kè bên mình. Bắt gặp hoa loa kèn giữa phố là “chớp”
luôn. Nhiều khi còn thức trắng đêm để “săn” cảnh mua bán loa kèn ở các chợ hoa
đêm”. Hầu như chẳng ai giữ làm của riêng, những bức ảnh ấy được đưa lên các diễn
đàn, blog, trang cá nhân, làm avatar… Loài hoa này phủ sắc trắng tinh khôi của
mình trên khắp các mặt báo, trang tin.
Cứ thử gõ từ khóa “hoa loa kèn” trên google, sẽ ra hơn 150.000 kết quả. Vẫn loài hoa ấy, vẫn hương sắc ấy nhưng cảm xúc luôn luôn nồng nàn tươi mới, chẳng bao giờ lặp lại.
Loa kèn chỉ nở rộ trong khoảng một tháng ngắn ngủi, nên người yêu hoa cũng… vội vã. Người ta chơi hoa ngay từ khi nó mới bắt đầu chớm nụ. Hoa đầu mùa thường bán với giá khá đắt: 25.000 - 30.000 đồng một bó. Thế nhưng chọn được bó hoa đẹp, cũng chẳng ai nỡ mặc cả nhiều.
Hằng ngày, trong làn thức ăn cho gia đình hay trong tập tài liệu đến công sở có thêm bó loa kèn. Hoa theo người về nhà, vào nơi làm việc… dù là nơi sang trọng hay giản dị, một vài đóa hoa trắng muốt cũng đủ làm bừng sáng cả không gian.
Yêu hoa, có người suốt cả tháng tư chỉ cắm độc một loại hoa kèn như chị Phương ở đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội. Chị Phương kể: “Mình yêu hoa loa kèn từ khi còn rất bé, đến giờ vẫn giữ thói quen mua loa kèn về cắm trong nhà từ đầu tháng đến khi tàn hết mùa hoa mới thôi. Cả tháng, trong nhà lúc nào cũng có một bình loa kèn tươi rói”.
Rong ruổi phố phường cùng bao thứ hoa rực rỡ khác, thế nhưng sắc sáng trong của loa kèn chẳng hề lẫn lộn. Dẫu trên yên xe của người bán rong vẫn rực rỡ nào hồng, nào cúc, mimosa, hoa bướm… người mua hầu như chẳng chọn gì khác ngoài loa kèn. Trong suốt tháng tư giao mùa, loa kèn xứng đáng được đội vương miện “nữ hoàng”.
Những người “thai nghén” cho hoa
Cứ thử gõ từ khóa “hoa loa kèn” trên google, sẽ ra hơn 150.000 kết quả. Vẫn loài hoa ấy, vẫn hương sắc ấy nhưng cảm xúc luôn luôn nồng nàn tươi mới, chẳng bao giờ lặp lại.
Loa kèn chỉ nở rộ trong khoảng một tháng ngắn ngủi, nên người yêu hoa cũng… vội vã. Người ta chơi hoa ngay từ khi nó mới bắt đầu chớm nụ. Hoa đầu mùa thường bán với giá khá đắt: 25.000 - 30.000 đồng một bó. Thế nhưng chọn được bó hoa đẹp, cũng chẳng ai nỡ mặc cả nhiều.
Hằng ngày, trong làn thức ăn cho gia đình hay trong tập tài liệu đến công sở có thêm bó loa kèn. Hoa theo người về nhà, vào nơi làm việc… dù là nơi sang trọng hay giản dị, một vài đóa hoa trắng muốt cũng đủ làm bừng sáng cả không gian.
Yêu hoa, có người suốt cả tháng tư chỉ cắm độc một loại hoa kèn như chị Phương ở đường Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội. Chị Phương kể: “Mình yêu hoa loa kèn từ khi còn rất bé, đến giờ vẫn giữ thói quen mua loa kèn về cắm trong nhà từ đầu tháng đến khi tàn hết mùa hoa mới thôi. Cả tháng, trong nhà lúc nào cũng có một bình loa kèn tươi rói”.
Rong ruổi phố phường cùng bao thứ hoa rực rỡ khác, thế nhưng sắc sáng trong của loa kèn chẳng hề lẫn lộn. Dẫu trên yên xe của người bán rong vẫn rực rỡ nào hồng, nào cúc, mimosa, hoa bướm… người mua hầu như chẳng chọn gì khác ngoài loa kèn. Trong suốt tháng tư giao mùa, loa kèn xứng đáng được đội vương miện “nữ hoàng”.
Những người “thai nghén” cho hoa
Những đóa hoa vừa cắt chờ
người đến mua
Về Nhật Tân bây giờ, bất kể lúc nào trong ngày cũng thấy người nông dân lúi húi
trên những luống loa kèn cắt hoa, tưới nước… Mặc dù loa kèn chỉ nở trong vài tuần,
nhưng để có một mùa hoa như ý, người trồng đã phải chăm chút, tỉ mỉ cả năm trời.
Muốn hoa đẹp, khâu quan trọng nhất là củ giống. Khi mùa loa kèn đã tàn, củ hoa được đào lên, phơi qua nắng cho đỡ ẩm mốc rồi chờ đến mùa vụ sau. Loa kèn thường được trồng chủ yếu vào tháng 9, tháng 10 nhưng phải chờ đến tháng tư năm sau mới được thu hoạch. Nếu được chăm sóc tốt, một củ giống có khi cho tới 15 - 16 bông hoa, còn nếu phát triển kém chỉ có 1 - 2 hoa.
Giống loa kèn cũng “đỏng đảnh” lắm. Chỉ cần lơ là trong chăm sóc hoặc gặp thời tiết bất ổn là người nông dân có thể gần như mất trắng cả vụ hoa. Gặp những năm thời tiết thất thường như năm nay, người trồng hoa cũng phải vất vả để “chiều” cái tính khí của loa kèn.
Bác Mai, chủ một ruộng hoa ở Nhật Tân, cho biết: “Loa kèn là loài ưa độ ẩm, gặp thời tiết khô hanh sẽ không chịu ra nụ, nở hoa”. Ngay từ khi bắt đầu ươm mầm, gia đình bác đã phải thay nhau tưới tắm, giữ độ ẩm cho từng luống hoa. Đến khi hoa chớm nụ lại phải bơm phèn vào từng bông để hoa nở ra đều và to đẹp. Nhiều gia đình còn kỳ công mắc giàn đèn suốt đêm phía trên mỗi luống hoa để kích thích cho cành hoa vươn dài và mập mạp, khỏe mạnh.
Bên cạnh những vườn hoa kèn mơn mởn đầy sức sống, người yêu hoa không khỏi xót lòng vì nhiều luống loa kèn hoa vẫn nở rộ, một cành trĩu nặng đến 3 - 4 bông, nhưng cánh hoa nào cũng lốm đốm những vệt nâu. Vất vả là thế, nhưng nếu trúng mùa mỗi vụ hoa, người nông dân chỉ thu được khoảng chục triệu đồng cho công sức cả năm cần mẫn. Nhưng “trồng hoa vì mưu sinh, nhưng cũng vì yêu hoa”, chị Hoa, một người trồng hoa ở Nhật Tân, thổ lộ.
Tháng tư đã sắp đi hết những ngày cuối cùng. Sắc trắng hoa loa kèn vẫn còn quanh quất đâu đây giữa phố phường Hà Nội. Hôm nay, ngày mai, sẽ có những người yêu hoa vẫn cố tìm những nụ hoa e ấp cuối mùa, để lưu giữ lại cái tinh khôi của một mùa hoa, và nén lòng chờ đợi đến mùa sau.
Muốn hoa đẹp, khâu quan trọng nhất là củ giống. Khi mùa loa kèn đã tàn, củ hoa được đào lên, phơi qua nắng cho đỡ ẩm mốc rồi chờ đến mùa vụ sau. Loa kèn thường được trồng chủ yếu vào tháng 9, tháng 10 nhưng phải chờ đến tháng tư năm sau mới được thu hoạch. Nếu được chăm sóc tốt, một củ giống có khi cho tới 15 - 16 bông hoa, còn nếu phát triển kém chỉ có 1 - 2 hoa.
Giống loa kèn cũng “đỏng đảnh” lắm. Chỉ cần lơ là trong chăm sóc hoặc gặp thời tiết bất ổn là người nông dân có thể gần như mất trắng cả vụ hoa. Gặp những năm thời tiết thất thường như năm nay, người trồng hoa cũng phải vất vả để “chiều” cái tính khí của loa kèn.
Bác Mai, chủ một ruộng hoa ở Nhật Tân, cho biết: “Loa kèn là loài ưa độ ẩm, gặp thời tiết khô hanh sẽ không chịu ra nụ, nở hoa”. Ngay từ khi bắt đầu ươm mầm, gia đình bác đã phải thay nhau tưới tắm, giữ độ ẩm cho từng luống hoa. Đến khi hoa chớm nụ lại phải bơm phèn vào từng bông để hoa nở ra đều và to đẹp. Nhiều gia đình còn kỳ công mắc giàn đèn suốt đêm phía trên mỗi luống hoa để kích thích cho cành hoa vươn dài và mập mạp, khỏe mạnh.
Bên cạnh những vườn hoa kèn mơn mởn đầy sức sống, người yêu hoa không khỏi xót lòng vì nhiều luống loa kèn hoa vẫn nở rộ, một cành trĩu nặng đến 3 - 4 bông, nhưng cánh hoa nào cũng lốm đốm những vệt nâu. Vất vả là thế, nhưng nếu trúng mùa mỗi vụ hoa, người nông dân chỉ thu được khoảng chục triệu đồng cho công sức cả năm cần mẫn. Nhưng “trồng hoa vì mưu sinh, nhưng cũng vì yêu hoa”, chị Hoa, một người trồng hoa ở Nhật Tân, thổ lộ.
Tháng tư đã sắp đi hết những ngày cuối cùng. Sắc trắng hoa loa kèn vẫn còn quanh quất đâu đây giữa phố phường Hà Nội. Hôm nay, ngày mai, sẽ có những người yêu hoa vẫn cố tìm những nụ hoa e ấp cuối mùa, để lưu giữ lại cái tinh khôi của một mùa hoa, và nén lòng chờ đợi đến mùa sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét