Bối cảnh ra đời của nhạc tiền
chiến
Bối cảnh ra đời của nhạc tiền
chiến cũng chính là bối cảnh ra đời của tân nhạc Việt Nam. Đó là Việt Nam những
năm đầu thế kỷ 20, xuất hiện sau phong trào thơ mới và dòng văn học lãng mạn
vài năm.
Sau Thế chiến thứ nhất, ở Việt
Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp tư sản. Chủ nghĩa tư bản của người
Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn.
Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ có tây học
xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Một tầng lớp
tiểu tư sản ở thành thị hình thành.
Giai cấp tư sản và một bộ phận
tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt
thành thị mới với nhiều tiện nghị theo văn minh Tây phương . Họ ở nhà lầu, đi ô
tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành
thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi
mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ
và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Nếu như những nhà văn lãng mạn,
thi sĩ của phong trào thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp thì những
nhạc sĩ tiền chiến cũng chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Ảnh hưởng của âm nhạc Tây
phương
Đầu thế kỷ 20, những bài hát
Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours
(vòng), hoặc trên màn ảnh những phim nói. Các thanh niên thời đó không còn
thích đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt nữa mà thay vào đó là mandoline,
guitare hơn nữa là violon, piano để có thể làm quen với những bài hát nước
ngòai mà họ ưa thích. Rồi họ bắt đầu soạn lời Việt cho những ca khúc nước
ngoài, chủ yếu để hát trong bạn bè cho nhau nghe.
Nhưng người thành công nhất
trong việc sử dụng nhạc điệu Âu Mỹ để đưa ra những bài hát mới, chính là nghệ
sĩ Huỳnh Thủ Trung tức Tư Chơi. Ông vừa là diễn viên, vừa là soạn giả và còn muốn
là người soạn nhạc nữa cho nên ông đã sáng tác những ca khúc ngắn mà ông gọi là
"bài ta theo điệu tây" và soạn ra những tiểu ca kịch (opérette) mà
ông đặt tên là "hoạt kê hài hước" (opérette comique) trình diễn trên
sân khấu các đoàn hát xuất xứ từ miền Nam là Trần Đắt và Phước Cương (gánh hát
của Bạch Công Tử) vào khoảng 1933-1934.
Trên sân khấu các đoàn Trần
Đắt và Phước Cương, ngoài việc soạn ra những tích tuồng mới phản ảnh xã hội Việt
Nam vào lúc đó, nghệ sĩ Tư Chơi còn muốn cải cách cả phần âm nhạc. Ông không muốn
dùng các bài bản có tính chất cổ truyền như Lưu Thủy, Hành Vân trong opérette của
mình. Với sự phổ biến của máy hát chạy bằng lò xo, những "bài hát theo thời"
(chansons à la mode) Âu Mỹ đã bắt đầu thịnh hành trong xã hội đô thị Việt Nam.
Những bài Pháp như J'ai Deux Amours, Quand On Est Matelot... đã được nhiều người
biết đến.
Có thể nói việc làm của nghệ
sĩ Tư Chơi đã thành công. Một số bài dù khởi đầu phóng tác từ một điệu Tây, về
sau được coi là điệu Việt Nam hoàn toàn. Ví dụ bài Hoà duyên nằm trong nhạc mục
của ngành ca kịch cải lương, ít người biết nó khởi sự là một bài ta theo điệu
Tây của Tư Chơi, Huỳnh Thủ Trung.
Cùng một lúc với việc Tư
Chơi tung ra trên sân khấu những "bài ta theo điệu tây", thì trong giới
yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát Tây do các ca sĩ thời thượng
như Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... hát vào đĩa hát
78 tours (vòng). Các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam như Ái Liên, Kim Thoa, lại được
các hãng đĩa của người Pháp Odéon, Béka mời thu thanh các bài ta theo điệu tây.
Trong năm từ 1935 cho tới
1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à capri, Tant qu'il y
aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de
la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts
de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... (phần lớn là sáng tác của
nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto) và của Mỹ như Good bye Hawaii, South of the
border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo
trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác.
Đã có những hội "Ái
Tino" được thành lập ở Hà Nội, ở Hải Phòng... Một thanh niên có giọng hát
tốt, sau này là một nhạc sĩ được nhiều người biết tới, nhạc sĩ Canh Thân, bắt đầu
cuộc đời ca hát của anh bằng cái tên Tino Thân.
Phạm Duy gọi giai đoạn từ
1935 cho tới 1938 là Thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam
Tân nhạc hình thành 1938
Năm 1938 được coi là điểm mốc
đánh dấu sự hình thành của tân nhạc Việt Nam với những buổi biểu diễn và thuyết
trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Hà Nội.
Bài hát được công nhận ca
khúc đầu tiên của tân nhạc là Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu sáng tác
1930. Sau Cùng nhau đi Hồng binh, cũng có nhiều nhạc sĩ khác bắt đầu sáng tác
ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ hành khúc (1936) của Lê Yên, Tiếng sáo chăn
trâu (1935), Bên hồ liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung, Xuân
năm xưa (1936) của Lê Thương. Nhưng các nhạc sĩ đó sáng tác và trình bày những
ca khúc của mình chỉ trong phạm vi bạn bè. Nguyễn Văn Tuyên là người đầu tiên
trình bày ca khúc nhạc cải cách trước công chúng và sau đó những bài hát này được
phổ biến rộng rãi trên báo chí.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi
đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Ái Nhạc (Philharmonique). Ông
bắt đầu hát nhạc Tây và đạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937 Nguyễn
Văn Tuyên phổ một bài thơ của một người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của
ông. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa
thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu
ông với thống đốc của Nam Kỳ (Cochinechina) khi đó là Pagès (có tài liệu ghi
Rivoal). Thống đốc Nam Kỳ nghe Nguyễn Văn Tuyên hát và đã mời ông du lịch tới
Pháp để tiếp tục học nhạc, nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình.
Thay vì vậy ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ đi một vòng Việt
Nam tới các thành phố Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc
mới này. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc
cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3 năm
1938, Nguyễn Văn Tuyên có nói chuyện tại hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động
cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại
buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều
thanh niên Hà Nội lúc đó cho rằng việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải
cách đã có sẵn tại đó.
Tại hội Tri Tri Hải Phòng,
Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng ông đã
có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng
cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ Học
Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa.
Và lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông cúc vàng.
Tiếp đó tháng 9 1938, tờ
Ngày Nay của Nhất Linh, một tờ báo uy tín bấy giờ, cho đăng những bản nhạc đầu
tiên Bông cúc vàng, Kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bình minh của Nguyễn Xuân
Khoát, Bản đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám mây hàng,
Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc...
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước
được các nhạc sĩ phát hành. Đầu 1939, nhiều bản nhạc của các nhóm, nhạc sĩ được
bày bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Các nhóm nhạc và nhạc sĩ
tiên phong Văn Cao khi 20 tuổi
Nguyễn Xuân Khoát
Được xem như người anh cả
trong tân nhạc Việt Nam. Nguyễn Xuân Khoát tuy sáng tác không nhiều vào thời kỳ
tiền chiến nhưng những sáng tác của ông lại làm nên những mốc giá trị. Trước
khi tác phẩm đầu tay là Bình minh ra đời, ông đã có nhiều bài khảo cứu hay thuyết
trình cho sự cải cách nhạc Việt, được đăng nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực
Văn Đoàn. Tác phẩm Mầu thời gian của ông phổ thơ Đoàn Phú Tứ, vừa ra đời đã được
hoan nghênh lớn.
Lê Thương
Nhạc sĩ Lê Thương khi đó dạy
học ở Hải Phòng. Ông là một trong những người có sáng tác sớm nhất. Lê Thương
cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành
một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn
kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ. Ông đã để lại nhiều ca khúc, đặc biệt là những
bài truyện ca bất hủ như Bản đàn xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo
Kinh Châu và Hòn vọng phu.
Văn Cao
Văn Cao cũng ở Hải Phòng.
Ban đầu ông thuộc nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý và có những sáng tác đầu tay như
Buồn tàn thu, Vui lên đường. Năm 1941, Văn Cao lên Hà Nội, ông đã viết những nhạc
phẩm giá trị vượt thời gian như Trương Chi, Thiên Thai, Suối mơ, Bến xuân...
Sau đó Văn Cao tham gia Việt Minh và viết Tiến quân ca năm 1944 và Trường ca
Sông Lô năm 1947.
Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong thuộc nhóm
Nam Định, nhưng ông sớm rời bỏ thành phố để lên Hà Nội. Đầu 1941 Đặng Thế Phong
vào Sài Gòn rồi sang Campuchia. Cuối 1941 ông trở lại Hà Nội và mất vào năm
1942 bởi bệnh lao. Đặng Thế Phong chỉ để lại ba nhạc phẩm Đêm thu, Con thuyền
không bến và Giọt mưa thu. Các sáng tác của ông được xem là tiêu biểu cho dòng
nhạc tiến chiến và có ảnh hưởng đến những nhạc sĩ sau đó.
Phạm Duy
Ban đầu là ca sĩ của gánh
hát Đức Huy, nên Phạm Duy còn được xem như một trong những người đầu tiên đem
thể loại nhạc này đi phổ biến khắp mọi miền đất nước. Phạm Duy gia nhập làng nhạc
sĩ năm 1942 với bài Cô hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, tiếp đó là những bản nhạc
lãng mạn như Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya hay đậm
chất dân ca như Em bé quê, Tình ca, Bà mẹ quê, Gánh lúa...Phạm Duy và Văn Cao
là hai người bạn thân nên thường giúp đỡ nhau trong nghề, họ từng sáng tác
chung các ca khúc Bến xuân, Suối mơ.
Phạm Duy là người có công đầu
trong việc đem chất dân ca vào tân nhạc, điều này khiến nhạc cải cách xích lại
gần với tầng lớp nông dân, dân nghèo.
Nhóm Myosotis
Myosotis có nghĩa là hoa lưu
ly, nhóm nhạc này gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng,
Trần Dư, Vũ Khánh... trong đó hai thành viên quan trọng nhất là Thẩm Oánh và
Dương Thiệu Tước. Hai xu hướng chính của nhóm là:
* Sáng tác nhạc mới nhưng có
âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
* Sáng tác hoàn toàn theo nhạc
ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước chủ trương.
Từ 1938 cho tới 1942, nhóm
Myosotis với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước đã để lại nhiều nhạc
phẩm giá trị, phần lớn theo phong cách trữ tình lãng mạn.
Nhóm Tricéa
Nhóm Tricéa gồm ba thành
viên Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn. Tên nhóm Tricéa có nghĩa: 3 chữ C và 3 chữ
A được viết tắt từ tiếng Pháp: Collection Des Chants Composés Par Des Artistes
Annamites Associés: "Tuyển chọn các tác phẩm âm nhạc của nhóm người viết
nhạc Annam".
Những năm khoảng 1939, nhiều
ca khúc của nhóm được quần chúng yêu thích như: Ca khúc ban chiều, Trên thuyền
hoa, Bóng ai qua thềm của Văn Chung; Biệt ly, Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm
thu của Doãn Mẫn; Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa phi đường xa, Vườn xuân
của Lê Yên. Cả ba nhạc sĩ của Tricéa đều thành công, trong đó hơn cả là Doãn Mẫn.
Họ đã để lại nhiều nhạc phẩm giá trị, một số trong đó được đánh giá vượt thời
gian
Nhóm Đồng Vọng
Nhóm Đồng Vọng được thành lập
năm 1939 bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của
phong trào Hướng đạo. Xuất hiện ngay từ những năm đầu, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi
Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phú (tức Tô Vũ),
Đồng Vọng mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam.
Ngoài những bản hùng ca viết
cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn để lại nhiều bản
tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng Hội Sinh Viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng
đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.
Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
Tổng Hội Sinh Viên được
thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với nhóm Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh
Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam, nhưng so với Đồng Vọng thì Tổng
Hội Sinh Viên manh tính chính trị nhiều hơn.
Tổng Hội Sinh Viên được khởi
đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam tỏ ra có khả
năng văn nghệ. Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc
trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm
sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước
trong dân chúng, đặc biệt là những học sinh, sinh viên. Những ca khúc như Tiếng
gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn
Sông Gianh... đã để lại dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1954
Từ năm 1946, nhiều nhạc sĩ
lên chiến khu và viết ca khúc kháng chiến của Việt Minh chống Pháp. Nhưng nhiều
người trong số họ vẫn có những sáng tác lãng mạn như Nguyễn Văn Tý với Dư âm,
Trần Hoàn với Sơn nữ ca, Lê Mộng Nguyên với "Trăng Mờ Bên Suối", Tô Hải
với Nụ cười sơn cước, Việt Lang với Tình quê hương...
Trong vùng đô thị Pháp tạm
chiếm, cả hai dòng nhạc yêu nước và lãng mạn tiếp tục được trình diễn trên đài
phát thanh, trong vũ trường và các quán rượu. Năm 1950, tạp chí Việt Nhạc của
đài phát thanh Hà Nội đã xuất bản một danh mục hơn 300 ca khúc Việt Nam họ đã
phát thanh gồm cả những bài hát lãng mạn và những bài hát mới được sáng tác
dành cho những người lính kháng chiến trong rừng núi. Cho tới lúc chấm dứt hoạt
động vào năm 1954, họ đã phát thanh được hơn 2000 bài của hơn 300 tác giả.
Sau 1954 ở miền Nam
Sau năm 1954, Việt Nam chia
làm hai miền với chế độ khác nhau. Những nhạc sĩ tiền chiến ở lại miền Bắc
không còn sáng tác, hoặc không phổ biến những ca khúc trữ tình lãng mạn. Những
nhạc phẩm tiền chiến cũng giống như các tác phẩm văn học lãng mạn (ví dụ tiểu
thuyết Tự Lực Văn Đoàn) không được phép lưu hành. Những bài hát ở miền Bắc khi
đó thường để cổ vũ chiến đấu, xây dựng đất nước, đấu tranh cách mạng... và được
xếp vào dòng nhạc đỏ.
Một số nhạc sĩ khác di cư
vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn Phụng... hoặc từ trước đó như Lê
Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn như Phạm Đình Chương, Cung Tiến...
đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền Nam.
Những nhạc sĩ này trong khoảng
1954 đến 1975 có những sáng tác đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được
xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến, có thể kể đến là Mộng dưới hoa, Trường ca Hội
trùng dương, Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương, Hương xưa, Thu vàng của
Cung Tiến. Những nhạc phẩm tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi
những tiếng hát hàng đầu như Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Duy Trác, Sĩ Phú, Hà
Thanh, Hoàng Oanh (Bài Thơ Huế, Nhớ Huế... của Lê Mộng Nguyên)
Số phận nhạc tiền chiến sau
1975
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam sau 1975, phần
lớn những ca khúc tiền chiến vẫn không được lưu hành. Cho tới năm 1987, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh đưa ra quyết định "cởi trói văn nghệ", một số bản
nhạc tiền chiến mới được trình diễn trở lại. Từ đó, những nhạc phẩm của Văn
Cao, Đoàn Chuẩn, Đặng Thế Phong,Lê Mộng Nguyên... được các ca sĩ trình diễn nhiều
nơi, trong đó phải kể đến những nỗ lực của ca sĩ Ánh Tuyết.
Những năm đầu thế kỷ 21, những
ca khúc đầu tiên của dòng tân nhạc ấy vẫn thường xuyên được các ca sĩ trẻ trình
diễn và thu âm. Và một vài người trong số đó đã thanh danh nhờ dòng nhạc này.
Ở hải ngoại
Sau sự kiện 30 tháng 4 1975,
nhiều ca sĩ và nhạc sĩ của miền Nam rời Việt Nam định cư tại nhiều nước trên thế
giới, tập trung nhất ở Hoa Kỳ. Tại hải ngoại, các nhạc sĩ như Phạm Đình Chương,
Văn Phụng, Hoàng Trọng, Cung Tiến... ít sáng tác. Có thể nói không nhạc phẩm
nào ra đời ở hải ngoại được xếp vào dòng nhạc tiền chiến.
Nhưng dòng nhạc đó vẫn được
yêu thích, những ca sĩ đã thành danh trước 1975 như Khánh Ly, Lệ Thu, Thái
Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Hoàng Oanh... hay
những ca sĩ trẻ như Trần Thái Hòa, Ngọc Hạ... thường xuyên trình diễn những nhạc
phẩm này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét