Văn hóa Việt Nam 1
Để phục vụ tốt
Nói về Khổng và Lão tử, sử gia nổi tiếng của Trung Hoa còn để
lại cho chúng ta một mẩu chuyện, đại ý như sau:
Lão Tử đang làm quan thủ thư của Nhà Chu, Khổng tử tới nghiên
cứu để san định bộ Lễ Kinh. Thầy hỏi Lão Đam thật nhiều về Lễ nghi tiền triều.
Lão Đam đáp:
"Những người mà ông nói tới kia đã tan xương nát thịt cả rồi. Chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, người quân tử gặp thời thì xe ngựa võng giá nghênh ngang; không gặp thời, thì cỏ bồng xoay theo chiều gió. Tôi nghe nói: 'Người buôn giỏi thì biết giấu của báu, khiến người thấy như không có hàng hoá chi cả. Người quân tử đức cao thì diện mạo ngó ngu sĩ". Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều, bỏ cái vẻ hăm hở cùng cái chí tham lam đi. Những thứ đó đều không ích gì cho ông cả. Tôi chỉ bảo ông có thế thôi.
Khổng Tử ra đi, bảo môn đồ:
Con chim, ta biết nó bay; con cá, ta biết nó lội; con thú, ta
biết nó chạy. Ta có thể dùng lưới để săn loài chạy; có thể dùng câu để bắt loài
lội; có thể dùng tên để bắn loài bay. Đến như con rồng cưỡi mây lướt gió trên
trời, ta không sao biết được.
Chỉ cách nhau 20 năm, nhưng Khổng Tử sinh trưởng ở lưu vực
Hoàng Hà, còn Lão Đam dân lúa nước, lưu vực sông Dương tử. Trong những vùng đất
trời và dòng tộc khác nhau, họ thừa hưởng hai nền văn hoá khác nhau, học thuyết
Khổng và Lão đương nhiên cũng thật là khác nhau.
Hai vị hiểu nhau còn khó, nói chi chúng ta, người theo sau cả
vài thiên kỷ, làm sao hiểu được họ và ảnh hưởng họ để lại trong cuộc sống đồng
bào và dân tộc ta!
Khi cả hai học thuyết đó du nhập Việt Nam, do áp lực chính trị
hoặc văn hoá, tiền nhân chúng ta đã pha trộn với cả những giáo huấn Việt Nam và
học thuyết Phật giáo Nam Bắc Tông.
Kitô-giáo từ ba thế kỷ nay và học thuyết Mác Lê sáu bẩy chục
năm nay hiển nhiên chưa có độ dài lịch sử bằng Triết học Trung hoa, nhưng cũng
vì tính bảo vệ giáo điều, mà khó thấm nhập văn hoá và con người thuộc các dân tộc
Việt Nam cũng như Á châu. Vùng đất mênh mông, nhưng gồm không nhiều dòng tộc từ
thời cổ sử, mà những dòng tộc này đều kiên cường, bất khuất, có thể thích ứng,
mà không bị tiêu diệt. Nhưng nếu muốn Thích nghi Văn hoá, bạn phải biết những
nét cơ bản của nền văn hoá này.
Tập sách Bạn đang cầm đây muốn giúp Bạn nhận diện Văn Hoá
này. Văn-hoá của dòng tộc Việt Nam, trải qua bao thời đại và hiện nay, đang hướng
về tương lai rất mới.
PHẦN I: VĂN HOÁ
VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Khái niệm
VĂN HÓA
2. KHOA HỌC
văn hóa
3. Cội nguồn
văn hóa Việt Nam
1.KHÁI NIỆM
Người ta gọi Người và Văn Hoá là một tinh thần đã được gieo
trồng
Đừng muốn biểu diễn văn hoá hơn cả cơ bắp.
Văn hoá bơi lội dưới câu cú
[1] Văn Hóa LÀ…
Đúng là có lắm quan niệm nhiều ít khác nhau về nội dung từ
VĂN HÓA
Làm sao có một khái niệm tương đối đồng nhất?
Chúng ta điểm qua mấy quan niệm được khá nhiều người biết đến:
1. Đào Duy Anh trong "VN Văn Hóa sử cương"
Ngay từ những thập niên khởi đầu xây dựng Văn Học Quốc Ngữ của
chúng ta, Đào Duy Anh đã hiện ra như một học giả với tác phẩm giáo khoa uy tín
từ năm 1938: "Việt Nam Văn Hoá sử cương". Ngay trang đầu, theo lối
tác phẩm tư tưởng Âu Mỹ, ông xác định từ ngữ:
"VĂN HOÁ LÀ GÌ?
Người ta thường cho rằng văn hoá là chỉ những học thuật tư tưởng
của loài người, nhân thế mà xem văn hoá vốn có tính chất cao thượng đặc biệt.
Thực ra không phải như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của
văn hoá nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cùng hết thảy
các phong tục tập quán tầm thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hoá hay
sao? Hai tiếng văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt
của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hoá tức là sinh
hoạt.
Văn hoá đã tức là sinh hoạt thì không kể là dân tộc văn minh
hay dã man đều có văn hoá riêng của mình, chỉ khác nhau về trình độ cao thấp mà
thôi. Ví dụ văn hoá các dân tộc Âu Mỹ thì cao, mà văn hoá của các dân tộc mọi rợ
ở Phi châu, Úc châu cùng các giống người Mường, Mán, Mọi ở nước ta thì thấp" [4].
Định nghĩa trên của họ Đào đã thật là hay, tuy vẫn còn vài điều
bất ổn. Thí dụ: Căn cứ vào đâu hoặc dùng tiêu chuẩn nào mà bảo: "Văn hoá của
các dân tộc Âu Mỹ thì CAO, mà văn hoá của các dân tộc mọi rợ ở Phi châu, Úc
châu cùng các giống người Mường, Mán, Mọi ở nước ta thì THẤP"? Bằng vào phẩm
cách gì mà bảo dân này là Mọi, dân kia là man di? Phải có mẫu số chung và tiêu
chuẩn chung mới so sánh và đo lường được !
2. Trần ngọc Thêm "Tìm về bản sắc văn hóa VN."
Chúng ta nghe một trong những giáo sư nổi tiếng hiện nay, một
trong những người đã được sang tận Liên-xô học thi tiến sĩ Ngữ học và về làm
giáo sư tại Đại học Hà-nội và Sài-gòn. Ông Trần Ngọc Thêm trong giáo trình
"Tìm về Bản sắc Văn Hoá Việt Nam" đã viết:
"Từ "văn hoá" có rất nhiều nghĩa, nó được dùng
để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hoá
được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hoá), lối sống (nếp
sống văn hoá); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn
(Văn hoá Đông sơn)… "Đề cương về văn hoá Việt Nam" của Đảng CSĐD năm
1943 đã xếp văn hoá bên cạnh kinh tế, chính trị và xem nó bao gồm cả tư tưởng,
học thuật (=khoa học, giáo dục), nghệ thuật. Ủy ban UNESCO của Liên hiệp quốc
thì xếp văn hoá bên cạnh khoa học và giáo dục, tức là đặt hai lĩnh vực này ra
ngoài khái niệm văn hoá.
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO cho biết: "Đối với
một số người, văn hoá chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lãnh vực
tư duy và sáng tạo, đối với những người khác, văn hoá bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại
nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ
hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các
chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise". Chính với cách hiểu rộng
này, văn hoá mới là đối tượng đích thực của văn học…" [5]
Sau khi giải thích bốn đặc trưng cơ bản của Văn Hoá, tác giả
cũng tìm về định nghĩa:
"Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình". [6]
Đọc nội dung tác phẩm của Đào Duy Anh và Trần Ngọc Thêm,
chúng ta thấy cả hai giáo sư đều theo cách hiểu bao quát như Liên hiệp quốc
nhìn nhận năm 1970.
3. Gs. Nguyễn Đức Đàn
Nhà xuất bản Văn Học, năm 1998 cho ra đời một tác phẩm của
Gs. Nguyễn Đức Đàn, cuốn "Tư tưởng triết học và đời sống văn hoá văn học ẤN
ĐỘ ".
Chỉ cần đọc tựa đề đó cũng biết Giáo sư Đàn và người đảm
trách xuất bản của Nhà xuất bản Văn Học cho rằng Triết học và Văn học không bao
hàm ở Văn Hoá. Nghĩa là Ấn Độ nói riêng hoặc các Dân tộc nói chung, có thể có
Văn học và triết học không thuộc văn hoá!
[2] Tìm về ngữ căn để nhận
chính danh Văn Hoá
Không thể đơn giản nói ai trúng, ai trật; chúng ta nên tìm ý
nghĩa từ ngữ ngay từ gốc rễ của nó.
"VĂN HOÁ" là một từ gốc rễ Hán-Việt. Thật hợp lý nếu
chúng ta tìm hiểu từ gốc rễ để biết ngay trong đất nước Trung Hoa, người ta đã
hiểu thế nào.
Các tác giả "Đại cương Lịch sử Văn Hoá Trung Quốc" [7] đã tìm về
gốc rễ như thế, ngay từ Lời Nói Đầu:
"Từ "VĂN HOÁ" xuất hiện ở Trung quốc rất sớm.
Quẻ Bói trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ con người, lấy đó để giáo hoá
cho thiên hạ" (quan hồ nhân văn, dĩ hoá thành thiên hạ), trong đó đã bao
hàm hai từ tố "văn" và "hoá". Khổng Dĩnh Đạt trong cuốn
"Chu Dịch chính nghĩa" đã giải thích như sau: "ý nói bậc thánh
nhân quan sát dáng vẻ con người, tức là nói Thi, Thư, Lễ, Nhạc, theo đó mà dạy
để giáo hoá thiên hạ". Lưu Hướng (ước đoán 77-76 tcn) đời Tây Hán là
người sử dụng từ văn hoá sớm nhất, sách Thuyết Uyển bài Chi Vũ viết: "Bậc
thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng
vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì
sau đó sẽ chinh phạt". Ở đây, hai chữ văn hoá được dùng như một cách giáo hoá
đối lập với vũ lực. Trong sách Bổ vong thi của Thúc Triết có viết: "Văn
hoá để làm cho bên trong hoà mục, vũ công để sửa sang bên ngoài" (văn hoá
nội tập, vũ công ngoại tu) [8]. Ở đây hai chữ
văn hoá gồm nghĩa với giáo hoá. Chung quy, văn hoá là văn trị giáo hoá, là chế
độ lễ nhạc điển chương. Cách nhìn nhận này mãi đến cuối thế kỷ trước vẫn không
thay đổi.
Trước mắt, từ văn hoá mà chúng ta dùng có hàm nghĩa không giống
với thời cổ, đó là có chuyển dịch qua tiếng Nhật từ "văn hoá" của
phương Tây vào cuối thế kỷ 19 [9]. Từ này tiếng
Anh tiếng Pháp đều viết là culture. Tiếng Đức là kultur, tiếng Nga là
kultura, đều từ chữ La tinh cultura mà ra. Trong tiếng la-tinh cultura bao hàm
ý nghĩa trồng trọt, cư trú, luyện tập, lưu tâm, chú ý v.v…. Từ văn hoá
trong tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga ngày nay vẫn giữ lại một số hàm nghĩa của nó
trong tiếng La tinh. Giữa thế kỷ 19 các khoa nhân văn học như nhân loại học, xã
hội học, dân tộc học, v.v… phát triển mạnh ở châu Âu, khái niệm văn hoá
cũng do đó mà có biến hoá, dần dà có cái hàm nghĩa hiện tại, hơn thế ngày càng
trở thành thuật ngữ thường dùng của các khoa học xã hội. Cha đẻ của nhân loại học
nước Anh là Thailơ (Taylor), trong cuốn Văn hoá nguyên thuỷ xuất bản năm 1871,
lần đầu tiên đưa ra một định nghĩa về văn hoá: "Văn hoá là một tổng thể phức
tạp, bao gồm trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và
cả những năng lực thói quen mà con người đạt được trong xã hội". Về sau,
các học giả phương Tây đua nhau định nghĩa văn hoá, giới thiệu khái niệm văn
hoá. Cho đến nay, định nghĩa về văn hoá ít nhất có 160 loại….
Khái niệm văn hoá mà chúng ta thường dùng trong nghiên cứu,
lý luận lại chỉ những thứ có quan hệ đến văn minh tinh thần, như triết học, sử
học, văn học, mỹ học, âm nhạc và cả tôn giáo, v.v…. Có một khái niệm rộng
hơn về văn hoá, đó là tất cả những gì loài người sáng tạo ra, là tổng hoà của
văn minh vật chất và văn minh tinh thần, bao gồm các chế độ điển chương trong đời
sống chính trị, sự trao đổi sản xuất trong đời sống kinh tế, việc ăn mặc ở
trong đời sống xã hội v.v….Nghĩa là tất cả những gì con người bằng lao động
thể xác và lao động trí não tạo nên…. Lại có cái gọi là văn hoá tầng sâu, chỉ kết
tinh của tinh thần dân tộc được hình thành trong những điều kiện tự nhiên và điều
kiện lịch sử nhất định, cũng có nghĩa là đặc trưng văn hoá và bộ mặt tinh thần
của một dân tộc.
Tóm lại, ý kiến của các học giả trong và ngoài nước về văn
hoá là không thống nhất. Văn hoá là một khái niệm mơ hồ, nội hàm rất phong phú,
vì nội hàm không xác định nên ngoại diện cũng không xác định. Bởi vậy, khó mà
có một định nghĩa rõ ràng hoàn thiện". [10]
[3] Từ Khái niệm đến Trình
bày
Từ khái niệm tổng quát, người ta đi vào trình bày tác phẩm với
bố cục phù hợp khái niệm.
1. Việt Nam Văn hoá Sử cương
Sau Thiên thứ: Nhứt TỰ LUẬN
Về định nghĩa Văn hoá và nguồn gốc người VN cũng như sơ lược
lịch sử tiến hoá của dân tộc VN, tác giả vào phần chính với.
Thiên thứ Hai: KINH TẾ SINH HOẠT
Trình bày về Nông, Công, Thương nghiệp,
về sinh hoạt thôn quê và thành thị,
về giao thông, sưu thuế và tiền tệ.
Thiên thứ Ba: XÃ HỘI KINH TẾ SINH HOẠT
Gia tộc, Xã thôn, Quốc gia,
Cứu tế và tương tế,
Phong tục, tín ngưỡng và tế tự.
Thiên thứ Tư: TRÍ THỨC SINH HOẠT
Qua các thời đại, với các học phái Nho Phật Lão
Về Giáo dục, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, khoa học, phương
thuật.
Thiên thứ Năm: TỔNG LUẬN
2. Tìm về Bản sắc Văn hoá VN.
Của giáo sư Trần Ngọc Thêm, có lẽ bố cục cũng không khác lắm,
tuy nội hàm có nhiều phần phải rất khác:
Chương một:
CƠ SỞ LÍ LUẬN CHO CÁCH NHÌN HỆ THỐNG – LOẠI HÌNH VỀ VĂN HOÁ
VIỆT NAM
Trong chương này, tác giả nhìn qua:
Văn hoá và cấu trúc văn hoá,
Loại hình văn hoá,
Toạ độ của văn hoá VN.
Tiến trình văn hoá Việt Nam.
Chương hai:
VĂN HOÁ NHẬN THỨC
Tư Tưởng xuất phát về bản chất vũ trụ: Triết lý âm dương
Triết lý Phương Nam về cấu trúc không gian của vũ trụ: mô
hình tam tài, ngũ hành.
Triết lý phương Bắc về cấu trúc không gian… Tứ tượng, Bát
quái.
Cấu trúc thời gian của vũ trụ: Lịch pháp và hệ Can Chi.
Chương ba:
VĂN HOÁ TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG:
ĐỜI SỐNG TẬP THỂ.
Tổ chức nông thôn,
Tổ chức quốc gia
Tổ chức đô thị
Chương bốn:
VH.TC.CĐ: ĐỜI SỐNG TẬP THỂ
Tín Ngưỡng, Phong tục,
Văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ,
Nghệ thuật thanh sắc, Nghệ thuật Hình khối
Chương năm:
VH. ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
Tận dụng MTTN để ăn uống và giữ gìn sức khoẻ
Đối phó với MTTN: mặc và làm đẹp con người
Đối phó với MTTN: Ở và đi lại
Chương sáu:
VH. ỨNG XỬ VỚI MT. XÃ HỘI
Giao lưu với Ấn độ: VH. Chàm
Phật giáo và VHVN, Nho giáo và VHVN, đạo giáo và VHVN.
Phương Tây với VHVN.
VH đối phó với Môi trường xã hội: tính dung hợp…
Tác giả Thay lời kết luận bằng hai chục trang bàn về Văn
hoá VN từ truyền thống đến hiện đại.
Những phần phải rất khác giữa tác phẩm thứ nhất với
tác phẩm thứ hai là ở điểm này: Tác phẩm Tìm về Bản sắc VHVN chú trọng
nhiều tới phần trình bày Lý luận, tức phần Văn hoá học, đồng thời dùng những nhận
xét về VHVN như minh hoạ cho phần lý thuyết đó. Còn Đào Duy Anh thì gần như chỉ
trình bày những gì ông cho là "dữ kiện lịch sử VH", mà không trực tiếp
lý luận.
Cả hai đều có lý của mình. Một người trình bày theo quá trình
lịch sử và thành phần văn hoá. Thời học giả Đào Duy Anh, người ta cũng chưa giảng
dạy Văn Hoá tại Đại học, như một Khoa học. Giáo sư Thêm là người đã được hưởng
phần tiến bộ đó của giáo dục từ nước ngoài, nên ông phải đặt vững lý luận như
mô hình căn bản, rồi tìm xem Văn Hoá VN thế nào chiếu theo mô hình đó.
Chúng ta không nói tới tác giả thứ ba, giáo sư Đàn, vì tựa đề
cuốn sách đủ nói quan niệm của ông về bản chất và thành phần văn hoá, cũng vì ông
bàn về Ấn độ, một phạm vi thứ yếu khi so sánh với kiến thức về Văn hoá như một
khoa học và về Văn Hoá Việt Nam. Đây là hai thành phần của nội dung chúng ta
tìm hiểu trong giáo trình này.
2.
MỘT CHÚT VĂN HÓA HỌC
"Đặc điểm của con người là chỉ đạt nhân tính đích thực
và trọn vẹn, nghĩa là nhờ việc trau dồi những ưu phẩm và giá trị của bản tính.
Do đó, mỗi khi đề cập đến đời sống con người là nói đến bản tính và văn hoá gắn
liền với nhau hết sức chặt chẽ" [1]
[4] Nguồn gốc Văn hóa
Minh nhiên nói về Văn Hoá trong các văn kiện của Công Đồng
Chung Vaticanô II thì không đâu bằng Hiến chế mục vụ "Vui Mừng và Hy Vọng". [2] Ở đây có một
phát biểu thật ngắn về nguồn gốc văn hoá:
Bất cứ ở trong đoàn thể hay quốc gia nào, cũng có một số người
càng ngày càng đông, đàn ông và đàn bà, ý thức được rằng mình đóng vai trò chủ
động trong việc tạo lập và phát triển văn hoá của xã hội mình" [3]
Do đó, Công Đồng nhắc các Kitô-hữu nhớ nhiệm vụ mình phải cộng
tác với những người lương thiện để xây dựng văn hoá tốt, xứng nhân phẩm:
"Thực ra, mầu nhiệm Đức tin của người Kitô-hữu còn đặc
biệt thúc đẩy và nâng đỡ họ, để họ chu toàn sứ mạng đó hăng say hơn và khám phá
được đầy đủ ý nghĩa các sinh hoạt của con người. Nhờ đó, văn hoá có được một chỗ
đứng đặc biệt quan trọng trong sứ mạng toàn diện của con người.
Thực vậy, khi con người cày cấy, với hai bàn tay và những
phương tiện kỹ thuật, để trái đất sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng
đáng cho toàn thể gia đình nhân loại cũng như khi con người tham gia một cách ý
thức vào đời sống xã hội, tức là con người thể hiện ý định của Thiên Chúa, ý định
đã được tỏ rõ ngay từ đầu là loài người phải làm chủ trái đất [4] và hoàn
thành công cuộc tạo dựng" [5].
Theo cách nhìn của Các Nghị Phụ Vatican 2, những tín đồ và những
nhà lãnh đạo cọng đồng tín đồ, Văn Hoá khởi đầu từ việc Thiên Chúa tạo dựng con
người và trao trách nhiệm "làm văn hoá" để phát triển bản thân, đồng
loại, và điều hành vũ trụ mà Ngài đã tạo thành.
Với tư cách nhà khoa học, người ta không nhìn theo đức tin,
nên không đả động tới quan phòng hoặc định mạng. Người ta chỉ nhìn hiện tượng tự
nhiên và nhận rằng:
. Con người, tập thể con người làm nên văn hoá.
. Tuy thế con người đã và vẫn chịu ảnh hưởng của môi trường
thiên nhiên
. và hoàn cảnh lịch sử
để hình thành nền văn hoá của mình.
Đồng thời, con người lại bị chi phối do chính văn hoá đó.
[5] Ba yếu tố của Văn Hóa
Văn hoá do con người, nhưng không phải mỗi khi người ta bảo rằng
mình làm văn hoá thì sản phẩm của người đó là văn hoá. Cần có những yếu tố
chính như: Tính nhân linh, giá trị bao quát và giá trị trường tồn.
1. Tính nhân
linh
Nếu thành quả trong đời sống con người thường có pha trộn
"công ơn" của trời đất, nghĩa là "thiên thời" và "địa
lợi" thì giá trị cốt yếu của văn hoá phải cân nhắc là ở Con Người.
"Thiên thời địa lợi" chỉ là thiên nhiên. Thiên nhiên này thường khi
chung cho cả phàm nhân, không riêng gì cho những người hoạt động văn hoá. Thiên
nhiên này chung cho cả các chủng, các dân tộc… nhưng mỗi chủng hoặc dân tộc lại
hình thành những nét văn hoá của mình.
Dãy núi vẫn là dẫy núi, thời chiến là thời chiến chung cho mọi
người trong vùng ảnh hưởng. Nhưng người để lại nét văn hoá vì nhìn núi như
"mẹ bồng con", như "vọng phu", rồi hình ảnh theo quan niệm
đó lại tác động vào tâm tư bạn, để hình thành những vần thơ, những dòng nhạc…
thì tất cả những danh xưng đó, những vần thơ và dòng nhạc đó đều là những nét
văn hoá, bồi đắp vào nền văn hoá sẵn có của một địa phương, một dân tộc.
Quan sát một hành động bình thường, người trân trọng thiên
nhiên hoặc yêu mến con người cũng thêm nét văn hoá thơ mộng vào bối cảnh văn
hoá sinh hoạt trước mắt:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi!
Tuy thế, không phải hoạt động nào của con người trong vũ trụ
này đều tô thêm văn hoá. Phải là hành động nhân linh.
Con người vượn không ghi lại nét văn hoá nào.
Con người thời văn minh hái lượm, nghĩa là chỉ biết theo
bản năng mà hưởng dùng thiên nhiên, cũng chỉ để lại dấu vết hoá thạch của thân
thể họ, không ghi dấu ấn văn hoá nào.
Con người đi vào thời kỳ đồ đá thô, rồi đồ đá mài v.v…
càng sử dụng nhiều phẩm chất tinh thần (nhân linh) khi sử dụng thiên nhiên,
càng để lại dấu vết những tầng văn hoá phong phú hơn.
Con người tác động vao thiên nhiên có thể mang tính vật chất
hoặc mang tính tinh thần.
Lượm đá để ném muông thú hoặc trái cây, đã bắt đầu là một động
tác có tính văn hoá, mà dã thú không thể có được. Nó đòi vận dụng "trí
khôn".
Tất nhiên, mài đá thành dụng cụ, khai thác quặng mỏ, rừng
giá, thuần phục thú hoang v.v… cho đến những công nghệ cao… đều là những
nét trong công trình văn hoá, và kết quả nhìn thấy ngay trên khoáng chất hoặc
thú vật. Nhìn thấy thế, nên con người gọi là hoạt động văn hoá có tính vật chất.
Thực ra, cái làm nên tính văn hoá không là vật chất, mà là tính sáng tạo của
tâm não con người, tức tinh thần. Vì thế, Văn hoá phải là hành động nhân
linh.
Ngay những con người văn minh, từng có những tác phẩm giá trị
văn hoá cao, khi hành động hoàn toàn theo bản năng mù quáng, thì cũng không có
giá trị văn hoá.
2. Giá trị bao quát
Tuy sản phẩm văn hoá có chịu ảnh hưởng và ghi dấu thời đại, địa
lý, chủng tộc v.v… giá trị của công trình văn hoá thường vượt khỏi sự đánh
giá của tác nhân hoặc xã hội trong đó tác nhân sống.
Khi tôi có một ý sáng tạo, một mô hình trong óc tôi, tôi thưởng
thức được, nhưng không có biểu hiện nào để một ai hưởng được, thì ý đó, mô hình
đó không thể được đánh giá như một hoạt động văn hoá. Trái lại, ý tưởng hoặc mô
hình như đã được diễn tả, có ảnh hưởng cho tôi, cho tha nhân… càng nhiều thì
càng có giá trị văn hoá.
Tất nhiên tính Bao Quát không nhất định về trương độ phải như
thế nào; nhưng nó vẫn cần được chấp nhận thực sự do tuyệt đại đa số nhân dân
trong phạm vi của nó, ổn định một thời gian tương đối, để có thể đi vào nếp sống
"giống như tự nhiên", rồi lại tái phát hiện nơi con người hoặc môi
trường sống của con người như nhà cửa, ngôn ngữ, thơ văn.
Một bộ tộc ít người như BRAU ở huyện Đắc Tô, chỉ còn cỡ hơn
trăm người, nhưng họ vẫn có những nét văn hoá riêng. Trong khi đó, hàng mấy chục
ngàn người của một công ty, hàng triệu người của một chính đảng có những kiểu
nói, những y phục, những cung cách độc đáo của họ… mà vẫn không thể nhìn nhận rằng
họ làm thành nét văn hoá riêng.
Chính vì thế, giá trị công trình văn hoá, khi được dân tộc hoặc
loài người thưởng thức, thường vượt xa phạm vi mà người làm văn hoá tưởng.
Tôi ca một bài ca
Nó bay đi nơi nào tôi không biết
Vì ai mà theo được tiếng ca bay trong không gian…
Nhưng ngày kia
tôi thấy bài ca nở trên môi một người…
Nguyễn Du chấm dứt Đoạn Trường Tân Thanh với định giá rằng
tác phẩm đó "mua vui cũng được một vài trống canh"; không ngờ
nó là thi phẩm siêu tuyệt hàng thế kỷ!
Những người xây Tháp Bà không thể ngờ được rằng cả mấy thế kỷ
trôi qua, công trình của mình vẫn được coi là một điểm văn hoá Chăm, mà nhiều
người khắp các đại lục biết đến. Micaelangelo có hài lòng cầm búa gõ vào trán
tượng Môsê ông tạc ở Đền Thánh Phêrô Vatican và giục "nói đi!" hoặc cảm
động muốn khóc khi nhìn khối cẩm thạch trắng đã thành tượng Pietà… thì cũng
không thể ngờ được đó là công trình văn hoá thiên kỷ ! Không thể ngờ được rằng
người các châu lục sẽ ngưỡng mộ công trình của mình. Đối lại, có những cá nhân,
những gia tộc, những trường phái hoặc phe đảng vì muốn nổi tiếng toàn cầu,
lưu danh thiên cổ mà "sáng tạo ra những tác phẩm gọi là văn
hoá", nhưng không đủ giá trị nhân linh… thì cũng chỉ là công dã tràng.
Công trình của họ không được chấp nhận rộng rãi và lâu dài, nên không thể cấu
thành yếu tố văn hoá trong đời sống xã hội.
Khi kỹ thuật thông tin càng tinh vi và bao trùm, thì giá trị
nhân linh càng đòi hỏi cao, để có thể phổ biến và tồn tại. Do đó, tác phẩm văn
hoá ngày càng cần có phẩm chất cao hơn.
Tính bao quát cùng với tính trường tồn của văn hoá sẽ cho người
ta khả năng phân biệt văn hoá bảo tàng và văn hoá sinh hoạt.
Văn hoá Bảo Tàng là những công trình văn hoá, có khi giá trị
rất cao, nhưng thực sự không còn trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống con người nữa.
Nó dành cho những người nghiên cứu, những học giả, những du khách. Nó cũng gián
tiếp mang lại lợi ích cho một số người. Thí dụ: Những Tháp Chàm, những lăng tẩm
các vua, những thứ ở trong các Bảo tàng viện, dù là bảo tàng viện quân đội hoặc
chính trị, những tục lệ như vẽ mình, nhuộm răng, thách cưới v.v thuộc loại
này, văn hoá bảo tàng.
Trái lại, văn hoá sinh hoạt vẫn còn bàng bạc hoặc nổi bật
trong đời sống người dân, không kể nó đã ra đời bao lâu. Tục lệ Đầu Báo kéo
theo nghĩa vụ "sống tết, chết giỗ", nếp sống tình làng nghĩa xóm hoặc
lượng giá tiếng chào cao hơn mâm cỗ. Ngôn ngữ, văn tự quốc ngữ, kiểu cất
nhà cửa, trang trí bàn thờ gia đình… cũng chính là những nét văn hoá sinh hoạt
rất giá trị, nhiều khi không thể thay thế, nhưng người ta quá quen, nên thường
khi không nhận ra giá trị văn hoá của chúng, mà chúng vẫn bao trùm và nuôi dưỡng
toàn dân.
3. Giá trị trường tồn
Không thể thành văn hoá, nếu đã không đủ độ dài lịch sử. Người
ta gọi đó là tính lịch sử của văn hoá. Để tránh lầm với giá trị lịch sử của một
nét văn hoá nào đó trong một giai đoạn nào đó, chúng tôi gọi đây là giá trị trường
tồn. Nó phải "làm đẹp và cảm hoá" con người trong một thời gian nào –
thường phải nhiều thế hệ – mới đủ để coi như một nét văn hoá của xã hội này. Nhảy
"sol-đố-mi" đã có hồi phổ biến cả miền Bắc, nhảy "lam-bâ-đa'
cũng từng sôi lên khắp nước với cả ngàn loa phóng thanh; nhưng nó đã lịm tắt và
không thể là nét sinh hoạt văn hoá của Việt Nam như đã và vẫn là nét văn hoá của
một số nước. Chúng không sao đạt được tầm mức của tuồng, chèo, quan họ và lý….
Chính vì thế, một dân tộc quá bén nhậy tiếp thu những nét đẹp
của các nền văn hoá bạn, lại dễ trở thành dân tộc nghèo nàn về văn hoá đặc
trưng. Y phục nam giới của chúng ta gần mất trọn nét văn hoá của mình, văn hoá
Mã-lai như đa số các nước Ấn Hồi còn giữ được. Nếu không có Le Mur (hoạ sĩ Cát
Tường) và báo Phong Hoá Ngày Nay thì hẳn y phục nữ của chúng ta cũng chung số
phận rồi ! Ca sĩ thì chưa, nhưng nhạc công ngũ âm của chúng ta đã có nhiều người
nghẹo cổ nhịp chân giống nhạc công tân nhạc Tây phương, và cây tiêu hoặc huyền
cầm trong tay họ không chịu nổi cử điệu họ. Đó là nét văn hoá lai căn.
Trái lại, khi nét đẹp văn hoá đã có một trương độ bao quát và
trường độ thích đáng, nó có thể trở thành văn hoá truyền thống. Văn hoá
truyền thống phải là từ thế hệ qua thế hệ. Bởi Truyền là chuyển qua, Thống phải
có manh và có mối, có gốc và có ngọn… có thể tập
hợp lại được. Văn hoá truyền thống có phần tái tạo, nhưng phải có gốc rễ trước.
Chính vì thế, nó về Truyền thống, hoặc Văn hoá truyền thống mà người này chỉ
"cái này do tôi", "cái kia là của chúng tôi" thì không có
gì là truyền thống; mà e rằng cũng khó có Văn Hoá, bởi chưa phải là giá trị phổ
quát!
Đừng vội! Những gì có giá trị Chân Thiện Mỹ sẽ tồn tại.
[1] Vaticano II “Vui mừng và Hy vọng” 53.1
[6] Lượng giá Văn hóa
Người ta thường dùng hoặc lợi dụng văn hoá hơn là lượng giá
văn hoá. Hơn thế, gần như không thể có tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan và chuẩn
để lượng giá một công trình văn hoá. Vì mang tính nhân linh, lại phải có một
quá trình, nên một công trình văn hoá thường được đánh giá rất khác nhau.
1. Tính tương đối trong các lượng giá về văn hoá.
Có thật nhiều nguyên nhân làm biến đổi giá trị văn hoá, những
nguyên nhân làm người lượng giá thấy những trị giá khác nhau của cùng một công
trình văn hoá.
Chúng ta điểm sơ qua ba nguyên nhân:
1.1. Tính đa diện của một công trình hoặc thành quả văn
hoá.
Mỗi cá nhân hoặc tập
thể, ở mỗi nơi, trong mỗi thời gian lại có thể nhìn một diện trong nhiều diện của
văn hoá. Người hoan nghênh văn hoá về diện thưởng thức được vẻ đẹp. Người khác
tìm tính thiện trong cùng công trình văn hoá đó. Người khác nữa lại tìm công dụng
giáo hoá của cũng một công trình này. Tất nhiên, họ thấy những giá trị khác
nhau và mức độ đánh giá của họ về công trình cũng khác nhau.
Phố cổ Hội An có giá trị rất lớn với du khách, với những người
muốn nghiên cứu kiến trúc thời Nguyễn, do đó cũng có giá trị chính trị và kinh
tế lớn cho những người quản lý… nhưng có thể thiệt thòi cho những người chủ
nhân thực sự của những nhà thuộc căn phố đó vì không thể sửa lại cho đủ tiện
nghi, không thể yên tịnh sống đời sống cá nhân và gia đình mình v.v.
Việc lượng giá những
thành tựu văn hoá cũng bị lệ thuộc nhiều điều kiện của dòng lịch sử nhân văn.
Do đó, mỗi thời mỗi khác. Những nhà, những đường phố cổ như ở Hội An, như rất
nhiều ở Macao, như cả vùng Cổ Roma… thực ra chẳng mấy giá trị vào thời của nó
được kiến tạo. Nhiều phố nhiều nhà khác cũng thế. Ai thích ngó ai đâu. Chính
dòng thời gian trôi qua, mà chúng tồn tại, tăng giá trị của chúng.
Dòng lịch sử cũng có thể thay đổi giá trị của một thành quả
văn hoá. Thí dụ: Quần thể kiến trúc Cố Đô Huế, hoặc y phục áo năm tà v.v… có giá
trị công dụng hiện tại vào thời Nguyễn; ngày nay chỉ còn giá trị chứng
tích, thuộc loại văn hoá bảo tàng. Những trống đồng, đàn đá… cũng như thế.
Đã thay đổi giá trị, lượng giá cũng thay.
1.3. Tình tương đối do bối cảnh
I. Do bối cảnh không gian: Chiều kích cũng như đường nét
và màu sắc một tác phẩm văn hoá luôn luôn bị chi phối một phần bởi bối cảnh.
Chùa Một Cột mà đặt vào giữa Hồ Tây thì hẳn không thể được lượng
giá như ở vị trí hiện nay. Màu xi-măng của nhà thờ chánh toà Nha Trang mà đổi
sang màu trắng sẽ giảm nhiều giá trị. Ca sĩ mặc Jeans vừa hát vừa hét vừa vặn
mình… thì hẳn là giá trị khác ca sĩ mặc áo dài VN với giọng ca và cử điệu đó! Y
phục dạ hội phải khác phẩm phục lễ tế.
II. Do bối cảnh tâm lý xã hội: Phù hợp hoặc chống chọi,
giá trị văn hoá được định mức tuỳ theo mức độ nó đáp ứng được mong muốn của người
thưởng thức.
Những bài thơ hay của Xuân Diệu tiền chiến bị coi như tội lỗi
trong thời kháng chiến và lại được ca tụng hôm nay. Biết bao tác phẩm văn hoá
hôm qua trong chiến tranh, ngày nay chỉ còn giá trị chứng tích; nếu trình bày
như thời thượng thì thực là lạc lõng hoặc bị chê cười. Những mẩu chuyện hoặc cử
chỉ chọc cười của Âu Mỹ mang trình chiếu y nguyên tại Việt Nam thường thất bại
vì tâm lý Tây - Ta quá khác biệt.
2. Lượng giá theo tiêu chuẩn nhân văn
Lượng giá tác phẩm văn hoá theo tiêu chuẩn nhân văn, người ta
thường chia theo giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
2.1. Giá trị vật chất
Thực ra, không có giá trị vật chất của văn hoá; gọi thế chỉ để
nói rằng thành tựu công trình văn hoá đó giúp ích cho con người về phương diện
vật chất, trực tiếp đáp ứng những nhu cầu thể xác.
Tất cả những thành tựu tốt đẹp về lương thực, may mặc, cư
trú, di chuyển v.v đều có giá trị này. Đặc biệt nhất là ngày nay, thời mà
nhiều người gọi là Văn Minh Vật Chất và văn hoá tiêu dùng.
2.2. Giá trị tinh thần
Nói "giá trị tinh thần của văn hoá" tức là nói
thành tựu văn hoá đáp ứng nhu cầu của tinh thần hoặc làm phong phú tinh thần
con người, cá nhân hoặc tập thể. Chính những thành quả của tư tưởng và tâm tình
con người, tự chúng, đều có giá trị của văn hoá tinh thần.
Một công trình kiến trúc có giá trị vật chất, những đầu óc
phác hoạ ra thiết kế đó mang giá trị tinh thần. Các tác phẩm văn học nghệ thuật,
các phương pháp giáo dục đạo đức và mở mang kiến thức… đều có giá trị tinh thần
của văn hoá đương đại và có thể có giá trị tương lai.
Người ta trong mỗi địa phương, mỗi giai đoạn lịch sử, có thể
có những chuẩn mực lượng giá vật chất và tinh thần của các thành tựu văn hoá.
Những chuẩn mực đó càng nhiều tính nhân linh, ít chất chủ quan, càng được nhìn
nhận trong phạm vi rộng lớn và càng tồn tại lâu dài.
3. Lượng giá
theo công dụng
Theo công dụng, người ta thường chia giá trị văn hoá làm hai
loại để đánh giá: Giá trị thưởng thức và giá trị đào luyện.
3.1. Giá trị thưởng thức
Giá trị thưởng thức thường phát sinh từ chất VĂN, nét đẹp
trong lãnh vực vật lý hoặc tâm lý, đạo đức. Nét mềm mại trong hội hoạ và kiến
trúc cổ truyền. Nét xinh đẹp duyên dáng trong trang điểm con người và trang
hoàng nhà cửa. Nét đẹp và mềm mại, êm đềm thường gặp trong thơ lục bát, trong
điệu hát dân ca. Những nét đẹp vừa rung động năng khiếu thẩm mỹ của người thưởng
thức, vừa âm thầm tôn vinh nền văn hoá hài hoà của dân tộc.
Ngoài giá trị MỸ, văn hoá có chất đẹp của CHÂN và THIỆN. Tính
chân thật đơn giản vẫn là một trong nhiều đặc điểm văn hoá, tại Việt Nam cũng
như trong nhiều dân tộc khác. Chân thật ngay cả trong những biểu tượng. Những
trá hình và giả tạo không thể làm nên giá trị văn hoá. Tế nhị và bóng bảy trong
nếp sống văn hoá chỉ thêm đẹp cho giá trị chân thành. Hai giá trị này lại phát
sinh từ thiện tâm. Chính vì thế mà những người tàn nhẫn hoặc tinh quái không
làm văn hoá được, cũng không thưởng thức được văn hoá.
3.2. Giá trị đào luyện
Chính là hiểu về giá trị này mà chúng ta gọi "bộ văn hoá
giáo dục". Nếu "mỹ" liên hệ nhiều với “Văn” thì tính đào luyện
liên hệ với Hóa nhiều hơn và nhằm mục tiêu Chân, Thiện. Dùng Văn để giáo luyện,
cho con người Hóa tốt đẹp hơn. Những cuộc cách mạng quân sự và chính trị chỉ
thành công lâu dài nếu đi sau hoặc song hành với cách mạng văn hoá. Nhưng cách
mạng văn hoá bao giờ cũng khó khăn và lâu dài hơn cách mạng thuần quân sự hoặc
kinh tế, chính trị.
Nếu muốn kỹ hơn, chúng ta phân biệt đào luyện tinh thần và
đào luyện nhân cách.
I. Đào luyện tinh thần thì đào luyện cả trí và tâm.
Con người vượt xa hơn muôn vật, dầu xuất hiện trên trái đất
hàng trăm triệu năm sau động vật khác, chính nhờ con người phát triển trí. Các
nước Tây phương, hoặc theo văn hoá Thiên Chúa giáo, đuổi theo, rồi vượt xa các
nền văn minh cổ đại Ấn Độ và Trung Quốc… vì họ chú trọng tới "ánh
sáng", tới lý trí và luôn luôn đòi hợp lý. Càng ngày, những chủ trương tiến
bộ càng phải quan tâm đào tạo trí óc hơn.
Tuy thế, văn hoá đầu óc đủ chế tạo máy móc tự động, mà chưa đủ
giúp con người hạnh phúc. Muốn hưởng hạnh phúc, văn hoá đào luyện tâm hồn cần
hơn. Chúng ta thua các nước tiên tiến hàng thế kỷ về công nghiệp kỹ thuật,
nhưng chúng ta không thua - mà có lẽ thắng - họ về tâm hồn và cuộc sống tương đối
hạnh phúc. Bởi từ ngàn xưa, chúng ta vẫn chú trọng tới văn hoá tâm linh.
Đào luyện nhân cách thì nền văn hoá nào cũng có và nó tương đối
với giá trị đào luyện tâm linh của nền văn hoá đó. Tuy nhiên, phải nói ngay rằng
trong những môi trường sống khác nhau về thời đại và không gian, người ta cũng
thường có nhiều ít khác biệt về quan niệm nhân cách.
Người Tây phương chú trọng tới Thẳng thắn hơn; Đông phương
chúng ta thường chú trọng hơn vào Điềm đạm. Tây phương đòi luôn trật tự; Đông
phương cần điều độ. Tây phương tôn trọng ranh giới; Đông phương thích hài hoà….
Tóm lại, có thật nhiều chủ trương và nhiều cung cách lượng
giá văn hoá. Không ai có quyền cho chủ trương của mình hơn của người khác.
Dầu sao, một tác phẩm, một thành quả, một công trình văn hoá
phải đạt một số trong những giá trị văn hoá mà chúng ta vừa sơ lược trên.
[7] Nền văn hóa truyền thống
Chúng ta đã biết rằng một hoạt động văn hoá mang lại một
thành quả văn hóa, nhưng nếu tất cả đều trôi theo thời gian bọt bèo, thì dân tộc
đó, miền xứ đó không có một nền văn hoá nào cả. Họ đã sống những mốt sống hời hợt.
Sống giữa những dòng văn hoá. Cần truyền thống văn hóa nhiều thế hệ, để tạo
thành nếp sống văn hoá. Cần nhiều nếp sống văn hoá tương thích, để trầm lắng
thành nền văn hoá.
1. Muốn có Nét Văn Hóa truyền thống
Muốn có NÉT văn hóa truyền thống thì phải có nét văn hoá được
truyền đời, nghĩa là
1.1. Một hoạt động văn hóa
Một nét sinh hoạt cá thể hoặc tập thể có giá trị chân thiện mỹ,
được cộng đồng nhìn nhận và tiếp thu, được chấp nhận, thấm nhuần và biểu lộ.
1.2. Hoạt động văn hóa đó đi vào sinh hoạt tới mức ổn định
Xin dùng một nét thật bình dị để minh họa: Chiếc áo dài, hoặc y
phục phụ nữ Việt Nam.
Trong những năm 1930-1940, chiếc áo dài Việt Nam kiểu
Cát Tường giống hiện nay xuất hiện; nhưng còn bị tranh cãi thật nhiều
trong cuộc sống thường ngày và trên sách báo. Sang những năm '50-75, cùng với
chiếc quần mềm mại, làm nên trọn bộ đồ phụ nữ Việt Nam, chiếc áo dài không chỉ
là đương nhiên của các em nữ sinh Trung và Đại học, mà của cả các cô, các bà
thành thị và nông thôn trong những ngày giờ lễ hoặc trong những sinh hoạt không
xô bồ.
Trong cả Việt Nam Cộng Hoà, tức Miền Nam Việt Nam hôm nay, bộ
đồ (mà chủ yếu là chiếc áo dài) đã hoàn toàn trở thành quốc phục phụ nữ Việt
Nam.
Cuộc cách mạng 1975 nhận chìm hết các áo dài (có thời và có
miền chìm luôn cả các tu phục) để "áo bà ba đen" thống trị khắp nơi,
khắp giới. Đồng thời, chẳng mấy người biết đến công của hoạ sĩ Le Mur Cát Tường.
Chiếc áo dài chẳng cần ai bênh vực nó hoặc truyền lệnh dùng
nó nữa.
Tuy thế, nó còn chìm trong lòng dân và đi vào nhiều phim ảnh,
sách báo ngoại quốc liên quan đến Việt Nam.
Qua hai chục năm, nghĩa là khi có nữ sinh của người dân thường
Việt Nam từ trong nước đi ra ngoại quốc, chiếc áo dài Việt Nam lại nhẹ nhàng
bay lượn… như một trong những nét văn hoá được thế giới yêu chuộng.
Được thế là vì đã có thời gian chiếc áo dài ổn định với tâm
tình Việt Nam e ấp, với nếp sống Việt Nam duyên dáng, nghĩa tình.
1.3. Truyền thống
Chiếc áo tứ thân hoặc năm tà cũng từng là y phục phụ nữ Việt
Nam, qua nhiều thời gian ổn định, cùng với chiếc nón quai thao và chiếc quần một
ống.
Thật nhiều thế hệ không chỉ may loại y phục đó cho con, mà có
những bà mẹ còn cẩn thận giữ gìn y phục quý của mình để trao lại cho con.
Đó là tính truyền thống.
Chính vì thế mà trước đây, khi vua Nguyễn muốn cho phụ nữ
mang quần hai ống, người dân đã rầm rầm phản đối, những phản ứng còn lắng vào tận
nguồn vốn ca dao:
Tháng sáu có chiếu vua ra
Cầm quần không đáy người ta hãi hùng
Chẳng đi thì chợ chẳng đông
Đi mà bóc lột quần chồng sao đang!
Chính vì thế mà ngày nay, khi nhắc lại văn hóa cổ truyền, người
ta lại nghe chèo cổ, quan họ, lại thấy xuất hiện nón quai thao với áo năm tà….
Những giá trị đi vào truyền thống đến thế rồi, mà ngày
nay áo năm tà hoàn toàn biến khỏi sinh hoạt thường ngày. Nó chỉ còn dùng
cho "văn nghệ". Tại sao?
Vì tính nhân văn không ủng hộ nó khi đã xuất hiện áo dài Cát
Tường. Áo dài này mang lại thật nhiều chất Chân và Mỹ hơn, vượt xa khả năng áo
năm tà. Áo năm tà không làm nổi đủ những đường nét cơ thể, cũng không giúp giữ
gìn cơ thể bằng áo dài Cát Tường.
Văn hoá truyền thống không chỉ tích luỹ, mà cần phải tái tạo
hoặc biến đổi thích ứng, mới khỏi trở thành văn hoá bảo tàng, dành cho du khách
và nghiên cứu sinh!
2. Văn hoá truyền thống
Chỉ có thể coi là văn hoá truyền thống khi những nét văn hoá ổn
định như thế hoà với nhau và phát huy khả năng đào luyện người dân.
2.1. Những nét văn hoá hoà với nhau
Một vài nét văn hoá rời rạc không làm nên truyền thống văn
hoá được. Phải nhiều và tạm đủ những nét hoà với nhau thành hệ thống trong cung
cách cảm nghĩ, sống và giao tiếp của số tuyệt đại người dân trong một miền,
trong một giai đoạn đủ bề dài… thì mới tạo thành văn hoá truyền thống được.
Hệ thống để thành một nền văn hoá rất phong phú, vì bao gồm đủ
diện sinh hoạt thể chất và tâm hồn con người, như: Tư tưởng, kiến thức, nghệ
thuật, đạo đức, tín ngưỡng, phong tục.
Chúng ta coi như thí dụ minh hoạ: Ngôn ngữ, rồi chữ quốc
ngữ đã đi vào văn hoá truyền thống Việt Nam.
Ngôn ngữ này đủ phong phú để diễn tả những gì người ta cảm
nghĩ, mong muốn, đủ vững mạnh để những ngoại ngữ, dù được truyền bá bằng danh vọng
và quyền bính, không thể lấn lướt nó. Tiếng Tàu vẫn của Tàu, tiếng Tây vẫn là của
người Tây. Người Việt Nam dù nói thông thạo với người Tàu, người Tây bằng chính
ngôn ngữ của họ, thì trong đời sống thường ngày, vẫn cứ dùng tiếng Việt.
Văn tự quốc ngữ cũng chỉ sau nửa thế kỷ được chính thức nhìn
nhận, đã thay thế được tất cả ba thứ văn tự từng thống trị trên sách báo và đơn
từ chính thức của VN hàng thế kỷ: Chữ Nho, Chữ Nôm và chữ Pháp.
Ngôn ngữ văn tự ấy hòa vào mọi sinh hoạt văn hóa và nghề nghiệp
của người Việt Nam.
2.2. Những nét văn hóa đào luyện con người.
Những thế hệ ấu nhi, thiếu nhi đến Vườn Trẻ, lớp mẫu giáo và
cấp một không chỉ để học toán lý và các khoa học, nhưng trước hết để học ngôn ngữ
và văn tự dân tộc mình; từ cách diễn tả tâm tình cơ bản đến những vấn đề trừu
tượng… bằng ngôn ngữ và văn tự của mình.
Tới một mức độ nào đó, ngôn ngữ và văn tự này trở thành công
cụ chuyển tải tâm tư của những thế hệ trước cho thế hệ trẻ, để hiểu biết, để
thông cảm và để được đào luyện trong văn hoá dân tộc.
Đến giai đoạn này, những yếu tố văn hóa như ngôn ngữ và văn tự
mới hoàn toàn đi vào hệ thống. Khi đó mới có khả năng góp phần làm phong phú
Văn hóa truyền thống.
Ngay cả khi đó, nó vẫn còn phải thích ứng với môi trường
thiên nhiên và môi trường xã hội, nó mới giữ được vị trí văn hóa truyền thống
trong sinh hoạt nhân dân.
2.3. Ân oán với Văn hóa truyền thống
Chính vì Văn hóa là trầm tích, trường tồn và là yếu tố đương
nhiên ý thức hoặc vô thức đào luyện con người trong phạm vi của nó, nên phát
sinh ân hoặc oán nó.
2.3.1. Thọ ân và tri ân văn hóa
Bao lâu và ở đâu hậu quả văn hóa còn được coi là lợi ích cho
con người – cá nhân hoặc cộng đoàn – thì người ta hãnh diện về nó, mang ơn nó.
Bao lâu và ở đâu người ta cảm thấy nó đã là ác quả, thì người
ta oán hận nó.
Chữ quốc ngữ là một hãnh diện của chúng ta, vì một em nhỏ chỉ
cần học vài tháng là có thể đọc các sách, trước đó cha ông mình phải học hàng
chục năm. Tuy các em có thể khổ về khó nhớ khi nào viết G, khi nào GH hoặc khi
nào I, khi nào Y…. Đó là phạm vi ngỏ cho chúng ta góp sức với tiền nhân. Còn những
phàn nàn vì diễn không hết cách phát âm nên đổi Ph với F hoặc thêm Z thành DZ…
thì bị đa số cho là “vẽ rắn thêm chân”.
Nói chung, mình phải được chỉ cho thấy, phải tự nghiệm để
chân nhận những lợi ích của những thành tựu văn hoá mình được hưởng dùng. Có thế,
mình mới ham thích tiếp thâu, mới sung sướng hưởng dùng được. Càng sung sướng
phát huy được những tiềm năng và lợi ích văn hoá dân tộc, mình càng biết ơn tiền
nhân và góp phần xây dựng.
2.3.2. Oán trách văn hoá dân tộc và tiền nhân
Cứ đọc Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, sẽ thấy Loan oán
giận chế độ đại gia đình và mãnh liệt chống đối thế nào. Cứ đọc Nửa Chừng
Xuân là thấy tội nghiệp cho Mai và bé Ái. Cứ đọc KHAO của Đồ Phồn
sẽ cảm nhận được tục lệ khao vọng nó tàn ác chừng nào với kiếp người. Giọng mỉa
mai hài hước của tác giả khiến người đọc không thể nhịn cười, nhưng càng cười
càng xót xa.
Cha ông chúng ta từng hãnh diện về những tục lệ chung quanh
việc cưới hỏi, khao vọng, tang chế v.v.; nhưng ngày nay người ta đã bỏ hầu
hết những tục lệ đó. Tại sao? – Vì hại thời giờ và tiền bạc, hại nhất là tự
do của chàng và nàng… Thậm chí có những cặp tình nhân không thể lấy nhau được
chỉ vì một trong những tục lệ đó. Thí dụ không tương xứng về gia cảnh, không
thích hợp về năm tuổi (con tinh của năm sinh: tuổi Dần và
tuổi Hợi chẳng hạn).
Phong trào Duy Tân, Tự Lực Văn Đoàn v.v. đã chiến đấu biết
bao với những nét Văn Hoá Truyền Thống, nhất là về gia đình. Những tác phẩm như Nửa
Chừng Xuân, Đoạn Tuyệt dẫn đến việc hô hào người trẻ “Theo mới, hoàn toàn
theo mới, không chút do dự” [1].
Trong lịch sử văn hoá Việt Nam chưa bao giờ có một cuộc đòi cải
cách toàn diện văn hoá như thế.
Tất nhiên rằng cách mạng văn hoá do chính quyền “vô sản” chủ
trương thì lại có những đường nét rất khác. Chúng ta sẽ coi khi nói về Văn Hoá
Việt Nam hôm nay.
2.3.3. Quy luật điều chỉnh và tái tạo
Văn hoá nói chung và Văn hoá truyền thống, cũng giống như bản
thân mỗi người hoặc cả nhân loại, không hề và không thể đòi “giữ nguyên vẹn” ở
mọi nơi, mọi thời. Phải thích ứng với thời gian, không gian, nghĩa là với con
người trong môi trường sống của mình. Người ta đòi Thích Nghi Văn Hoá.
Quá vội thay đổi là Cấp tiến, mà “duy ý chí”.
Quá chậm thay đổi là Bảo thủ, là cổ hủ, để Thủ tục thành Hủ tục.
Đó cũng là thái độ của những người “duy ý chí”.
Bổn phận mọi người, nhất những người có trách nhiệm giáo dục
cần xem xét luôn để có thể luôn tạo điều kiện mà thích ứng và tái tạo Văn Hoá
Truyền Thống.
Việc này đòi tất cả chúng ta, nhất là giới lãnh đạo và giới
truyền thông đại chúng phải hết sức thận trọng. Thí dụ trong cung cách Thầy
Trò. Người ta bỏ mất đạo sư đệ và tình đồng môn; nhưng lại nhấn mạnh đến Tết
Thầy, Biết ơn và Nâng đỡ giáo viên… là người ta phá huỷ tinh hoa và mở đường
bội bạc, vì bắt buộc phải “mua điểm”.
Cũng đòi phải có đầu óc tổng hợp để tránh mâu thuẫn và phá hoại,
vì một mặt văn hoá đòi hệ thống, mặt khác chính những con người là chủ thể của
mọi nét văn hoá. Nếu lãnh đạo dùng quyền áp đặt, sẽ mất tính Nhân Linh và thất
bại thê thảm. Nếu mỗi thành phần lãnh đạo chỉ biết “tăng cường lãnh đạo, tham
gia sáng kiến” trong phạm vi của mình, mà xung đột với lãnh đạo những phạm vi
khác, hoặc tổng hợp quá tải… thì dân thật khổ sở và mất linh hồn của văn hoá
Chân, Thiện, Mỹ!
Tóm lại, cần luôn nhớ và ứng dụng quan niệm đúng văn hoá; Văn
Hoá là hệ thống các giá trị tinh thần và thể chất, do con người sáng tạo và
tích luỹ, khi hoạt động tương tác giữa con người và môi trường.
[1] Khái Hưng “Nửa chừng xuân”
Nhất Linh “Đoạn tuyệt”
Hoàng Đạo “Mười điều tâm niệm”
[8] Cấu Trúc Văn Hóa
Thật nhiều trường hợp người ta hoạt động văn hoá không đúng,
có hại, là vì người ta không quan niệm rõ và nắm vững về Cấu Trúc Văn Hóa, nói
chung.
1. Văn hóa có cấu trúc
Văn hóa có hệ thống, nếu không, văn hoá có thể tạo nhiều xáo
trộn trong đời sống tập thể, mà không thể có giá trị bao quát và trường tồn [1], không thể ổn định như một hệ thống đào luyện người dân và
thành gia tài truyền thống từ thế hệ sang thế hệ.
Cấu trúc đó gồm những giá trị tinh thần và vật chất cấu kết với
nhau trong đời sống tập thể.
Thành tố tinh thần của một nền văn hoá là thành tố chính yếu.
Không mấy người [2] gọi thành tố này là Văn hoá Nhận thức. Thiết tưởng
đây chỉ là một trong những thành tố làm nên văn hoá, không thể LÀ văn hoá. Các
tổ chức mà chúng ta thường gọi là văn hoá trong đời sống chính trị, xã hội,
cũng chỉ nhắm vào một vài hoạt động nào đó có tính văn hoá. Bộ Văn hoá
Giáo dục chẳng hạn chỉ chuyên trách về trường học và sách giáo khoa. Bộ
Xã hội, Bộ Kinh tế tài chính v.v. chuyên trách về những mặt khác cũng
mang tính văn hóa.
Thành tố Tinh Thần trong cấu trúc văn hoá bao gồm những suy
tư, những nhận thức và những biểu cảm liên quan đến tâm tư của con người khi hướng
về con người hoặc vũ trụ, thường gọi là Nhân-sinh-quan và Vũ-trụ-quan.
Về nhận thức cá nhân, chúng ta quen xếp loại vào các khoa
Sinh lý, Tâm lý, Luận lý, Đạo đức và Tâm linh, trong đó có tín ngưỡng tôn giáo.
Về nhận thức thế giới khách quan, thành tố tinh thần của văn
hoá thường phát hiện trong hoạt động khám phá và tương quan với tha nhân và vạn
vật, với ngọn nguồn của muôn vật như những quan niệm về Thiên Địa,Thượng đế, về
tông giáo….
3. Thành tố Thể chất
Trong tầm nhìn thường nhật, người ta thấy những nét văn hoá về
Thể chất nhiều hơn về Tinh thần. Nói đúng hơn: đó là những công trình có tính
văn hoá phục vụ trực tiếp cho thân thể con người.
Khởi từ những đáp ứng thô sơ cho nhu cầu ăn uống, ngủ, nghỉ của
thời “ăn lông, ở lỗ ” đến những khoá học và phương pháp nấu ăn, những công
ty toàn cầu như Coca-Cola, Microsoft, những tiện nghi của khách sạn năm sao….
Từ tập tễnh đi bộ đến những phương tiện di chuyển nhanh hơn
tiếng động, những đoạn đường đi không phải bước, những cánh cửa không cần giơ
tay đóng mở, vượt cả huyền thoạt Aladin, cả khoa học giả tưởng Jules Verne
v.v..
Ngay cả việc vận động cơ thể cũng nảy sinh thể dục thẩm mỹ,
nghệ thuật trượt tuyết, trượt băng, đu giây, lướt sóng v.v.
Con người ngày càng phát triển những công trình văn hoá có
tính đa năng, phục vụ đồng thời cho cả thể xác, tinh thần. Giải trí mà là học,
du ngoạn mà huấn luyện, hành nghề kiếm tiền mà mở mang kiến thức, trau dồi thêm
kỹ năng….
4. Thành tố tương tác đưa tới cấu trúc loại hình văn hoá
Mỗi thành tựu văn hoá thực sự lợi ích cho con người, cá nhân
hoặc tập thể, đều mang tính tương tác thích hợp.
Đơn giản nhất là tương tác giữa tinh thần và thân thể một cá
nhân. Khi gắng toàn lực vào hưởng thụ hoặc phát huy một nét văn hoá về thể chất
mà quên lơ hoặc đi ngược tinh thần, con người mang hoạ, như vận động viên dùng
chất ma tuý, như nhà nông dùng quá nhiều phân hoá học, quá nhiều thuốc trừ sâu
và nhiều chất tăng trọng. Bạn quá miệt mài với giá trị văn hoá tinh thần mà
quên những điều kiện tối thiểu cho thân thể, bạn sẽ như nhạc sĩ Mozart hoặc như
những sinh viên từ trường thi vào bệnh viện.
Trong môi trường xã hội, ảnh hưởng tương tác giữa những con
người, tập thể với cá nhân, giữa những người chuyên nghiệp khác nhau như chính
trị, kinh tế, khoa học v.v. càng là thành tố quan trọng hơn để phát triển
hoặc phá hoại văn hoá.
Đặc điểm này của văn hoá khởi đầu từ cá nhân. Ngay cả
những phong trào cuốn hút hàng triệu người, hàng tỉ người, cũng bắt đầu từ một
cá nhân.
Nhờ vài nhà bác học mà con người có thể chiến thắng bệnh truyền
nhiễm, phong cùi. Nhờ mấy cái đầu siêu tuyệt mà nhân loại biết dùng sức mạnh của
hơi nước, điện, từ, vi điện tử…. Nhờ mấy trái tim cảm thông mà con người bắt đầu
chiến đấu để đa số thoát ách thống trị của thiểu số đặc quyền, mà con người can
đảm thí nghiệm kinh tế hiệp thông thay cho cộng sản hoặc tư bản, mà con người
dám bắt đầu xây dựng nền văn minh tình thương v.v.
Với môi trường thiên nhiên cũng thế. Thường từ một cá nhân mà
con người biết hưởng dùng hoặc đối phó với siêu nhiên. Sau đó, nhờ tương thân
tương trợ, mà thành tựu tốt đẹp mới trở thành một nét văn hoá cho cả dân tộc, cả
chủng hoặc toàn nhân loại. Có những nét văn hoá được bảo dưỡng hàng triệu triệu
năm, như nghề nông hoặc chăn nuôi. Có những thành tựu chỉ được tin dùng một ít
thế kỷ, rồi được thay thế bằng những phương tiện nhân đạo hơn, như dùng sức kéo
của người và thú vật. Sức kéo ngày nay do điện và từ lực, do nước,
gió v.v.
Tất cả những công việc khám phá và biến đổi thiên nhiên mang
nhiều nguy hiểm đang từ từ được thay thế bằng máy móc điện tử.
Cấu trúc văn hóa, vì thế, tuy cơ bản trường tồn, mà vẫn từ từ
có biến đổi, nhất là trong những phương tiện phục vụ con người. Con người ngày
càng phát huy nhân quyền, phát huy quyền “làm chủ” đièu hành và sử dụng thiên
nhiên.
[9] Chủng loại văn hóa
Vì những nét đẹp giống nhau có thể gặp thấy ở từng
vùng, từng thời; trái lại, cũng có những đường nét hoặc trình độ văn hoá
không giống nhau… nên người ta thường bàn tới toạ độ văn hoá hoặc định
vị văn hoá.
Khổ nữa, văn hoá không phải hoàn toàn bất biến, và những
thành tố văn hoá, những diện văn hoá của một vùng, một dân tộc, cũng không thay
đổi tương đương và đồng bộ. Vì thế mà có những thuyết khác nhau để giải thích.
Giáo sư Trần Ngọc Thêm viết:
“… tựu trung lại, có thể quy về ba thuyết:
Từ cuối thế kỷ XIX ở Tây Âu đã phổ biến thuyết khuếch
tán văn hoá (cultural diffusion) với những đại biểu như F. Ratsel, L.
Frobenius, F. Grabner, W. Schmidt ở Đức, Áo; G. Eliot Smith, W. Rivers ở Anh –
Quan điểm chủ yếu của những người theo thuyết này là văn hoá được hình thành từ
một trung tâm rồi được “truyền bá”, “lan toả” ra các nơi khác bằng cách mô phỏng
hoặc nhờ những cuộc thiên di của các dân tộc. Có lan toả toàn bộ hoặc lan toả bộ
phận (truyền bá những yếu tố riêng lẻ của một nền văn hoá), lan toả tiên phát
(trực tiếp từ nơi phát sinh) hoặc lan toả thứ sinh. Việc cực đoan hoá thuyết
này đã dẫn đến chỗ bị giới cầm quyền thực dân lợi dụng để đề cao dân tộc này và
khinh rẻ các dân tộc khác, do vậy mà nó từng bị kết án là một “học thuyết tư sản”.
Đầu thế kỷ XX, từ những ý kiến của F. Boas, các nhà nhân chủng
học Mỹ C.L. Wisler và A.L. Kroeber đã phản đối thuyết khuếch tán văn hoá và đề
xuất thuyết vùng văn hoá (cultural Areas). Trên cơ sở nghiên cứu văn
hoá các dân tộc da đỏ Mỹ, các tác giả khẳng định sự tồn tại của nhiều dân tộc
trên cùng một vùng lãnh thổ mà văn hoá của họ có những điểm chung.
Từ cách tiếp cận vùng văn hoá trên cơ sở một đặc trưng hạn hẹp,
C.L. Wisler và một số tác giả về sau đã đi đến kết luận về sự cần thiết lựa chọn
một tập hợp những đặc trưng tạo nên tip hay loại hình văn hoá
vùng. Trên cơ sở quan điểm này, từ những năm 30, trong dân tộc học Xô-viết đã
hình thành thuyết loại hình kinh tế - văn hoá mà đại biểu là N.N.
Cheboksarov và một số tác giả khác. Các tác giả cho rằng trong lịch sử văn hoá
nhân loại từng tồn tại ba nhóm loại hình kinh tế - văn hoá: loại hình kinh tế -
văn hoá săn bắt, hái lượm và đánh cá; loại hình kinh tế - văn hoá nông nghiệp
dùng cuốc và chăn nuôi; loại hình kinh tế - văn hoá nông nghiệp dùng cày với sức
kéo động vật. [xem Cheboksarov 1971] “
Giáo sư Thêm nhận xét về ba thuyết đó:
“Mỗi một trong ba thuyết trên đều ít nhiều có hạt nhân hợp lý
của nó. Chúng thực ra không mâu thuẫn, mà bổ sung cho nhau, mỗi thuyết thích hợp
cho những điều kiện khác nhau.
Thật vậy, nếu các dân tộc chủ nhân của các nền văn hoá, cũng
như các ngôn ngữ của họ, xuất phát từ cùng một gốc, thì giữa văn hoá gốc và các
nền văn hoá này có thể có quan hệ “khuếch tán”, lan toả.
Nếu các nền văn hoá gần gũi nhau về địa lý thì chúng có thể từ
tiếp xúc đến giao lưu với nhau, và trong việc giao lưu ấy có thể xảy ra hiện tượng
những yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia (tiếp thu thụ động)
hoặc nền văn hoá này vay mượn những yếu tố của nền văn hoá kia (tiếp thu chủ động);
rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh (endogenous) và ngoại sinh (exogenous) ấy
mà điều chỉnh, biến cải cho phù hợp, gây ra sự tiếp biến văn hoá (acculturation).
Các nền văn hoá gần gũi và giao lưu này tạo nên những vùng văn hoá. Cũng có thể
phân biệt vùng văn hoá ngay trong nội bộ một nền văn hoá….
Các thuyết và các khái niệm nêu trên đều có thể được vận dụng
ở những mức độ khác nhau. Chẳng hạn, lý thuyết vùng văn hoá sẽ rất hữu hiệu cho
việc xác định các vùng văn hoá của người Việt và các tộc ít người như văn hoá
sông Hồng, văn hoá đồng bằng sông Cửu Long, văn hoá Tây Nguyên [Xem Ngô Đức Thịnh
1993 [3], Huỳnh Khải Vinh 1995 [4]]; lý thuyết về sự lan toả thích hợp cho việc giải thích sự
tương đồng văn hoá giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo….
Song, để làm sáng tỏ bản sắc của vùng văn hoá Việt Nam, điều
quan trọng hơn là nêu được sự đồng nhất và khác biệt giữa nó với các nền văn
hoá khu vực (như Trung Hoa) và thế giới (như phương Tây). Trong sự so sánh này,
việc xác định loại hình văn hoá là hết sức quan trọng. Chỉ ra được các loại
hình với mức độ khái quát cao và những đặc trưng của mỗi loại, ta có thể căn cứ
vào đó mà xếp bất kỳ một nền văn hoá nào vào trong các “ngăn” phân loại đã có.
Ba loại hình kinh tế - văn hoá của N.N. Cheboksarov thiên về các đặc điểm mang
tính lịch sử - kinh tế mà chưa đồng thời phản ánh được các đặc trưng địa lý –
khu vực là điều không kém phần quan trọng đối với việc xác định một nền văn
hoá…” [5].
Sau đó, giáo sư Thêm nhắc nhớ nguồn gốc nhân loại theo mấy
nhà bác học, để dẫn tới Đông phương và Tây phương, rồi ông nhận định:
“Bởi văn hoá là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn
gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều
kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) quy định.”
Khẳng định đó của giáo sư Thêm khá đúng “văn hoá là sản phẩm
của con người và tự nhiên”. Đúng hơn, phải nói: Văn hoá là sản phẩm của con người
TRONG THIÊN NHIÊN. Tuy thế, những người nhìn văn hoá lan toả và văn
hoá vùng đâu có phủ nhận đó là sản phẩm của con người trong thiên nhiên.
Những lời tiếp theo của giáo sư cho một nhận định không thể
nói là đúng: “nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những
khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý - khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế)
quy định”. Những hàng tiếp liền của giáo sư vừa mâu thuẫn với khẳng định
đó, vừa hàm một phân chia và lý luận không đúng: Ông nói đến vùng đất có mưa
nhiều và vùng đất mưa ít, gọi đó là Đông và Tây phương thì không đúng. Lượng
mưa theo vĩ tuyến, mà Đông Tây theo kinh tuyến. Càng là hoặc gần xích đạo, càng
nhiều mưa.
Do đó, năm hàng này hiển nhiên đúng:
“Môi trường sống của các cộng đồng cư dân ở phương Đông
(chính xác hơn là Đông Nam) là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo
nên những vùng đồng bằng nằm trong lưu vực các con sông lớn…. Còn
phương Tây (chính xác hơn: Tây Bắc) lại là xứ lạnh với khí hậu khô,
tạo nên những vùng đồng cỏ mênh mông.
Hai loại hình đồng bằng và đồng cỏ dẫn đến
chỗ cư dân của hai khu vực phải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt
và chăn nuôi. Kinh tế trồng trọt bắt buộc người dân phải sống định
cư, vì trồng cái cây xuống thỉ phải chờ cho nó lớn lên, ra hoa kết trái để còn
thu hoạch. Ấy là chưa kể đến những loại cây lâu năm, phải trồng công phu,
phải chờ 5-10 năm mới có quả, rồi lại thu hoạch nhiều lần. Lối sống chăn
nuôi thì khác: Tài sản của dân du mục là đàn gia súc. Gia súc ăn cỏ và
không bị cố định như cái cây, ăn hết cỏ không thể ngồi đợi cho cỏ mọc mà phải
đi tìm bãi cỏ khác. Cho nên sống bằng nghề du mục là lối sống du cư –
vừa đi vừa ở nay đây mai đó lang thang.
Kết quả là hình thành một cách khá rõ ràng hai loại văn hoá:
Văn hoá nông nghiệp thì lo tạo dựng một cuộc sống ổn định lâu dài,
không xáo trộn – chúng mang tính chất trọng tĩnh; văn hoá du mục thì
tổ chức làm sao để có thể thường xuyên di chuyển một cách gọn gàng, nhanh
chóng, thuận tiện – chúng mang tính chất trọng động. Các nền văn hoá hiện
đại dù đang thuộc giai đoạn văn minh nào (nông nghiệp, công nghiệp, hay thậm
chí hậu công nghiệp) cũng đều không thoát ra ngoài hai loại hình ấy. Căn cứ
theo nguồn gốc, có thể gọi chúng là các nền VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP và các nền
VĂN HOÁ GỐC DU MỤC, căn cứ theo tính chất, có thể gọi chúng là các nền văn hoá
TRỌNG TĨNH và TRỌNG ĐỘNG” .
Thiết tưởng chúng ta có thể tạm kết rằng Con người từ bỏ đời
sống hái lượm mới qua cuộc sống “có văn hoá, mà phân biệt loại hình văn hoá đầu
tiên là Văn hoá Nông nghiệp và Văn hoá Du mục.
Chúng tôi gọi Chủng Loại Văn Hoá, vì yếu tố con người. Du
canh hoặc du mục, con người những thế kỷ đầu [6] đều sống
quần tụ theo Chủng Tộc của mình. Một chủng cũng có thể sống ở nhiều nước, nhiều
dân, cả trong lục địa lẫn hải đảo; những nét văn hóa giống nhau giữa các dân tộc
không chỉ do lan toả, mà có thể chính là do khuếch tán vì cùng chủng hơn
là do địa lý. Vì con người chịu ảnh hưởng của người hơn của thiên nhiên. Con
người mang định mạng điều hành Thiên nhiên [7].
[1] Xem lại [6]
[2] Thí dụ Gs. Trần Ngoc Thêm
[3] Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở VN.
[4] Chấn hưng các vùng và tiểu vùng vh. ở nước ta hiện nay
[5] Trần Ngoc Thêm sdd tr.34-36
[10] Chuyển Biến Văn Hóa
Chúng ta nhắc lại: Người ta theo văn hóa Tĩnh hoặc Động là vì
tính khí của mình và vì sau thời kỳ thuần hái lượm cây trái và thú vật để sống,
con người thấy mình thích hợp với Nông nghiệp hoặc Du mục. Hai nghề này lại
do địa lý và khí hậu đề nghị cho từng chủng tộc. Mà khí hậu không phân theo
Đông-Tây, cũng không hẳn Nam-Bắc; nhưng Xích Đạo và khoảng cách với xích đạo là
nguyên nhân chính, núi cao hoặc bình nguyên và đại dương là phụ, vì cơ bản sức
nóng là do mặt trời. Vậy nên không nói được rằng Tây phương du mục, Đông phương
làm nông:
1. Một quan niệm thời thượng
“Điển hình cho loại trọng tĩnh (gốc nông nghiệp) là các nền
văn hoá phương Đông, còn điển hình cho loại trọng động (gốc du mục) là các nền
văn hóa phương Tây”
Nói đến chuyển đổi văn hóa, nhận xét này của giáo sư Thêm
càng không đúng địa lý, lịch sử và xã hội “Chính vì động nên các nền văn
hoá phương Tây đã chuyển biến rất nhanh. Trong khi phần lớn các nền văn hoá
phương Đông đến nay về cơ bản vẫn mang tính nông nghiệp thì các nền văn hoá Tây
phương đã chuyển sang công nghiệp từ lâu.
Con đường chuyển biến từ du mục đến nông nghiệp đi qua giai
đoạn thương nghiệp: Ban đầu là du mục, nhưng trong khi lang thang từ nơi
này sang nơi khác, người ta nhận ra sự khác biệt về giá cả, vì vậy họ đã chuyển
sang mô hình kết hợp du mục + buôn bán. Khi hàng hoá dồi dào và thấy buôn bán
có lợi hơn chăn nuôi, người du mục sẽ từ bỏ chăn nuôi mà chuyển hẳn sang thương
nghiệp. Nhưng thương nghiệp thì phải có kho bãi, phải có nơi gặp gỡ để trao đổi
hàng hoá. Và thế là cuộc sống định cư hình thành, dân số tăng lên, các kho bãi,
chợ búa sẽ phát triển thành đô thị. Để phục vụ nhu cầu của đô thị và có
hàng hoá trao đổi lấy hàng nông nghiệp về nuôi sống đô thị, đồng thời với sự
phát triển của khoa học – sản phẩm của tư duy phân tích, một xã hội công
nghiệp sẽ hình thành.”
2. Nên nhận xét sâu hơn
Có thể vì vội vàng, có thể vì “phương pháp luận” không đúng,
giáo sư Thêm mắc vài ba khuyết điểm trong những hàng trên, chúng ta không thể
chấp nhận, mà cần quan niệm lại cho đúng.
2.1. Không đúng: “Từ du mục đến thương nghiệp… đến công
nghiệp”.
Xét về nhu cầu: Sau khi dùng đủ, người du mục muốn hoặc cần
bán gia súc cũng như nhà nông cần bán nông sản thôi.
Xét về hàng hoá bán ra và mua vào, xét về điểm hẹn để buôn
bán, nhà nông vẫn có nhiều ưu thế hơn du mục, cuộc sống đơn giản và không định
cứ.
Về mặt lịch sử: Hai con đường buôn bán nổi tiếng thời
thượng cổ là con đường tơ lụa và con đường hồ tiêu, hoặc hương liệu, là hai con
đường mua bán Nông Phẩm, không phải của du mục. Điểm xuất và điểm nhập cũng là
những nước nông nghiệp.
2.2. Không đúng: Tây phương đi từ du mục qua
thương nghiệp tới công nghiệp
Vì sao nói “quan niệm trên không đúng”?
Lịch sử Tây phương hoặc Âu châu ghi đậm nét sự kiện họ là những
dân du mục (man di ) vào phân chia đế quốc Roma từ thế kỷ V đến VIII, và họ
đều được các Thày Tu Thiên Chúa Giáo – nhất là đan tu Biển Đức với châm ngôn “cầu
nguyện và làm ruộng = orare et laborare” – dạy họ canh tác và hình thành
ngôn ngữ văn tự… để hình thành bản đồ Châu Âu. Họ cơ bản làm nông, chăn
nuôi làm phụ, cho tới khi máy móc chào đời. Máy hơi nước cũng ưu
tiên khởi đầu được ứng dụng vào ngành dệt. Sau đó được đưa vào ngành luyện
thép, rồi đường sắt… lúc đầu nhằm chuyên chở nông sản, rồi mới tới khoáng
sản làm nhiên liệu v.v.
Phát triển hàng hải ghe buồm với ưu thế của Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha… mà phát triển hàng hải với máy hơi nước là ưu thế của Anh quốc.
Chỉ khi đó mới phát triển thương mại quốc tế và đô-thị-hoá để
đi vào ngành công nghiệp.
Vậy nên nhận đình rằng :
2.2.1.. Rõ ràng không phải vì du mục mà Tây phương chuyển sang
thương nghiệp và công nghiệp.
2.2.2.. Các nước Âu Châu, và từ thế kỷ 18 thêm Mỹ châu, tuy
còn nhiều phong tục của mỗi sắc dân, nhưng họ có chung một Văn hoá Thiên Chúa
Giáo. Thiên Chúa Giáo có chương đầu Thánh Kinh dạy: con người giống Thiên Chúa,
nên con người có nhiệm vụ phát triển và làm chủ vũ trụ vạn vật này . Thánh
Kinh còn dạy họ coi nhau như anh em, phải đi khắp thế giới loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa [1].
Tôi cho rằng chính Văn Hoá Thiên Chúa giáo hoặc là
Do thái-Kitô giáo, là yếu tố tiến bộ của các dân Âu Mỹ. Thiên Chúa giáo ngành Hồi giáo,
từ thế kỷ VII, cũng là yếu tố tạo văn hoá tiến bộ cho các dân Ả rập và những nước
theo Hồi giáo.
Yếu tố này, hàng chục thế kỷ sau Âu châu, các nước Đông
Phương vẫn không có, vì họ sẵn theo Khổng, Lão và Phật giáo, những tôn giáo,
nói chung, chủ trương Tịnh và tu tâm. Mặt khác, các dân tộc nông nghiệp Á Phi
nào sớm bị Âu châu thực dân lấn lướt, mà biết “cải cách” như Minh Trị Thiên
Hoàng của Nhật, hoặc Tôn Trung Sơn của Trung Quốc, Gandhi của Ấn Độ… thì cũng sớm
chấp nhận chuyển biến văn hoá; những bộ tộc du mục hoặc du canh, vì một lý do
nào đó, chẳng hạn mặc cảm yếu kém, chủ trương đóng kín, không chịu tiêp biến hoặc
thích nghi văn hoá, thì vẫn không có chuyển biến nào đáng kể. Họ có thể sắp biến
mất trong văn hoá thông tin toàn-cầu-hoá, trong nền văn hoá này, không quyền lực
nào che giấu được. Nếu chính quyền che đậy, nhân dân thức tỉnh và ùa theo những
nét văn hoá mới, không được chọn lọc và hướng dẫn, thì khủng hoảng văn hoá phải
xảy ra….
3.
“Chúa Trời lấy bùn đất mà cấu tạo con người. Ngài thở
sinh khí vào mũi, bỗng nó trở thành nhân linh.
Rồi Đức Chúa Trời lập một vườn vui về hướng Đông và đặt con
người vừa được tạo thành vào đó.
Đức Chúa Trời lại khiến đất trổ sinh các thứ cây đẹp mắt, ăn
ngon, với cây trường sinh và cây biết thiện ác ngay giữa vườn. Một con
sông từ giữa lạc viên chảy ra tưới khắp vườn, cũng từ đó phân làm bốn
nhánh: Nhánh thứ nhất gọi là Phisơn, chảy quanh đất Heu-la, nơi có vàng.
Vàng xứ này hảo hạng. Ở đó lại có trầm và bích ngọc. Nhánh thứ nhì Giê-hơn, chảy
khắp miền Ethiopia. Nhánh thứ ba là Tigre chảy ngược lên vùng Assyrie. Còn nhánh
thứ tư chính là Euphrate. Vậy Đức Chúa Trời đặt con người ở lạc viên…” [2]
[11] Tìm phát tích nhân loại
Muốn biết cơ bản Văn hóa Việt Nam, phải biết người Việt Nam.
Muốn biết người VN, phải tìm chủng loại và cái nôi của dân tộc. Chúng ta liên hệ
đến mấy khoa học chỉ mới bắt đầu trong một thế kỷ nay, nghĩa là còn ít phổ biến
và dễ bị trộn với giả thuyết. Chúng ta chỉ sàng lọc vài hàng có lẽ đáng tin
hơn.
Trước hết, về nguồn gốc loài người theo địa khảo cổ:
1. Nhóm các chủng xích đới
“Trạng thái và khởi nguyên.
Nhóm này gồm chung các chủng rải rác vòng bán nguyệt chung
quanh Biển Ấn Độ và trong các đảo Thái Bình Dương. Họ sống trong môi trường
xích đới, hoặc ít ra cũng nhiệt đới ẩm ướt. Ngoài da mầu ít nhiều đậm lạt,
họ còn chung cấu trúc thân thể mảnh mai, mũi rộng, tóc thường quăn và sọ nói
chung là cứng dài. Tướng mạo cổ kính của họ nói lên một nguồn chung. Nhưng, họ
làm thành hai nhóm cách biệt bằng Ấn độ dương, mà họ chẳng hề thử vượt qua, họ
cũng cách nhau bằng những sa mạc Iran-A-rập thuộc quyền những chủng khác. Tóc
và màu da là những nét phân biệt họ. Trung tâm phân tán họ phải tìm ở miền khác
trong vùng Nam Á Châu hoặc trong vùng Insulinde [4]. Vào thời kỳ
đóng băng cuối cùng, vùng Iran không phải là sa mạc không thể qua giữa hai sắc
dân này, mà liên hệ còn dễ hơn nữa qua Ả-rập ít cừu địch; thời đó, trước khi
chìm mất từng phần của vùng Sonde [5], cánh Đồng gồm
cả Insulinde vào Đông Dương. Những chuyển di tách rời các phần đất Ấn-Thái-Bình-Dương
này chưa lâu lắm….
Nhóm Đông phương
Hình thức xưa nhất của Nhóm Đông phương (australoide) biểu tượng
nơi chủng Ta-Marianiêng, mới diệt chủng từ năm 1877. Trong các đặc điểm của bộ
cốt thì trán phẳng là rõ nhất. Chủng Nam (australienne), đã từng có thời sinh
trưởng ở phương Nam lục địa, có diện mạo cổ sơ với trán thóp, lông mày thật mạnh
và cánh mũi tẹt. Hình ảnh này nhắc nhớ loại người Neanderthal. Di tích khảo cổ
cho thấy họ sống trên vùng rất rộng ở Malaya, Đông Dương, tới tận đồng bằng
sông Ấn. Tại Nam Mỹ Châu, người ta cũng thấy đặc tính này nơi sọ Ona. Còn những
dân thường gọi là Đen, tượng trưng là người Pa-pu (Tân Ghi-nê) và người Mã-lai.
Những người này giữ vai trò quan trọng tại Đông Nam Á. Di tích của họ gặp thấy
trong thời Đá Mài ở Đông Dương và cùng kiểu rải rác trong bán đảo thuộc các dân
Indonêdiêng. Trong cánh Đông phương này có những bộ tộc nhỏ thường gọi là
Negrito (trong các đảo Adaman, bán đảo Malacca, Philippines, Tân Ghi-Nê).
Nhóm Tây phương
Nam Sahara có cánh Tây phương của chủng Mã-lai. Đây là đại
lục đen theo đúng nghĩa. Tượng trưng cho những người xưa ở đây là các dân
Bochimans và Hottntots của Nam Phi và Négrilles của rừng nhiệt đới…” [6]...
2. Da Trắng, Da Vàng của người Á Âu
Những mẫu người xưa
Dân lục địa Á-châu là thuộc hai nhóm da mầu. Ranh giới giữa họ
là từ cửa Ob đến cửa sông Hằng, trắng vàng là hai sắc dân lớn và quan hệ giữa họ
cho ra đời những dân lai. Thời và địa điểm thì không sao minh định được. Hình
như vào thời mà cả Tây Bắc Âu còn đóng băng và lúc băng tan, có những bộ tộc từ
Á-châu thường canh tác trên những triền đồi… bị áp lực của những sắc dân tiến bộ
hơn, nên một mặt họ tràn xuống Tây Âu, mặt khác xuống Đông Bắc Á…. Trước hết, tại
Yéso, Nam bán đảo Sakhaline, trong các đảo Riu Kiu và Nam Kurin, xuất hiện sắc
dân Ainos, giống người Âu, trước đây đã chiếm cả quần đảo Nhật. Những người này
vóc nhỏ, sọ dài, lông mày đậm, mũi thẳng hoặc khoằm, tóc gợn sóng…. Nơi
thứ hai, trên quần đảo của Thái Bình Dương, như Hạ-uy-di, Quần đảo Samoa và
Pasqua, có những dân tộc mang dung mạo người Âu, mà da rám nắng, mũi thanh và
cao: hình ảnh một phụ nữ Maori buông tóc mang dáng dấp một phụ nữ miền nam
Italia….
Những người da vàng
Lớp người thứ nhất là tập thể có phong hoá đồng dạng lớn hơn hết. Không phải họ
bao cả một vùng. Người ta chỉ gặp các chủng tộc có những nét mông-gô-lích đã giảm
nhẹ. Họ sống trong những phần đất khó đi lại và có phần khắc nghiệt để định cư,
những nhóm sơn nhân nho nhỏ như Pumans ở Bornêo, hoặc những dân tộc định cư
trên các cao nguyên Á châu như Tây Tạng, hoặc ở gần đại cực như người Paleo ở
Sibêri. Trong số này, những dân ở Tây phương (như Osiaks và Voguls ở đồng bằng
Ob) không còn giữ được cặp mắt mông-gôn, mà những dân ở Đông phương, như
Tchouktches, gần chủng hơn. Người ta nhận ra những biệt điểm này: da vàng, tóc
thẳng, đen, cứng, thân vóc đậm, cánh tay ngắn, gò má cao, mí mắt xếp, đầu tròn,
sọ rộng, mũi trung bình…. Mẫu người Hoa Bắc cao hơn, đầu dài và vươn lên, sọ
cao hơn. Những chủng tộc này bành trướng không ngừng. Người Môngols đã lai giống
với người Alpins và Địa Trung Hải, thành nên những tộc Kirghiz ở Turkistan,
Turcomans ở Ba tư, Tatars ở Crimée và Thổ ở Anatolie…. Trong vùng Hoa Nam và nhất
là ở Đông Dương nhiều sắc tộc giao thoa, mà chúng ta còn thấy sót lại là những
bộ tộc sơn dã…. Đông dương thật đúng là bài toán dân tộc học: phạm trù
“indonésiens” người ta thường dùng chỉ các dân này có nhiều diện không thích hợp.
Dầu sao, ở phương Nam, dòng Mã-lai đã lai chủng…” [7]
Nghiên cứu của Giáo sư đại học Pháp là thế. Tài liệu khảo cổ
và chủng học của Hoa Kỳ có khác không?
Khi nói về “Tọa độ của Văn Hoá Việt Nam”, giáo sư Trần Ngọc Thêm có “mở rộng”
sang cái nhìn về nguồn gốc nhân loại, nguồn gốc Văn minh, theo nghiên cứu của
giới Đại học Hoa Kỳ. Chúng tôi xin trích lại bài đó như trong cuốn Tìm về
Bản sắc Văn Hoá VN. [8]
“TIA SÁNG MỚI RỌI VÀO MỘT QUÁ KHỨ BỊ LÃNG QUÊN
Wilheim G.Solheim II
Tiến sĩ Wilheim G.Solheim II là giáo sư nhân chủng học ở
trường Đại học Hawai chuyên nghiên cứu về tiền sử Đông Nam Á. Bài viết New
Light on a Forgotten Past trích giới thiệu dưới đây đăng trong National
Geographic (vol. 139. No.3. March. 1971). Cũng nội dung này, Ông đã trình bày
nhiều bài ở những tạp chí khác. Các chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi (TNT).
Thế giới trong 10 năm qua đã quay sang chú ý đến Đông Nam Á,
nhưng nguyên do chính của sự chú ý này là chiến tranh đang xảy ra tại đây.
Chính cái tính chất nặng chĩu của những biến cố quân sự ấy đã làm lu mờ nhiều
khám phá lý thú về cổ sử và tiền sử của các dân tộc hiện đang sống trên miền đất
này. Thế nhưng, về lâu dài, những khám phá này, phần nhiều có tính khảo cổ, sẽ
tác dụng, có lẽ còn nhiều hơn là chiến tranh hay hậu quả của chiến tranh, đối với
lối suy nghĩ của chúng ta về miền đất này và các dân tộc của miền này, và đối với
lối tư duy của họ đối với chính họ nữa. Ngay cả đến quan niệm của người phương
Tây về vị trí của họ trong quá trình biến đổi của văn hoá thế giới cũng có thể
bị thay đổi hoàn toàn. Bởi vì có nhiều dấu hiện rõ rệt và mạnh mẽ khiến ta nghĩ
rằng những bước đầu tiên đến văn minh có thể phát xuất từ Đông Nam Á.
Các nhà sử học Âu Mỹ thường hay lý luận rằng lối sống mà ta gọi là văn minh thoạt
tiên bắt nguồn từ vòng cung phì nhiêu miền Cận Đông, hoặc trong những vùng sườn
đồi lân cận. Ta đã tin tưởng từ lâu rằng ở đây con người cổ sơ đã phát triển
nghề nông và dần dần học cách làm gốm và đồ đồng. Một khảo cổ học cũng yểm trợ
cho điều tin tưởng này, một phần vì các nhà khảo cổ đào bới khá nhiều trong
vùng thung lũng phì nhiêu của Cận Đông.
Tuy nhiên, những khám phá mới đây ở vùng Đông Nam Á bắt buộc
chúng ta phải xét lại những quan niệm này. Những vật dụng đã được đào lên và
đem phân tích trong vòng 5 năm qua cho ta thấy rằng con người ở đây đã bắt đầu
trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên
trái đất.
Điều hiển nhiên là người ta đã tìm thấy các chứng tích tại những
nơi mà ngành khảo cổ đào xới trong vùng Đông Bắc và Tây Bắc Thái Lan, với những
chứng minh hỗ trợ từ các cuộc đào xới ở Đài Loan. Nam và Bắc Việt Nam, các miền
khác của Thái Lan, Malaixia, Philippin, và ở cả Bắc Úc Châu nữa.
Các vật dụng đã tìm được và ước định tuổi bằng cacbon 14 là
những di tích văn hoá của dân tộc mà tổ tiên họ đã biết phương pháp trồng cây,
chế tạo đồ đá mài và đồ gốm sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa, tới
cả hằng mấy ngàn năm. Trong một vùng ở Bắc Thái Lan, có những đồ đồng được đúc
bằng các khuôn kép vào khoảng 2.300 năm trước công nguyên. Thậm chí có thể trước
cả 3.000 trước công nguyên nữa. Như vậy, nghĩa là trước khá lâu, so với các vật
dụng bằng đồng được đúc ở Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa mà nhiều chuyên gia đã
tưởng là những vật dụng đầu tiên.
Người ta có thể sẽ có lý khi đặt câu hỏi: Nếu có sự kiện quan
trọng như vậy thì tại sao cho tới nay khoa tiền sử học Đông Nam Á lại không ai
biết đến? Có nhiều nguyên nhân, nhưng lý do chính là vì rất ít những tìm tòi khảo
cổ được tiến hành tại đây trước năm 1950 . gay cả đến bây giờ công việc
cũng chỉ mới bắt đầu. Nhà cầm quyền thực dân đã không đặt vấn đề ưu tiên vào vấn
đề khảo cổ ở đây, và một số rất ít người tra cứu về môn này đã không có một hiểu
biết chuyên môn cần thiết. Trước năm 1950, không có một bài biên khảo nào đúng
với tiêu chuẩn hiện đại được tiến hành. Lý do thứ hai là bất cứ cái gì khám phá
thấy đều được xếp loại căn cứ vào quan niệm từ lâu cho rằng đó là kết quả của sự
di chuyển văn minh. Họ cho rằng: Văn minh bắt nguồn từ Cận Đông, phát triển thịnh
vượng ở xứ Mesopotamie và Ai-Cập, và sau này ở Hi-Lạp và La-Mã. Văn minh cũng
di chuyển về hướng Đông đến Ấn Độ và Trung Hoa. Còn Đông Nam Á, vì ở xa nhất đối
với điểm xuất phát, nên cũng hưởng văn minh sau chót. Người châu Âu đã tìm thấy
những nền văn hoá tiến bộ ở Ấn Độ và Trung Hoa. Khi họ thấy có những điểm tương
đồng… của các nước này với các xứ sở miền Đông Nam Á thì họ cho rằng đó là do Ấn
Độ và Trung Hoa đã ảnh hưởng đến Đông Nam Á. Ngay cả cái tên mà họ đặt cho miền
này – “Ấn Độ-Trung Hoa” (Indochine) [9] –
cũng phản ánh thái độ đó.
Robert Heine Geidern, một nhà nhân chủng học Áo, đã xuất bản
năm 1932 bàn về những nét chính cổ truyền của tiền sử Đông Nam Á. Ông cho rằng
có một loạt các “làn sóng văn hoá”, nghĩa là những dòng di cư. Theo ông thì
đoàn di cư quan trọng nhất đến Đông Nam Á là từ phía Bắc Trung Hoa. Ông cho rằng
đồ đồng Đông Nam Á là kết quả di cư của các dân tộc ở Đông Âu tới vào khoảng
năm 1.000 trước công nguyên. Ông tin rằng những dân tộc di cư về phía Đông và
phía Nam, đi qua nước Tàu vào thời kỳ nhà Tây Chu (1122-711 trước công nguyên).
Các sắc dân này mang theo không chỉ phương pháp đúc đồng mà cả một nghệ thuật
trang trí đồ đồng bằng các hình vẽ kỉ hà học [. . . .]
Các nhà nghiên cứu tiền sử phần đông đều chấp nhận lối lập luận
cổ điển này, nhưng nếu theo đó thì có một số sự kiện tỏ ra không được ăn khớp lắm.
Một số nhà thực vật học nghiên cứu nguồn gốc cây trồng chẳng hạn cho rằng Đông
Nam Á là nơi biết trồng cây sớm nhất.
Năm 1952, Ông Carl Sauer, một nhà địa chất học Mỹ, đi thêm một
bước xa hơn nữa. Ông nêu giả thuyết là khoa trồng cây trên thế giới đã bắt nguồn
trước tiên trong vùng Đông Nam Á. Ông cho rằng khoa trồng cây do một sắc dân
mang lại đây trước thời kỳ Đông Sơn rất lâu, họ được biết tới dưới danh hiệu một
nền văn hoá thô sơ gọi là Hoà Bình. Các nhà khảo cổ không thể chấp nhận ngay
thuyết của ông Sauer.
Từ năm 1920 trở đi, bà Madeleine Colani, một nhà thực vật học,
cổ sinh vật học và khảo cổ học người Pháp, đã nêu ý kiến là có một nền văn hoá
Hoà Bình. Những ý kiến của bà đều căn cứ vào các cuộc đào xới ở một vài hang đá
và các nơi trú ẩn bằng đá khác ở miền Bắc Việt Nam, trong đó khu vực đào xới đầu
tiên đã được tìm thấy ở vùng Hoà Bình [10]
Chúng ta sẽ đọc tiếp tài liệu này khi bàn về Văn Hoá Hoà
Bình. Bây giờ nên chú ý đến một thời còn mờ mịt hơn, với con người đang hình
thành lý trí, mà tiền sử học gọi là Homo Sapiens trong văn hoá hái lượm, rất
lâu xa trước con người biết trồng cây.
[13] Một quá khứ chưa tìm lại được:
Văn hoá SƠN VI
Xin ghi lại, và xin ghi nhận một chút trong công trình tập
thể của những thế hệ trí thức Việt Nam làm việc trong những điều kiện hết sức
khắt khe vì nội chiến giành độc lập: “Ba thập kỷ, kỳ gian của một thế hệ người
trong lịch sử trôi đi, tư duy khảo cổ, tư duy lịch sử Việt Nam ngày càng chín
chắn, những cách tiếp cận liên ngành, nghiên cứu đối sách và liên
văn hoá và việc đặt Vĩnh Phú - Việt Nam trong bối cảnh đại đồng văn (contexte)
Đông Dương – Đông Nam Á– Thái Bình Dương… ngày càng được ứng dụng có hiệu quả.
Đã xuất hiện nhiều công trình tổng kết và tổng hợp về văn hoá
Sơn Vi, văn hoá Phùng Nguyên….
Huyền thoại, huyền tích và cả kho tàng Folklore nói chung của
Vĩnh Phú được giải mã trên tảng nền kinh tế - xã hội và theo lý thuyết về biểu
tượng (théorie des Symboles)…. Cái truyền thống được “lật đi lật
lại”, trong ánh sáng hôm nay. Địa chí Vĩnh Phú được xây dựng rất sớm….
Khi người Việt và không gian Việt bắt đầu được định
hình và bước đầu phát triển, cho mãi tới thời thuộc Pháp, Vĩnh Phú được xem là
xứ Đoài, miền Tây không gian – hạt nhân Việt…. Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm!
(Thơ Quang Dũng). Mây Ba Vì, mây Tam Đảo… được ngắm nhìn từ Kẻ Chợ kinh kỳ. Ba
Vì (hay Tản Viên, theo tên chữ) cũng như Tam Đảo (không có tên Nôm, kỳ lạ thế),
mà nhất là Ba Vì, được xem là ngọn Chủ Sơn (núi chúa) của không gian Việt.
Nhất cao là núi Tản Viên...
Chúng ta gọi Vĩnh Phú thuộc miền Trung Du, Bắc Việt. Trần Quốc
Vượng nhận xét:
“Trung Du đã là nơi sống xen Việt – Mường, Việt – Tày, mà điều
chắc chắn, yếu tố Việt là cái tới sau, từ đồng bằng, do thiên tai và biến
động lịch sử….
Việt Trì và vùng xung quanh – tức là Vĩnh Phú là vùng
đỉnh xưa nhất của tam giác châu sông Hồng.
Sông Hồng là một tên gọi muộn màng ở cuối thế kỷ XIX do mầu
nước của dòng sông này. Sách Thuỷ kinh chú ở thế kỷ VI gọi nó là “Tây Đạo”, cái
“tên chữ” Hán Việt này là sự phiên âm một tên Tày cổ Nậm Tao mà tên Việt hiện
nay còn giữ được ở Việt Trì là Sông Thao…. Bao quanh điểm Việt Trì, là những
núi đồi lô nhô như bát cơm mà tư duy vũ trụ luận dân gian hình dung thành bầy
voi trăm con mà tới 99 con chầu về Đất Tổ….
Cái dân gian gọi chung là voi – đồi thì địa chất học và địa
lý học phân tích hẳn hoi thành hai loại hình khác nhau: Một loại là những đồi
diệp thạch (schiste, grès schisteux) vết tích của một bán bình nguyên thời địa
trung sinh, trăm triệu năm về trước. Một loại khác, với cấu tạo cuội sỏi và đất
phong hoá từ đá gốc, có độ cao từ 25-60m, là thềm bậc hai của sông Hồng (người
ta bảo sông Hồng có tới mười bậc thềm, từ hạ lưu ngược lên thượng lưu, mà bậc 1
nay chỉ còn những gò đồi sót cao 5-10m, ở lác đác trên châu thổ).
Chính trên những con đồi – thềm bậc hai sông Hồng này của
vũng Vĩnh Phú, vào xuân hè 1968 tôi cùng các đồng nghiệp sinh viên Đại học Tổng
Hợp Hà Nội, trong khi đào lại Phùng Nguyên, đã phát hiện ra nền văn hoá cuội
gia công tiền Hoà Bình, sau được mệnh danh là Văn hoá Sơn Vi, với niên đại C14:
10-20.000 năm cách ngày nay vào cuối thời Đá Cũ, ở thời điểm cuối thế cánh tân
Pleixtoxen. Bấy giờ là băng kỳ cuối cùng Wirm ở Bắc Á – Bắc Âu, mực nước biển
còn ở xa ngoài khơi Biển Đông, cái đồng bằng Bắc Bộ thứ nhất với rừng cây rậm rạp
che phủ những hệ thống sông chảy dài ra hải đảo– Trường sinh thái – nhân
văn của người Sơn Vi, hái lượm và đi săn, rộng mênh mông, những tưởng là vô tận….
Tôi tìm được di tích Sơn Vi ở Gò Cưu và những thềm sót vùng Đầm Cà – Cổ Loa ngoại
vi Hà Nội, ở những gò-đồi thềm cổ sông Lục Nam từ Chũ đến An Châu Hà Bắc, cho tới
giáp chân núi Yên Tử, mạn Đông Triều.
Những phát hiện gần đây về văn hoá Sơn Vi ở cả ba lưu vực
sông Lô, sông Đà và Yên Bái – Hoàng Liên Sơn dọc thượng – trung lưu sông Hồng
đã dẫn Nguyễn Khắc Sử (1991) đến một giả thuyết về sự hội tụ Sơn Vi ở đỉnh Việt
Trì Vĩnh Phú từ ba nguồn Sơn Vi sớm dọc sông Lô, sông Đà, sông Nhị. “Hội Thuỷ”
là của tự nhiên, hội Nhân, hội văn hoá là của con người.
Người cực khôn ngoan (homo sapiens sapiens) đã hội tụ về Vĩnh
Phú hàng vạn năm về trước rồi lan toả về xuôi, về biển….
Đấy là con người và văn hoá lần thứ nhất ở Vĩnh Phú. Từ lâu,
tôi vẫn ngờ rằng sự Hội tụ Sơn Vi muộn này đã khiến nảy sinh nền nông nghiệp sơ
khai – trồng trọt, chăn nuôi sơ khai. Nếu quả vậy, thì mảnh đất trung du Vĩnh
Phú – Sơn Tây của Việt Nam cũng giống như dải bình nguyên – cao nguyên Anatôli
của vùng Trung Cận Đông Châu Á – là môi trường sinh cảnh của cuộc cách mạng đá
mới– hay cách mạng nông nghiệp (nhảy vọt sang nông nghiệp) của loài người.
Không nên chỉ cho rằng nông nghiệp nảy sinh với văn hoá Hoà Bình ở vùng chân
núi đá vôi. Nó còn nảy sinh trên vùng bán bình nguyên trung sinh cũ, với sinh cảnh
thiên nhiên thuận lợi hơn nhiều.
Nhưng sau đó thì những hậu duệ (con cháu) của chủ nhân văn
hoá Sơn Vi đã mất tích ở trung du Vĩnh Phú. Tiền nhân của họ, chúng tôi đã tìm
thấy trong các hang động Thần Sa, Bắc thái (văn hoá Thần Sa, trung kỳ hay hậu kỳ
Đá Cũ, với niên đại C14 trên 30.000 năm). Hậu thân của họ, tức chủ nhân những nền
văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn nổi tiếng (niên đại C14 9000-6000 năm cách ngày
nay), chúng ta cũng đã tìm thấy nhiều trong các hang động đá vôi ở Hoà Bình, ở
Bắc Sơn, ở vùng núi đá vôi Thanh Nghệ, Thượng - Trung Lào và rải rác ở ven biển
Quảng Ninh (Hà Khẩu) hay ven biển Quảng Nam (Bàu Dũ) cho mãi tới tận ven biển
Sumnatra…” [12].
Có thể đọc vài trang trích dẫn trên, Bạn đã phần nào biết tại
sao lại có cùng những di tích khảo cổ nơi cả vùng Đông Nam Á này. Ngoài
thuyết về nguồn gốc con người do giáo sư Max. Sorre trích dẫn trên . Chúng
ta tìm CHỦNG tộc từng sống trên vùng này năm sáu ngàn năm trước.
[14] Tìm chủng của người Việt Nam
Bình Nguyên Lộc là Nhà văn nổi tiếng của Miền Nam Vệt Nam
trong thập kỷ ’60 của thế kỷ XX. Đó là điểm son cho ông; nhưng lại thiệt cho
ông, vì sang thập niên ’70 ông công bố những công trình nghiên cứu dài ngày của
mình thì lại ít được lưu ý từ đầu. Mà tình hình chính trị xã hội không để những
người quen ông còn thời gian nghiền ngẫm kỹ. Ông không đi ngược tới khởi nguyên
loài người, Ông chỉ tìm về CHỦNG và công bố trong tác phẩm
cùng với bốn năm tác phẩm về ngữ học và phong tục học các dân
tộc thuộc Chủng Mã Lai như VN, Chàm, Phù Nam, Cao Miên, Miến Điện, Thái, Tây Tạng,
Lê Hải Nam, Nhựt Bổn, Đại Hàn, Thượng Việt, Nam Ấn-Độ, Nam Dương, Phi Luật Tân,
Đa Đảo, Ba Thục, Tây Âu, Mân Việt và Sở….
Chúng ta ghi nhận một trong những thành quả trí tuệ đó và lượm
một số thông tin quan trọng ::
1. Người Việt không đồng chủng Trung Hoa
Tiếp dòng tư tưởng của Max. Sorre trên về chủng tộc Hoa,
chúng ta có lưu ý của Bình Nguyên Lộc:
“1. Hoa chủng là kết quả của một cuộc hợp chủng giữa chủng Bắc
Mông-gô-lích của người Mông Cổ và với một chủng nào đó cao hơn Tày, thế nên người
Hoa Bắc, nhứt là ở Cam Túc, Sơn Tây và Thiểm Tây, mới cao lớn như vậy.
2. Cuộc hợp chủng ấy xảy ra ở ngoài nước Tàu, tại đâu không
rõ, nhưng họ xâm nhập Trung Hoa từ hướng Tây Bắc, qua hành lang Cam Túc.
3. Cái sọ của họ khác sọ Việt Nam 9 đơn vị về chỉ số.
4. Sọ Việt Nam có tính cách brachycéphale, còn sọ Hoa Bắc và
Hoa Nam thì có tính cách Mésocéphale. Dung lượng sọ cũng khác. [13]
Chúng ta không đi về chi tiết dành cho nhân chủng học , vì ở
đây chỉ cần xác nhận rằng theo khoa học, chúng ta không đồng chủng với người
Trung Hoa, ít là Hoa Bắc. Cả ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta chỉ một phần lai giống.
Mà lai giống là một trong những quy luật thiên nhiên để trường tồn và thăng tiến.
Khẳng định trên không chỉ thuộc phạm vi sách vở nhà trường,
nhưng đi vào những hệ luận quan trọng thực tế, như giao lưu và hợp tác thương mại,
văn hoá, tôn giáo v.v…Với những dân tộc đồng chủng, thành quả tốt đẹp và
mau lẹ hơn với những dân tộc khác chủng. Chỉ mới năm bảy năm nay, chúng ta “hé
cửa” giao lưu và hợp tác với các nước Asean, có thể nói là đồng chủng, thành quả
tốt đẹp và thoải mái gấp bao nhiêu lần chúng ta bị bắt buộc quan hệ với Bắc
Kinh và với Tây Phương.
Dolichocephale: sọ dài
Mesocephale: sọ trung
bình
Bình Nguyên Lộc, sdd tr.81
2. Người Việt Nam cũng không thuộc chủng Miêu
Dân tộc Miêu, người Mèo, còn sống trên cao nguyên Việt Nam và
Thượng Lào….
Chúng ta thuộc chủng Miêu chăng? Phần tự vệ lên cao sống, phần
chịu thuần phục, là cha ông chúng ta , còn ở trung châu? Ông Bình Nguyên Lộc tự
hỏi và giải thích:
“Miêu có phải là Việt hay không, như giáo sư Kim Định đã dùng
làm căn bản lớn cho sách của ông. [1]
Xét chỉ số sọ của chủng Miêu, thấy nó không giống chủng nào
khác hết, nó khác với Hoa chủng, mà cũng khác với Việt, với Mã Lai.
Có lai căn ba bốn chủng tộc, khoa chủng tộc học cũng biết được,
mà chỉ lai một lần hay lai đi lai lại mãi, khoa đó cũng biết được một cách
chính xác, lai mấy ngàn năm rồi, cũng cứ còn biết được như thường.
Như khoa đó xác nhận là Miêu thuộc một chủng riêng, rất lớn,
có mặt khắp nước Tàu, mà không có mặt ở đâu nữa cả, trừ cuộc di cư cách đây hai
ba trăm năm đến Thượng Lào và Thượng Du Bắc Việt…
Miêu cũng bị đẩy lui dần từ Hoa Bắc đến Hoa Nam, và cuộc
nhường đất của Miêu hoàn toàn xảy ra trên bộ, và dưới đời nhà Chu thì, theo
Kinh Thư, Miêu đã bị đẩy xuống vùng đất giữa hồ Động Đình và hồ Bành Lải. Nhưng
đến nay thì Miêu cũng mất luôn địa bàn đó và đất xa nhứt của họ ở phía Bắc là tỉnh
Quý Châu….
Giáo sư Kim Định, dựa vào quyển sách Tàu Cổ sử nhân vi của
Mông Văn Thông, là một người chưa học khoa chủng tộc học lần nào hết, để nói rằng
Tàu gặp Viêm tộc trước nhứt, mà Viêm là Việt + Miêu...
Bảo rằng Viêm = Việt + Miêu thì sai sự thật quá xa, vì sọ
Miêu khác xa sọ Việt, lại không bao giờ có sọ lại Miêu + Việt...
Trong bức bản đồ ở trang 77, thì giáo sư lại cho vẽ
Viêm-Việt gồm có: Anh-đô-nê, Môn, Chàm, Miến điện, Miêu, Lạc, v.v…. Tất cả
các dân tộc đó, trừ Miêu, đều có sọ giống hệt nhau, nhưng không đặt tên nó là
Viêm, vì nó đã tự xưng là Mã Lai từ 6 ngàn năm rồi (có chứng tích),
còn Chàm, Miến Điện v.v… thì đều là danh xưng mới có về sau. Và Mã Lai =
Anh-Đô-Nê. [2]...
Người Tàu có quyền đặt tên một chủng, khác với khoa chủng
tộc học. Nhưng danh xưng Viêm thì không thấy dùng để chỉ chủng tộc bao
giờ cả, mà chỉ có dùng để trỏ vài dân tộc nho nhỏ ở phương Nam của
Hoa Bắc, và chỉ có nghĩa mơ hồ là dân xứ nóng, chớ không trỏ hẳn ai...
Vậy thì gốc tổ tiên (chúng ta) là Mã Lai chớ
không phải tên Viêm, mà Tàu cũng không bao giờ gọi nó là Viêm, chỉ có một ông
Tàu đời sau là Mộng Văn Thông mới phịa ra đây thôi. Tàu gọi nó là LÔ, là LỈA, tức
LAI đấy, vì Tàu độc âm, bỏ mất MÃ, hoặc vì Mã Lai cũng có thói quen tự bỏ bớt một
âm, có nhóm chỉ tự xưng là MẠ mà thôi. [3] Nhưng cái nhóm chánh cổ sơ nhất thì tự xưng rất dài
là MALAYA (núi Hi-Malaya) và nhóm thứ nhì cổ sáu ngàn năm tự xưng là MALAYALAM,
được kinh Phệ-đà phiên âm là M’leecha”. [4]
[15] Vài nét về Khảo Tiền Sử Việt
Nam
Muốn biết về nguồn gốc, bà con của mình, người ta thường hỏi
những người chung quanh. Khi cả vùng không biết, người ta đành cùng nhau tìm.
Phong trào khảo cổ liên quốc gia tiến rất chậm, vì nó có vẻ không thiết thực với
đời sống hằng ngày. Tuy vậy, nó rất quan trọng, không chỉ để biết xử trí trong
quan hệ hiện tại, mà nó giúp rất nhiều cho những kế hoạch công tác tương lai.
Chính vì thế, chúng ta nên biết sơ qua, để nếu không có điều
kiện tham gia, mình cũng không lạc lõng.
Những chặng và mốc văn hoá trong khảo tiền sử
* Thời đồ ĐÁ CŨ
=
Paléolithique
* Thời đồ ĐÁ MỰC GIỮA
Mésolithique
* Thời đồ ĐÁ MỚI
Néolithique
Thời sơ sử chỉ gồm hai chặng:
* Thời ĐỒ ĐỒNG
Âge du bronze
* Thời ĐỒ SẮT
Âge du fer
Ngành khoa học này tương đối mới, còn nhiều cách dùng từ khác
nhau giữa từng tác giả; tuy nhiên, phải nhận rằng những người Pháp là những người
để lại tác phẩm đầu tiên về khảo tiền sử Việt Nam. Khi đọc họ, chúng ta lưu ý
vài kiểu nói sau đây:
- Paléolithe (Paléolith) = instrument en pierre taillé
đồ dùng bằng đá đẽo.
- Protonéolithe = Néolithe inférieur (= protoneolith)
= instrument poli au tranchant seulement
đồ dùng chỉ mài nhẵn phía đầu lưỡi.
- Type de Sumatre (Sumatra type)
= instrument taillé sur une seule face
đồ dùng đẽo một mặt
- Néolithe = instrument poli en entier
đồ dùng mài nhẵn toàn diện
Rõ ràng ba loại trên đều thuộc thời kỳ đồ đá đẽo.
Loại thứ bốn mới thuộc thời Tân Thạch.
2. Mốc thời gian và mốc văn hoá
Thời gian không ấn định cho văn hoá được. Chúng ta dùng THỜI
và dùng một mốc văn hoá nào cũng phải xác định toạ độ. Nghĩa là mốc văn hoá đó
chỉ đúng trong thời gian đó (vị trí lịch sử) ở vị trí địa lý đó.
Thí dụ: Khi người Anh khám phá ra Úc châu và dùng làm nơi lưu
đày phạm nhân, thế kỷ XVIII, thì người địa phương (thổ dân) còn sống trong văn
hoá tiền sử.
Khi các nhà thừa sai công giáo đến Kotum thế kỷ XIX, còn thấy
tộc Bahrour mài nhẵn đồ dùng bằng đá, như trong thời tiền sử các nơi khác.
3. Vài lát cuốc khảo cổ đầu tiên
“Chính Henri Mansuy, người thuộc Sở Địa Chất Pháp tại Việt
Nam, là người đầu tiên chú trọng đến những di tích tiền sử. Năm 1902, Mansuy đã
viết bài nghiên cứu về di tích vùng Sam Rong Sen (Kampuchia), năm 1906 Mansuy
thấy những di tích trong hang núi phố Bình Gia (Lạng Sơn). Từ năm 1923, những
di tích đào được trong các hang núi ở vùng Bắc sơn đã làm thay đổi hẳn những điều
từ trước tới nay mà người ta vẫn thường nói về thời tiền sử của xứ Đông Dương.
Mansuy tìm ra những đồ dùng bằng đá đẽo mà từ trước chưa ai sưu tầm được, những
xương người đào được trong các hang núi, chứng tỏ là đã có các giống người khác
nhiều với những giống hiện nay đang sống ở Đông Dương đã sinh sống trong thời
tiền sử trên đất Đông Dương này.
Từ năm 1923, giáo sư E. Patte in những trang sách
khảo cứu về các di tích tiền sử thuộc tỉnh Đồng Hới và Thanh Hoá. Đến năm 1935,
giáo sư Patte có viết bài tổng quát nói về người thời tiền sử ở Đông Dương, đến
năm 1966 có viết bài nghiên cứu kỹ lưỡng về các xác người thấy ở Đa Bút (Thanh
Hoá).
Từ năm 1924, Madeleine Colani bắt đầu chuyên khảo về tiền sử.
Colani tìm ra được thời đồ đá của vùng Hoà Bình. Colani đã làm nhiều công trình
khảo cứu về thời tiền sử vùng Bắc Sơn, Hoà Bình, Vịnh Hạ Long và về những chum
bằng đá ở vùng Chấn Ninh.
Jacques Fromaget viết chung với Mansuy năm 1924, với Edmond
Saurin năm 1936 những công trình khảo cứu về các di tích tiền sử tại vài
miền ở Trung Việt và ở Thượng Lào, Paul Lévy tìm được di tích tiền sử
tại M’lu Pocei (Kampuchia) năm 1938, và ở bờ sống Mékong ở gần vùng Luang
Brabang năm 1942.
Năm 1938, bác sĩ Gunnar Anderson một giáo sư Thuỵ
Điển tìm di tích tiền sử ở các đảo vịnh Hạ Long. Sau vì phải về Thuỵ Điển, để
Colani nối tiếp làm công việc đó.
Từ năm 1935-1939 mới bắt đầu có những công cuộc khai quật cổ
tích thật đúng phương pháp khoa học do giáo sư Olor Jansé, cũng là người
Thuỵ Điển, có khai quật những cổ mộ ở Bắc Việt và Bắc Trung Phần. Jansé có thấy
những di tích về thời Đồ Đồng ở Thanh Hoá. Năm 1938, ông Saurin có viết bài khảo
cứu về những di tích tiền sử ở Thanh Hoá và Nghệ An. Năm 1957 viết về di tích tiền
sử ở Hòn Gay.
Ta cũng nên nhớ Saurin và Fromaget đã cho in những phát minh
quan trọng về di tích ở Thượng Lào, vì những di tích này rất quan trọng cho biết
rõ về niên sử của Việt Nam.
Năm 1952, G.Condominas nghiên cứu về nhạc cụ tiền sử
tìm được ở gần Đà Lạt.
Năm 1956, các giáo sư J.B.Lafont có viết bài khảo cứu
về đồ đá tìm được ở Pleiku.
Năm 1960, Nguyễn Văn Nghĩa có viết bài báo cáo về đồ
di tích Cổ Nhuế (Huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).
Năm 1961, Lê Văn Lan có viết bài về những đồ dùng bằng
đá đào được ở tình Phú Thọ.
Năm 1961, Viện Sử Học Hà Nội có in bản báo cáo về
hai di tích tiền sử Đông Khối và Núi Đọ (Thanh Hoá).
Năm 1968, Nguyễn Văn Nghĩa có in sách nói về di
tích tiền sử Lũng Hoà, và 1971 tại Sài-Gòn, Linh mục Fontaine viết
bài về thời đại đồ đá mới ở chung quanh Sài-Gòn”. [5]
Tất nhiên sau ngày thống nhất đất nước, công việc khảo cổ được
làm quy mô hơn và có tài trợ của chính quyền và những cơ quan ngoại quốc. Thành
quả dồi dào hơn trước, tuy vẫn chưa đủ. Thiếu khảo cứu rộng khắp và thiếu
phương tiện cũng như còn nghèo kiến thức chuyên môn.
4. Một thí dụ khảo tiền sử: tìm di tích Núi Đọ
Chúng ta đọc giáo sư Nghiêm Thẩm về việc tìm di tích Núi Đọ của
nhóm đồng nghiệp với ông, mà ở Miền Bắc. Sau đó sẽ đọc một trong những người
thuộc nhóm khảo cổ trên. Hy vọng có “hai tiếng chuông”, ta nhận xét khách quan
hơn. Giáo sư Nghiệm Thẩm nói:
“Trong tháng 11.1960, có ba cơ quan văn hoá của Bắc Việt là
Viện Bảo Tàng Lịch Sử, Viện Sử Học và trường Đại học Tổng hợp có tổ chức một cuộc
khai quật cổ tích tại xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá, để tìm
những cổ tích đúc bằng đồng tại nơi này. Trong thời gian làm việc ở Thiệu Dương
phái đoàn khảo cổ tìm được 2 di tích thuộc thời đại đồ đá. Di tích Đông Khối có
các đồ đá mài nhẵn và di tích Núi Đọ có nhiều đồ đá đẽo, núi Đọ ở gần thôn Phú
Ân xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hoá chừng 8km. Trong khi đi xem xét núi Đọ phái
đoàn khảo cổ đã tìm thấy một địa điểm khảo cổ có một số mảnh vỡ của kỹ nghệ sản
xuất đồ dùng bằng đá. Theo các nhà chuyên môn trong có giáo sư Borfskovski thì
đó là những di tích của thời đại đồ đá cũ. Những đồ đá này đều ở ngay trên mặt
đất, ở khắp các sườn núi, từ độ cao 20m tới 80m so với các ruộng lúa ở chung
quanh núi. Những ruộng này cao hơn mặt bể 4,50m. Những đồ đá này nằm lẫn với rất
nhiều mảnh đá không có dấu vết gì là do tay người tạo ra, và còn thấy cả những
cổ vật của những thời kỳ tương đối là mới hơn.
Thật ra phái đoàn khảo cổ chưa đào hố để xem dưới đất có các
cổ vật hay không, vì những cổ vật được thấy ngay ở trên mặt đất nên chắc chắn
đã bị xáo trộn rất nhiều, vì nếu nó đã từ thời đồ đá cũ đến ngày nay đã bao
nhiêu trăm nghìn năm rồi. Tuy vậy, các tác giả của bản báo cáo nói rằng: Tình
trạng xáo trộn ở núi Đọ không phải là lớn lắm, và ngoài núi Đọ, các miền chung
quanh đều không tìm thấy các cổ vật đó trừ một vài mảnh đất tước (édat) thấy ở
núi Trành, cách núi Đọ chừng 1km. Và có lẽ là đã được Ngẫu nhiên đem tới đó.
Các cổ vật ở núi Đọ đều được làm bằng Basalte hay đá Diabase, đó là thứ đá khai
thác ngay ở núi Đọ. Loại đá này cũng cứng như đá lửa, đó là một thứ nguyên liệu
rất tốt nên sau này đến thời đại đá mới người tiền sử cũng tìm đến núi Đọ để
khai thác nguyên liệu và sản xuất dụng cụ.
Những đồ đá thời tiền sử tìm thấy ở núi Đọ đều có một lượt
màu nâu mờ mờ phủ ngoài chất đen sẫm của đá Diabase, nhưng lớp ngoài này không
chứng thực là những đồ đá đẽo là cổ xưa, vì những đồ đá mài nhẵn cũng thấy ở
núi Đọ cũng có lớp màu phủ ngoài, như vậy có lẽ vì những dụng cụ tiền sử để
phơi ở ngoài khí trời nên đã thay đổi màu nhiều và nhanh chóng như vậy. Những cổ
vật ở núi Đọ đều bị bào mòn vì những dòng nước chảy trên núi xuống qua sườn
núi. Nước chảy mang theo nhiều cát và những hạt đá nhỏ, bén, làm cho các cổ vật
cọ sát vào nhau nên đã làm mòn các lưới và cạnh của cổ vật.
Những cổ vật tiền sử ở núi Đọ gồm có:
1. Những mảnh vỡ
2. Những khối đá
3. Rìu tay
4. Những dụng cụ để chặt
5. Những dụng cụ để nạo.
95% tổng số cổ vật ở núi Đọ là những mảnh vỡ có dấu vết của
tay người tạo ra như mặt đề đập ra thành mảnh, u ghè. Những mảnh vỡ đầu tiên được
đẽo và sửa để làm đồ dùng, đa số là mảnh vỡ lớn, có mảnh tới 15 hay 20cm. Những
mảnh vỡ ở núi Đọ đều có những tính chất của những mảnh Clactonien ở Âu Châu,
thô và dày. Ngoài ra còn có một số ít mảnh vỡ tương đối cân xứng hơn, dài và
không dầy lắm như mảnh vỡ Levaloisien ở bên Pháp. Đa số các mảnh vỡ đều được sử
dụng để làm các đồ dùng. Ở núi Đọ có thấy một chiếc rìu tay, dài 15cm. Rộng
10cm. Rìu tay này có những vết ghè, đẽo rất lớn hình hạt hạnh nhân, hình dáng
thô sơ hơn rìu tay thời Chelléem archenléen. Ngoài chiếc rìu tay còn thấy những
dụng cụ để chặt, đó là những chopper có thấy 7 chiếc và 1 chiếc đồ dùng để nạo.
Tóm tắt những dụng cụ ở núi Đọ rất nghèo nàn, thô sơ, nặng nề,
hình dáng chưa được chính xác, có nhiều mảnh vỡ, có những mảnh vỡ dùng trong
công việc. Việc xác định niên đại chính xác cho núi Đọ rất khó khăn. Đây là lần
đầu tiên ở đất Việt Nam một di tích về thời đồ đá cũ thô sơ nhất, địa điểm này
thiếu các tầng lớp đất cổ vật.
Trên đây là giáo sư Nghiêm Thẩm của Miền Nam Việt Nam ghi nhận
ngay từ khi Việt Nam còn chia hai miền tranh đấu. Trong tác phẩm chính thức của
Nhà Xuất Bản Văn Hoá Dân Tộc, Giáo sư Trần Đức Vượng của Đại học Tổng hợp Hà Nội
viết lại thế này:
“Nếu ta không/ chưa kể bộ ba di chỉ Núi Đọ – Nho quan Yên –
Núi Nường (do tôi có góp phần phát hiện và nghiên cứu) có phải là di tích văn
hoá sơ kỳ đá cũ vài chục vạn năm trước đây hay không (giới khảo cổ trong ngoài
nước, người bảo phải người bảo không phải, đang tranh luận. Tôi thuộc phái bảo
ba di tích đó, là những phức hệ gồm nhiều di chỉ có những niên đại sớm – muộn
khác nhau nhưng có di tích đá cũ sơ kỳ). Nhưng từ đầu thập kỷ 30 – thời bà
Madeleine Colani cho đến phát hiện của tôi cùng PTS. Lâm Mỹ Dung và ông Vũ Duy
Trịnh (Bảo tàng Thanh Hoá) tháng 6 năm 1993, thì giới khảo cổ “chung khẩu đồng
từ” đều xác nhận miền núi đá vôi Karstic và các thung lũng xứ Thanh (Cẩm Thuỷ,
Ngọc Lạc, Thạch Thành) là một địa bàn quan trọng của hai nền văn hoá Hoà Bình
và Bắc Sơn, nổi tiếng Đông Nam Á và Thế giới, niên đại C.14 trên dưới một vạn
năm – và trước hai nền văn hoá đó, do phát hiện của tôi và ông Phạm Hổ Đấu (bảo
tàng Thanh Hoá) thì xứ Thanh (cũng như Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên Huế) còn là những
không gian văn hoá Sơn Vi cuối đá cũ, tiền Hoà Bình, có niên đại 12 vạn năm nữa
kia!” Mà văn hoá Hoà bình, văn hoá Bắc Sơn sơ kỳ đá mới đã được xác nhận là màn
dạo đầu (prélude) của cuộc cách mạng Đá mới – còn gọi là cách mạng đá nông
(agrolithique), nghĩa là sự ra đời của Nông nghiệp. Thời Đá 60 vạn năm (Sơn Vi
trở lên) hái lượm trội hơn săn bắt (bắn) thì từ thời đá mới trên dưới một vạn
năm, nông nghiệp ở xứ Thanh cũng như toàn Việt Nam và Đông Nam Á bắt đầu nảy
sinh ở miền chân núi (piémont) – hay cũng tức là miền thung lũng trung du, và
trong nông nghiệp thì trồng trọt trội vượt hơn chăn nuôi….” [6]
5. Hai di chỉ Đồ Đá Cũ ở Miền Nam
Đã hết rồi lầm tưởng rằng chỉ miền Bắc Việt Nam là đất cũ, Miền
Nam là đất mới, xin ghi lại hai di chỉ thời đồ đá cũ ở Đồng Nai, Long Khánh, và
mới đây, ở chính rừng ngập mặn Cực Nam.
5.1. Di tích Dầu Giây 2
“Tại làng Hội Lộc, ở cây số 1.833 trên quốc lộ số 1 trong đồn
điền cao su Suzannah, có thấy trên mặt đất, trên dốc để đi xuống suối Dầu Giây,
có một dụng cụ bằng đá Basalte được đẽo hai mặt như kiểu các đồ dùng kiểu
Acheulées. Dụng cụ này cũng giống như dụng cụ ở di tích Hàng Gòn 6, cách đó
15km, những dụng cụ của hai nơi này chứng thực là ta có thể thấy những di tích
thuộc thời Acheulées tại vùng Xuân Lộc, và ở Nam Việt Nam. Theo giáo sư Saurin
thì dụng cụ được đẽo hai mặt này có thể đã được phát hiện trên mặt đất vì công
việc đào bới đất để trồng cao su.
5.2. Di tích Hàng Gòn 6 ở Xuân Lộc
“Ở dưới chân ngọn đồi 225, giáo sư Saurin có thấy một di tích
thuộc thời đại đồ đá cũ, có thể liệt vào thời xưa nhất của thời Acheuléen bên
Âu Châu. Bên bờ suối Lét, có những dụng cụ bằng đá Basalte, hoặc những dụng cụ
được đẽo hai mặt, và những dụng cụ hình tròn (sphéroide) và cả những dụng cụ đẽo
một mặt rất sơ sài.
Nhờ di tích này, ta có thể biết chắc chắn là tại Đông Dương
cũng có những nền kỹ thuật sản xuất dụng cụ đẽo hai mặt như ở Âu châu, Phi châu
và Tây Á châu. Cũng như di tích núi Đọ gần Thanh Hoá, di tích Hàng Gòn 6 cho ta
biết là những kỹ thuật đẽo đá ở thời tiền sử Tây phương cổ xưa nhất cũng đã tìm
thấy ở Việt Nam. Những dụng cụ được đẽo một mặt ở Hàng Gòn 6 là kiểu các dụng cụ
để chặt mà các nhà tiền sử học thường thấy ở phía Nam Á châu, thường được gọi
là Copper (chopping tool).
Theo giáo sư Saurin thì những dụng cụ ở Hàng Gòn 6 thuộc về
thời Acheuléen cổ xưa và những dụng cụ Dầu Giây 2 cũng thuộc về Acheuléen mà tiến
bộ hơn” [7]
Mấy tuần lễ cuôi tháng 8.2004, người ta chỉ đào một diện tích
nhỏ, mà thâu lượm thực nhiều đồ đá cũ tại An Giang, ngay dưới rừng ngập mạn.
Cũng những viên đá của con người đang bung ra ngoài tầm hái lượm, dùng làm dụng
cụ “săn bắt’ vật xa hơn tầm tây, tới những hình dạng lưỡi búa đẽo hoặc mài sơ…
đặc trưng của con người “văn hóa Sơn Vi”…
Chúng ta sẽ còn phải nhắc đến nhiều di chỉ khi nói về các thời
đại Văn hoá Việt Nam.
[16] Dân Việt Nam và các dân bà con
Biết về ông bà mình rồi, người ta muốn biết ông bà của anh chị
bạn quanh mình. Gần chúng ta có một nước Thái-Lan và ngay trong nước chúng ta lại
có tộc Thái.
1. Việt và Thái bà con thế nào?
Thử hỏi: Anh em Thái trên Cao nguyên Việt Nam chúng ta và
người Thái Lan bà con với nhau không? Giữa những người Thái ở Thái Lan và ở Cao
Nguyên Bắc Việt có bà con với “người Kinh” chúng ta không?
Bà Pháp Colani cũng như ông Hoa Kỳ Wilhelm G. Solheim II
đều cho rằng chúng ta và họ có chung nền văn hoá Hoà Bình, tất nhiên là Bà con
rất gần. Giáo sư Max. Sorre cho rằng chúng ta và họ chung một CÁNH phương
Đông.
Bình Nguyên Lộc với những chỉ số Sọ nhận thấy thế
nào? Về dân tộc Thái trên cao nguyên Việt Nam và dân nước Thái lan (Thailand =
đất của người Thái), Bình Nguyên Lộc viết :
“Chúng tôi tìm được một bức dư đồ rất hữu ích, tên là Ethnolinguistico
Groups of mainland southest Asia do “ Human relations Area files Yale
university” xuất bản.
Theo tài liệu của Pháp thì bức dư đồ Huê Kỳ đó được giới khoa
học Nga xác nhận là thật đúng, và ta dùng nó được một cách an lòng, vì hai nước
nghịch nhau mà tán đồng nhau thì là đúng sự thật.
Theo bức dư đồ đó thì hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Nam
Quý Châu là địa bàn hiện kim của dân Thái, một dân tộc rất cổ mà ngày
xưa Tàu gọi là dân Âu. Chỉ bằng vào sự kiện địa bàn ta có thể kết luận rằng nước
Tây Âu là nước của dân Thái ở ba tỉnh Trung Hoa ấy ngày nay….
Mặt khác, Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ cho biết
một điều này rất quan trọng: là không có nhóm người Tàu nào gọi là người Quảng
Tây hết. Ở cả hai tỉnh rưỡi đó có người Quảng Đông mà thôi. Chi tiết trên đây rất
quan trọng vì nó chứng minh rằng không có chủng tộc, dân tộc thứ nhì nào làm chủ
vùng đó cả từ đời Tần, mà chỉ có độc một thứ người là người Thái biến thành Tàu
và được gọi là người Quảng Đông, và người Thái chưa biến thành Tàu, còn phân
chia thành nhiều nhóm, như người Nùng (chữ nho là Nông) là một...
Tại sao biết rằng họ là người Thái biến thành Tàu? …các
giọng nói địa phương của Tàu ăn khớp với địa bàn của các “man di” đời xưa. Mân
Việt nói tiếng Tàu khác giọng Quảng Đông, và cả hai nói khác giọng Triết Giang.
Hơn thế, đây mới là điều quan trọng, mỗi nhóm giọng đều có giữ
được lối một trăm danh từ cổ để chỉ nguồn gốc của họ....
Nội một trăm danh từ địa phương sống sót này đủ cho ta biết
rằng người Quảng Đông gốc Thái và nước Tây Âu là một cường quốc Thái dưới đời Tần,
mạnh ngang hàng với nước Sở, vì Tần Thỉ Hoàng đánh Sở đã dùng 600 ngàn quân,
còn đánh Tây Âu cũng phải dùng đến 500 ngàn quân, và hao quân nhiều hơn lúc
đánh Sở.
Dĩ nhiên là trong hai tỉnh rưỡi ấy cũng còn dân thiểu số,
nhưng họ là thiểu số nên kể đến vì chủ đất phải là dân đa số, dầu cho họ đã biến
thành Tàu hay mới biến nửa chừng như người Nùng, hoặc chưa biến chút nào hết
như người Đồng, người Cầu Di, người Lương, người Bạch Di.
Trong các người thiểu số có người Mèo (thuộc chủng Miêu) và
người Choang (thuộc chủng Mã-lai, nhưng chi Lạc, nhưng đó là Lạc bộ Mã, chớ
không phải Lạc bộ Trãi, vì họ rất gần với người Phước Kiến). Lại còn một nhóm
thiểu số nữa bị Hoa-hoá đến 99 phần trăm, đó là người Khách Gia mà Pháp gọi là
Hakka và người miền Nam gọi là Hẹ, gốc Ba Thục, tổ tiên của An Dương Vương...
Thái là một danh tự xưng, mà họ chỉ mới lấy hồi thế kỷ 13
khi bị Hoa tộc lấn dữ dội, họ phải bỏ xứ mà Nam thiên xuống thượng du Bắc Việt
và Thái Lan ngày nay, và có nghĩa là “thoát khỏi, tự do, thong thả”, không bị
Tàu áp bức, còn trước đó họ tự xưng là NGU hoặc NGÊ-U. Quả thật thế, Quan Thoại
phiên âm danh xưng đó là Ngê-U, tại các nhà nho ta đọc sai ra là Âu, chớ còn
người Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu…
Vậy cái bí mật cổ thời ấy ta đã biết: Nước Tây Âu là một quốc
gia của chi Âu của chủng Mã-Lai, nằm sát các quốc gia của chi LẠC từ Hoa Bắc đến
Hoa Nam (và chúng tôi càng tin mạnh rằng truyền thuyết LẠC Long Quân và ÂU Cơ bắt
nguồn từ sự kiện này vì chi Âu luôn luôn chiếm địa bàn rừng núi, còn chi Lạc
luôn luôn chiếm địa bàn ven biển, không có ngoại lệ, trừ nước Thái Lan chỉ mới
thành lập 600 năm nay thì không kể)….
Người Thái ở Thượng du Bắc Việt khác hẳn người Thái Lan, vì
người Thái Lan đã tới bờ biển và lập quốc từ nhiều trăm năm, theo văn hóa Ấn Độ
và Phật giáo, còn người Thái Thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên vẹn văn minh cổ
thời của họ….
…Bây giờ ta nên đặt ra một câu hỏi rất quan trọng và câu
trả lời sẽ cho ta biết một sự thật lớn. Thượng du Bắc Việt ngày nay là đất
Thái. Vậy nơi đó là đất Thái từ thời cổ đến nay, hay người Thái mới xâm lăng ta
sau này, hoặc họ di cư đến đó sau này, vào thời nào?
…Truyền thuyết về các đời Hùng Vương có nói đến chiến
tranh với Chàm, với An Dương Vương, mà không hề nói đến chiến tranh với Tây Âu,
thì hẳn đó là một cuộc di cư êm thấm, không có đổ máu, mà khi nói đến di cư, tức
Thượng du Bắc Việt không phải của Tây Âu.
Có di cư, nhưng di cư vào thời nào?
… Ta dám cả quyết rằng cho đến thời Triệu Đà, người Thái vẫn
chưa có mặt tại Thượng Du Bắc Việt, vì chi tiết sau đây để tiết lộ ra sự kiện ấy.
Khi nhà Hán chia hai nước Nam Việt của Triệu Đà, một phần làm
Giao Châu, một phần làm Quảng Châu, thì Thượng du Bắc Việt thuộc vào ta. Đừng
tưởng người Tàu họ làm chủ một nơi rồi họ muốn chia cắt làm sao, tuỳ ý thích
riêng của họ. Nhứt định họ phải theo một tiêu chuẩn nào, mà tiêu chuẩn đó là
như thế này: hai thứ man-di không thể cùng trị được bằng một chính sách. Chính
sách ấy phải mềm dẻo đối với mỗi châu, mỗi quận, tuỳ theo phong tục địa phương
của mỗi nhóm “man-di”. Thế thì hẳn họ phải chú trọng đến dân tộc khi chia đất,
chớ không thể dựa vào tiêu chuẩn nào khác hơn được.
Hai dân tộc Âu và Lạc bị Triệu Đà sáp nhập thì Triệu Đà có lý
do riêng của y, nhưng nhà Hán tách ra, nhà Hán cũng có lý do của nhà Hán, cả
hai lý do đều hữu lý, nhưng sự kiện vẫn cứ là có hai dân khác nhau, và thời điểm
nhập và chia ra cho ta biết rõ địa bàn của hai dân tộc đó, vào thuở ấy.
Danh xưng VIỆT trong quốc hiệu NAM VIỆT làm cho các sử gia
Pháp Việt ngộ nhận rất nhiều….
Lời phê của vua Tự Đức vào quyển Đại Việt sử ký Toàn thư N.K.
của Ngô Sĩ Liên là sai. Khi thấy họ Ngô chép rằng có 6 quận của nước NAM VIỆT bị
Trung Hoa lấy luôn làm đất Quảng Châu. Nhà vua phê: “Đất nước Việt Ta đã mất
vào Trung Quốc hồ quá nửa!”…
Từ sông Dương Tử đổ xuống, bất kỳ thổ dân nào cũng bị (Tàu)
họ gọi là Việt tuốt hết…. Sáu quận đó là của nước Nam Việt, chớ không phải của
nước VIỆT NAM. Mà NAM VIỆT thời Hán là Quảng Đông và Cổ Việt Nam thì còn biết
sáu quận ấy là của dân nào thật sự, có thể là của dân Lạc, mà cũng có thể là của
dân Thái; nhưng chắc chắn là của dân Thái, bằng vào tiêu chuẩn chia cắt nói
trên. Tiêu chuẩn ấy không hề được ghi chép ở sách nào hết, nhưng vẫn phải có. Sự
chia cắt của nhà Hán chỉ đi ngược chiều sự sáp nhập của Triệu Đà và các
thành phần bị nhập và bị tách phải như nhau, cũng cứ vì cái tiêu chuẩn nói
trên…
Tóm lại, lúc chia hai nước Nam Việt, nhà Hán phải nhớ đến hai
nước cũ là Âu Lạc và Tây Âu, mà dân chúng còn nguyên vẹn vì mới có mấy trăm năm
qua. Nhà Tần, rồi Triệu Đà, có muốn nhập hai thứ dân đó lại cũng không xong. Họ
không dại mà cắt đất của nước nầy bỏ vào một châu khác, bởi làm như vậy họ khó
cai trị hơn, vì một đơn vị hành chánh cần trùng với một nước cũ để mọi biện
pháp cải cách mới, được thi hành, mà không gây xáo trộn nhiều cho dân phải bất
mãn, luật cho Giao Châu phải khác luật cho Quảng Châu…” [8]
Chúng ta sẽ trở lại với các Tổ lập Quốc khi tìm về những đợt
Văn Hoá khảo cổ học. Bây giờ nên nhìn rộng thêm một chút qua các nước Á-châu,
nhất là các nước hiện nay thuộc “khối Asean”, cho biết anh em hoặc láng giềng.
2. Dân Việt Nam và các nước anh em
Tôi cho rằng trang này của Bình Nguyên Lộc là tóm kết nhiều
nhất khi khẳng định “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam”. Ông nói theo cái
nhìn khảo tiền sử và nhân chủng học:
“Đây, nguồn sáng từ dưới âm ty chiếu lên hay từ 5.000 năm trước
chiếu lại, một khúc phim của quá khứ mà các cuộc đào bới cho thấy khá rõ ràng…
1. Các đây lối 5.000 năm, chủng
Anh-đô-nê-diêng, từ Cổ Mã-Lai, từ đâu không biết , và không biết vì lẽ gì
di cư đến Triều Tiên, đến Nhựt Bổn, đến Đài Loan, đến Cổ Việt và đến đảo
Célèbes ở Nam Dương.
Đồng thời họ cũng di cư sang Đông Ấn Độ, rồi từ Đông Ấn Độ họ
di cư sang Đông Dương (tức có cả Miến Điện và Thái Lan trong đó, và nên nhớ
rằng dân của nước Thái Lan chỉ mới di cư tới nước Thái Lan nay kể từ thế kỷ thứ
8, thứ 9 . Và đến thế kỷ thứ 13 thì họ đã đủ đông để đuổi người Cao Miên, đang
làm chủ ở đó, để dựng lên nước Xiêm. Vậy nếu ở Thái Lan có dấu vết của bọn
di cư nói trên thì bọn ấy cũng không phải là tổ tiên của nước Thái).
2. Sọ của bọn Cổ Mã Lai này cho thấy
rằng họ có lai giống với một nhóm Mông Cổ, nhưng không biết là nhóm nào. (Khoa
chủng tộc học dùng danh từ Mongoloide. Danh từ này có nghĩa là có tính
cách Mông Cổ nhiều hay ít và chúng tôi đã trình ra hai thứ dân là Trung
Mông-gô-lích, tức là người Hoa Bắc, và dân Nam Mông-gô-lích, tức là người Hoa
Nam. Vậy danh từ Mongoloide có nghĩa rất rộng, có thể là lai thẳng với Mông Cổ,
mà cũng có thể là lai với Tàu Hoa Bắc, nhưng không thể với Tàu Hoa Nam, vì cách
đây 5.000 năm, chủng Nam Mông-gô-lích chưa có mặt trên quả địa cầu.)
3. Tại Miến Điện xưa và Cao Miên xưa,
tức ở Trung Lào nay, bọn Cổ Mã Lai lai giống quá nhiều với dân thổ trước, thuộc
chủng Mê-la-nê. Có lai nhiều vì ở những nơi đó chủng Mê-la-nê đã tiến
bộ lắm, bắt đầu tiến tới thời đại Tân Thạch, giỏi gần bằng bọn mới đến. Thế nên
bọn di cư ấy mới đen da.
Ở Cổ Việt Nam thì thổ trước Mê-la-nê chỉ còn ở trong thời đại
Cựu Thạch, nên rất ít có hợp chủng Cổ Mã Lai + Mê-la-nê, thế nên người Việt Nam
trắng da hơn Môn và Khơ Me.
4. Vũ khí và dụng cụ độc nhất của họ
là lưỡi rìu đá mài có tay cầm.
5. Cạnh sọ Mã Lai và lưỡi rìu tay cầm
không thấy dụng cụ xay, dã, nghiền hay tán gì hết để có thể kết luận rằng họ đã
biết trồng trọt.
6. Nếu chỉ có một mình họ di cư mà
thôi thì không cần đặt tên mới cho họ, nhưng còn một đợt di cư sau, cũng là của
chủng Cổ Mã Lai, sau đó lối 2.500 năm, nên bọn trước đó đặt tên là
AUSTRO-ASIATIQUES để phân biệt với bọn sau.
(Chú ý: Austro-asiatique chỉ có nghĩa là người Á
Đông Phương Nam, chớ không có nghĩa gì là Úc-Á cả, như tất cả các sách Việt đều
đã dịch sai như thế).
7. Cách đây tới 2.500 năm chủng Cổ Mã
Lai từ cực Nam Hoa Nam đi thẳng xuống bán đảo Mã-lai-á, rồi từ đó sang Nam
Dương quần đảo và từ Nam Dương sang Madagascar và Phi-luật-tân. Có một bọn lại
đi ngược lên Nhựt Bổn.
8. Sọ của bọn sau, thuần chủng Cổ
Mã-lai, không có lai giống với nhóm Mông Cổ nào hết.
9. Cạnh lưỡi rìu có nhiều dụng cụ cho
thấy họ đã biết nông nghiệp và nhứt là biết làm đồ đất nung, biết nuôi súc vật…
Với những người đã học khoa chủng tộc học và ngôn ngữ tỉ hiệu và có học cổ sử Tàu, thì đây là một cuộc thắp đèn thình lình, soi tỏ hết cả mọi mối manh rối nùi của lịch sử dân ta, và cả dân Tàu, dân Chàm, dân Cao-Miên, Miến-Điện, Mã-Lai và Thượng Việt…” [9]
Với những người đã học khoa chủng tộc học và ngôn ngữ tỉ hiệu và có học cổ sử Tàu, thì đây là một cuộc thắp đèn thình lình, soi tỏ hết cả mọi mối manh rối nùi của lịch sử dân ta, và cả dân Tàu, dân Chàm, dân Cao-Miên, Miến-Điện, Mã-Lai và Thượng Việt…” [9]
Những nhận định của Bình Nguyên Lộc qua bao nhiêu năm nghiên
cứu ấy có mạch lạc khá rõ về nguồn gốc các dân tộc chúng ta ở Nam Á Châu này.
Tuy vậy, sánh với tuổi đời của di tích Văn Hoá Sơn Vi, thì trên những
vùng đất này, đã có một chủng nào sống trước chủng Mã Lai rồi?
[1] Cuốn «Việt Lý tố nguyên»
[2] Một số tác gia gọi là Chủng Nam Đảo
[3] Còn chừng 20.000 người thuộc Dân tộc MẠ, ở vùng Tây
Nam tỉnh Lâm Đồng.
[4] Theo Bình Nguyên Lộc sdd tr.82-86
[5] Giáo sư Nghiêm Thẩm, giáo trình
«Khảo Cổ Học» Đại Học CG. Da Lạt
[6] Trần Quốc Vượng, sdd.tr.271-272
[7] Nghiêm Thẩm. sdd. Tr.9-10
[8] Bình Nguyên Lộc, sdd tr. 290-296
[9] Bình Nguyên Lộc sdd tr.323-326
Sống cùng với chúng ta trên giang sơn này, còn nhiều dân tộc thiểu số. Vì họ sống
trên cao, nên chúng ta gọi họ là Thượng, hoặc “Thượng” có một nghĩa nào khác?
Hầu hết các tác giả nói về người Thượng, chỉ nói về họ với từng “dân tộc” trong
hiện tình, mà không truy về nguồn gốc.
Bình Nguyên Lộc cho chúng ta chỉ dẫn xa và sâu hơn:
“Ta có thể hiểu rằng người Thượng Việt là Mã Lai đợt I di cư
bằng đường biển, cùng lúc với ta và chiếm địa bàn Trung Việt vì địa bàn Bắc Việt
đã bị ta chiếm rồi.
Sứ Chiêm Thành nói rằng Chàm đã đánh đuổi thổ dân ở Trung Việt
rồi lập quốc ở đó. Nhưng không có một ai mà biết thổ dân đó là ai cả, và rồi họ
đi đâu.
Khi mà ta biết được rằng người Chàm là Mã Lai đợt II thì ta
phải hiểu rằng dân ấy là Thượng Việt, chớ không còn ai vào đó nữa cả.
Dựa vào nhạc khí thời Bắc Sơn ở Darlac, ta kết luận được rằng
Thượng Việt làm chủ Trung Việt và Cao nguyên rất lâu đời, chớ không phải chỉ
làm chủ Trung Việt mà thôi….
Trạm Tam Toà không thể là dấu tích của đợt II, vì chỉ có đồ
đá mài mà không có dụng cụ canh nông, cũng không thể là dấu tích của hai chủng
Mê-la-nê và Negrito, vì hai chủng đó một quá kém cỏi, trên thế giới, nơi nào họ
cũng không tiến lên đá mài được, đó là chủng Negrito, còn chủng Mê-la-nê thì
riêng ở Việt Nam, chưa tiến lên thời đại đá mài.
Chỉ có một nhóm người mới có thể là tác giả của những cổ vật
Tam Toà, đó là Mã Lai đợt I. Nhạc khí Darlac và đồ đá mài Tam Toà, tuy chỉ là
hai dấu vết nghèo nàn, nhưng đủ sức vẽ ra được lộ trình của Mã Lai đợt I.
Darlac là địa bàn của Mã-Lai đợt I, nhưng ngày nay nó lại là
địa bàn của người Rađê, tức Mã-Lai đợt II. Thấy quá rõ là Chàm, chẳng những
đánh đuổi Mã Lai đợt I lên núi rừng, lại còn rượt theo họ nữa, và hai nhóm Rađê
và Giarai là hai nhóm Mã Lai đợt II không lập quốc được như Chiêm Thành, vì ở
núi rừng họ thiếu điều kiện hơn Chàm, nhưng thuở mới di cư đến Trung Việt thì
Chàm, Rađê, Giarai đều có một nền văn minh giống nhau, đó là nền văn minh của
Mã-Lai đợt II vào buổi ấy, mà có lẽ Radê và Giarai còn giữ cho đến ngày nay,
không thay đổi gì hết, đại khái biết nuôi gia súc, biết làm kim khí, biết trồng
trọt, nhưng không giỏi lắm…” [1]
Trên Tây Nguyên, người ta mới gặp thấy nhiều di tích tiền sử.
Đó là của những chủ đất hiện nay, hoặc chủng khác ?
Xin đọc thêm bài của Hoàng Dũng [2]:
“Lung Leng làm đảo lộn lý thuyết về Tây Nguyên [3].
Cuối tháng 9-1999 di chỉ khảo cổ học Lung Leng (xã Sa Bình,
Sa Thầy, Kontum) đã được tiến hành khai quật, và đây là di chỉ duy nhất ở Tây
Nguyên.
Di chỉ Lung Leng do những người đào đãi vàng dọc sông Pô-Cô
tình cờ phát hiện được đầu tháng 8-1999. Ngày 12.8.1999 ông Nguyễn Ngọc Kim,
người xã Sa Bình, đã thu thập được trên 300 hiện vật trao cho Bảo tàng Kontum.
Ngày 13.8.1999 bảo tàng tiến hành khảo sát di chỉ, thu thập một số đồ đá, đồ gốm,
đồ đồng và xác nhận đây là di tích khảo cổ có tầng văn hoá và mộ táng của dân
cư cổ. Ngày 9.9.1999 Bộ Văn Hoá - Thông Tin gấp rút cho phép khai quật di chỉ
Lung Leng bởi di chỉ nằm trong vùng ngập lòng hồ Ea Ly.
Lung Leng là một bãi bồi cổ ven sông có diện tích rộng khoảng
15.500m2, ở độ cao 505 - 507m. Chỉ cao hơn mặt sông Pô-Cô từ 2 - 5m, nằm trong
lưu vực của ba con sông lớn nhất bắc Tây Nguyên là sông Dak Bla, Pô Cô, Sa Thầy,
và là nơi hợp lưu của sông Pô Cô, sông Dak Bla trước khi đổ vào sông Sê San. Vị
trí này hợp với điều kiện cư trú của dân cư cổ. Thời gian qua dân đào vàng đã
xâm hại nghiêm trọng đến di tích. Ở các hố đào vàng hiện còn ngổn ngang rất nhiều
mảnh gốm cổ, dấu vết mộ chum cùng nhiều di vật khảo cổ khác. Hiện làng Lung
Leng là nơi cư trú của người Gia Rai.
Theo phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử, người chủ trì cuộc
khai quật di chỉ Lung Leng, thì phát hiện này có giá trị đặc biệt quan trọng bởi
quy mô di chỉ rộng lớn tầng văn hoá ken dày và xuyên suốt nhiều thời đại. Văn
hoá Lung Leng có nhiều mối giao lưu với văn hoá Sa Huỳnh lần đầu tiên tìm thấy ở
Tây Nguyên. Di chỉ Lung Leng với những hiện vật thu giữ và khai quật được làm bất
ngờ ngay cả giới khảo cổ học. Lâu nay các nhà dân tộc học, khảo cổ và sử học
cho rằng các cư dân Tây nguyên trôi dạt vào đây từ biến động lục địa có nguồn gốc
từ Inđônêxia [4]. Những dấu vết về đồ đá cũ đã nói rằng Lung Leng là một trong
những cái nôi của loài người thời tiền sử. Đặc biệt việc phát hiện dọi se
sợi khẳng định hàng nghìn năm trước người Tây nguyên đã biết đến dệt vải chứ
không phải chỉ che thân bằng vỏ cây như ta vẫn nghĩ. Các công cụ tìm thấy được
cho thấy chúng chỉ thích hợp với vùng đầm lầy, phù sa canh tác lúa nước chứ
không phải nương rẫy. Việc phát hiện khuôn đúc đồng bằng đá và vết xỉ đồng đã
chứng minh nghề khai quặng và luyện kim đã có từ lâu đời ở đây mà ngày nay dân
tộc Sê Đăng thuộc loại siêu trong lĩnh vực này. Có thể nói ý kiến từ lâu cho rằng
cồng, chiêng của các dân tộc Tây nguyên được du nhập từ nơi khác đến đã không
còn đứng vững”.
Ai cũng quá rõ rằng: những hiện vật trên là thuộc nhiều thời
đại khác nhau, có thể do nhiều dân tộc chủ nhân khác nhau. Nghĩa là các hiện vật
đã bị xáo trộn rất nhiều rồi. Hình dạng chúng không đủ. Phải phân loại theo xét
nghiệm C.14 để định tuổi.
Nếu tìm được sọ người tiền sử, đối chiếu với sọ cư dân hiện
nay, mới khẳng định được phải chăng chủng tộc này vẫn từ xưa chiếm địa bàn này.
Dầu sao, những di chỉ ở vùng Tây Nguyên cũng cho chúng ta nhận
thức rằng vùng đất ấy cũng không phải hoang dã đối với nhân loại từ bao nhiêu
ngàn năm nay.
[1] Bình Nguyên Lộc. tr.716
[2] Tuổi Trẻ Chủ Nhật 42-99 trang 41
[3] Không hẳn như thế đâu. Chỉ giả thuyết
của một số người bị đảo.
[4] Chắc Bình Nguyên Lộc và chúng ta không
nghĩ thế (NTT).
PHẦN II
VĂN HOÁ VIỆT NAM
THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
4. Hình Thể và sinh lý người VN
hôm nay
5. Văn hoá thời đồ đá
6. Văn hoá thời đồ đồng
4.
ĐẶC ĐIỂM
VỀ HÌNH THỂ và SINH LÝ
NGƯỜI VIỆT NAM hôm nay
Xem mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon
Trước khi tìm hiểu về những nền Văn Hoá trên đất nước này,
chúng ta nhìn nhận chủ thể chính yếu của những giai tầng văn hoá mình tìm hiểu,
đó là những người Việt Nam, nói chung.
Nhờ nhân chủng học, chúng ta nhận định thêm một số nét cơ bản
của Người Việt Nam.
[18] Chiều cao và trọng lượng
Chiều cao và sức nặng con người có thể biến đổi nhiều theo những
điều kiện sống như chế độ dinh dưỡng, hoạt động, tình trạng kinh tế, bầu khí an
ninh và thân thương trong gia đình, ngoài xã hội.
Tuy thế, một phần nền tảng vẫn theo Chủng tộc.
Chúng ta tạm lấy thành quả nghiên cứu có lẽ khách quan, vì của
mấy bác sĩ người nước ngoài và nghiên cứu vào thời “thanh bình tiền chiến”:
“Les caractéristiques anthropobiologiques des Indochinois
Những đặc điểm sinh lý nhân chủng của người Đông
Dương” do giáo sư P. Huard và bác sĩ y khoa Bigot của viện cơ thể học Đại
học Y khoa Hà Nội trình bày trong hội nghị y học nhiệt đới tại Hà Nội
năm 1938-1962, mà Giáo sư Nghiêm Thẩm truyền đạt cho các sinh viên Đại học
Sài-gòn và Đà-lạt vào đầu thập kỷ ’70.
1.
Chiều cao
Mấy nhà nhân chủng học xếp ba loại người Việt Nam hồi đó vào
tầm vóc nhỏ, trung bình và lớn
* Nhỏ cao 1,50
m tới 1,59 m 1.103 người
* Trung bình 1,60
tới 1,69
m 2.069
* Lớn
1,70
tới
1,79 147
Tính tỷ lệ bách phân là 32,2%
62,3%
4,4%
2. Trọng lượng
Cũng trong thời gian tiền chiến, người ta tính trọng lượng của
người trung niên Việt Nam.
Trong số 464 người Trung Việt, chỉ có 45 người, tức 09,6% nặng
trên 60kg.
Các công chức ở Bắc Việt, 90% không nặng quá 55kg.
Tại Nam Việt, 42,2% nặng từ 50 đến 60kg.
Bác sĩ Huard và Bigot cũng cho cân các trẻ sơ sinh Việt Nam
và nhận thấy:
13.723 trẻ sơ sinh ở Bắc VN có số cân là 2,900
2.657 ………Trung
…………… 2,760
21.551 ……… Nam
…………… 3,020
[19] Một số đặc điểm trên thân thể
Không thể nói đặc điểm tỉ mỉ chung hoặc từng dân tộc sống trên đất nước này,
chúng ta chỉ ghi lại nhận xét của một số nhà bác học về người Việt Nam (dân tộc
Kinh)
1. Ngón tay, ngón chân
Một số Người Việt Nam có ngón tay thứ sáu trong một bàn tay,
tỉ lệ nhiều hơn ở các dân tộc da trắng. Ngón tay thừa đa số thuộc trường hợp di
truyền.
Một số người có hai ngón chân cái nghiêng về nhau, mà có người
coi như đặc điểm người Giao-Chỉ; người Mã-Lai-Á, người Vedda bên Ấn Độ cũng có
những ngón “giao chỉ” như thế, nhân chủng học gọi đó là “hallus varus”.
2. Đầu và Sọ
Như chúng ta đã biết: Sọ mang một chỉ dẫn không thể thay thế
được trong khảo cổ tiền sử về chủng tộc. Chúng ta vẫn ghi ngay số đo của P.
Huard và Bigot:
* Dung lượng của 200 sọ được nghiên cứu
Trung bình là 1.341 cm3 48
Sọ lớn nhất được 1.640 cm3; nhỏ nhất là 1.043 cm3
* Chỉ số sọ
Đo 457 người Bắc Việt, chỉ số sọ trung bình là 81,24
Ít nhất là 73,40; nhiều nhất là 95,95
Bình Nguyên Lộc gom lại cho chúng ta mấy số đo của các nhà
bác học khác như:
Breton đo người Hà Nội:
81,60
……………
Bắc Việt 84,22
Madrolle
Châu thổ Bắc
Việt 82,03
Deniker
Bắc Việt
(chung) 82,70
Holbé
…………………
83,17
Bonifacy
…………………
83,20
Trung bình, người Bắc Việt có sọ 82,
49
Holbé đo người Việt Quảng Trị
79,36
………………………Huế 80,91
Madroll …………… Nghệ
An 84,62
Bernarrc …………… Trung Việt 83,80
Trung bình số sọ người
Trung
82,14
Breton đo người Nam
(Saigon)
82,12
Madrolle
……………………………… 78,98
Mondrière
…………………………. 83,33
P. Neis
………………………………. 81,50
Deniker
…………………………….. 82,80
Holbé
……………………………….. 84,40
Trung bình sọ người Nam VN.
81,76
Tổng trung bình số sọ người
VN 82,13
Tổng trung bình số sọ người Thái, Thổ, Lào, Lôlô là 82,25
Tổng trung bình số sọ người Mã Lai ở Malayá, Philippines, Nam
Dương quần đảo là
82,19
Chỉ số sọ người Camphuchea
là 83,28
…Hẹ, người Thục
79,98
…Trung Hoa ở Hoa Bắc, Mông cổ
là 78,27
3. Da
Mầu da do chất pigment nằm ở tầng sâu nhất của da.
3.1. Lớp da
Người Việt Nam da vàng, mà là thứ vàng lạt (jaune pâle), cũng
có người gọi đó là vàng nhờn. Số người giãi dầu nhiều, mầu da sang sẫm, phụ nữ
vàng lạt hơn nữa, gần như trắng.
3.2. Vết chàm
Vết chàm (bớt) ở phía sau mông trẻ sơ sinh.
Những thế kỷ trước, các nhà quan sát thấy đa số dân miền Đông
Nam Thái Bình Dương sinh ra có vết chàm xanh đậm này, nên gọi là tâche
mongolique.
94,4% ấu nhi nam và 95,1% ấu nhi nữ người Việt Nam có vết
chàm này ở mông. Từ năm tuổi thứ hai, vết này lạt dần. Coi như hết khi bé lên
năm tuổi.
3.3. Mùi và mồ hôi
Mùi của mỗi người có là do các hạch mồ hôi ở dưới nách có các
chất corporates-alcalins và acides gras volatile.
Người Phi châu và Âu châu thường có những mùi rất mạnh.
Người da vàng mùi nhẹ hơn nhiều.
Chúng ta có hai loại mồ hôi: Mồ hôi muối và mồ hôi dầu.
Khi mang y phục đen mà có mồ hôi nhiều, mồ hôi muối để lại vết
trắng và mùi chua. Mồ hôi dầu để lại vết loang bóng như mỡ với múi tương đối
khét và gây.
4. Tóc, râu và lông
Chủng Mã Lai có tóc gợn sóng, khi lai chủng Hoa, người Việt
Nam đa số mang tóc thẳng và bóng. Sợi tóc của người Việt Nam mập và cứng, nếu
sánh với tóc người Âu Mỹ. Tóc chúng ta mập từ 100-120 “muy”, trong khi tóc người
Âu chỉ đạt 80 muy. Đối lại, 1cm2 da đầu người Âu có thể có 180 sợi tóc, mà
người Việt Nam chỉ có 160. Nhưng người Việt và người Trung Hoa rất ít bị “hói”,
Tây thì hói nhiều lắm.
Nam giới Việt Nam có ria từ 20 tuổi và râu cằm từ 22 tuổi.
Râu ria người Việt đều thưa, nhưng tiết diện lớn từ 150 tới 155 muy.
Lông mọc trước. Con trai chừng 15 tuổi và con gái chừng 16 tuổi
bắt đầu có lông ở nách và bộ phận sinh dục. Nói chung, người Việt Nam ít lông;
có nhiều người nữ gần như không lông.
5. Ngũ quan
5.1. MẮT
Hẳn là mắt có thật nhiều hình dạng và màu sắc. Tuy thế, các
nhà bác học thường xếp mắt người Việt Nam vào loại mắt mông cổ (oeil
mongolique), gồm ba kiểu:
5.1.1. Mắt mông cổ nguyên bản: Ít người có
kiểu mắt này: xếch, mi trên có một lớp mỡ làm mọng mắt, có khi chảy dài xuống
che một phần lông mi.
5.1.2. Kiểu mắt thứ hai cũng ở nơi một số
ít người: Giống mắt người Âu châu, không có chút gì của hai nét Mông-cổ trên.
5.1.3. Tuyệt đại đa số có kiểu mắt ở giữa
hai kiểu trên: Mi mắt vừa xinh, không mỏng đét hoặc dầy cộm, tròng đen pha nâu
đậm, ánh lên vẻ thông minh lanh lợi.
5.2. MŨI
Nhiều dân ở Nam Á-châu có dáng mũi tẹt = platirhinien
Người Âu châu và Ấn-Âu có mũi cao và hẹp: leptorhinien
Người Việt Nam thuộc loại mũi đẹp, trung: mesorhinien
5.3. TAI
Tai nhiều người quá dài và to, sánh với khuôn mặt, vì thế gọi tai
lừa. Trái lại, người tai chuột có cặp tai vừa nhỏ, vừa cuộn. Trong
khi đó, tai người Việt Nam được coi là đều đặn và xinh, nhưng tương đối nhỏ bé.
6. Máu
6.1. Một giọt máu đào
Hơn ao nước lã
Người ta tin rằng con người thừa hưởng “khí huyết” của cha
ông (không nói của Mẹ) nên có những truyền thống trong nhân gian như:
Khi nghi ngờ ấu nhi con của “bố” nào, người ta trích một hai
giọt máu của ấu nhi cho hoà với vài giọt của từng “ông bố”. Nếu khi kết tinh
thành một, thì hiểu là “bố con nó đó”. Nếu thành hai, thì không.
Hốt cốt một người cho là cha hoặc ông nội rồi, người đích tử
tôn sẽ nhểu một giọt máu của tay mình trên xương. Nếu thấm máu vào xương, biến
màu xương và máu đọng lại trên xương… thì đúng; nếu máu chảy luôn xuống đất…
thì không phải người thân.
6.2. Nhóm máu
Thường trong đất nước nào cũng có người thuộc một trong ba bốn
nhóm máu, nhưng đại đa số thuộc nhóm nào.
Người ta khó lượng giá về tỷ lệ nhóm máu O, nên thường lưu ý
về nhóm máu A và AB cùng với Rhesus.
Ở Nam Trung Hoa và Việt Nam có đặc điểm của dòng
máu mongoloide asiatique, trong dòng máu này, nhiều người thuộc nhóm máu
B, ít người thuộc A, và không có người AB, rất ít khi có người Rhesus –, hầu hết
là Rh +
Người Nam Trung Hoa, Việt Nam, Lào và Malasya cũng không có
hémoglobine E (hbE) trong máu. Còn dân Khmer, cứ 3 người thì ít là 1 người có.
Giáo sư Lucien Brumpt coi yếu tố HbE như đặc điểm dòng máu Austro asiatique
primitive hoặc “Mã-lai đợt I” thiên cư đến vùng Nam Á này… Dòng máu này có cả
trong người Thượng, người Mianmar, Thailand, Chăm và Java. Có nhà bác học cho rằng
chính nhờ yếu tố HbE này mà họ chịu nổi muỗi mang bệnh sốt rét rừng cho chúng
ta.
6.3. Kinh kỳ
Tuổi bắt đầu có “kinh” của người con gái Việt Nam trung bình
là 14 tuổi + 10 tháng. Thời gian kéo dài 3-5 ngày.
Chu kỳ kinh nguyệt của 60% phụ nữ Việt Nam là 28-30 ngày.
60% phụ nữ được phỏng vấn tắt kinh vào tuổi 43-45; như vậy,
trung bình 44 tuổi 10 tháng.
7. Ruột
Ruột non hoặc tiểu tràng của đàn ông Việt Nam dài 7,62m.
Ruột non hoặc tiểu tràng của đàn bà Việt Nam dài 6,48m.
Ruột già, hoặc đại tràng của người VN trung bình 1,42m.
Lester và Millo thấy tiểu tràng của người da trắng ngắn hơn của
người da vàng; Loth cũng công nhận đại tràng người da màu dài hơn của người da
trắng.
8. Răng
Răng thường từ từ biến đổi theo nhu cầu nghiền thực phẩm, mà
thực phẩm thường biến đổi theo trình độ văn hoá. Do đó, răng theo toạ độ văn
hoá, nếu nền văn hoá này biến đổi chậm và giữ nhiều tính truyền thống.
Nói chung, về răng, người VN không có nhiều biệt điểm.
Thường răng sữa mọc từ 8 tháng tuổi tới 30 tháng. Răng vĩnh
viễn mọc từ 9 đến 12 tuổi.
Điểm đặc biệt làm kinh ngạc một số người là răng của một số
người ở Bắc Việt Nam: Răng cửa và răng nanh có hình cái xẻng [2]. Răng tiền hàm
tròn và thấp, có những trường hợp răng này chia hai ba chấu như răng hàm dưới.
Mấy đặc điểm trên còn đó có thể là dấu chỉ cha ông họ tương đối
thuần chủng và bảo thủ hơn những bộ tộc khác. Dầu sao, họ vẫn là đồng bào chúng
ta, cùng chủng và cùng dân tộc.
5.
VĂN HOÁ VIỆT NAM
THỜI ĐỒ ĐÁ
Muốn thực đúng, không thể nói rằng “Văn hoá Việt Nam thời đồ
đá”, mà phải nói rõ rằng: di chỉ nền văn hoá thời đồ đá trên vùng đất của Dân tộc
Việt Nam hôm nay. Vì “ngã kim nhật tại toạ chi địa cổ chi nhân tằng tiên ngã toạ
chi ”.
[20] Những khởi đầu lởm chởm
Vạn vật luôn bị thời gian và tha vật xói mòn, cuốn trôi. Con
người với những công trình vật chất cũng không thể thoát quy luật biến di đó.
Chính vì thế mà khi đi xa, thật xa về quá khứ để tìm khởi điểm,
con người luôn gặp một vùng “lởm chởm”: Đây đó một vài mô lớn nhỏ nổi cao hơn
nhiều ít trên mặt bằng quá khứ.
Tìm về di tích văn hoá lớp người tiên khởi trên vùng đất hiện
nay mình sống, chúng ta phải gặp như thế thôi. Nhóm tác giả của cuốn “VĂN HOÁ
VIỆT NAM tổng hợp 1989-1995” [1] đã viết dưới tựa đề “Những trang sử không tên tuổi”:
Kể từ khi con người xuất hiện trên trái đất cách đây đã 2 - 3
triệu năm cho đến khi Nhà nước đầu tiên ra đời cách đây mới 5 - 6 nghìn năm, một
thời kỳ rất dài con người sống trong chế độ công xã nguyên thuỷ với những trang
sử không tên tuổi. Trong lịch sử Việt Nam, những trang sử không tên tuổi như vậy
cũng đã kéo dài hàng chục vạn năm, mở đầu với những người vượn nay hoá thạch
tìm thấy trong động Bắc Sơn, những di tích sơ kỳ đá cũ ở Núi Đọ (Thanh Hoá) (có
người đang nghi vấn?), ở lưu vực sông Đồng Nai, cho đến những di tích đầu thời
đại đồng thau.
Từ năm 1960, với việc phát hiện di tích sơ kỳ thời đại đá cũ
Núi Đọ (Thanh Hoá) đã khẳng định con người có mặt trên đất nước ta từ 30 ngàn
năm trước. Song ở núi Đọ chưa tìm thấy di cốt người, mà chỉ có những công cụ
lao động như rìu tay, công cụ chặt thô sơ bằng đá mà thôi.
Cũng trong những năm 60, nhiều cuộc khảo sát khai quật đã được
tiến hành trong các hang núi đá vôi. Cùng với hàng ngàn mảnh xương răng động vật
hoá thạch tìm thấy trong các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện được
21 chiếc răng người hoá thạch trong năm hang. Đây là những tư liệu vô cùng quý
giá để tìm hiểu quá trình hình thành con người trên đất nước ta.
Người vượn Thẩm Khuyên, Thẩm ồm
Dãy núi đá vôi dọc quốc lộ 13 từ Lạng Sơn đi Bình Giã, có hai
hang đá liền nhau cách huyện lỵ khoảng 5km: Thẩm Khuyên và Thẩm Hai. Trong hai
mùa khai quật 1964-1965, ta đã phát hiện được 10 chiếc răng người hoá thạch.
Qua quan sát cũng như qua các chỉ số đo đạc, các nhà khảo cổ
cho biết những chiếc răng này vừa có những đặc trưng gần với người vượn Bắc
Kinh (Sinanthropus), như răng nanh có dạng răng cưa, các răng đều có đai răng,
mặt nhai răng hàm mòn phẳng, răng hàm dưới không có gò ngang và đều có năm núm,
lớp men mặt ngoài thấp hơn mặt trong v.v. lại vừa có vài đặc trưng – tuy
không rõ lắm – gần với người Néanderthal như: răng hàm dưới có xu hướng gần một
hình khối vuông, núm metacunus và hypocunus có sự tiêu giảm rõ rệt.
Qua đó, các nhà khảo cổ và nhân chủng cho rằng những chiếc
răng này là của người vượn thuộc loại hình người đứng thẳng (homa erectus),
đang tiến hoá, tồn tại cùng thời với người vượn Bắc Kinh.
Cùng với những chiếc răng người hoá thạch này, còn phát hiện
được nhiều răng của đười ươi (pongo), gấu tre (ailuropo da), voi răng kiếm
(stegodon) và vượn khổng lồ (giganto pithecus) v.v. có niên đại trung kỳ
Pleistocence cách ngày nay khoảng 30 vạn năm.
Đây là di tích của người vượn hiện biết sớm nhất trên nước
ta. Muộn hơn người vượn Thẩm Khuyên là người vượn Thẩm Ôm. Trong lớp trầm tích
màu đỏ ở hang Thẩm Ôm, thuộc huyện Quý Châu (Hà Tĩnh), các nhà khảo cổ đã phát
hiện được 5 chiếc răng người hoá thạch.
Căn cứ vào hoá hoá thạch quần thể động vật ở đây, các nhà cổ
sinh vật cho rằng những chiếc răng này cách ngày nay từ 14 đến 25 vạn năm.
Đây là những người vượn muộn nhất sống trên đất nước ta. Những
tư liệu này vô cùng quan trọng để tìm hiểu quá trình chuyển biến từ Homo
erectus sang homo sapiens là vấn đề đã và đang được các nhà nhân chủng học trên
thế giới hết sức quan tâm.
Người cổ Hang Hùm
Hang Hùm ở dãy chân núi đá vôi thuộc huyện Lục Yên (Hoàng
Liên Sơn), hiện nay nằm trong vùng ngập nước hồ Thác Bà.
Từ các mùa khai quật năm 1963-1964, các nhà khảo cổ Việt Nam
và CHDC Đức đã phát hiện được trong lớp trầm tích màu vàng ở Hang Hùm 4 răng
người hoá thạch gồm 2 răng hàm dưới, 2 răng hàm trên.
Những chiếc răng này có kích thước tương đối lớn, lớn hơn
răng người Thẩm Ôm. Song về hình dáng lại rất gần với răng người khôn ngoan
(homo sapiens).
Dựa vào hoá thạch quần động vật cùng phát hiện được ở đây,
các nhà cổ sinh vật cho rằng những chiếc răng đó có niên đại hậu kỳ
pleistocence, cách ngày nay từ 8 đến 14 vạn năm.
Đáng chú ý là những chiếc răng này cùng thời với người
Néanderthal, mà có nhiều yếu tố của Homo sapiens.
Răng cổ Hang Hùm là hoá thạch người có nhiều yếu tố Homo
sapiens sớm nhất trên đất nước ta. Tư liệu này rất có ý nghĩa trong việc tìm hiểu
quá trình sapiens hoá của con người trên đất nước ta cũng như trên thế giới.
Người khôn ngoan Kéo Lèng
Kéo Lèng là một hang nhỏ cách Thẩm Khuyên 3km về phía huyện lỵ.
Hang nằm sát ngay chân núi chứa đầy xương răng động vật hoá thạch, giống như là
một “kho xương”.
Cuộc khai quật năm 1965 ở đây đã phát hiện 2 chiếc răng hàm
trên một mảnh xương trán.
Xét về hình dáng và kích thước răng cũng như xương trán, người
Kéo Lèng không khác biệt gì lắm so với người hiện đại và người thời đại đá mới.
Đây là hoá thạch người khôn ngoan (homo sapiens) thực sự. Dựa
vào hoá thạch quần động vật ở đây, các nhà cổ sinh vật cho rằng người Kéo Lèng
sống vào hậu kỳ Pleistocence cách ngày nay 2 - 3 vạn năm…” [2]
[21] Di tích thời Tân Thạch ở Lũng
Hoà
Một buổi đào đất để xây dựng thêm lớp học, tháng Tư năm 1963,
thày trò trường phổ thông cấp II Lũng Hoà nhặt được một số búa rìu bằng đá và
những mảnh đồ gốm thô sơ, liền báo lên cấp trên và được lệnh ngưng việc để kịp
thời nghiên cứu. Vì nhiều điều kiện khiến phải hoãn việc khảo cổ và vì ước tính
diện tích khai quật rộng, nên trường được lệnh di tới nơi khác.
Từ 14.11.1965 đến 01.04.1966, hai ông Hoàng Xuân Chinh và
Nguyễn Đình Tấn chịu trách nhiệm khai quật bốn hố, tổng diện tích 365 m2. Kết
quả nhận thấy:
1. Những lớp đất
Lớp trên mặt, dày 0,10 - 0,15m phù sa pha cát mịn, màu xám trắng.
Lớp đất này được cày bừa và bón phân rất tốt, rất tơi. Trong lớp này, phát hiện
một số búa, rìu đá, vòng đá, đá cuội, một ít mảnh gốm thô và một số mảnh sứ hiện
đại.
Hiển nhiên lớp đất này đã bị cày xới, đào nhiều lần, nên di
chỉ cổ thời và hiện đại pha trộn.
Lớp đất màu xám đen, dày 0,20m - 0,40m. Trong lớp này thấy
nhiều dụng cụ bằng đá như búa, rìu, đục, mũi tên, bàn mài đá cuội, đồ gốm. Cũng
thấy 3 ngôi mộ gạch thời Bắc thuộc, hai ngôi mộ là những chum úp vào nhau – gọi
là ủng quan táng – và một ngôi mộ đất. Ngoài ra còn thấy 12 ngôi mộ đào sâu xuống
cát, 2 hố sâu tròn, trong đó chứa cổ vật, có lẽ là kho chứa lương thực hoặc
nông cụ.
Lớp thứ ba màu hơi vàng xám, phân bố không đều. Cứng, dày từ
2cm đến 10cm. Không thấy có cổ vật nào.
2. Di chỉ ở Lũng Hoà
Di chỉ Lũng Hoà nói chung, thuộc thời kỳ đồ đá, gồm dụng cụ,
vũ khí và đồ trang sức bằng đá, một số đồ gốm và những… hậu sự:
2.I. Dụng cụ
Gồm búa, rìu, đục, “chì lưới” v.v.
1. Búa rìu,
có thể chia ba loại:
115 chiếc búa kiểu tứ diện, chế tạo bằng đá spilite, ngoài có
lớp màu xanh xám mỏng. Tất cả được mài rất nhẵn, nhưng phần lớn đã bị vỡ, gãy.
2 chiếc rìu có tay để tra cán, hình dạng khác nhau.
1 chiếc búa rìu lưỡi xéo. Kiểu này bằng đá thật hiếm thấy.
Nhưng búa rìu đồng kiểu này thì gặp khắp vùng Đông Nam Á. Có thể thời kỳ đồ đồng
đã lấy kiểu này.
2. Đục, phát hiện 4 chiếc đục, đều bằng đá
spilite.
3. Đồ để ghè và đập. 4 chiếc làm bằng đá cuội, nắm
rất vừa tay và dễ chịu.
4. “Chì lưới”, chỉ thấy một chiếc, có đục 4 đường
lõm chung quanh để cột vào lưới cho chắc, khi thả chìm xuống nước.
5. Bàn mài, có tới 80 chiếc bàn mài làm bằng sa
thạch, hầu hết đã bị vỡ. Có bàn nhám để mài phác, có bàn mịn để mài láng.
2.2. Vũ khí
Gặp rất ít, gồm mũi tên và mũi dáo.
Mũi tên bằng đá:
Một chiếc dài 5,5cm, rộng 1,5cm. Bằng đá màu trắng ngà, hình
lá liễu mài nhẵn rất đẹp.
Một chiếc dài 6,30cm rộng 1,80cm, đá màu đen, cũng hình lá liễu.
Loại mũi tên hình tam giác, không có cán như hai mũi trên, giữa
dày, hai cạnh mỏng, toàn thân mài nhẵn, dài 3,50cm, dày 0,20cm.
2.2.2. Mũi dáo: hai chiếc làm bằng đá màu
xanh, đã bị vỡ.
2.3. Đồ trang sức
Từ những hầm khai quật khảo cổ, người ta lượm được 49 mảnh
vòng bằng đá, không một chiếc nguyên vẹn, tất cả chỉ chừng 1/3 hoặc 1/4 vòng.
Nguyên liệu là những loại đá khác nhau: amphibolite, quartzite, spilite. Chế tạo
rất tinh vi, chứng tỏ kỹ thuật cao của thời kỳ đồ đá.
2.4. Đồ gốm
Đồ gốm di chỉ Lũng Hoà gồm chén bát có chân tương đối cao, nồi
và suốt để se chỉ.
Hầu hết đồ gốm đây thuộc loại gốm thô, và bể nát gần hết. Đa
số màu xám, một ít hồng sẫm. Tuy bể nát, nhưng đồ gốm Lũng Hoà vẫn rất cứng,
nghĩa là người sản xuất đã có lò nung khá cao độ. Đa số cũng được sản xuất bằng
bàn quay, đáy và miệng đồ dùng còn ghi dấu bàn quay. Hình dạng đều tròn; nhưng
những hình trang trí lại rất phong phú.
2.5. Cổ Mộ
Đặc điểm di chỉ Lũng Hoà là những ngôi mộ cổ.
Ngoài những ngôi mộ thời Bắc thuộc hoặc mới hơn, người ta tìm
được 12 ngôi mộ cổ thời đồ đá mới. Trong lớp đất thứ hai. Nói chung, các ngôi mộ
này đều đào theo hình chữ nhật, hướng Tây Bắc, Đông Nam. Huyệt để táng những
ngôi mộ này là loại có tầng cấp.
Có mộ dài 3,75m, rộng 2,30m và sâu 5,23m. Càng sâu, huyệt
càng vào cấp nhỏ hơn; đáy hình lòng máng hoặc bằng phẳng.
Có huyệt dài 2,95m rộng 2,50m và sâu 3,70m.
Trung bình các mộ dài 3,20m, rộng 2,00m, sâu 2,50m đến 3,00m.
Mỗi cấp rộng 15 - 30cm.
Không thấy quan tài trong huyệt. Có lẽ người xưa dùng vật gì
để bao thi thể, hoặc đặt vào thân cây mềm, đã khoét vừa tử thi; nhưng hàng ngàn
vạn năm đã làm tiêu hết. Hầu hết các xương cũng tiêu. Gần như chỉ còn lại xương
ống chân, ống tay, vài đốt xương ngón và vài đốt xương sống. Rất ít huyệt còn một
phần xương hông, sọ và xương hàm. Dầu không đủ để nhìn biết di hài của nam hoặc
nữ, cũng biết đầu hướng về Đông Nam.
Trong mỗi mộ chỉ an táng một người.
Hầu hết trong đó còn chôn theo đồ đá, đồ gốm và đồ tuỳ táng.
Người ta tổng hợp được:
2.5.1. Đồ đá:
44 búa rìu, 87 bàn mài, 40 vòng trang sức
4 chuỗi hạt, 03 đá
cuội có dấu đẽo mài.
2.5.2. Đồ gốm
Không kể những mảnh bình, chén bát v.v. gặp thấy trong lớp
đất trên mộ, ngay trong mộ cổ còn thấy chôn theo thi thể người quá cố:
Hầu hết các mộ, ở phía chân tử thi đều có 1-2-3 răng hàm dưới
của heo.
Trong một ngôi mộ có tới 12 răng hàm bò.
2.5.3. Vật tùy táng
Các vật tùy táng thường gồm có:
- Đồ bằng đá: Búa, rìu, đục,
bàn mài, vòng tay, hạt chuỗi
- Đồ gốm: nồi, bát, suốt
se chỉ. Hầu hết đều được trang trí bằng răng lược, hoặc chấm chỉ.
[22] Con người của di chỉ Lũng Hoà,
Những di vật giống như trên cũng gặp thấy ở Văn Điển, ở Cổ
Nhuế, tức Phùng Nguyên. Do đó, một số nhà khảo cổ đề nghị đặt tên Văn hoá thời
đó là Văn Hoá Phùng Nguyên. Cũng không thiếu người muốn một địa danh bao
trùm hơn và minh bạch hơn: Nền văn hoá Sông Hồng. Vì sao ? Vì thực ra các
cổ vật này được tìm thấy rải rác trong cả vùng châu thổ sông Hồng, từ thượng
nguồn Hoàng Liên Sơn xuống đồng bằng Thái Bình và lưu vực sông Mã, ra tận Hải
Phòng.
Đọc qua các cổ vật, chúng ta nhận ra những nét nào về con người
chủ thể của nền văn hoá đó?
1. Sinh hoạt
Di chỉ Lũng Hoà (văn hoá Phùng Nguyên) cho thấy đất phù sa và
dụng cụ nông nghiệp, xương heo, xương bò: Con người rõ ràng đã ra khỏi cảnh chỉ
biết hái lượm thực phẩm sẵn có. Họ đã tiến tới một bước dài tự chủ và làm chủ
thiên nhiên. Người Phùng Nguyên làm nghề Nông và chăn nuôi gia súc. Họ cũng săn
bắn và đánh cá, vì còn di tích mũi tên, lao, chì lưới và búa rìu v.v.
2. Kỹ thuật
Người Phùng Nguyên đã từ sơ kỳ tiến sang tân thạch. Họ có những
dụng cụ được trau chuốt, khoan mài. Đồ gốm làm bằng bàn xoay, có trang trí hoa
văn, nhất là các đồ trang sức bằng đá. Kỹ thuật biến sang mỹ thuật, người ta
thích làm đẹp, vì thế, họ ưa dùng vòng. Tổng hợp, khảo cổ thấy:
117 mảnh vòng ơ
Lũng Hoà
390 Phùng Nguyên
567 Văn Điển
3. Tín ngưỡng
Không một biểu tượng thần thánh hoặc đền thờ nào khác những
ngôi mộ cổ nói với chúng ta về tín ngưỡng tâm linh của họ.
Các ngôi mộ được đào thật sâu, rất tốn công nếu ta xét về đất
và dụng cụ thời đó. Phải coi đó là cả một công trình dành cho từng người quá cố.
Người thời đó tỏ ra kính tôn vong nhân.
Đào mộ quá sâu, đến độ phải có bậc cấp để đưa xuống, cùng với
các đồ chôn trong mộ, cho các nhà nghiên cứu phỏng đoán là người quá cố được
chôn ngay trong nhà hoặc sát cạnh nhà mình, để vẫn làm chủ, hoặc vẫn gần gụi
thân nhân còn sống. Như vậy người cổ thời tin vong linh bất tử, hoặc tình yêu
thương bất diệt?
Những đồ gốm chôn trong mộ là những dụng cụ thường ngày của một
người: hai nồi, một bình, một hai bát chén và ba vật hình cốc nghiêng. Cạnh đó
còn búa, rìu.
Tại sao? Vì người sống không dám dùng đồ mà người chết đã
dùng trước đây? Hoặc vì người bên kia thế giới vẫn cần dùng, nên phải đưa theo?
Những mảnh vòng trang sức có trong tất cả các ngôi mộ. Vậy ra
đàn ông, đàn bà đều trang sức? Hoặc những vòng đó có liên hệ gì với giao tế? với
tín ngưỡng?
4. Thời đại và xuất xứ
Bằng phương pháp C 14, người ta biết được những di vật đồ đá
kia hiện diện từ cuối thiên niên kỷ thứ 3 tới những thế kỷ gần Công nguyên. Đối
chiếu lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy đồng thời các Hùng Vương và Nước Văn Lang
gặp cuối dòng cổ thời đó.
Người Phùng Ngyên từ đâu tới? – Giáo sư Trần Quốc Vượng
đặt câu hỏi và tự trả lời:
“Người Phùng Nguyên từ đâu tới? Trung Du? Đấy còn là một vấn
đề nan giải. Đã có ý kiến (Hà Văn Tấn, Hoàng Xuân Chinh) cho rằng cái gốc Phùng
Nguyên là từ vùng Thanh Nghệ [3]. Xứ Thanh có Cồn Chân Tiên ven núi Đọ. Xứ Nghệ có Lèn
Vai v.v.
Trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên (như Gò Ghệ, Gò Dạ… cũng như
Gò Mả Đống bên Sơn Tây) có đồ gốm Hoa Lộc của vùng ven biển xứ Thanh.
Rất nhiều di chỉ Phùng Nguyên có gốm xốp Hạ Long cùng bôn có
nấc Hạ Long vùng ven biển Đông Bắc. Nhưng trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên lại
cũng tìm thấy “qua đá”, “liễn đá” thời Thương-Ân (1600-1100 trước công nguyên)
của văn hoá Trung Hoa.
Tôi thiên về ý kiến cho rằng người Phùng Nguyên tới trung du
hay hội tụ về trung du từ các thung lũng phía Bắc (Tây Bắc, Việt Bắc và xa hơn
nữa bên kia biên giới Việt Trung hiện tại) đem theo nghề nông trồng lúa nước vốn
đã phát triển hàng ngàn năm trước đó ở các thung lũng và bồn địa giữa núi vùng
Vân Quý, Quảng Tây – những ngày ấy còn là những lãnh thổ phi Hoa nhưng đã có giao
lưu – tiếp xúc kinh tế văn hoá với miền Hoa Hạ ở Bắc (Hà Nam, Sơn Tây…)….
Những chủ nhân Mã Lai cổ sinh sống ở ven biển Đông, chủ
nhân các nền văn hoá Hạ Long (Đông Bắc) Hoa Lộc (Tây Nam, Thanh Hoá) đã đem tới
trung du sau khi ngược sông Đáy, sông Lục Đầu – Cầu – Cà Lồ… những yếu tố Mã
Lai cổ hay là Nam Đảo…” [4]
Hẳn là những di chỉ đồ đá rải rác thấy ở khắp nơi trong khu vực
Đông Nam Á Châu này cũng có chung một chủng làm chủ nhân. Những ý kiến trên đều
bỏ qua hướng mộ huyệt, mà người xưa gởi gấm tâm sự: Tất cả đều quay đầu về
phía Đông Nam. Lá rụng về cội. Phải chăng họ muốn giờ chót hướng về vùng Đất
Trời họ đã từ biệt để tới đất nước này ? Đó cũng là hướng di cư của cả hai đợt
“chủng mông gô lích” hoặc “Mã Lai cổ “..Hoặc trái lại, đó là hướng mà những người
ở đây lại muốn di cư tiếp sang Indonesia và Uc Châu? Những nơi này cũng còn
nhiều di chỉ của Văn Hoá Hòa Bình.
[1] Ban Văn Hoá Văn Nghệ trung ương Hà-nội
1989, Trần Độ chủ biên.
[2] Văn hoá VN tổng hợp 1989-1995 trang
34-35
[3] Năm 1958, từ Sài Gòn, Hoàng Văn Chí (quê xứ
Thanh) viết bài Nguồn gốc dân tộc việt Nam cực lực phản bác thuyết Amousseau –
Đào Duy Anh cho người Việt là từ miền Trường Giang Hoa Nam di cư xuống. Ông cho
rằng trung tâm văn hoá Đông Sơn là xứ Thanh và cho rằng tổ tiên người Việt-Mường
từ xứ Thanh theo đường thượng đạo Thanh Hoá - Hoà Bình thiên di ra vùng Thác Bờ
rồi xuôi dòng Đà-giang tới Trung du Vĩnh Phú, tạo nên miền Đất Tổ thứ hai (Đất
tổ đầu tiên: xứ Thanh).
Cuối thập kỷ 70, từ Hà Nội, Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn, Hoàng
Xuân Chinh, Bùi Văn Nguyên (đều quê Nghệ Tĩnh) sử dụng tổng hợp các tài liệu khảo
cổ (gốm Phùng Nguyên, gốc từ hang động xứ Nghệ), truyền thuyết (Kinh Dương
Vương Lạc Long Quân dựng đô ở chân núi Hồng Lĩnh [Ngàn Hống] đi tuần thú ra Bắc,
lấy vợ lẻ, sinh ra vua Hùng ở Trung du Vĩnh Phú), ngôn ngữ (sắc thái tiếng Việt
cổ được bảo tổn đậm đà ở vùng núi Nghệ Tĩnh Bình)… chủ trương sự thiên di của
người Việt Mường cổ từ xứ Nghệ ra trung du Vĩnh Phú bao quanh vịnh Hà-Nội.
Năm 1979, từ Paris, Michel Ferlus (ngôn ngữ học) phản bác việc
đặt gốc gác tiếng Việt Mường ở Trung du và châu thổ sông Hồng và do việc xếp tiếng
Việt vào ngữ hệ Tày-Thái.
Ông cho rằng cái nôi của tiếng Việt Mường là ở phía Tây Trường
Sơn, miền thượng trung lưu Mê-Kông, giáp ranh Quảng Bình – Nghệ Tĩnh.
Năm 1990, từ New York (Mỹ) Gerard Difflot (ngôn ngữ học) cũng
ủng hộ cái nhìn của Michel Ferlus trên cơ sở nghiên cứu tiếng Thà Vựng - một dạng
tiếng Việt Mường cổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét