Văn hóa Việt Nam 2
6.
VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á
“Ta có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á
này như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo…” [1]
[23] Phát hiện “Văn Hóa Hòa Bình”
Một trong những phát hiện lôi cuốn chú ý của các nhà khảo cổ học là phát hiện của
bà Colani khi vừa qua một phần tư thế kỷ XX. Nói về “cái nôi” của văn hóa loài người, khảo cổ học không chú mục vào Mesopotamia như trước, mà chú mục vào
Hòa Bình Việt Nam.
1. Khởi hành với kinh nghiệm quý
Sau thời gian khảo cổ Bắc Sơn, Colani rút ra được kinh nghiệm
bốn điểm:
1.1. Những núi đá từ khi nổi lên trên mặt đất, mà thấy
đã bị nước thấm vào xói mòn thành những hang động… đó là những “cái lỗ”, những
nơi đầu tiên người tiền sử đã chọn nương náu trong thời “ăn lông ở lỗ”.
1.2. Người sống trong các hang thời xưa ở miền châu thổ
đều thuộc thời đồ đá mới.
1.3. Thời Bắc Sơn về trước, người tiền sử khó có giao
thông dễ dàng. Vậy họ phải ở gần những nơi có đá cứng để làm dụng cụ. Phải tìm
họ ở những nơi có đá cứng; cựu phún thạch thuộc loại này.
1.4. Tuy thế, con người cần nước luôn, nên cũng phải có
ít nhiều nước cho họ. Nếu có đá cứng và lại gần sông thì tuyệt.
Tìm tọa độ trên địa đồ Việt Nam, Bắc VN thì đúng hơn, Colani
chấm Hòa Bình.
2. Di chỉ Hòa Bình
Tại Hòa Bình, Colani cho đào để tìm di chỉ và đã gặp ở bốn điểm:
Sao Đông, Triêng Xen, Xuân Khan, Mương Khan. Bà nhận thấy:
Những đồ đá thô sơ và to lớn, nặng nề nhất, ở sâu nhất.
Những đồ nhỏ, mảnh và tinh xảo hơn ở gần mặt đất.
Loại có trọng lượng và phẩm chất trung bình, ở tầng giữa.
Theo đó, Bà Colani chia làm ba kỳ của thời đồ đá:
* thời cổ xưa: période
archaique
* thời trung
gian: période
intermédiaire
* thời ít xưa nhất: période
moins ancienne
Về thời cổ xưa, người ta tìm được những đồ dùng như trạng thái đá tự nhiên,
hoặc chỉ ghé qua. Đại khái có:
những búa đập
những đá kim tự tháp để ném
đá hình hạch nhân
những chùy
những đồ để nạo
một ít búa ngắn.
Những đồ đá đó cổ kính hơn ở Bắc Sơn, người ta tìm được ở các
hang Sao Đông và Xuân Khan.
Trong hang Triêng Xen, ngoài những đồ đá như thế, còn gặp
xương nhiều động vật, có những loại ngày nay còn, như voi, tê giác.
2.2. Thời trung gian,
Những dụng cụ thuộc loại giống như xưa, nhưng nói chung thì
kích cỡ nhỏ hơn, mỏng hơn, nhẹ hơn. Tuy thế, có những búa to hơn, có cái tới
20cm. Tất cả đều được mài một mặt.
Đã xuất hiện một số ít những đồ dùng mài hoặc đẽo hai mặt.
Đồ dùng hình bầu dục.
Nguyên liệu cũng gồm nhiều thứ đá hơn.
2.3. Thời ít xưa
Trong hang Sao Đông và Làng Neo, bên cạnh vài đồ dùng như thời
xưa, mà tinh xảo hơn, còn xuất hiện những sáng chế mới: những đồ để cạo có khi
nhỏ tới 5cm, những chày giã chừng 7cm. Tất cả đều được mài cạo, dầu chưa được
láng như ở Bắc Sơn.
3. Chủ nhân của di chỉ Hòa Bình
Tuy không nói được nhiều về họ, chúng ta lưu ý hai điểm:
3.1. Họ đã để lại dấu vết tiến bộ của loài người: từ thời
kỳ đá thô sang thời kỳ đá mài.
3.2. Họ thuộc chủng nào? Những xương đào được trong các
di tích cho thấy họ thuộc người Indonésien và Mélanésien.
4. Ưu khuyết của khảo cổ Hòa Bình
Các nhà chuyên môn đều thấy rằng di chỉ Hòa Bình, do đó, công
trình của Bà Colani thật quý, xét về những di chỉ phát hiện.
Tuy thế, người ta không thể hài lòng về hai điểm:
Bà không hề cho biết chiều sâu của ba tầng mà bà tạm chia như
mốc ba thời kỳ đồ đá.
Bà không nhận định được các tầng đất kia rõ rệt.
Có lẽ chính vì thế mà nhiều người tiếp nối nghiên cứu hơn nữa
về một kỷ nguyên mà người ta đồng ý gọi là Văn Hóa Hòa Bình.
[24] Văn hóa Hòa bình trong Khu Vực
Đông Nam Á
Chúng ta tiếp đọc [2] nhận định của Giáo sư Wilheim G. Solheim II sẽ thấy phần
nào ảnh hưởng “dây chuyền” của những phát hiện Văn Hóa Hòa Bình.
“Đến năm 1963, tôi tổ chức một phái đoàn hỗn hợp của bộ Mĩ
Nghệ Thái Lan và trường Đại Học Hawai để tìm kiếm cổ vật trong những vùng sẽ bị
chìm sâu dưới mặt nước do việc xây dựng các đập mới trên sông Mêkông và các
nhánh của sông này tạo ra. Chúng tôi đã khởi công ở miền Bắc Thái Lan, nơi sẽ
xây chiếc đập đầu tiên. Trước kia chưa có công cuộc đào xới quy mô nào để khảo
cứu về tiền sử vùng này.
Kết quả cuộc đào xới này, cho đến nay đã vào năm thứ bảy, thật là kinh ngạc, nhưng chỉ tiến rất chậm so với những khám phá của chúng tôi trong phòng thí nghiệm ở Honolulu. Trong khi tiếp nhận tư liệu của các thời kỳ ước lượng bằng carbon 14, chúng tôi bắt đầu nhận thấy khu vực đào xới này quả đang đảo lộn hoàn toàn các điều khoa khảo cổ đã biết từ trước.
Kết quả cuộc đào xới này, cho đến nay đã vào năm thứ bảy, thật là kinh ngạc, nhưng chỉ tiến rất chậm so với những khám phá của chúng tôi trong phòng thí nghiệm ở Honolulu. Trong khi tiếp nhận tư liệu của các thời kỳ ước lượng bằng carbon 14, chúng tôi bắt đầu nhận thấy khu vực đào xới này quả đang đảo lộn hoàn toàn các điều khoa khảo cổ đã biết từ trước.
Trong một chỗ đất chỉ rộng chừng 2,5cm2 có một mảnh đồ gốm
có in vết vỏ của một hạt lúa, có niên đại muộn nhất là 3.500 năm trước công
nguyên. Như vậy có nghĩa là trước cả ngàn năm so với những hạt lúa tìm thấy ở Ấn
Độ và Trung Hoa, cũng được xác định bằng phương pháp cacbon (mà trước đây dựa
vào đó các nhà khảo cổ đã cho rằng con người tại đây biết trồng lúa trước
tiên).
Cũng bằng phương pháp ước lượng thời gian với carbon đối với
các cục than tìm thấy ở đó, chúng tôi được biết thêm là các rìu đồng được đúc
trong các khuôn kép bằng đá, đã được chế tạo ít nhất là khoảng 2.300 năm trước
công nguyên, có thể là trước cả năm 3000 trước công nguyên nữa. Như vậy là sớm
hơn bất cứ một đồ đồng đầu tiên nào đã đúc tại Ấn Độ cả 500 năm và nó cũng còn
lâu đời hơn cả những khu vực Cận Đông mà trước đây người ta đã tưởng là nơi xuất
phát cách chế tạo đồ đồng đầu tiên.
Khi đào nền hang, Goman tìm thấy những mảnh cây đã hoá than,
cùng cả hai hạt đậu, một hạt đậu tròn dẹp, một hạt dẻ, một hạt tiêu sọ, nhiều mảnh
bí và dưa leo, cùng với nhiều đồ dùng bằng đá rất đặc biệt của vùng Hòa Bình.
Những mảnh xương súc vật, được chặt thành miếng nhỏ rõ ràng chứ không phải bị đốt,
cho phép ta nghĩ rằng thịt được chế biến ở đây không phải bằng cách vùi hoặc nướng
trên lửa, mà là được nấu trong một dụng cụ hẳn hoi, có lẽ là trong ống nứa giống
như ngày nay người ta vẫn còn làm như vậy ở Đông Nam Á.
Việc xác định thời gian bằng cácbon 14 đối với một loạt những
gì tìm được tại đây cho ta thấy một khoảng thời gian từ 6.000 năm đến 9.700 năm
trước công nguyên, và hiện còn nhiều vật dụng khác nữa trong các lớp đất sâu
hơn đang chờ xác định thời gian. Vào khoảng 6.600 năm trước công nguyên, có nhiều
yếu tố mới đã xuất hiện tại nơi này. Đó là những đồ gốm tráng men bóng được khắc
sâu và trang trí bằng cách in dấu các sợi dây thừng trong lúc chế tạo, những dụng
cụ đồ đá một phía mài bằng và những con dao bằng đá mỏng. Những dấu vết đồ dùng
và cây cối thời Hòa Bình đang tiếp tục được khám phá thêm. Như vậy ta có thể
coi những khám phá ở Hang Thần ít nhất cũng phù hợp với thuyết của Carl Sauer
và nhiều đoàn thám hiểm khác đang đi đến chỗ chứng minh rằng có một nền văn hoá
Hoà Bình khá phức tạp đã được phổ biến tương đối sâu rộng. Ông Aung Thaw, giám
đốc sở khảo cổ học Mianmar, năm 1968 đã đào được một số dụng cụ rất đáng chú ý
về văn hóa Hòa Bình trong những hang Padh Lin ở phía Đông Mianmar. Ngoài nhiều
vật dụng, còn tìm thấy cả những hình vẽ trên vách hang. Như vậy, đây là khu vực
ở phía cực Tây của nền văn hoá Hoà Bình đã được tìm thấy.
Những cuộc đào xới ở Đài Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của
trường Đại học Yale thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo sư Kuang Chih Chang
thuộc Đại học Yale cũng cho thấy có một nền văn hóa đồ gốm có khắc và in hoa
văn dây thừng đồ đá mài và dao nhọn mài, đã xuất hiện khá lâu trước năm 2.500
trước Công nguyên.
Căn cứ vào kết quả của các cuộc đào xới mới đây của các thời
kỳ mà tôi đã tóm lược, và của những nơi khác có lẽ cũng quan trọng không kém mà
tôi chưa ghi chép, có thể thấy rằng một ngày kia tiền sử Đông Nam Á sẽ được hiện
ra một cách hết sức thú vị. Trong một số tài liệu tôi đã phác thảo những nét đầu
tiên về vấn đề này. Đa số những ý kiến của tôi cần được xem như những giả thuyết
hoặc nghi vấn, cần phải khảo cứu sâu hơn nữa mới có thể chấp nhận hay phủ nhận
chúng. Trong số các ý kiến đó có những điểm sau:
1. Tôi đồng ý với Sauer rằng sắc dân
Hòa Bình ở miền nào đó trong vùng Đông Nam Á là giống người biết trồng cây trước
hết trên thế giới. Tôi cũng không ngạc nhiên nếu thời kỳ đó bắt đầu khoảng
15.000 năm trước công nguyên.
2. Tôi cho rằng những đồ dùng bằng đá
đẽo có cạnh sắc tìm thấy ở Bắc Úc Châu và được ước định bằng cacbon 14 là xuất
hiện vào khoảng 20.000 năm trước công nguyên đều thuộc nguồn gốc Hòa Bình.
3. Trong khi người ta được biết hiện
nay đồ gốm cổ xưa nhất tìm được ở Nhật có niên đại khoảng 10.000 năm trước công
nguyên, tôi tin rằng khi người ta xác định được tuổi của loại đồ gốm có in hoa
văn dây thừng thì ta nhận thấy rằng đồ gốm đó chính là do sắc dân Hòa Bình chế
tạo rất lâu trước khoảng 10.000 năm trước công nguyên.
4. Theo truyền thống, người ta cho rằng
trong thời kỳ tiền sử, kỹ thuật của miền Đông Nam Á là kết quả của những làn
sóng di dân từ phương Bắc mang tới. Riêng tôi cho rằng văn hoá nguyên thuỷ thời
đồ đá mới Ngưỡng Thiều (Yanshao) ở Trung Hoa mà người ta biết đến chính là kết
quả của một nền văn hóa tiền Hòa Bình đã di chuyển từ miền Bắc Đông Nam Á lên
phía Bắc vào khoảng 6 hay 7 ngàn năm trước công nguyên.
5. Tôi cho rằng văn hóa mà sau này được
gọi là Văn hóa Long Sơn (Lungshan) vẫn thường được coi là phát triển từ
Yangshao ở Bắc Trung Hoa rồi lan ra miền Đông và Đông Nam, thì trái lại, thực
ra đã khai sinh ở Nam Trung Hoa và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ gốc Văn hóa Hòa Bình.
6. Xuồng đục từ thân cây có lẽ đã được
sử dụng trên các sông rạch Đông Nam Á rất lâu trước 50 thế kỷ trước công
nguyên. Rất có thể các bộ phận giữ thăng bằng lồi ra hai bên xuồng cũng được
sáng chế tại Đông Nam Á khoảng 4.000 năm trước công nguyên, làm cho xuồng được
vững chắc hơn trong khi cần vượt biển. Tôi tin rằng những đợt di chuyển ra khỏi
khu vực Đông Nam Á bằng ghe thuyền bắt đầu khoảng 4.000 năm trước công nguyên
đã tình cờ đưa cư dân Đông Nam Á lạc tới đất Đài Loan và Nhật Bản, và du nhập
vào Nhật cách trồng sắn (khoai mì) và có lẽ cả các hoa màu khác.
7. Vào khoảng 3.000 trước công
nguyên, các dân tộc Đông Nam Á bấy giờ đã thành thạo trong việc sử dụng thuyền
bè đã đi vào các đảo Inđônêxia và Philippin. Họ mang theo nghệ thuật vẽ hình kỷ
hà học gồm những hình xoắn ốc, những hình tam giác, tứ giác trong các dải đường
viền trang trí khi chế tạo đồ gốm khắc gỗ văn minh, dệt vải bằng vỏ cây, và sau
này là trên các trống đồng tìm thấy ở vùng Đông Sơn mà trước đây người ta vẫn
giả thuyết là từ Đông Âu tới.
8. Các dân tộc Đông Nam Á cũng di
chuyển về phía Tây tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2.000 năm trước đây. Rõ ràng
là họ đã đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế Đông Châu Phi bằng cách
trồng các loại hoa màu.
9. Cũng cùng vào khoảng thời gian đó,
đã có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và miền Địa Trung Hải, có lẽ bằng đường biển do
sự phát triển thương mại đem lại. Người ta đã tìm thấy tại tàn tích Đông Sơn một
số đông khác thường, rõ ràng bắt nguồn từ Địa Trung Hải…
Lê Xuân Mai dịch [3]
Chúng ta đều nhận thấy rằng một số điểm mà tác giả trên còn
do dự, thì những người như Bình Nguyên Lộc đã khẳng định. Thí dụ: Cuộc di cư đến
các quần đảo Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Indonesia v.v. của cùng một
chủng Mã Lai. Di chỉ đồ đồng Địa Trung Hải không chỉ ở Đông Sơn, mà cả ở “Trăm
Phố” dưới rừng U minh hiện nay v.v.
Hiển nhiên ngành khảo cổ Việt Nam còn phải làm sáng tỏ rất
nhiều giai đoạn, đặc biệt thời gian và nguyên nhân làm cho chúng ta bị chôn vùi
mất quá khứ tiên tiến đó của những lớp người tiền sử vùng này.
Các nhà khảo cổ Việt Nam cũng như các nước Bạn đã và còn đang
làm việc đó. Trong giáo trình 1997, giáo sư Trần Ngọc Thêm đã muốn nhận định về
giai đoạn tiền sử này:
“Thành tựu lớn nhất ở giai đoạn văn hóa thời tiền sử của
cư dân Nam Á là sự hình thành nghề nông nghiệp lúa nước.
Trong năm trung tâm xuất hiện cây trồng [4], Đông Nam Á là một. Theo nhà địa - thực vật học người Mỹ
C.O.Sauer thì Đông Nam Á chính là trung tâm nông nghiệp cổ xưa nhất bởi lẽ nơi
đây là một vùng nhiệt đới với tính đa dạng cao về động thực vật cũng như cảnh
quan địa mạo, sinh thái mà không nơi nào sánh kịp. Việc cây lúa có nguồn gốc từ
đây là điều không còn nghi ngờ gì. Cụ thể hơn, theo các tài liệu cổ thực vật học,
trung tâm thuần dưỡng lúa tẻ (hạt dài) là vùng Đông Nam Himalaia, còn trung tâm
thuần dưỡng lúa nếp (hạt tròn) là khu vực sông nước Đông Nam Á [5] [Gluzdakov,
1960.21; Chử Văn Tần 1988.37]. Vào thiên niên kỷ VI-V trước công nguyên, cùng với
việc chuyển sang kinh tế sản xuất, cư dân Đông Nam Á cổ đại (người Indonésien)
đã đưa cây lúa thuần dưỡng từ vùng núi xuống đồng bằng [Chesnov 1976:264]. Và ở
vùng sông nước này, người Đông Nam Á xưa đã tạo ra cây lúa nước nổi tiếng và đã
tích luỹ được một số vốn kỹ thuật trồng lúa nước phong phú. Người cổ Việt Nam sống
trong các hang động với nghề săn bắt hái lượm, trong đó hái lượm là chính, và
vào thời đá giữa (cách đây 10.000 năm), “trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển
ở vùng rừng nhiệt đới, các bộ lạc Hoà Bình đã thực hiện một bước nhảy có ý
nghĩa lớn lao trong đời sống nhân loại: phát minh nông nghiệp…. Đông Nam Á là một
trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm nhất của nhân loại” [6]. Ở các di chỉ
khảo cố khác nhau của Việt Nam như Sũng Sàm, Tràng Kênh, Gò Bông, Đồng Đậu, Gò
Mun… đã phát hiện được những dấu tích của bào tử phấn lúa, vỏ trấu, gạo cháy, mảnh
chõ xôi… có niên đại xưa tới vài nghìn năm trước công nguyên [xem thêm Hà Văn Tấn
1994: 287-296].” [7]
“Trong cuốn Dân tộc học lịch sử các nước Đông Dương [1976:
265], Jaspers. V. Chesnov kết luận: “Ảnh hưởng của Đông Nam Á trong lĩnh vực
kinh tế thể hiện ở việc đưa cây lúa thâm nhập vào vùng Đông Á từ vài nghìn năm
trước công nguyên. Đông Nam Á đóng vai trò rất lớn trong việc phổ biến lợn,
trâu và gà. Đến năm 1450 trước công nguyên, gà đã xuất hiện ở Egíp”. Còn trong
tác phẩm nổi tiếng Nguồn gốc các loài, E. Darwin đã khẳng định rằng tất cả các
giống gà nuôi trên thế giới đều bắt nguồn từ loài gà rừng Đông Nam Á (tên khoa
học là Gallus Bamkiva)” [8]
Nhìn chung, chúng ta phải nhận định rằng Đông Nam Á là một
trong những chiếc nôi quan trọng của văn minh nhân loại. Dân Việt Nam chúng ta
may mắn là một trong các dân tộc hiện sống trong vùng này. Vì thế, chúng ta không
thể đơn giản khẳng định rằng Văn Hóa Hòa Bình là của chúng ta. Nơi mà ngày nay
chúng ta gọi là Hòa Bình, là Phùng Nguyên v.v. thì thời Đồ Đá nhất định
chưa có tên hoặc mang tên khác. Đến cả nền Văn Hóa Đông Sơn mà chúng ta sắp
nhìn lại, cũng không là của riêng dân tộc Việt Nam chúng ta.
[1] Trần Ngọc Thêm, sđd, trang 68
[2] Xin xem lại số [13]
[3] Trích theo Trần Ngọc Thêm, sđd, trang
77-84
[4] Viện sĩ Nga N.I. Vavilov phân biệt 9
trung tâm, trong đó trung tâm Đông Nam Á (ông gọi là “Ấn Độ – Mã Lai”) là cái
nôi cây trồng phong phú bậc nhất và là nơi thuần dưỡng lúa (T.N.Thêm)
7.
VĂN HÓA ĐÔNG SƠN
và thời SƠ SỬ Việt Nam
“… Những vật dụng đã được đào lên và đem phân tích trong năm
năm qua cho ta thấy rằng Con Người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và
đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất… sớm hơn các dân tộc
Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa tới cả mấy ngàn năm” [1]
[25] Văn hoá Đông Sơn
Người ta thường nhận thấy ngay những trái thơm trĩu nặng cành, hoặc những bông
hoa rực rỡ… rồi một số người mới chú trọng tới cây, tới gốc rễ và màu đất trồng.
Với văn minh và văn hóa cũng thế. Người ta tham quan những tòa nhà hiện đại hoặc
vài di tích hoang tàn, người ta thưởng thức chèo cổ, hát quan họ, thậm chí truyện
cổ và truyền thuyết…. Còn lâu người ta mới tìm tới xã hội và văn hóa của những
thành tựu đó.
1. Địa điểm
Hàng thế kỷ rồi, người ta nói đến trống đồng với thời văn hóa đồ đồng một cách mơ hồ, giả định. Chỉ mới mấy chục năm gần đây, khảo cổ mới đi
tìm gốc rễ thời phát sinh kỹ nghệ luyện kim và đúc đồng, cũng như tìm cái nôi của
nghề này.
Ngày nay gần như tuyệt đại đa số các nhà khảo cổ và tiền sử học
đồng ý rằng: Cái nôi đó là vùng Đông Sơn và khai sinh chừng bốn năm thiên niên
kỷ:
“Kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt đến
trình độ điêu luyện đáng kinh ngạc. Trống đồng, thạp đồng là những di vật tiêu
biểu nhất cho trình độ kỹ thuật và bàn tay tài hoa của những người thợ đúc Đông
Sơn. Đỉnh cao không thể phủ nhận này đã khiến, trước đây, nhiều học giả phương
Tây không thể tin vào nguồn gốc bản địa của văn hoá Đông Sơn nói chung, kỹ thuật
luyện kim Đông Sơn nói riêng. Họ đi tìm nguồn gốc ở tận đất Trung Nguyên phương
Bắc, thậm chí còn tìm ở nơi xa tít bên trời Tây…. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học
vài thập kỷ qua đã chứng minh rằng nghề luyện kim đồng thau đã ra đời ở đất này
từ rất lâu trước sự ra đời của văn hoá Đông Sơn. Luyện kim Đông Sơn là sự phát
triển kế tục, không đứt quãng của luyện kim các giai đoạn văn hoá Tiền Đông
Sơn” [2]
Định vị nền văn hoá Đông Sơn qua sản phẩm Trống Đồng, một
chuyên viên Á Đông học của Nga là G. Stratanovich đã viết:
“Bốn kiểu trống đồng Đông Sơn mà các nhà nghiên cứu khác nhau
đã phân ra và ba kiểu chuông Bắc và Tây Bắc của tôi thực ra chỉ là những biến
thể của cùng một loại sản phẩm từ cùng một vùng sản xuất đồ đồng lớn nhất. Vùng
này có thể hình dung dưới dạng một tam giác lớn, hai điểm tận cùng của cạnh đáy
là Đông Sơn ở phía Đông và Mogaung (thuộc Bắc Mianmar… TNT.) ở phía Tây. Đỉnh của
tam giác nằm ở sông Dương Tử, trong khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Poan” [3]
2. Thời điểm
Văn hoá Đông Sơn được đặt vào điểm thời gian nào? Xã hội con
người sống và tiến hoá, thành quả là văn hoá. Từ Văn hoá đồ đá, con người khám
phá thêm công dụng của đồng và nghề đúc đồng từ từ hình thành khi dụng cụ đá
mài đã thật trau chuốt.
Reina cho rằng: “Niên đại của Văn hoá Đông Sơn giờ đây được đẩy
về khoảng giáp ranh giữa thiên kỷ III - II trước Công Nguyên” [4]
Chesnov nhìn về xa hơn: “Gần đây nhất, việc phân tích kỹ thuật
luyện kim ở những đồ đồng vùng Kavkaz đã cho những kết quả thật bất ngờ rằng
chúng ta chịu ảnh hưởng của những trung tâm luyện kim vùng núi Đông Dương, nơi
mà, theo những kết quả đào xới gần đây, đồng đã tồn tại ít nhất là từ thiên
niên kỷ thứ ba trước công nguyên ”.
Nhóm Trần Độ thì muốn bao gồm luôn thời gian, mà thu gọn luôn
ranh giới cho tiện hoặc cho niềm tự hào dân tộc:
“Quá trình phát triển văn hoá liên tục từ Phùng Nguyên đến
Đông Sơn được một số nhà khảo cổ học gọi là văn minh sông Hồng, văn minh của
người Việt cổ.
Bằng phương pháp carbonic phóng xạ C.14 đã xác định quá trình
phát triển này diễn ra từ cuối thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên đến buổi
đầu công nguyên phản ánh quá trình hình thành Nhà nước đầu tiên của dân tộc ta:
Nước Văn Lang của các Vua Hùng”. [5]
[26] Con người của văn hóa Đông Sơn
Con người của văn hoá Đông Sơn là con người chúng ta chỉ mới gặp
trong truyền thuyết.
1. Con người truyền thuyết
Theo Hồng Bàng Thị, một truyện trong tập Lĩnh Nam Chích Quái,
thì Vua xứ Nóng – tức Viêm Đế Thần Nông – có người cháu ba đời là Đế Minh. Đế
Minh đi tuần thú đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam), gặp và ăn ở với một nàng con bà Vũ
Tiên núi Ngũ Lĩnh, sinh ra Lộc Tục. Khi Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế
Nghi làm vua phương Bắc thì Lộc Tục, người con của dòng giống đồng ruộng và núi
rừng lên ngai vua phương Nam vào khoảng năm Nhâm Tuất 2879 trước công nguyên. Lộc
Tục nhận đế hiệu là Kinh Dương Vương. Ông vua thứ nhất của họ Hồng Bàng này đặt
tên nước là Xích Quỉ [6]. Nước Xích Quỉ Bắc giáp hồ Động Đình, Nam giáp Hồ Tôn (thuộc
Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), Đông giáp Nam Hải.
Lãnh vực trên chúng ta đã biết chính là địa bàn của người
Bách Việt, cũng là chủng Nam Á, những dân tộc sống gần gụi chúng ta, xuống cả
các nước Đông Nam Á hiện nay, mà dân tộc Việt Nam chúng ta chính là Lạc Việt
trong Bách Việt, là những chủ nhân của đất nước Văn Lang cổ đại.
2. Con người Văn Lang
2.1.Rồng Tiên
Truyền thuyết kể tiếp: Kinh Dương Vương, vua nước Xích Quỉ lấy
Long Nữ, Công Chúa của Thần Long hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm. Khi Sùng Lãm
lên ngôi xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, cháu ba đời của Đế Minh, con gái Đế
Lai, sinh một bọc 100 trứng, nở ra 100 con trai.
Vì di truyền đòi hỏi môi sinh dị biệt, 50 con theo cha Long
Quân về Thuỷ phủ, 50 con theo mẹ Âu Cơ vẫn sống trên đất. Âu Cơ dẫn các con tới
Phong Châu và trưởng nam được tôn vua, là vua Hùng Vương, là Lạc Vương, đặt tên
nước là Văn Lang.
2.2. Từ truyền thuyết
sang suy luận khoa học.
Giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “Vua Hùng là một trong những
con theo dòng Mẹ và được suy tôn làm quân trưởng, làm VUA (VUA, theo từ điển A.
de Rhodes (1651) trước đây đọc là BUA = BÔ = PÒ. Người đàn ông được kính trọng,
là bậc già cả, giầu kinh nghiệm). Sơn Tinh là một trong “trăm con” của MẸ ÂU -
BỐ LẠC của tộc người Việt cổ.
Lý thuyết địa chính học hiện đại cũng cho ta biết: Gần như
trên toàn thế giới Miền đồi trung du là xuất phát điểm địa lý (point de départ
géographique) của sự hình thành nhà nước sơ khai – đầu tiên kiểu như nhà nước
Văn Lang của các vua Hùng với cấu trúc phân tầng xã hội như sau:
Vua Hùng
Lạc Hầu
Lạc Tướng
Lạc Dân
Dân Lạc Việt cổ lúc ấy, theo thống kê có khoảng 1/2 triệu đến
1 triệu dân. Và tương quan tam giác tính từ quan hệ giai tầng xã hội Việt cổ
Sơn Tây - Vĩnh Phú là
Lạc tướng - Lạc hầu
Lạc
dân - Lạc điền
Lạc điền - các dộc ruộng lúa ở Tây Sơn – Vĩnh Phú (cùng các
nương rẫy trên đồi) vẫn là ruộng đất công. Lạc tướng coi như “Lang đạo”, quản
lý dân và đất, thế kỷ VIII ở Đường Lâm Sơn Tây vẫn còn chế độ lang đạo: Quan
Lang PHÙNG HƯNG (767-791). [7]
Nhân truyện “Vua Hùng kén rể ” giáo sư Vượng tiếp:
“Sơn Tinh là con của mẹ Âu Cơ, bố Lạc Long Quân, bố mẹ “ly
thân”, chia 100 con làm đôi. Sơn tinh theo cha về miệt biển song rồi lại “nhớ mẹ”
và ngược sông, ngược suối trở về Non theo Mẹ. Vua Hùng là người con trai trưởng
của mẹ Âu Cơ. Huyền thoại – huyền tích ấy là biểu hiện của nguyên lý mẹ cội
nguồn văn hoá Việt Nam. Và đồng thời nó cũng biểu hiện xuất phát điểm địa lý… của
cộng đồng Việt – Mường chung là miền núi đồi ven Tây Nam châu thổ với
trung điểm Ba Vì.
… Sơn Tinh là con mẹ Âu, vua Hùng cũng là con mẹ Âu (loạt đầu).
Thế mà về sau lại có “mô típ” Sơn Tinh lấy Ngọc Hoa công chúa, con gái vua Hùng
thứ 18!
Về tư duy lịch sử, đấy là sự “thác ngộ thời gian” (nhầm lẫn
thời gian – Anachronisme).
Nhưng tư duy huyền thoại, tư duy huyền tích lại không phải là
tư duy lịch sử, theo thời gian đắp đổi nối nhau (lịch đại). Cái thời gian của
tư duy huyền thoại, huyền tích là Xuyên đại (panchronique), nói nôm na là “liền
tù tì”, chẳng có trước, chẳng có sau, mọi tích truyện đều đặt trên cùng một
bình diện thời gian, không phân biệt trước / sau, sau/ trước.
Nhà khoa học duy lý thường “không chịu nổi” cái kiểu thức thời
gian này. Vậy khi sử dụng tư duy duy lý để biện giải một huyền thoại – huyền
tích như truyện Sơn Tinh thì cần cẩn trọng !
“Đọc” huyền tích này. Y như “đọc” huyền tích “họ Hồng Bàng”
ta thấy:
Viêm đế Thần nông ‘
? = Đế Minh = Vụ Tiên nữ Động Đình quân
Đế
Nghi
Kinh Dương Vương = Thần Long nữ
Đế Lai
= Âu Cơ
= Lạc Long quân
Đế
Dũ các vua Hùng Sơn Tinh
Mô hình này “tố giác” rất nhiều “lộn xộn” trong “đại gia đình
họ Hồng Bàng”, kể cả việc “loạn luân”, nếu ta chỉ quy chiếu vào hệ thân tộc phụ
quyền kiểu Hoa Hạ. Vậy ở đây ta có thể “đọc ra” một thông điệp.
Người Việt cổ có hệ thân tộc khác người Hoa, kiểu Hán Thư viết:
người Việt Âu, Việt Lạc “không biết đạo cha con, đạo vợ chồng (kiểu Hoa Hạ)”
Các nhà nho Việt Nam viết sử, đưa dã sử vào chính sử, đã cố
“duy lý hoá” cổ sử Việt Nam theo kiểu Nho – Hoa, mà “không được”.
… Thực ra, ta có quyền nghi ngờ cái mô hình trên là một mô
hình không dân gian, một mô hình được giới bác học VN dựa vào huyền tích dân
gian phần nào rồi “phịa” thêm ra, để chứng tỏ “Nam Bắc cùng sánh vai” “vô tốn
Hoa Hạ” (không thua kém Hoa Hạ), “bất dị Hoa Hạ” (không khác Hoa Hạ để bị Hoa
Thượng xem là man di). Hai khái niệm “vô tốn”, “bất dị” là “chữ” của Lê Quý Đôn
(XVIII), chứ Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo lại nhấm nhá vào hai chữ thù, dị
(khác nhau giữa Nam và Bắc quốc).
Trong khoa Folklore học, như nhận xét của nhà Folklore học lớn
nhất của Mỹ Alan Dundes, bao giờ cũng có Folklore thực và Folklore giả mà ông gọi
là việc “chế tạo Folklore” (the Fabrication of Folklore)
“Muốn tìm thấy dung mạo tương đối nguyên thuỷ của Đức Thánh Tản
Viên, ai trong chúng ta cũng thấy cần đào xuống lớp trầm tích văn hóa Bua Pa Ví
(Vua Núi) và Bua Khú (Vua dưới nước). Thần Núi và Thần Nước, cùng các thần Cây,
thần Thú khác (đặc biệt là thần Hổ = Hùm = Khái) là các vị thiên thần của thời
đại Đông Sơn tiền Bắc thuộc.” [8]
Có những biểu hiện cho thấy giáo sư Trần Quốc Vượng đã hơn một
lần muốn nhìn và nhận định như người trí thức, tìm sự thật lịch sử; nhưng lại cứ
phải nói những gì “hiện là hữu ích”! Thí dụ về Hùng Vương và Văn Lang, ông viết:
“Từ năm 1968 tôi đã chủ trương rằng: Chỉ từ thế kỷ XV trở đi
cho đến hôm nay, người Việt (Nam) mới thờ cúng Hùng Vương như vị Tổ của cả nước.
Nói chính xác hơn, là từ khoảng thời Lê Thánh Tông, với một nước Đại Việt được
tổ chức theo mô hình Nho giáo.
Trước thế kỷ XV, nghĩa là trong thời đại Lý - Trần, tôi đã
“check in” (sưu tra) mãi, chỉ thấy có 01 tài liệu nói về vua Lý đi cúng tế
Thánh Tản Viên (Sơn Tinh), tuyệt nhiên không có tài liệu nào khác nói các vua
Lý - Trần đi giỗ Tổ Hùng Vương và coi đền Hùng là đền quốc tế.
Đây là sách Đại Việt Sử Lược (3 quyển), được coi là viết vào
khoảng sau 1377, vì cuốn sách đó – được coi là sách tóm tắt cuốn Đại Việt Sử Ký
của Lê Văn Hưu, dâng vua Trần vào năm 1272. Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, như
mọi người đều biết, chỉ viết sử Đại Việt mở đầu từ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) cho đến
hết thời Lý Chiêu Hoàng (1226).
Sách Đại Việt Sử Lược cũng vậy, nhưng ở cuối sách có một tờ
phụ lục ghi danh sách các vua Trần, kết thúc ở “vua nay” (Kim Vương) là Đế Nghiễn
(cũng là Trần Phế Đế). Nói cho cùng, Nguyễn Trãi khi viết về Bình Ngô Đại Cáo
(1428) cũng không có trong tâm thức về “Hùng Vương dựng nước” vì rõ ràng, khi
viết thay vua đầu triều Lê, cụ Ức Trai đã mở đầu là:
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang,
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương”
Tạm dịch xuôi:
Như nước Đại Việt của ta
Thật là một nước văn hiến
Từ Triệu Đinh Lý Trần bắt đầu xây dựng lên nước ta
Cùng Hán Đường Tống Nguyên, mỗi bên làm đế một phương.
Đến sách Dư địa chí (1435) Ức Trai mới viết về Văn
Lang và Hùng Vương sau Bách Việt và Kinh Dương Vương………
Nhà Việt Nam học người Pháp, ông Henri Maspéro (xem Le
Royaume de Văn Lang. BEFEO XVIII, Hanôi 1918) khi nghiên cứu tên 15 bộ (lạc) của
nước Văn Lang đã cho rằng: Danh sách ấy là do sự hỗn tạp của nhiều tên châu-quận-huyện
của các thời sau – phần lớn là thời thuộc Đường (VII-X) thêm vào – đó là mấy
tên trong tập truyền, như Văn Lang – Việt Thường Thị…
Tên Việt Thường Thị… thì thấy có từ Sử Ký Tư Mã Thiên đời Hán
(Hán Vũ Đế), cùng với tên Bách Việt.
Tên Văn Lang cũng chỉ xuất hiện trong sử sách từ đời thuộc Đường
- Tống (Thông điển q.184) “Phong châu có khe Văn Lang” – Thái Bình hoàn vũ
ký (q.170) “Huyện Tân Xương có thành Văn Lang”…
Gần đây, GS. Người Anh dạy ở Đại học Cornel (Mỹ), cụ
O.V.Wolters trong bài “kể chuyện về sự sụp đổ của nhà Lý và sự hưng khởi của
nhà Trần” (Cornel 91) đã ngờ rằng sách Đại Việt Sử Lược thời cuối
Trần được sửa chữa lại trong đời Hồ (1400-1407).
Ở giới sử nước ta, người đầu tiên đưa Hùng Vương
vào chính sử là Hồ Tông Thốc / Xác, với sách Việt Nam Thế Chí (đã mất).
Ông (chưa rõ năm sinh, năm mất, xuất hiện trong sử sách năm 1372 với chức Hàn
lâm viện học sĩ, rồi năm 1386, Hàn lâm viện phụng chí) biên soạn sách này
vào năm nào không rõ, song theo Phan Huy Chú thì sách này có quyển I chép về thế
phổ 18 đời Hùng Vương, quyển II mới chép nhà Triệu. Ông cũng là tác giả quyển Việt
sử Cương mục (cũng đã mất).
Hiện tôi chỉ biết sách Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên đời Trần (1329) chép đến Hùng Vương qua truyện Tản Viên, chưa hề chép Đền
Hùng hay nước Văn Lang thành một “truyện”.
Tên Văn Lang đầu tiên thấy chép ở sách ta cuối đời Trần ngoài
Đại Việt sử Lược – đã dẫn trên – là ở trong thơ Phạm Sư Mạnh (chưa rõ năm sinh
năm mất, đỗ Thái Học sinh đời Trần Minh Tông (1314-1329) năm 1345 đi sứ Trung
Hoa….
Giáo sư O.W.Wolters đã từng hỏi tôi – từ 1981 – là: Vì sao Phạm
Sư Mạnh hay nhắc đến Văn Lang?
Tôi trả lời: Ông làm tướng và làm thơ thời Trần Suy, Trần Mạt
(Dụ Tông 1341-1357). Ông nhắc đến Văn Lang – thời Hùng như nhắc đến Một
Thiên đường đã mất (Paradise perdu) – “thời vua tôi cùng cày, không đắp bờ
phân ranh giới” như sau này Ngô Thì Sĩ (Việt sử tiêu án) chép! G.S.
O.W.Wolters rất tâm đắc ý ấy của tôi…” [9]
Thế đấy! Cần từ từ “giải huyền”.
Trong khi chờ đợi, mà phải nói đến Hùng Vương và Văn Lang,
chúng ta cứ hiểu đó là những bậc tiền bối sống trên đất nước này và để lại di
chỉ để chúng ta tìm hiểu văn hoá thời đó. Tuy vậy, không nên khẳng định thời
Văn Lang – Âu Lạc đã Xác Lập bản sắc Văn hoá dân Việt!
Nước Xích Quỉ, như đã ghi trên, là cả vùng Giang Nam, tức
phía Nam sông Dương Tử, nghĩa là gồm Hoa Nam, Việt Nam tới Nghệ Tĩnh (ranh giới
người Chiêm). Đó là giang sơn của cả Bách Việt. Có ba cuốn liên quan đến cổ sử
Việt Nam: Việt sử lược * Lĩnh Nam trích quái * Dư địa chí (Nguyễn Trãi) nói về
15 bộ của nước Văn Lang [10].
Đi về chi tiết thì có những địa danh dị biệt; nhưng tất cả đều không ra ngoài
vùng đất mà ngày nay Quảng Tây và Việt Nam tới Hoành Sơn. Nói cách khác: Đất nước
Văn Lang chỉ nằm trên phần đất Lạc Việt. Những truyền thuyết về Hồng Bàng và mười
tám đời vua Hùng… cũng chỉ diễn trên giang sơn Lạc Việt.
[27] Nếp Sống văn hoá của người Văn Lang
Cũng như về lịch sử chính trị, những nét văn hoá thời sơ sử
này còn thật là mờ nhạt.
1. Về Xã hội – chính trị,
thông qua những truyền thuyết của 15 bộ lạc, người ta nhận thấy:
“bộ lạc Văn Lang mạnh nhất. Bộ lạc này có vị thủ lĩnh tài ba, thu phục được các
bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh, liên minh các bộ lạc rồi chuyển thành người
cầm đầu cả 15 bộ lạc. Vị thủ lĩnh lỗi lạc ấy gọi là vua Hùng, cha truyền con nối.
Cả nước hồi ấy chia làm 15 bộ. Đứng đầu mỗi bộ là Lạc tướng,
cũng cha truyền con nối. Dưới là các công xã nông thôn. Đứng đầu là bố chính
(già làng). Mỗi công xã có một ngôi nhà chung làm nơi hội họp và sinh hoạt văn
hoá, tín ngưỡng…Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con
người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thuỷ lợi, trao đổi sản
phẩm và đấu tranh giữ gìn làng bản, đất nước”. [11]
Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương vừa nói lên thực tế chống
ngoại xâm, vừa nói lên niềm tin tưởng ở Trời.
2. Về nghề nghiệp,
Đại Việt sử ký toàn thư, ngoại kỷ (q.1) cho biết: Người
nước Văn Lang từ văn hoá hái lượm đi lên, vẫn còn có NGƯ NGHIỆP: “Bị thuồng
luồng làm hại, bạch với vua, vua bèn bảo người ta lấy mực vẽ hình thuỷ quái lên
mình, tự đấy thuồng luồng không làm hại nữa. Cái tục người Bách Việt vẽ mình là
bắt đầu từ đó”.
Những lời trên cũng như di chỉ khảo cổ cho thấy ngư dân có thể
bắt đầu dùng thêm lao, lưới cá và ghe thuyền.
NÔNG NGHIỆP, người dân Văn Lang thời Đông Sơn làm nghề nông
đã có những tiến bộ vượt mức như:
Đa dạng hoá cây trồng, cây ăn trái cũng như các thứ rau, củ.
Nghề trồng lúa nước hẳn là phải mở rộng diện tích và mở rộng
kinh nghiệm gieo trồng lúa theo mùa.
Nông cụ đã vượt xa đồ đá, những cuốc, xẻng, mai, lưỡi cày bằng
đồng. Nghề chăn nuôi phát triển, người ta biết dùng sức trâu bò hỗ trợ và thay
cho sức người.
Thành công nông nghiệp, người ta cũng từ từ biết chế biến các
nông sản làm thực phẩm và dụng cụ.
SÁNG CHẾ NÔNG CỤ của thời này còn để lại nhiều di tích. “Đó
là đồ gốm trang trí đẹp, rìu tứ giác mài nhẵn (lưu vực sông Hồng), rìu bằng đá
có nấc buộc cán (vùng Đông Bắc Bộ), bình gốm miệng vuông hay tròn có trang trí
vỏ sò (Thanh Hoá), rìu có vai, đồ gốm đáy tròn có hoa văn (đồng bằng miền
Trung). Đặc biệt là các loại hình công cụ bằng đồng, số lượng nhiều, kích thước
lớn, kỹ thuật cao, trang trí phong phú, tiêu biểu là thạp đồng, nhất là trống đồng
Đông Sơn.”
Những phẩm vật Đông Sơn của người Việt cổ mà bây giờ có thể
coi là văn hoá Đông Sơn còn được chuyển đi xa hơn về phía Nam, ngoài phạm vi
văn hoá Sa Huỳnh” (Hà Văn Tấn, sđd, trang 185) [12]
3. Về sinh hoạt thường ngày
Trước hết là ăn: Trồng được nhiều lúa tẻ, người Văn Lang Đông
Sơn dùng cơm gạo thường ngày, thứ gạo lúa dài thành lúa tẻ, gạo tẻ, để đối lập
với thứ gạo hạt tròn. Nếp, chính là thứ gạo hạt tròn, được coi là dẻo ngon hơn,
nhưng sản xuất tốn kém hơn, nên chỉ dùng trong những ngày vui: tết, cúng, giỗ,
lễ hội…. Những chiếc cối và cách giã gạo còn thấy rõ trên trống đồng và trong
điệu múa cổ truyền.
Truyện Hồng Bàng ghi nhận: Người Văn Lang lấy vỏ cây làm
áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu, lấy gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm.
Những di chỉ văn hoá Phùng Nguyên đã cho thấy những chiếc bàn đá để đập vỏ cây
làm sợi (dệt hoặc đan áo), những dụng cụ se chỉ….
Không di chỉ nào cho thấy y phục người Đông Sơn rõ hơn hoa
văn trống đồng: Nam giới dùng khố đơn giản, có thể quấn khăn đầu và trang trí
lông chim. Phụ nữ dùng váy tương đối ngắn, áo ngắn tay, có thêu thùa và dùng
lông chim.
Người ta di chuyển đường bộ, khiêng, cáng võng, dùng trâu,
bò, lừa và voi. Hoặc đường thuỷ trên những chiếc bè, chậm mà vững, trên những
chiếc ghe có mắt chim hoặc đầu chim.
4. Về nghệ thuật và Tư duy
Hơn một bộ đàn đá đã khẳng định rằng những con người sống
trên giang sơn này rất sớm phát triển về nghệ thuật âm thanh. Những di chỉ thời
Đông Sơn như trống, sênh, phách, khèn… cùng những điệu múa thời Đông Sơn cho biết
nghệ thuật âm nhạc đã phát triển mạnh.
Người ta đang nghiên cứu những mẫu tự của thời Văn Lang còn tồn
tại nơi dân tộc Mường ở Thanh Hóa.
5. Về tín ngưỡng
Những huyền tích, huyền thoại và di chỉ về tín ngưỡng của người
thời Đông Sơn thật không ít.
Chi tiết Lạc Long Quân thuộc giống Rồng trong truyện họ Hồng
Bàng và phong tục vẽ mình… liên quan đến tục thờ vật tổ Rồng, tục thờ Rắn và những
chuyện về thần Rắn cũng thế. Bọc trăm trứng của người Việt liên quan với chuyện Đẻ
Đất, Đẻ Nước của người Mường (Thanh Hoá). Những chi tiết đó có thể chịu ảnh
hưởng văn hoá Trung Hoa, mà thời Lý Trần mới tô đậm để tỏ rõ “Nam quốc sơn hà
nam đế cư ”.
Tục thờ vật tổ Chim và tôn kính vong linh tiền nhân thì nhất
định có ngay từ đầu, như chúng ta đã nhìn qua thời Văn hoá Sơn Vi.
Hầu hết hoa văn trống đồng Đông Sơn đều nói lên những chi tiết
về bái vật tổ CHIM. Niềm tin này phải chăng liên hệ với tên bộ tộc LẠC VIỆT, từ
LẠC viết với bộ CHUY trong chữ Nho…. Những nét hoa văn đó với Thuyền Chim, có
thuyền không người lái, thêm vào những di vật nói lên cách an táng người quá cố
cho thấy người Văn Lang còn cảm nhận như vong nhân vẫn còn sinh hoạt và gần gụi
bà con….
Khảo tiền sử với những di chỉ cũng nhận ra tín ngưỡng thờ Mặt
trời, thần nông, tín ngưỡng phồn thực như ở bao nhiêu dân tộc cổ thời…. Chung
qui đó là những biểu hiện lòng biết ơn và cầu khấn tới Nguồn Gốc sinh thành và
Nuôi Dưỡng con người và vạn vật.
Những chi tiết phản ánh giáo lý Phật, Lão trong truyện Chử Đồng
Tử, cũng như bao chi tiết của “Lĩnh Nam Chích Quái” hẳn là được thêu dệt thêm
vào sau này, trong thời kỳ giao lưu văn hoá với Trung Hoa và Ấn Độ.
[1] Giáo sư W.G.Solheim II tài liệu đã dẫn
[2] Gs. Hà Văn Tấn “Văn hóa học đại cương
và cơ sở văn hóa. 1996
[3] Reina, Lịch sử văn hóa Á Đông, nxb.
Ngày Nay, 1977
[4] nt.
[5] Trần Độ, sđd, trang 36
[6] Xích = đỏ = phương Nam, Quỉ = thần
[7] Trần Quốc Vượng VN. cái nhìn địa - văn
hóa, trang 54-55
[8] Trần Quốc Vượng, trang 74-79
PHẦN III
VĂN HOÁ VIỆT NAM
THỜI GIAO LƯU ĐÔNG Á
8. Văn hoá Sa Huỳnh
Và giao lưu Âu – Lạc
9. Văn hóa Ấn-Việt-Trung
indo-chine
Văn hoá Ốc Eo Việt Ấn
Văn hóa Việt Nam thời tự chủ
8.
VĂN HOÁ SA HUỲNH
GIAO LƯU ÂU – LẠC
Hùng Vương nói rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ sao?
Bèn bỏ không săn sóc vũ bị, ngày ngày chỉ uống rượu ăn tiệc làm vui. Quân Thục
bước đến gần, Hùng Vương còn say mềm chưa tỉnh, hộc máu nhảy xuống giếng chết.
Binh chúng trở giáo đầu hàng. Thục Vương gồm chiếm lấy nước, đổi tên là Âu Lạc,
đóng đô ở Phong Khê [1]
[28] Văn hoá Sa Huỳnh và Văn hóa Đồng
Nai
Nếu ghi dấu tiến bộ của con người trong văn hoá Sơn Vi và Phùng Nguyên là đá
thô và đá mài, nếu dấu ghi của văn hoá Đông Sơn là nghề luyện kim và chế tác đồ
ĐỒNG, thì tiến bộ của con người văn hoá Sa Huỳnh và Đồng Nai là đồ SẮT.
1. Văn hoá Sa Huỳnh
Khảo cổ học phát hiện nhiều cổ vật giống nhau nằm từ Bắc Trung Bộ tới vùng tiếp
giáp Đồng Nai, mà tập trung nhiều nhất ở Sa Huỳnh, nên đã gọi nền văn hoá có di
chỉ đó là Văn Hoá Sa Huỳnh. Nền văn hoá này rõ ràng có quan hệ nguồn gốc với
văn hoá Đông Sơn, mà “trẻ” hơn. Có thể đặt vào khoảng đệ nhị thiên kỷ trước
công nguyên tới vài thế kỷ đầu công nguyên.
Những di chỉ đặc biệt tìm thấy ở đây hình thể vẫn là búa,
rìu, dao, cuốc, có chăng là thêm một ít liềm… nhưng đặc điểm bắt ta phải nhìn
nhận một tầng văn hoá mới đó là chất liệu chế tác: hàng trăm đơn vị bằng SẮT.
“Đặt trong tương quan với các cư dân văn hoá Đông Sơn ở phía
Bắc, văn hoá Đồng Nai ở phía Nam, số lượng và sự phổ biến rộng rãi đồ sắt của
văn hoá Sa Huỳnh hơn hẳn” [2]
Cư dân Văn hoá Sa Huỳnh đã có nghề dệt vải, chế tác đồ gốm với
nhiều hoa văn trang trí, nghề thủy tinh và làm đồ trang sức. Những đồ này không
những có nét thẩm mỹ cao và đa dạng hơn trước, mà còn thêm loại vòng tai đầu
thú. Họ còn làm nghề nông và ngư nghiệp không? Hiển nhiên còn, còn cho tới hôm
nay và mãi mãi…. Chúng ta không thấy dấu vết thóc gạo hóa thạch, thì hoa văn
bông lúa trang trí trên các đồ gốm cũng dư sức thuyết phục.
2. Văn hóa Đồng Nai
Cùng điểm thời gian với Văn hóa Sa Huỳnh miền Trung, miền Nam
Việt Nam hôm nay, ngày ấy, sống trong Văn hoá Đồng Nai. Nền văn hoá này cũng
mang niên đại thiên kỷ II trước Công nguyên. Di chỉ khảo cổ rải từ Đồng Nai xuống
các tỉnh Đông Nam Việt như Biên Hoà, Gia Định, Định Tường…. Cũng như ở đâu, các
dân tộc thời sơ sử bắt đầu luôn ở vùng trung nguyên. Riêng cư dân Văn hoá Đồng
Nai thì hình như chỉ thích ở gò đồi, mặc dầu họ làm nông, trồng trọt và thủ
công. Họ phát triển lúa rẫy hơn lúa nước.
Đặc điểm đó thêm vào tính chất đồng thô và nhỏ, như ở Dốc
Chùa (Sông Bé), cho người thời nay nghĩ rằng cư dân đó ít lưu tâm tới mỹ thuật
hơn dân miền Bắc và miền Trung. Tuy thế, khảo cổ cũng gặp thấy nhiều vòng đeo
tay, bông tai thuỷ tinh, vật đeo đầu thú… ở khắp nơi trong vùng. Cũng không thiếu
những công cụ bằng sắt như vũ khí, đồ trang sức ở Xuân Lộc (Đồng Nai).
Đúng hơn, phải nhận rằng trình độ văn hoá Đồng Nai vẫn tương
đương với văn hoá Sa Huỳnh và hậu kỳ Đông Sơn, nhưng vì nghề nghiệp cư dân ở
đây, miền cuối của dẫy Trường Sơn, nên cư dân không chuyên trồng lúa nước, mà
chú trọng vào “nương rẫy” và săn bắt thú rừng. Cũng vì thế, họ vẫn sống trên những
vùng cao, mà có nguồn nước, nơi ở lại đắp tường và đào hào bao quanh….
Một nếp sống như thế, đơn giản trong đồ dùng thường ngày,
cũng đơn giản trong sinh hoạt trí thức và tâm linh. Vì thế người ta chỉ mới thấy
dấu hiệu của tín ngưỡng bái vật, mà chưa có tài liệu gì về phụng thờ hoặc những
ngày lễ hội. Khác hẳn sinh hoạt của người dân Lạc Việt với văn hoá lúa nước, có
thời gian mùa màng và thời gian lễ hội.
[29] Âu - Lạc, một mốc giao lưu văn
hoá
Muốn có giao lưu văn hoá, phải có hai nền văn hoá gặp nhau,
xen kẽ nhau trong một đại chúng, trên một vùng đất. Vậy thì có nền văn hoá nào
đến và xen vào văn hoá Lạc Việt lúa nước – trống đồng – và mộ chum?
Cần đọc lại trang sử Hùng Vương với nước Văn Lang [3] và Thục Phán An Dương Vương với Âu-Lạc.
1. Nước Văn Lang
Đào Duy Anh tra cứu và nhận thấy:
“Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ (q.1) chép rằng:
Người nước Văn Lang làm nghề đánh cá, ‘bị thuồng luồng làm hại, bạch với
vua, vua bèn bảo người ta lấy mực vẽ hình thủy quái lên mình, tự đấy thuồng luồng
không làm hại nữa. Cái tục người Bách Việt vẽ mình là bắt đầu từ đó’.
Xem thế thì thấy rằng các sử gia nước ta xưa kia cho rằng người
nước Văn Lang vốn là người Bách Việt. Trước khi xét xem nước Văn Lang quả có
liên hệ với toàn thể Bách Việt hay chỉ liên hệ với một số bộ phận Bách Việt,
chúng ta hãy tìm xem địa bàn sinh tụ của người Bách Việt là ở đâu.
Cái tên Bách Việt hiện đầu tiên là trong sách Sử Ký của Tư Mã
Thiên, sách ấy chép rằng đời Chu An Vương, Sở Điệu Vương sai Bạch Khởi đánh dẹp
Bách Việt ở miền Nam [4]. Bấy giờ là đầu thế kỷ IV trước công nguyên.
Sách Hậu Hán Thư, địa lý chí chép rằng: ‘Từ Giao Chỉ đến Cối
Kê, trên bảy tám nghìn dặm, người Bách Việt ở xen nhau, đều có chủng tinh’.
Sách Lộ Sử [5] ở đời Tống chép rằng: Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu
Khả, Âu Nhân, Thả Âu, Cung Nhân, Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân, Thương
Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quì, Tây
Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Tử Đái (sửa là Bắc Đái), Khu Ngô, gọi là Bách Việt’.
Trong những nhóm Bách Việt linh tinh ấy, chúng ta thấy có những
nhóm như Dương Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, nhóm Thượng Ngô ở miền Nam tỉnh
Quảng Tây, nhóm Sản Lý tức là Xà Lý ở tận miền Tây Nam tỉnh Vân Nam; Bắc Đái là
những tên thuộc huyện thời Hán thuộc quận Giao Chỉ. Có thể căn cứ vào những địa
điểm ấy mà nói rằng Sử sách Trung Quốc xưa gọi là Bách Việt là những nhóm người
Việt ở rải rác trên khắp miền Hoa Nam, phía Tây gồm cả đất Vân Nam, phía Nam gồm
cả đất miền Bắc Việt Nam ta, sử sách thường gọi chung là miền Giang Nam (miền
Nam sông Dương Tử) và miền Lĩnh Nam (miền Nam Ngũ Lĩnh). Trong những nhóm linh
tinh ấy, các nhóm được chính sử Trung Quốc (Sử Ký và Tiền Hán Thư) chép tương đối
kỹ càng là: Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu.
Theo Sử Ký, Đông Việt truyện thì chúng ta biết rằng Đông Việt
hay Đông Âu trong thời Tần Hán đóng đô ở Vĩnh Ninh, tức Vĩnh Gia, là miền Chiết
Giang; Mân Việt thì ở đất Mân Trung, tức miền Phúc Kiến; Nam Việt đô ở Quảng
Châu, tức miền Quảng Đông; Tây Âu ở phía Nam sông Ly, tức miền Quảng Tây; còn
nhóm Lạc Việt thì ở đâu?
Theo Hậu Hán Thư (Mã Viện truyện, Nhâm Diên truyện) [6] chúng ta biết rằng người các quận Giao Chỉ và Cửu Chân là
người Lạc Việt, như thế thì Lạc Việt là nhóm Việt tộc ở miền Bắc Việt Nam.
Bây giờ, hãy đối chiếu cương giới nước Văn Lang như chúng ta
đã thấy ở trên với các nhóm Bách Việt ấy thì chúng ta thấy rằng phạm vi nước
Văn Lang mà truyền thuyết cho rằng đến tận hồ Động Đình và đất Ba Thục là tương
đương với địa bàn sinh tụ của toàn thể người Bách Việt ở Giang Nam và Lãnh Nam;
nhưng xét phạm vi của 15 bộ tộc nước Văn Lang chép trong các sách sử cũ của ta
thì lại thấy rằng phạm vi 15 bộ ấy gần như tương đương với địa bàn sinh tụ của
người Lạc Việt, do đó chúng ta đã nhận định rằng nhân dân nước Văn Lang xưa
chính là người Lạc Việt. Khảo cổ học đã cho chúng ta biết rằng người Lạc Việt ở
miền Bắc Việt Nam đã xây dựng một nền văn hoá đồ đồng mà thời kỳ toàn thịnh ở
vào khoảng thế kỷ III và thế kỷ IV trước C.N.” [7]
Chúng ta có thể nhận giải thích trên của Đào Duy Anh về nước
Văn Lang và văn hoá Văn Lang, tức Lạc Việt. Còn dân ÂU, họ là ai và từ
đâu tới để Thục Phán làm nên Âu Lạc ?
2. Nước Âu-Lạc
Trong Bách Việt, có Tây Âu. Miền Bắc Việt Nam hôm nay ; ở cao
nguyên Cao Bằng lại còn dân tộc Tày. Phải chăng người Tày cũng là người Tây Âu
? Dân gian Tày có truyền thuyết về nguồn gốc của họ, đi ngược lên tới tận nguồn
gốc loài người:
“Truyền thuyết ấy đại khái nói rằng từ thuở xưa, khi người ta
vừa mới biết ánh sáng, biết ăn chín, biết che thân, biết phát rừng trồng lúa,
biết đào mương lấy nước, biết dựng nhà che mưa nắng, thì người ta cũng tụ tập
thành bản mường, nhưng mỗi mường ở độc lập một phương. Về sau người ta tụ tập
đông hơn, nhiều mường họp lại thành xứ, mỗi xứ có chúa trông coi. Các xứ họp lại
thành bộ, đứng đầu là vua chủ trương mọi việc, đặt chữ cho dân, vỗ về dân chúng
khiến họ làm ăn yên ổn….
Ở phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn
Lang, có bộ Nam Cương hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Trị Vương đứng
đầu, đóng đô ở Nam Bình [8], do chín xứ họp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần…. Từ
lúc An Trị Vương lên ngôi, nhân dân yên ổn, chín xứ đều thần phục cho nên dần dần
trở nên hùng cường. Nước Trung Hoa mấy lần xâm lăng đều bị đánh lui, rồi từ đấy
không dám quấy nhiễu nữa, hai bên kết tình giao hảo.
Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán mới
lên 10 tuổi, cháu họ là Thục Mô tạm lên cầm quyền. Chín chúa nghe tin ấy tưởng
rằng Thục Mô cướp ngôi, bèn kéo quân về bao vây kinh đô. Thục Mô sợ, phải giao
quyền lại cho Thục Phán, các vua mới chịu yên. Thục Phán còn nhỏ, sợ bị các
chúa lấn át, nói rằng: Nay trong bộ có 10 xứ, chín chúa giữ chín xứ, còn lại một
xứ cho vua, như vậy thì có đâu phải là vua. Nay hãy thi tài, ai có tài hơn người
mà thắng tất cả mọi cuộc thì ta xin nhường ngôi cho cai trị cả bộ. Các chúa
nghe theo. Thục Phán bèn tổ chức mười cuộc thi tài:
1. Đấu võ
2. Làm nghề tốt việc nhanh
3. Sang Trung Quốc lấy trống đồng
4. Bắn cung trúng lá đa
5. Làm một nghìn bài thơ
6. Nhổ mạ Phiêng Pha (gần Tinh Túc) cấy
ruộng Tổng Chúp (Cao Bằng)
7. Đóng thuyền rồng
8. Đẽo đá làm guốc
9. Nung vôi gạch xây thành
10. Mài lưỡi cày thành kim.
Trong các cuộc thi ấy, Thục Phán đều dùng kế mỹ-nhân để phá,
không cho chúa nào thắng được, nên cuối cùng Phán được các chúa tôn làm vua. Thục
Phán ra sức củng cố cơ sở nước Nam Cương, làm cho dân giàu nước mạnh.
Nước Văn Lang láng giềng bấy giờ đang suy yếu, nhân dân xiêu
tán đói rét, quân lính biếng lười, các tướng chỉ thích rượu thơ. Thục Phán nhớ
lại đời tiên vương đất nước nhiều lần bị nước Văn Lang uy hiếp, cho rằng nay đã
đến lúc phục thù, bèn cất quân sang đánh, Hùng Vương nhu nhược bại vong. Thế là
nước Văn Lang bị gồm làm một với nước Nam Cương. Thục Phán đặt tên nước mới là
Âu Lạc, đóng đô ở Loa Thành. Từ đó bốn phương yên ổn”. [9]
Tại sao Nam Cương lại do dân Âu làm chủ?
Trong Bách Việt, có dân Tây Âu sống ở vùng Quảng Tây với hai
nhánh sông Tả Giang và Hữu Giang. Khi con cháu vua Thục, sử Tàu gọi là Quỳ Việt,
bị Tần áp bức, di về Nam, tới Tây giang, gặp dân Tây Âu đồng ngôn ngữ và văn
hoá, bèn liên hiệp thành mười bộ tộc của một nước Nam Cường, mà bờ cõi trải ra
từ Tây giang xuống tận thượng lưu sông Lô, sông Gầm, sông Cầu, sông Đáy, sông
Thái Bình và sông Mã, sông Lam, tức giáp biên giới Văn Lang. Tất cả họ thuộc
Tây Âu, nên khi chiếm thêm được Văn Lang của bộ Lạc, Thục Phán bỏ ranh giới hai
nước, mà đặt tên theo hai bộ tộc trong Bách Việt là ÂU + LẠC. Sau này, Triệu Đà
lại chia hai nước Âu Lạc, cũng theo hai vùng văn hoá còn nhiều dị biệt đó. Tuy
thế, khi đã thành một nước, một chính quyền, thì dân Tây Âu và Lạc Việt đương
nhiên giao lưu và tiếp biến văn hoá. Chúng ta có nền văn hoá tiếp biến “đầu
tiên” trong lịch sử dân tộc, nền Văn Hoá Âu Lạc.
Bình Nguyên Lộc [10] lại dẫn chứng cho thấy nước Thục đã bị Tần đánh diệt từ
năm 316 TCN rồi Thục Phán chỉ là con cháu Thục Vương, lưu vong tại nước Sở, mượn
quân của Sở Vương là Trạch Hu Tống để đánh Hùng Vương.
Như vậy thì không có đất nước Tây Âu nào để sáp nhập với Văn
Lang. Hơn thế, nếu sáp nhập thì đó là nước của Trạch Hu Tống, không phải của
Phán lưu vong. Vậy thì, chỉ có dân tộc Âu nhập với dân tộc Lạc: “Sự thật thì quả
Âu Lạc hàm cái ý Âu với Lạc nhập lại, nhưng chỉ là nhập trong tư tưởng chớ
không có nhập đất đai, vua An Dương Vương là người nước Thục, di cư xuống nước
đồng chủng là nước Tây Âu, và sống ở đó hai thế hệ, nên ông tự xem ông là người
Tây Âu. Hơn thế, lính mà ông mộ để xâm lăng Văn Lang của Hùng Vương toàn là người
Tây Âu.
Như vậy, khi cải quốc hiệu Văn Lang thành Âu Lạc, ông chỉ muốn
ngầm nói rằng đó là nước dân Lạc, nhưng do dân Âu lãnh đạo, nhưng không có sự
kiện sáp nhập Âu Lạc vào Tây Âu bao giờ …” [11]
Có thể nói rằng: Ngay sự kiện Thục Phán vẫn dùng Lạc Hầu, Lạc
Tướng… làm cánh tay cai trị, cũng ủng hộ cho ý kiến của Bình Nguyên Lộc. Dầu
theo giả thuyết nào trong hai chuyện lịch sử trên, chúng ta vẫn thấy có giao
lưu văn hóa Âu và Lạc.
[30] Văn hóa Âu Lạc
Nói tới Văn hóa thời Âu Lạc, chúng ta cũng “nhìn lại” công
trình kiến thiết thủ đô nước Âu Lạc, trước khi nhận xét về chính những nét văn
hóa đương thời.
1. Thành Cổ
Loa
Thử xem lại Cổ Loa hoặc Loa Thành và bối cảnh lịch sử đan dệt
của nó. Trước hết, xin đọc qua lời giới thiệu tài liệu của nhà xuất bản Thanh
Niên, Hà-nội 25.2.1995:
“… Nhà Xuất Bản Thanh Niên cho tái bản có sửa chữa và bổ
sung cuốn ‘Các triều đại Việt Nam’ do nhà sử học Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng biên
soạn, nhằm giúp các bạn trẻ có thêm được những kiến thức lịch sử với những chi
tiết sinh động. Đây là một tập biên khảo có hệ thống, tận dụng những thành tựu
mới nhất của khoa học lịch sử kết hợp với tham khảo các bộ sách cổ nhất của các
nhà sử học xưa và nay…” [12]
Đây là những hàng mà tác phẩm vừa được giới thiệu đó ghi về
công trình xây thành và tổ chức quân sự:
“Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy, thành Cổ Loa
được xây bằng đất ở chính địa phương. Thành có 9 vòng. Chu vi vòng ngoài 8km,
vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km… Diện tích thành trung tâm lên tới 2 km2.
Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến
đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào
thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8-12m. chân rộng
20-30m. Khối lượng đất đào đắp ước tính tới 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công
trình Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu.
Chính vì vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ khó khăn. Thành bị đổ nhiều lần
là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đã đứng vững. Thục An
Dương Vương đã biết dựa vào những kinh nghiệm thực tế để gia cố nền, móng khắc
phục khó khăn. Vết chân rùa thần chính là bí mật đã được tổ tiên khám phá, xử
lý. Ngày nay, khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân
thành được chẹn một lớp đá tảng. Hòn nhỏ có đường kính 15cm. Hòn lớn 60cm. Cần
bao nhiêu đá để sử dụng cho công trình? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là một kỳ
công.
Thành Cổ Loa chẳng những là một công trình đồ sộ, cổ nhất của
dân tộc, mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa, một mạng
lưới thủy văn dày đặc, tạo thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng
một căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy sông Thiệp-Ngũ Huyền Hoàng giang thông
với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Bởi vậy, ngay sau khi xây thành, Thục An
Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền
chiến. Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy
chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân được điều
tới khai phá vùng rừng Đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng Dâu Da (Du Lâm)…
thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm,
giáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông đã chế tạo nỏ liên châu, mỗi
phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được vua
Thục khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng, những mũi tên lợi hại, có độ
chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng cho nỏ liên châu đã được bàn tay thợ tài
hoa sản xuất tại đây…”[13]
2. Cái nhìn
khảo cổ về văn hóa cổ Âu Lạc:
Chúng ta nhận xét qua văn hóa Âu Lạc về nghề nghiệp, hành
chánh và tôn giáo.
2.1. Nghề Nghiệp
“Các nhà khảo cổ học của trường Đại học Tổng hợp, của viện Khảo
cổ học và tổ chức Át-lát Hà-nội đã cùng nhau xây dựng một bản đồ khảo cổ học
Hà-nội, trên đó có trọng điểm khảo cổ học Cổ Loa - Đông Anh. Đã tìm thấy những
di tích ‘cuội gia công’ thời cuối đá cũ cách ngày nay hơn một vạn năm ở miền
chân núi Ba Vì cũng như trên những thềm sót cổ ở Cổ Loa - Dục Tú. Bẵng đi một
thời đá mới, nước biển dâng, miền Cổ Loa - Đông Anh không tìm thấy bóng người
xưa. Tới đầu thời đại đồng, ta lại thấy những xóm làng cổ mọc lên trên những
dãi đất cao và thềm cổ đôi bờ Hoàng gia - Ngũ Huyện Khê. Trong phức hợp các di
tích khảo cổ này, đã tìm thấy dấu ấn qua loại hình đồ gốm, rìu đá, chì lưới… của
cư dân từ miền ven biển tiến vào và từ miền chân núi tiến xuống khoảng 3500 năm
cách ngày nay. Từ Cổ Loa đến Tiên Sơn Hà Bắc là một vùng hỗn dung văn hóa từ thời
đại đồng đến đầu thời đại sắt và hỗn dung tộc người, từ các yếu tố Môn cổ - Mã
Lai cổ đến Tày cổ để tạo nên yếu tố Việt cổ…
Vua Thục (An Dương Vương của sử cũ) thay thế các vua Hùng, đã
đưa trung tâm đất nước Việt cổ từ một miền đồi gò thuần trung du – đỉnh thứ nhất
của tam giác châu sông Hồng – xuống Cổ Loa – Đông Anh là miền giáp ranh trung
du – đồng bằng – đỉnh thứ hai của tam giác châu sông Hồng.
Thành Cổ Loa được xây dựng ở vị trí giáp ranh này, ở cái gờ
miệng của trung du, cổ họng của đồng bằng. Sau lưng nó là miền trung du và rừng
núi, là miền Âu Việt (Tày cổ); trước mặt nó là miền đồng trũng mênh mông nước
ngập, mùa mưa lũ, phải đi lại bằng thuyền là miền Lạc Việt (Mã Lai cổ). Hệ thống
phòng thủ ở Cổ Loa là lũy, đồn đắp dựa trên các thềm sót và doi đất cao giữa một
miền lầy trũng, nhưng hệ thống ấy cũng là đê trị thủy. Nó được phối hợp chặt chẽ
với một hệ thống phòng thủ khác… là các đường nước chảy dọc ngang miền đất
trũng xen giữa các thềm cổ sót và doi đất cao, nhưng hệ thống ấy cũng là kênh
mương tưới tiêu thủy lợi nối với sông con, và cũng là mạng lưới giao thông của
toàn thể vùng kinh đô và ven đô (vùng ảnh hưởng của vua Thục). Cổ Loa là sự hòa
hợp giữa Âu và Lạc, sự phối hợp giữa lũy và hào, giữa đê và mương. Nó là một đô
thị nông nghiệp sông và thủy lợi cổ, trên bến dưới thuyền.
Chính ở đây, ở Cổ Loa – Đông Anh đã thể nghiệm thành công bước
quá độ từ mô hình nông nghiệp lúa nước miền chân núi đến mô hình lúa nước miền
đồng bằng; từ nông nghiệp 1 vụ lúa (mùa) sang nghề nông hai vụ lúa (mùa chiêm),
từ vùng đất nghèo (bạc màu, phù sa cổ) sang vùng đất có độ phì lớn và có thể
thâm canh (phù sa mới), từ việc trồng lúa nếp (và ăn xôi) sang việc ngày càng
trồng nhiều lúa tẻ (và ăn cơm, ăn bún), từ việc kết hợp trồng trọt – săn bắn đến
sự kết hợp trồng trọt – đánh cá, từ việc nuôi gà lợn đến việc nuôi thêm nhiều
loại lông vũ ở nước (vịt, ngỗng, ngan), từ việc nuôi bò – voi sang việc nuôi
ngày càng nhiều trâu nước. Nông nghiệp Cổ Loa – Đông Anh, xưa cũng như nay là
đa canh và đa dạng.” [14]
2.2. Nhà
Hẳn người Việt thời Âu Lạc còn làm nhà sàn. Cùng chủng
Mã-Lai, nhưng khác tộc với chúng ta, người Chăm còn gọi là Thang Giơ. Người
Nam Dương gọi là Tanga. Chúng ta gọi Thang. Nhà Sàn là nhà
phải lên xuống bằng thang. Chúng ta đều rõ mục tiêu làm nhà sàn là để tránh thú
dữ.
Cả chục thế kỷ sau, khi thú dữ và rừng đã bị khẩn hoang ngút
ngàn, không cần sàn cao nữa, nhà người Việt thấp xuống thành nhà RẦM. Chính vì
muốn có một đợt không khí ít chục phân, cách mặt đất và nền nhà, để tránh ẩm ướt.
Đặc điểm của loại nhà người Việt, cũng giống như của nhiều tộc
trong chủng Mã-Lai, là nóc nhà cong oằn xuống mềm mại để hai đầu nhẹ vuốt lên.
Cũng vì thế, mái nhà lợp phủ xuống thật thấp và người ta trổ cửa ra vào ở đầu hồi.
Có lợp ngói thì ngói bằng, chứ không phải loại ngói ống “âm dương” như ở một số
cung điện Huế hoặc mái chùa. Loại hình ngói âm dương là của dân Trung Quốc du
nhập.
2.3. Làng
Người dân rõ ràng đã có tổ chức xóm làng. Có những người tưởng
chính quyền Trung Quốc mang tổ chức này sang “dạy” dân Việt Nam. Chắc chắn
không phải thế. Người Lạc Việt trong chủng Mã-Lai đã biết tổ chức làng từ rất sớm.
Danh xưng Quan Lang thì chỉ có từ “quan” là của Hán tộc. Người Việt rất có thể
đã gọi là Làng, Xà Làng, người Việt cổ gọi là Già Làng, trước kia chủng
Mã-Lai gọi là T’lang. Tới ngày nay, người Mường vẫn gọi là Lang.
Mỗi làng đều có nhiều “quyền tự trị”, có “lệ làng”, mà nhiều
khi “phép vua” cũng chào thua.
2.4. Tín Ngưỡng
Trống Đồng còn ghi lại cho chúng ta nhiều nét về Tín Ngưỡng của
nền văn hóa Đông Sơn, văn hóa Âu Lạc. Trong đó gồm cả những nét chung của chủng
Mã-Lai.
Ngoài vật tổ như Chim, Rồng, Rùa, người Âu Lạc thờ TRỜI mà tượng
trưng là mặt trời. Nét này các nhà nhân chủng học còn gặp thấy ở Da đỏ Mỹ châu:
“Đền đài Cung điện của Maya và Aztèques còn tráng lệ hơn là của
hai thành phố chôn vùi Harappa và Mohanjo Daro của Mã-Lai ở Ấn Độ nữa, và cái vật
quan trọng nhứt của thổ dân Mỹ châu cũng cứ là cái mặt trời.
Chính vì cái mặt trời ấy mà trước năm 1945 các nhà khảo cổ lầm
tưởng nền văn minh rực rỡ của thổ dân Mỹ châu từ Ai Cập đến, bởi Ai Cập cũng thờ
mặt trời [15].
Nhưng rồi họ nghiên cứu dân đó về dân tộc học, chủng tộc học, họ mới thấy rằng
đó là dân da vàng từ châu Á di cư tới, nhưng chưa biết vào thời nào.
Một dân tộc đi bằng xuồng nhỏ từ Nam Dương đến Madagascar, vượt
qua hết Ấn Độ Dương được thì dân tộc ấy cũng đã vượt Thái Bình Dương bằng xuồng
nhỏ được dễ dàng, phương chi ở Thái Bình Dương lại có những đảo dọc đường mà Ấn
Độ Dương không có…” [16]
Người Âu-Lạc cũng theo tín ngưỡng “phồn thực” và thờ Thần
Nông. Do đó, thờ một số biểu tượng mà ngày nay gọi là “dâm thần” như Dương Vật,
Âm Vật. “Cối, Chày” trong các điệu vũ giã gạo, không phải chỉ là để có gạo trắng
cơm ngon, mà còn là điệu vũ tế thần phồn thực. Mà thần phồn thực không được hiểu
nghĩa “dâm” như ngày nay. Tín ngưỡng đó là hướng về nguồn gốc sinh thành
và cầu mong phát triển “con đàn cháu đống, sống ba bốn đời”.
2.5. Nghệ Thuật
Để tế thần hoặc để giải trí, có lẽ cả hai, người văn hóa Đông
Sơn đã sử dụng nhiều nhạc khí: trống đồng lớn nhỏ nhiều cỡ, khèn ngắn, khèn
dài, sáo, cồng chiêng, và lục lạc. Đủ thứ lục lạc, đính vào những loại vòng tay
và chân. Những nhạc khi này rung lên, ngân vang với những cử động của vũ công…
Cùng với những bài ca dâng tiến thần thánh là những huyền thoại,
thần thoại và anh hùng ca.
Hoa văn trống đồng, những di chỉ ở quan tài và mộ huyệt cho
thấy người ta đã biết và ưa thích hội họa, điêu khắc… từ những sinh hoạt xã hội
đến những cảnh thần tích và ước vọng theo chiều tín ngưỡng tâm linh. Những nét
nghệ thuật trong phụng tự còn cho thấy người xưa tin rằng Thần Thánh của mình vẫn
sống, vẫn là Thần Minh đày quyền năng và tình thương.
1] “Đại Việt sử ký Toàn thư.” Chúng ta có thể “đọc lại nơi
khác.
[2] Trần Quốc Vượng “Cơ sở Văn hoá Việt
nam” 91
[3] Trên đây số [27] chúng ta đã đọc theo
truyền thuyết
[4] Sử Ký, Bạch Khởi Vương Tiễn truyện
(q.73) ĐDA.
[5] Gồm 47 quyển, tác phẩm của La Tất đời
Tống chép từ đời Tam Hoàng Ngũ đế… ĐDA.
[6] Hậu Hán Thư, q.24, q.76
[7] Đào Duy Anh “Đất Nước VN qua các đời”
1994, trang 20-22
[8] Nam Bình châu là 1 châu của nhà Đường.
Địa danh đại từ điển của Trung Quốc cho rằng châu Nam bình hiện nay ở trong
lãnh thổ nước VN.ta.
[9] Đào Duy Anh, sđd. 25-26, theo tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử số 50-51 tháng 5 và tháng 6 năm 1963
[10] Sđd., tr. 258-265
[11] Sđd.,tr. 285
[12] Sđd. lời nhà Xuất bản
9.
Giao Lưu Văn Hóa
VIỆT ẤN
Người ta gọi lề thói hiện hành là văn hóa, và gọi những trạng
thái đã qua là man rợ. Phong hóa hiện tại sẽ bị gọi là man rợ khi chúng sẽ là
những phong hóa đã qua. [1]
[31] Di chỉ Văn hóa Ốc Eo
Vào những năm ‘40 của thế kỷ 20, M. Malleret đã dùng phi cơ để
nhìn sâu mãi xuống những luồng nước vùng Long Xuyên. Sau đó, từ từ người ta
khai quật được nhiều di chỉ. Qua Ốc Eo, Ba Thê thuộc An Giang, người ta tưởng
đã đủ với Văn hóa Trăm Phố chìm lặng ở bìa rừng U Minh. Vậy mà những di tích dẫn
người ta tìm mãi qua Long An, Đồng Tháp, lên tận thượng lưu sông Đồng Nai.
Thực ra, những di chỉ loại này tỏa ra cả vùng Đông Nam Á,
nhưng người ta cứ gọi là Văn hóa Ốc Eo. Văn hóa này còn gây kinh ngạc thích thú
vì những phế tích của đền đài hoành tráng, của những ngôi mộ kim tự tháp đổ
nát. “Bên mình những người quá cố là hàng ngàn, hàng vạn đồ trang sức, hoa tai,
nhẫn, ấn triện bằng đá quí, bằng vàng bạc khắc chạm tinh vi mang đậm nét phong
cách Tây Phương Thiên Trúc.
Từ những đổ nát hoang tàn hôm nay, khảo cổ học đang dõi tìm về
thời vàng son của một quốc gia thịnh vượng, kỷ cương, đã tiến ra biển Đông, vượt
vịnh Bengal, tới La Mã cổ kính tồn tại từ buổi đầu công nguyên đến thế kỷ thứ
VII. Phải chăng đây là dấu tích của quốc gia Phù Nam như sử sách đã ghi?
Chúng ta chưa hết ngạc nhiên bởi sự phát hiện những công
trình kiến trúc đồ sộ, độc đáo trên vùng sình lầy nơi đây, thì lại càng khó hiểu
hơn bởi sự tàn lụi của nền văn minh này…” [2]
Chúng ta hẳn biết được rằng trên địa bàn rộng lớn như thế,
người văn hóa Ốc Eo không thể đồng nhất và không dễ gì có được những vùng “Trăm
Phố” thứ hai, thứ ba. Đây là vài chi tiết của cái nhìn khảo cổ:
1. Nông nghiệp
Nói chung, dân văn hóa Ốc Eo làm nghề nông. Họ trồng lúa nước
hoặc lúa rẫy và nhiều cây loại ngũ cốc, loại cây ăn trái. Do đó, họ phải biết
làm thủy lợi, dầu chỉ mới là tưới tiêu theo thủ công và đào kênh mương.
Chăn nuôi chỉ như phần phụ vào nông nghiệp.
2. Ngư nghiệp
Ngư nghiệp lại không phải phụ như thế. Người miền văn hóa Ốc
Eo sống với nhiều sông rạch tự nhiên và kênh đào.
Đồng ruộng của họ vẫn phần lớn ngập nước. Chính vì thế mà nghề
đánh bắt cá nước ngọt không thua ngư nghiệp biển.
3. Thủ công – Mỹ nghệ
Thủ công và Mỹ nghệ của họ, không ai phủ nhận được. Khảo cổ
đã phát hiện bao nhiêu đồ gốm xuất xưởng bằng bàn xoay. Bao nhiêu vòng tay,
khuyên tai, nhẫn bằng đá quí và thủy tinh. Hiển nhiên bằng đất nung nữa. Đồ đá
không thiếu, nhưng dụng cụ bằng sắt nhiều hơn.
Có thể vì giao thương với nhiều vùng trên thế giới, người văn
hóa Ốc Eo đã biết dùng tiền đúc. “Có 12 đồng tiền và những mảnh cắt của tiền đã
được phát hiện ở các di tích.” [3]
Những dụng cụ trên đồng thời cũng cho thấy nghề điêu khắc của
họ đã tới trình độ khá cao. Họ thực hiện với nhiều kích cỡ khác nhau và trên
nguyên liệu đa dạng: đất nung, đá quí, vàng bạc và thủy tinh.
4. Tín ngưỡng
Khảo cổ Trăm Phố cũng phát hiện dấu ấn của lớp người sống văn
hóa giao lưu trong một thời kỳ dài: cùng với tôn giáo “phồn thực” và bái vật
như các nước trong vùng Đông Nam Á này, họ còn chấp nhận cả một phần Ấn giáo và
Phật giáo. Hiển nhiên những biểu tượng thờ Linga, thần Siva và Visnu tới đây
trước Phật giáo Bắc và Nam tông. Phật giáo không thể tới sớm hơn 3 thế kỷ trước
Công Nguyên.
Theo các tài liệu của thư tịch cổ Trung Quốc, giáo sư Trần Quốc
Vượng nhận rằng người văn hóa Ốc Eo đã có sinh hoạt văn nghệ tôn giáo như ca,
múa, nhạc. Hơn thế, họ có cả chữ viết nữa. [4]
[32] Giao lưu văn hóa CHĂM
Không như “người Ốc Eo”, người Chăm vẫn còn và là một trong
các dân tộc làm nên người Việt Nam. Chúng ta có thể nhìn lại nét hưng vong của
dân tộc Chăm, để từ đó nhận định về văn hóa Chăm.
1. Người Chăm
Người Chăm hoặc Chàm ngày nay đã thành “đồng bào” Việt Nam, một
dân tộc thành tố của nhân dân Việt Nam. Dầu lạc quan cũng phải nhận rằng các
chính quyền Việt Nam chỉ mới trong ba thế kỷ nay dám nhận dân Chăm là “thần
dân” của mình. Muốn gọi họ là “đồng bào”, thì phải nói rằng “cái bọc Âu Cơ” ở
đây chính là chủng Mã Lai (hoặc Malayo-Polynésien). Từ gần ba ngàn năm trước
Công Nguyên, khi tổ tiên Lạc Việt tới vùng Vĩnh Phú, thì một lớp người
Malayo-Polynésien cũng tới vùng ven biển chúng ta ngày nay. Khi quân Bắc bành
trướng tràn ngập giang sơn của Bà Trưng thì cũng xâm lăng họ. Nhưng cuối thế kỷ
thứ hai [5], thoát ách nô lệ, họ lập hai tiểu quốc Lâm Ấp và Chiêm Thành
(Panduranga). Mãi tới thế kỷ thứ VI, hai tiểu quốc mới thống nhất thành nước
Champa.
Sau 30 năm chúa Nguyễn được yên ổn đối với chúa Trịnh phương
Bắc Việt Nam, nên chúa Phúc Chu hướng dẫn Nam-tiến. Năm Đinh Sửu 1667, Ông gồm
cả Phan Rang, Phan Rí làm phủ Bình Thuận, coi như không còn nước Champa. Năm Mậu
Tý 1708 chúa Nguyễn lại dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên, giang sơn Việt
Nam hình thành giống ngày nay, và người Chăm thành phụ thuộc trên chính quê
hương của họ. Một dân tộc đấu tranh ngoan cường với quân Tàu, mà khi đối đầu với
người Việt Nam, lại co cụm lại và hao mòn dần, nên chỉ còn lại là một trong 50
dân tộc ít người ở bìa rừng Ninh Thuận, Châu Đốc và Tây Ninh. Dân số không vượt
trăm ngàn.
Có thể nói một trong những nguyên nhân suy vong của họ là do
nền văn hóa ít thích ứng môi trường địa lý và xã hội của họ.
2. Văn hóa Chăm
Văn hóa Chăm có những nét độc đáo, rất nên nghiên cứu. Đây chỉ
là vài nét chính:
2.1. Kiến trúc
Nói đến văn hóa Chăm, ai cũng nghĩ ngay tới Tháp Chàm, như một
kiến trúc đặc sắc, lác đác nổi
bật trên chân trời miền Trung Việt Nam, từ Quảng Bình tới
Ninh Thuận, và có hướng lên cả Tây Nguyên. Đúng ra, người Chăm ưa xây dựng cả một
quần thể: Thành quách, Đền chùa và Tháp. Tiêu biểu nhất là Tháp, mà người Chăm
gọi là Kalăng. Họ cũng ưa kiến trúc ba tháp hơn là một tháp sừng sững mà cô
đơn. Xét chung, các tháp đều hướng Đông và nhiều tầng tứ giác. Mỗi tầng đều có
những tháp nhỏ nhọn vút lên, nên đất tầng trên hẹp vào một ít. Trên cùng là
chóp tròn hoặc phiến đá vuông. Không một tầng, một góc tháp nào suông đuột, tất
cả đều đầy hình nhân, động và tĩnh vật, hoa văn giàu nét điêu khắc mỹ thuật, biểu
lộ tâm linh. Nghệ thuật cũng như nội dung tâm linh này phản ánh giao lưu văn
hóa Ấn Độ và Đông Nam Á châu.
2.2. Tôn giáo
Tôn giáo người Chăm cũng biểu hiện tiếp biến văn hóa. Với chủ
thần Brahma, thần Siva và Visnu có thể người Chăm theo tôn giáo cổ truyền hội
nhập Ấn giáo. Đa số đó được gọi là người Chăm Ahier (hoặc Kafia). Còn một thiểu
số theo tôn giáo cổ truyền hội nhập Hồi giáo. Đó là người Chăm Awal (hoặc
Bani). Nếu thờ Linga (sinh thực khí) vừa do Ấn giáo (thần Siva), vừa là di ảnh
của tôn giáo phồn thực, thì việc thờ quốc mẫu Po-Nagar và thờ cúng tổ tiên phải
là do tôn giáo cổ truyền. Những niềm tin tôn giáo đó còn biểu lộ dồi dào qua mỹ
thuật.
2.3. Mỹ thuật
Mỹ thuật Champa khởi sắc nhất được lưu lại trong phạm vi tôn
giáo: các kiểu thức và trang trí đền tháp, các ngày lễ hội. Có thể một số người
không lưu ý thấy những hình nhân đang đấu tranh quyết liệt với dã thú. Nhưng ai
cũng thấy những hình người đang nhảy múa, nhất là hình vũ nữ với bộ ngực no
tròn và các bộ phận toàn thân như cũng uốn cong tròn. Thêm vào quanh đó là những
Linga, những hoa sen.
Philippe Stern có một nhận xét về nghệ thuật Chăm thường được
giới chuyên môn tán thưởng: “Nghệ thuật Chăm cổ trong hình thức đẹp nhất, có thể
coi như phục hưng nghệ thuật Ấn Độ ”.
Tuy thế, người ta vẫn có thể đề vào những tác phẩm nghệ thuật
này đôi ca dao Việt Nam:
Công cha như NÚI Thái sơn
Nghĩa mẹ như NƯỚC TRONG NGUỒN chảy ra
Lâm Ấp và Chiêm Thành cũng như Chân Lạp cổ thời chịu ảnh hưởng
văn hóa Ấn Độ; nhưng cơ bản văn hóa Đông Nam Á vẫn còn, mà mẫu hệ chỉ là một
nét tổng quát.
2.4. Ngôn ngữ và văn
chương
Ngôn ngữ Chàm vẫn còn giống ngôn ngữ các tộc Mã-Lai cổ với tỷ
lệ rất cao. Hơn nữa, những thể văn cũng còn dễ nhận ra bà con. Người Chàm có ca
dao, tục ngữ, truyện cổ, thần thoại, thi phú… Tác giả “Việt sử xứ Đàng
Trong” [6] cho rằng người Chăm “ban đầu, thi phú ghi bằng chữ Phạn ”.
Còn sau? – Bằng thứ chữ Khâr Tapuk.
Nghiên cứu về “Đồng bào sắc tộc thiểu số Việt Nam”, Nguyễn Trắc
Dĩ nhận thấy: Người Chăm “về phương diện ngôn ngữ có sự hỗn hợp giữa các từ vựng
Sanscrit – Việt và Môn – Khmer. Ngôn ngữ Chàm giống với thể dân Atjet vùng Bắc
Sumatra.” [7]
Bình Nguyên Lộc đã kể cả hai dân tộc đó vào chủng “Mã-Lai đợt
II”. Chúng ta gọi “mẫu số chung” đó là Đông Nam Á.
2.5. Nghệ thuật âm thanh
Người Chăm diễn tả nỗi lòng bằng âm thanh nhạc khí và ngôn ngữ
cử điệu, tức là múa, hơn bằng lời ca.
Họ có đàn độc huyền Rabap Katoh, đàn hai dây Kuni Kara, trống
bịt hai đầu Ganan, trống bưng một mặt Baranon và trống lớn Hagar, ống sáo, tù
và, kèn Sarinai bảy lỗ… Như vậy đủ thấy khung nhạc của họ cũng rất phong phú.
Có hai điểm không thể bỏ qua khi nhắc tới âm nhạc Champa : Vũ
và than.
Vũ đi liền với nhạc. Trong sinh hoạt, trong nghi lễ thần
thánh hoặc hội hè, vũ luôn luôn đi liền nhạc giống như người Phi Châu, người
châu Mỹ La-tinh, không thể đứng hoặc ngồi yên mà nghe nhạc. Nhạc trỗi lên là
thân hình uốn éo. Các vũ công có những điệu vũ rất điêu luyện với chân, với tay
và cả thân mình. Họ khai thác tới từng cách nhìn, từng rung động của một lóng
tay và dáng diệu của cánh tay, bàn tay và ngón tay. Nghệ thuật diễn cảm rất
tinh vi.
Tinh vi nhất về âm điệu than oán, khắc khoải. “Việt sử tiêu
án” không tin rằng mình lộng ngữ khi viết: “Âm điệu Chiêm Thành, tiếng
nghe ai oán, ai nghe cũng nhỏ lệ ”.
Người Chăm không thành thạo nghề biển hoặc khai thác rừng,
nhưng nghe nhạc của họ, giáo sư Lê Văn Chưởng nghĩ rằng: “Vũ điệu và âm nhạc
Chăm vừa phản ánh cái bao la của biển cả, vừa hàm chứa cái bí ẩn, cái hắt hiu của
núi rừng miền Trung khi đêm xuống ” [8].
Chúng ta đều có thể đồng ý với nhạc sư Trần Văn Khê khi nói về
điệu Nam-ai:
“Điệu Nam là phản ánh của lối nhạc Chăm ai-oán, và qua nhạc
Chăm, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhạc Ấn Độ ” [9].
Hẳn không sai lầm nếu chúng ta giải thích một trong những
nguyên nhân phát sinh chất đậm đà ai oán đó bằng lịch sử xã hội Ấn Độ và Chiêm
Thành: Nỗi oán buồn kiếp sống nghèo khổ, nỗi hận vong quốc.
Tóm lại, qua người Ấn, nhất là qua người Chăm, chúng ta có
giao lưu văn hóa Ấn Việt và Chăm Việt, ở miền Trung và Nam Việt Nam đậm đặc hơn
ở miền Bắc.
Chúng ta còn tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa Ấn qua Phật giáo,
nhưng ảnh hưởng này ào ạt hơn trong thời Lý Trần, chúng ta sẽ kể sau.
[1] Anatole France “Sur la pierre blanche”
[2] Trần Độ, sđd., tr. 36-37
[3] “Văn hóa Óc Eo”, nxb. KHXH, 1995, tr. 337
[4] “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tr. 124-125
[5] khoảng năm 192
[6] Phan Khoang, tr. 41
[7] Sđd. 1972. Tr. 89
[8] “Cơ sở Văn hóa Việt Nam”. 1999. Tr.74
[9] Lê Văn Chưởng dẫn Bách Khoa, số 25-26. 1958.
10.
Giao Lưu Văn Hóa
VIỆT TRUNG
“Năm 210 tcn. Tần Thủy Hoàng chết, con là Tần Nhị Thế
lên thay, đế chế Tần suy yếu dần […] Nhâm Ngao và Triệu Đà chiếm Nam Hải, xây dựng
một vương quốc riêng, chống lại nhà Tần […] Năm 206 tcn. Nhà Tần đổ, Triệu Đà
liền tiến quân đến đánh chiếm các quận Quế Lâm, Tượng Quận, thành lập nước Nam
Việt, tự xưng là Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung …’ [1]
[33] Triệu Đà, ông là ai?
Là một trong những tướng lãnh của Tần, thế mà chỉ bốn năm sau
khi lợi dụng Tần suy yếu, Triệu Đà làm phản, mà đã chinh phục và lập được một đất
nước riêng. Dân nước đó thực ra thuộc chủng tộc nào? Đồng chủng với Triệu Đà
hay với Tần Nhị Thế, hoặc khác với cả hai?
1. Tại sao đòi lý lịch Triệu Đà?
Triệu Đà là ai? Người dân tộc nào? Tách rời khỏi Tần, nhưng
nước Nam Hải và nước Nam Việt của họ Triệu có phải là Dân Nước Việt Nam chúng
ta ? Nghi vấn sử này liên quan đến “giao lưu văn hóa”. Nếu ông là người Trung
Quốc và nước Nam Việt cũng là Việt Nam ngày nay, thì với ông, Việt Nam đã bắt đầu
chính thức giao lưu văn hóa với Trung Quốc, bởi nhà Triệu làm vua tới 5 đời!
Nhưng nếu ông không phải là người Trung Quốc, như Hán, Tần, Tống… hoặc nước Nam
Việt của Triệu chẳng phải Việt Nam ngày nay…thì triều đại ông chẳng tạo giao
lưu văn hóa mới.
2. Những chi tiết quan trọng không đồng nhất
Khi nói về “giao lưu văn hóa cưỡng bức với văn hóa Hán (thời
Bắc thuộc), giáo sư Lê Văn Chưởng [2] viết:
“Đến năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà, một quan viên của
nhà Tần, Trung Quốc, xâm chiếm Âu Lạc…”
Giáo sư Trần Ngọc Thêm [3] cũng viết:
“Ý thức đối kháng bất khuất và thường trực đối với mối nguy
cơ xâm lăng từ phía phong kiến phương Bắc. Sự ra đời của quốc hiệu “Nam Việt” từ
trước Công Nguyên (thời Triệu Đà), trong đó yếu tố chỉ phương hướng ‘nam’ lần đầu
tiên xuất hiện… đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức của nhân dân và tầng lớp
lãnh đạo về mối nguy cơ xâm lăng thường trực từ phía phong kiến phương Bắc…”
Gần như các nhà sử ngày nay đều nhìn chuyện Triệu Đà thôn
tính Âu Lạc.
Nhưng có phải với tư cách “quan chức nhà Tần “?
Còn chuyện về “ý thức đấu tranh” của giáo sư văn hóa Trần Ngọc
Thêm thì thật không sao chấp nhận được ý kiến của giáo sư sử học Nguyễn Cảnh
Minh:
“Nước Nam Việt của Triệu Đà thực chất là nhà nước cát cứ của
một tập đoàn tướng lĩnh, quan lại Hán tộc, không phải là nhà nước của người Việt.
Nước Nam Việt của nhà Triệu gốm có 3 quận : Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận, nằm ở
phía bắc giáp với nước Âu Lạc “ [4] .
Chưa hẳn thế.
Giáo sư Minh lại mơ hồ khi nói chuyện sụp đổ Văn Lang bằng
truyện Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu và “dùng tiền để mua chụộc các Lạc Hầu Lạc Tướng
“ [5]
Lời nói “không rõ” của hai tác giả Quỳnh Cư và Đỗ Đức
Hùng [6] thích hợp hơn: “Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải muốn cướp
nước Âu Lạc, đã bao lần đem quân sang đánh…”.
Chúng ta sẽ thấy rằng Âu Lạc, và Nam Việt thời Triệu Đà
cũng nằm cả trong vùng Nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, tức Hoa Nam ngày nay, cũng
là cái nôi của Bách Việt.
Nếu Triệu Đà là người của hoàng đế Trung Quốc, hoặc một ông
vua nào đó, thì quân mà Triệu Đà dùng để tấn công Âu Lạc là quân của vua đó,
chiến thắng của Triệu Đà chỉ mở rộng biên cương và ngai vàng vua đó. Họ Triệu
không thể tự dựng lên một vương quốc mới, tự đặt mình làm vua và truyền ngôi
cho con cháu. Mặt khác, nếu Triệu Đà là người Hán tộc hoặc của hoàng đế nào,
sao viết cho Hán Cao Tổ, đà tự xưng “Nam Di đại trưởng lão”?
Tự xưng như thế rõ ràng là tách biệt mình với Bắc phương,
Trung Quốc, và tuyên bố mình là người phương Nam. Đại trưởng lão cũng
hàm ý còn những trưởng lão khác như đàn em của mình. Phải chăng đó là
các tộc trưởng của các tộc thuộc Bách Việt?
So sánh chế độ cai trị của Triệu Đà sau khi chiếm Âu Lạc với
chế độ của Mã Viện sau khi chiếm Nam Việt… sẽ phải tìm nguyên nhân khác biệt giữa
hai chủng hoặc đồng chủng. Chính vì thế, giao lưu văn hóa khi thống nhất Nam Hải
với Âu Lạc cũng không khó khăn hơn giao lưu văn hóa giữa Âu Việt và Lạc Việt,
mà chúng ta đã nói trên.
Như vậy, giao lưu văn hóa Việt Trung chỉ chính thức từ thời Bắc
thuộc, mà Bắc thuộc chỉ đúng từ thời nhà Hán xâm chiếm Nam Việt, năm 111 t.CN.
[34] Giao lưu văn hóa Việt Hán
Trước khi nhìn lại giao lưu văn hóa với Bắc phương qua cả
ngàn năm lệ thuộc, chúng ta nhìn sơ lại mấy nét chính yếu như văn hóa truyền thống
dân Việt.
1. Văn hóa Truyền Thống
Từ khi hình thành các dân tộc Việt định cư định canh khắp
vùng mà nay là Hoa Nam và Đông Nam Á, người ta đều chủ yếu làm nghề nông và tạo
thành một cái nôi phát triển nghề lúa nước sớm nhất của nhân loại.
Với nghề này, tuy vẫn “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”,
nhưng đàn ông chủ yếu ở ruộng rẫy, công việc sinh dưỡng con cái và bổ dưỡng cho
người lao động thuộc sứ mạng nữ giới; do đó, người ta vẫn theo chế độ mẫu hệ.
Đã thế, người người sống gia đình tương đối tự lập, trong đại
gia đình, họ hàng, thân tộc kính trên nhường dưới và trong tổ chức xã hội “tình
làng nghĩa xóm”.
Tôn giáo cũng có những chiều hướng đặc trưng “thờ kính ông
bà” và những thần tượng “cội nguồn”.
Trong cuộc sống tương nhượng để đồng thuận này, chữ Tình là
quan trọng hơn hết.
Đó chính là Văn hóa Văn-Lang, Âu-Lạc, văn hóa Truyền thống đã
từ từ định hình qua mấy ngàn năm trước khi người phương Bắc tràn xuống áp đảo
và áp đặt văn hóa Hán tộc.
Chính vì thế, giao lưu văn hóa với người Hán, trước hết là áp
đặt văn hóa, áp đặt trật tự tổ chức xã hội, gia đình, nghề nghiệp, áp đặt những
phong tục tập quán trong sinh hoạt và áp đặt cả tư tưởng qua nội dung và phương
pháp giáo dục. Do đó mà có những cuộc khởi nghĩa như những lần bật mở một nồi
nước sôi bị đậy vung. Cung cách này kéo dài suốt từ thế kỷ I trước Công Nguyên
tới nửa đầu thế kỷ thứ mười.
Giáo sư Đào Duy Anh có giải thích hơi khác về hơn một thế kỷ
đầu Bắc phương cai trị yên tịnh:
“Năm 111 trước kỷ nguyên, Lộ Bác Đức là tướng nhà Hán đánh đuổi
Triệu Dương Vương là vua thứ năm nhà Triệu, nước Việt Nam thành nội thuộc
Trung-Hoa đổi tên là Giao-chỉ-bộ, chia làm chín quận.
Ở đời Thục và đời Triệu nước Văn Lang, tuy bị sáp nhập với nước
láng giềng, nhưng chỉ thay ngôi bá chủ, chứ các lạc hầu lạc tướng vẫn giữ quyền
thế tập như xưa. Từ Lộ Bác Đức lấy nước Nam Việt thì địa phận nước Văn Lang bị
chia làm ba quận: Giao chỉ, Cửu chân, và Nhật nam, mỗi quận có quan thái thú
cai trị, nhưng vẫn không can thiệp đến nội tình các ấp, mà địa vị và quyền bính
của các lạc hầu lạc tướng vẫn không thay đổi, duy phải ở dưới quyền quan thái
thú và nộp thuế cống mà thôi.
Gần đây người ta đào được mộ xưa ở Thanh Hóa thấy những đồ
dùng thuộc về trạng thái quá độ ấy, có thể tiêu biểu cho ba giai đoạn văn hóa đồng
thời tồn tại bấy giờ: những đồ đá trau của người thổ trước xưa thuộc về tân thạch
khí thời đại (âge néolithique), những đồ đồng về thời Hán từ Trung Quốc đem
vào, cùng những đồ đồng do người bản xứ bắt chước đồ Trung Quốc mà làm ra.
Trong các đồ về hạng thứ ba, có những cái trống đồng là đồ rất phổ thông ở khắp
miền Đông Á, nhưng có lẽ gốc tự miền Bắc Việt mà ra. Trên những trống xưa nhất,
thấy khắc những người lạ lùng đi thuyền mang cung và đeo lông chim quanh mình,
những cảnh tượng ấy khiến ta phải nghĩ đến một dân tộc hàng hải khi ra đi chinh
phục viễn phương, mặc thứ y phục lông chim để mong cũng được tiện gió bay xa
như các loại hậu điểu [7]. Song những phong tục xưa ấy sẽ vì tiếp xúc với văn hóa Trung
Quốc mà biến đổi. Người Tàu, hoặc thường dân, hoặc binh sĩ, hoặc tù đồ bị đày,
hỗn chủng với người bản xứ mỗi ngày mỗi nhiều, khiến ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc
đối với dân bản xứ càng ngày càng thêm đậm. Lại gặp ở Trung Quốc có loạn Vương
Mãng, rất nhiều quan lại trung thành với nhà Hán đem gia quyến trốn sang các quận
ở phương Nam, nhất là quận Giao Chỉ là trị hạt của quan thái thú Tích Quang. Họ
giúp Tích Quang truyền bá văn hóa Trung Quốc cho người bản xứ, như lập trường
Hán học, dạy dân phép cày bừa và các lễ giáo…” [8].
Những nhận xét trên không khỏi có nhiều thiếu sót vì, khi tác
giả viết, thế giới khảo cổ và nhân chủng học chỉ thấy một phần nhỏ, sánh với
ngày nay. Ngày nay, người ta nhìn nhận:
Trống đồng là của các dân Đông Nam Á này, trong đó có cả người
phía Nam Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ, thuộc chủng Mã-Lai cổ. Trung Quốc du nhập từ
chúng ta.
Tại sao chúng ta dùng trống, trong khi các dân tộc dùng tù
và, mõ…? Thần thoại về nguồn gốc dân tộc – thần Sấm - đã trả lời [9]:
Những người tàng hình Chim, trên thuyền Chim, hoặc thuyền bát
nhã đó thực là tổ tiên của các dân tộc chúng ta, “con cháu Lạc Hồng”. Cũng đúng
là họ đã theo đường biển xuống phương Nam và được tin rằng khi trải qua cuộc sống
này, họ sẽ đáp thuyền về vĩnh hằng.
Văn hóa lúa nước thì các dân Bách Việt chúng ta dạy cho người
Hán, chứ không phải dân du mục cổ đó dạy.
2. Giao lưu
văn hóa Việt-Trung
Phân tích của Đào Duy Anh đúng hơn không khi ông nói về Giao
lưu văn hóa Nam-Việt – Trung Quốc?
Ông viết:
“Buổi đầu các tư tưởng và các điều cải cách ấy chưa xâm phạm
gì đến quyền lợi của các lạc hầu lạc tướng nên họ hoan nghênh. Nhưng đến khi
Tích Quang muốn lựa người bản xứ để đặt một ngạch quan lại hạ cấp cùng một quân
đội thường trú, khiến số người thoát ly phạm vi phong kiến một ngày một đông,
thì tình thế ra chiều khó chịu. Các lạc hầu lạc tướng thấy quyền thế của họ có
cơ nguy, bèn sinh lòng bất bình với phong trào mới, nhưng trong đời Tích Quang
họ vẫn yên lặng, chưa dám hoạt động gì.
Nhân thái thú Tô Định thay Tích Quang là người bạo ngược, nên
người Giao Chỉ lại thêm mối căm tức mà chỉ mong có cơ hội để nghịch [..…]
… Mã Viện thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ phong kiến cũ mà lập
chế độ quận huyện như ở Tàu (thời ấy là triều Hán). Các lạc hầu, lạc tướng, một
phần vì sợ lụy bỏ trốn vào rừng, một phần bị bãi truất. Còn có bố chính (quan
thế tập bực dưới) ở tổng, ở làng thì có lẽ cũng còn giữ quyền thế tập như ở các
miền thượng du Thanh Hóa và Hòa Bình bây giờ. Bọn này cùng với trú dân Trung
Hoa dần dần thành một lớp quí tộc mới, thay cho lớp quí tộc xưa đã tiêu diệt.
Đem so sánh lịch sử ta với lịch sử Tàu thì sẽ thấy rằng nước
ta từ Mã Viện đã thoát hẳn chế độ phong kiến xưa, cũng như Trung Quốc từ nhà Tần.
Từ rày về sau sự du nhập văn hóa Trung hoa không còn trở ngại gì nữa, cho nên đến
thế kỷ thứ X, khi người Việt Nam bắt đầu cuộc chinh phục Nam tiến thì phàm lễ
nghi, học thuật, văn tự, nghệ thuật, tôn giáo cho đến chế độ gia tộc và chính
trị, xã hội, đều là theo văn hóa Trung-hoa…” [10]
Hiển nhiên tác giả họ Đào đã có cái nhìn thiên lệch ít nhất
trong hai khẳng định:
“Từ Mã Viện, sự du nhập văn hóa Trung Hoa không còn trở ngại
gì nữa.
Phàm lễ nghi,…nghệ thuật, tôn giáo, cho đến chế độ gia tộc
và chính trị, xã hội, đều là theo văn hóa Trung-hoa…”
Thực ra, chưa bao giờ hết trở ngại trong lãnh vực
đó và chưa bao giờ người Việt Nam, dù ở một tỉnh, một quận, “đều theo văn hóa
Trung-hoa ”.
Chúng ta thường chia thời giao lưu văn hóa này làm hai loại:
Đối kháng và Tiếp biến.
Quan lại Trung-quốc nhất định áp đặt văn hóa Trung-quốc cho
các dân tộc bị chiếm, vừa vì họ cho rằng như thế mới “văn minh”, vừa là phương
tiện cai trị và đồng hóa.
Tác giả Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca ghi lại hành động
áp đặt đó thật nhẹ nhàng:
“Tuần Tuyên mới có Tích Quang
Dạy dân lễ nghĩa, theo đường Hoa phong.”
Trái lại, về phía chúng ta, có thể nói rằng các dân tộc Bách
Việt, cho đến nhà Thục và dân Thục đều nuôi hờn vong quốc đối với đích danh Tần
Doanh Chính hoặc chung cả quân dân Bắc phương xâm lược từ khi chúng tràn xuống
phía Nam sông Dương Tử. Tần không chiếm được Văn Lang vì viễn chinh quá xa và
sông núi hiểm trở; nhưng khi Thục Phán lập Âu Lạc và Triệu Đà làm vua Nam Việt
thì Âu Lạc hoặc Nam Việt đều vừa ghét vừa chống Bắc phương. Mối hận này tăng bội
khi nhà Hán chính thức vẽ lại địa đồ Nam Việt và thống trị cả cựu Bách Việt. Đấy
là lý do tại sao Hai Bà Trưng được thờ như hai vị anh thư tuần trung [11], không chỉ trong vùng đất nước cựu Âu Lạc, mà lên tận Nhật
Nam, Hợp Phố, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, cả vùng Nam Hồ Động Đình và dải Ngũ
Lĩnh [12].
Chính việc đối kháng văn hóa – trong đó có chính trị, quân sự,
chế độ gia đình… – là động lực thúc đẩy dân chúng theo cờ những anh hùng liệt nữ
chống Trung-quốc xâm lăng:
Triệu Thị Trinh năm 246,
Lý Bôn quật khởi, xưng hoàng đế và hình thành nước Vạn Xuân,
lập đô bên bờ sông Tô-lịch khoảng 544-548,
Triệu Quang Phục lừng lẫy những năm 548-571,
Mai Thúc Loan năm 722 đã cùng các bạn phu gánh vải triều cống,
rút đòn gánh ra kháng cự, được nhân dân hưởng ứng và tôn làm Mai Hắc Đế. Vua Đường
phải dùng tới 10 vạn quân mới uy hiếp nổi.
Phùng Hưng với hai chục năm chiến đấu, năm 791 anh hùng đánh
tan 40 ngàn quân Đường do Cao Chính Bình thống lãnh, lên ngôi và trối nước lại
cho con là Phùng An.
Cha con họ Khúc với gần hai chục năm (906-923) như tạo chí
cho Dương Diên Nghệ (931-937)
và Ngô Quyền chính là người gặt hái được thành quả của trào
lưu văn hóa chống ngoại xâm đó tại Bạch Đằng vinh thắng năm 938.
4. Tiếp biến
văn hóa
Có những người thấy Sĩ Nhiếp, viên Thái thú Giao Chỉ có nhiệm
kỳ vào những năm 187-236, được tôn làm Sĩ Vương, được lập đền thờ ở Thuận Thành
Hà Bắc với tôn danh “Nam Bang Học Tổ ”… mà cho rằng hoạt động văn hóa của
những quan chức Trung Hoa thành công. Thực ra, những huy hoàng dành cho Nho
giáo và Hán học, cũng như dành kính các vị ấy, chỉ đến với họ sau này, trong thời
gian Việt Nam tự chủ với các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. [13]
Vua quan Nho giíao cũng như chức sắc Phật giáo lại là những
người du nhập và truyền bá văn hóa Trung-hoa vào Việt Nam đắc lực hơn thế lực
ngàn năm xâm lược [14]
Trong ngàn năm này, người Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng văn
hoá Trung-quốc do những lớp người di dân và tù nhân từ phương Bắc, cũng nhiều
hơn do chính quyền. Người ta nhận thấy những phong tục trong gia đình, trong hiếu
hỉ… của Trung Quốc đã êm đềm pha trộn vào những tục lệ cưới hỏi và tang chế người
Việt. Ngay cả Đạo Hiếu của Việt Nam cũng mang thêm nét Trung-hoa như minh tinh,
bài vị v.v.
Hiển nhiên rằng những pha trộn này khởi đầu du nhập vào các
gia đình liên quan nhiều với giới tăng ni và với giới cai trị, liên quan về
chính trị Hán Học và Tống Nho, hoặc liên quan về học thuật nhân bản theo quan
điểm Khổng Lão, liên quan vì kinh sách Phật học truyền bá bằng chữ Nho… Sau những
nhận xét và sàng lọc, mới từ từ len vào đại chúng Việt Nam. Với đại chúng thì
những ngoại nhập này đã hết còn nhận ra là “sản xuất tại Trung-quốc” nữa.
Chính nhờ những bước đi dài ngày và khiêm tốn như thế mà có
được giao lưu văn hóa Trung - Việt và tiếp biến văn hóa chúng ta. Những nét này
đã và sẽ tồn tại lâu bền.
Có thể phải nói rằng điểm đáng tiếc là sự biến đổi những gì
liên quan đến chính quyền trong xã hội Việt Nam. Về cơ bản, người ta còn giữ được
tình nghĩa dân tộc; nhưng về những đường nét hào hùng và trung kiên thì gần như
biến mất hoặc méo mó. Ngay cả đến những thời gian và yếu tố lập quốc, ngay cả đến
những chuyện về chủng tộc, người ta cũng từ từ quan niệm lại, viết lại và đọc lại
cho có dáng dấp huyền thoại hoặc màu sắc Bắc phương. Người ta đồng hóa Bắc
phương của Lạc Việt với Bắc phương của Bách Việt. Trong tầm nhìn đó, Hùng Vương
là con cháu Thần Nông, không phải của lúa nước, mà của “bên Tàu”. Thục Đế và
Triệu Đà cũng được khai lý lịch lại là Tàu. Những bà Trưng, bà Triệu trong chế
độ mẫu hệ, nhận số Trời, trở thành nữ lưu trả thù chồng, nợ nước, bị biếm họa
thành Triệu Ẩu (con mẹ Triệu), đến độ nhà trí thực Việt Nam yêu nước thời Nguyễn
còn chân thành viết cho các em học sinh hình ảnh Bà oai hùng, mà cô đơn, quái dị:
“Vùng vẫy non sông ba thước vú
Xông pha tên đạn một đầu voi.”
Dầu thế, nhìn chung thì phần mất mát của chúng ta không thể
sánh với phần thủ đắc tốt đẹp, vì khi du nhập những nét hay của văn minh
Trung quốc, tiền nhân Việt Nam đã hành xử đúng như những người trưởng thành,
trong một dân tộc văn minh: Biết chọn lọc để du nhập và biết bảo vệ bản sắc văn
hóa dân tộc.
[35] Trong giao lưu văn hóa, bảo vệ bản sắc
Qua lăng kính văn hóa, phải nói rằng trên đất nước Việt Nam
hiện nay, dân tộc Kinh (Lạc Việt) là dân tộc có bản lãnh mạnh hơn hết
trong năm chục dân tộc chúng ta. Người Chăm hùng cường với biên cương rộng lớn,
nay chỉ còn lại thiểu số với ít nhiều cổ tục. Ngôn ngữ của hàng chục dân tộc
khác đang ngày càng trở nên phụ thuộc và thiếu thốn, vì không diễn tả được những
sinh hoạt và nhu cầu hiện đại… nhường chỗ cho ngôn ngữ và quốc ngữ Việt Nam thống
nhất từ dân tộc Kinh.
Với người Kinh, người Việt Nam chúng ta thì khác. Từ đối
kháng tới tiếp biến. Phần nhỏ bị biến, phần lớn chúng ta tiếp nhận và biến đổi
thành của mình.
Xã hội chính trị thêm những cơ cấu và phương pháp làm việc mới,
tuy không thể hoặc rất chậm xóa được những cơ cấu bản địa.
“Mã Viện thắng trận bèn bỏ hẳn chế độ phong kiến cũ mà lập chế
độ quận huyện như ở Tàu (thời ấy là triều Hán). Các lạc hầu, lạc tướng, một phần
thì sợ lụy bỏ trốn vào rừng, một phần thì bị bãi truất. Còn các bồ chính (quan
thế tập bực dưới) ở tổng, ở làng thì có lẽ cũng còn giữ quyền thế tập như ở các
miền thượng du Thanh Hóa và Hòa Bình bây giờ. Bọn này cùng với trú dân
Trung-hoa dần dần thành một lớp quí tộc mới, thay cho lớp quí tộc xưa đã tiêu
diệt.” [15]
Có thể rằng nhìn như thế chỉ là nhìn từ trên xuống, hoặc nhìn
trong sử liệu của triều đình. Phong kiến không phải không còn trong thời Trần
và “Hịch Tướng Sĩ” của anh hùng Trần Hưng Đạo còn chính thức dựa vào việc bảo vệ
thái ấp như một động cơ thúc đẩy quân dân Việt Nam. Hơn thế, cung cách sống đại
gia đình, họ hàng vẫn còn đó. Rất ít người Việt Nam mang tên họ Trung-hoa, sau
cả ngàn năm đô hộ. Nói gì chỉ trong giai đoạn liền sau vó ngựa chinh phục tàn bạo
của đoàn quân Mã Viện!
Chữ viết của mẫu quốc ngàn năm cai trị vẫn chỉ là “chữ Hán”.
Thứ chữ của người Hán, của chính quyền Hán, không phải của chúng ta! Rồi ra,
người ta phải thấy hậu quả của quan niệm đó. Chữ Hán được độc tôn do chính quyền
áp đặt, người Việt đọc lên với âm Việt hơn âm Tàu, rồi chỉ mấy thế kỷ sau đã thấy
có chữ viết hơi khác chữ Hán, mà đọc lên, người Việt Nam nào cũng hiểu: chữ
Nôm của thời tự chủ. Dầu những người Hán-học mỉa mai “nôm na là cha mách qué”,
hoặc dựa vào “thánh hiền” để răn dạy:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
thì cũng chẳng có tác phẩm Hán-văn nào phổ biến bằng Đoạn Trường
Tân Thanh, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Bích câu kỳ ngộ, Hoa Tiên, Cung Oán, Lục
VânTiên, Chinh Phụ diễn nôm…
Ngôn ngữ âm thanh và cử điệu của chúng ta cũng giàu thêm nhờ
những tiếng Việt-Hán. Nhạc cụ có thêm khánh, chuông. Ăn, mặc và nhà cửa người
Việt cũng pha thêm những đường nét thích hợp. Kiểu nhà nóc oằn và mở cửa ra vào
ở đầu, thêm lối nhà nóc thẳng, mái cao và cửa trổ bên hông. Nghề nghiệp của tiền
nhân cũng đa dạng hơn nhờ tiếp biến văn hóa. Người ta làm thêm văn tự cũng thêm
loại giấy, mặt giấy gỗ trầm, và tất nhiên cũng thêm nghề thầy đồ…
Chính nhờ tiếp biến văn hóa mà cha ông chúng ta vừa bảo vệ được
bản sắc văn hóa Nam Việt, vừa thêm những nét đẹp mới, chung hòa trong cuộc sống.
Tiếp biến văn hóa đó còn chuyển tải cả những giá trị phổ quát của Phật giáo Đại
Thừa, Khổng Lão và cả đến giáo lý Kitô giáo (Gia-Tô) nữa!
[1] Nguyễn Cảnh Minh “Đại Cương Lịch Sử VN.” I. Tr.58
[2] Sđd. Tr. 65
[3] Sđd. Tr. 98
[4] sđ d. tr.59 và 60
[5] Xin đọc lại [27] về các vua Hùng
[6] Sđd. Tr. 20
[7] Xem bài Les grandes époques de l’Indochine, par
Louis Finet. Bulletin de l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XV, n. 2,
Avril-Juin, 1935, chú thích của Đào Duy Anh.
[8] Đào Duy Anh, sđd. Tr. 26
[9] Xin đọc thêm Nguyễn Thế Thoại trong “Tôn giáo học
và các tôn giáo chính ở Việt Nam” q.1, phần nói về Đạo Nội.
[10] Đào Duy Anh sđd. Tr. 27-28
[11] Vào khoảng năm 40-43
[12] Có những Dân tộc không đủ những điều kiện tốt đẹp như
chúng ta, cũng không quá yếu đến độ diệt chủng, đành sống gian khổ, như dân tộc
H’mông: “Ở Đồng Văn, Mèo vạc hay Phó Bản, Lũng Cú… mở mắt ra đã thấy đá. Con
người sinh ra cũng trên đá, chết đi cũng vùi trong đá. Trên những triền núi
chót vót lúc nào cũng thấp thoáng những bộ áo quần sặc sỡ và tiếng hát lảnh lót
như chim của những cô gái Mèo…
người H’mông (người Mèo) đã trôi dạt từ phương Bắc sau một cuộc
thanh trừng sắc tộc. Người Hán quyết nhổ cỏ tận gốc người H’mông. Yếu thế, người
H’mông chạy về phương Nam và nương náu trên đất Việt. Nhiều thế kỷ qua, người
Việt và các dân tộc anh em khác đã cùng sống thuận hòa có sướng có khổ, có buồn
có vui. Ngày Tết (thường là một ngày cuối tháng âm lịch từ tháng mười một đến
tháng một), người H’mông cùng ăn tết và thờ cúng ông bà. Một tục lệ không thể
thiếu trong ngày này là cắt tiết gà yểm trừ con ma nhà Hán, kẻ thù đã tàn sát
người H’mông. Trong cuộc đời của mỗi người H’mông, không mối thù nào
lớn bằng mối thù con ma này.” (Đặng Đại, trong Tuổi Trẻ Chủ Nhật 5-2000, tr.
43)
[13] Chúng ta sẽ nhắc tới nguyên hành động đó của các triều đại
Việt Nam.
[14] Xin đọc thêm “Phật Giáo tại VN” trong “Tôn giáo học” của
cùng tác giả
[15] Sđd. Tr. 28
11.
Văn Hóa Việt Nam
THỜI TỰ CHỦ
“Quan san hiểm yếu minh kinh hoạch
Khê giản phiên bình quảng phủ tồn
Bạch thủ Lạng châu nguy chế trị,
Nhất khâm trung xích tắc càn khôn.”
(“Thượng Ngao” – Phạm Sư Mạnh)
Núi non hiểm trở, kế hoạch phải rõ ràng
Bản mường ở nơi khe suối phải được quan tâm vỗ về,
Bạc đầu vì lo việc bố phòng ở châu Lạng
Một tấm lòng trung đỏ thắm cả trời đất. [1]
[36] Tự chủ, một điều kiện tốt cho văn hóa bản địa
Nhìn vào những phần đất mà các dân tộc thuộc chủng Cổ Mã-Lai
sinh trưởng, người ta thấy ngay vị trí Việt Nam dễ để dân tộc Lạc Việt này tự
chủ: Chúng ta ở giữa các dân tộc thuộc Bách Việt. Các dân tộc phía Bắc
chúng ta tiếp cận những dân du mục Hán Mông. Các dân tộc phía Tây và Nam chúng
ta tiếp cận các dân tộc Ấn Độ, hoặc sống trên trăm ngàn hòn đảo giữa đại dương.
Thực tế, chúng ta cũng đã hàng nghìn năm giữ được quyền tự chủ: 938-1958.
Tự chủ lại là điều kiện tốt để bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc mình.
Những triều đại cai trị dân tộc trong thời đại ngàn năm tự chủ
này đã thành công và thất bại thế nào trong lãnh vực văn hóa bản địa? Trước hết,
chúng ta xét qua những thành công, tức là những khai triển đúng nhờ tình trạng
tự chủ của dân tộc:
1. Một ý thức tập thể mạnh: Tổ Quốc và Đồng bào.
Mỗi lần đánh đuổi được Bắc quân xâm lăng, chính quyền chiến
thắng biểu lộ gần gũi dân hơn, thân thương hơn. Công việc làm ăn ổn định hơn, cảm
nghiệm hạnh phúc gia đình và hòa khí xóm làng hơn… người dân có ý thức hơn về
tình nghĩa dân tộc và trật tự xã hội tự chủ, nên sức mạnh dân tộc càng ngày
càng tăng. Lòng yêu nước ngày càng nồng ấm. Hơn thế, người dân Việt Nam còn tin
tưởng như kiện tướng Lý Thường Kiệt rằng đây chính là phần Giang Sơn mà Trời
dành cho dân tộc mình:
Nam quốc Sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Do đó, họ an tâm và quyết chí bảo vệ và phát triển.
2. Chính trị quân chủ từ từ thống nhất
hơn và guồng máy chính quyền được kiện toàn hơn.
Từ chế độ quận huyện rời rạc, đồng bào chỉ thống nhất trong
tay triều đình phương Bắc, Ngô Quyền xưng vương, sau trận Bạch Đằng đuổi quân
Nam Hán, năm 939, ông mở một tổ quốc vững bền với kinh đô Cổ Loa.
Người anh hùng quá cố, chứng cũ lại tái diễn, chúng ta bị loạn
Thập Nhị Sứ Quân; may mà Đinh Bộ Lĩnh qui tụ được mười hai sứ quân đó, thành một
nước mang theo lý tưởng lớn lao “Đại Cồ Việt”. Lần đầu tiên trong lịch sử, năm
968, một người Việt Nam tự xưng Hoàng Đế: Đinh Tiên Hoàng với thủ đô
Hoa Lư…
Từ nay, Triều đại có thể thay thế, nhà vua có thể lật đổ,
nhưng quan niệm về Tổ quốc và Chủ quyền dân tộc sẽ muôn đời tồn tại. Quân xâm
lược có thể tới, gian khổ có thể chồng chất… những người Việt Nam sẽ muôn đời
là chủ đất Việt Nam. Lịch sử bắt đầu thành món ăn bổ dưỡng cho những thế hệ
cháu con. Cũng từ đây, niềm tự hào dân tộc phát sinh làm nên một trong những
dòng sông phúc lợi:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều,
Bát ngát sông kinh muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một mầu,
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu…
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng [2] Nhị-thánh [3] bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Khi ấy:
Thuyền tầu muôn đội, tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói…
Khác nào khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì [4] giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi
Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù không rửa nổi.” [5]
3. Người Việt Nam chứng tỏ kiên cường,
bất khuất
Gần như không có kẻ thù nào sát nách, con dân Trung quốc phát
triển mạnh trong hai lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử. Những bộ tộc của Hoàng
Hà hiếu chiến đã thống nhất Trung Hoa và từng ngàn năm đô hộ Việt Nam, nên vẫn
chưa dễ từ bỏ mộng xâm lăng. Vì thế, trong thời gian thống nhất tự chủ, các triều
Ngô, Lê, Lý, Trần vẫn phải tập họp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Bắc
phương. Tuy thế, vì lòng yêu nước sống động hơn, nên những cuộc chiến tàn khốc
hơn càng ghi đậm đà chiến thắng cho Việt Nam và đau đớn ê chề cho Trung Quốc.
4. Trong chiến tranh, quân dân Việt
Nam vẫn biểu lộ tinh thần Nhân đạo và Cao thượng.
Trong Bình Ngô Đại Cáo, Ức Trai đã thay dân Việt Nam cho biết:
Mình chỉ tự vệ, không muốn sát hại, dù là kẻ thù xâm lược. Thắng, mình tha bổng Thần Vũ
chẳng giết làm gì! Chúng biết kính nể là đủ: Cấp cho năm trăm chiếc
thuyền để về, lúc qua sông mà vẫn còn mất vía…
5. Chiến tranh Cạnh sinh hoặc Đấu
tranh sinh tồn
Vừa thiện chiến, vừa phong phú và có điều kiện làm ăn phát
triển, người nông dân Việt Nam tất nhiên không muốn vượt cao nguyên và rừng núi
Bắc phương hoặc phía Tây, cũng không thể tràn xuống biển Đông, Nam tiến là con
đường duy nhất.
Sau khi đánh Tống và an bang, Lê Đại Hành chinh phạt Chiêm
Thành vì bắt giam sứ giả. Đinh quân phá thủ đô Yudrapura (Trà Kiệu) và bắt
Chiêm Thành chịu triều cống, rồi mới rút về; nhưng nông dân không ít ở lại Địa
lý châu, mà nay các vùng thuộc Quảng Bình. Bởi kinh đô Chiêm Thành đã phải dời
vào Vijaya (Phật Thệ/ Bình Định ngày nay). Lý Thái Tôn 1044 sẽ “trị tội” tân
đô Vijaya này và bắt 5.000 người Chiêm về khai thác vùng rừng núi Nghệ An. Hơn
hai chục năm sau, tức 1069, Lý Thánh Tông dẫn nông dân vào làm ruộng Quảng Trị
rồi! Chế Mân với đường lối cộng sinh dâng hai châu Ô và Ri để cưới công chúa
Huyền Trân năm 1306, hoặc trái lại, Chế Bồng Nga hung hăng tấn công đến tận
Thăng Long, cũng không đổi được dòng lịch sử. Năm 1402, Hồ Quí Ly đã có thể
nhìn nông dân Việt Nam khai thác châu Tư, châu Nghĩa, và Cổ Lũy (Quảng Nam, Quảng
Ngãi).
6. Phục viên sau chiến tranh, sau phục
vụ
Không thiếu những vị tướng tài, những vị mưu sĩ giỏi, xong việc
liền vui thú ẩn dật:
Hàn Lâm học sĩ Lý Tử Tấn đến thăm Nguyễn Trãi và ghi:
Lý Tử Tấn đề Ức Trai bích
Tâm kính tương phùng khởi ngẫu nhiên
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền
Ưu du lễ nhượng an nhân trạch
Xuất nhập khiêm cung lạc tính thiên
Lại tán đình tiền duy thảo sắc
Khách lai trúc ngoại hữu trà yên
Công dư thoái thực phần hương tọa
Họa trục trương cầm lạc tuế niên.
(Lòng gương chọn chỗ há tình cờ
Thành thị riêng bày một cảnh thơ
Lễ độ ung dung nhân nghĩa giữ
Kính nhường đi đứng tính tình ưa
Lại về, sân đất trơ màu cỏ
Khách đến, rào tre nổi khói trà
Xong việc đốt hương ngồi lặng lẽ
Phiếm đàn, nét họa tháng ngày qua).
[Trần Thanh Mai dịch] [6]
Từ khởi thủy, người Lạc Việt chúng ta vẫn sùng kính tổ tiên
và giữ “đạo ông bà”, nhưng khi giao lưu văn hóa Việt-Trung, người ta tiếp nhận
thêm giáo thuyết, rồi tổ chức tôn giáo Phật, Nho, Lão. Giáo lý và cả những niềm
tin bình dân do bốn dòng tín ngưỡng ấy thấm vào và chi phối thật nhiều trong đời
sống các tầng lớp nhân dân.
Về tổ chức chính quyền, hiển nhiên không thể theo Lão hay Phật,
mà chỉ theo học thuyết Nho giáo: Quân-sư-phụ… nhưng về tôn giáo, có triều đại ủng
hộ Nho, có triều đại ủng hộ Phật. Nho giáo không có nhiều thần thánh, nên chỉ
Văn Miếu là đủ. Tu Nho cũng chính là tự luyện nên người quân tử Tu tề trị
bình, vì thế mỗi làng không cần cơ sở chung nào khác một ngôi đình làng. Trái lại,
Phật giáo đại thừa thì có biết bao thần thánh và cần bao nhiêu chùa chiền cho đủ
! Do đó, chúng ta thấy còn thật nhiều ngôi chùa cổ kính trải gió sương thế kỷ,
mà thành danh lam thắng cảnh. Thế kỷ XV, Thiên Chúa giáo, hoặc Công giáo, tuy
lăng lẽ theo nho sĩ Việt Nam và giáo lý viết bằng hán văn từ Trung Hoa vào Việt
Nam, nhưng chỉ ồn ào và bị triều Lê trung hưng ngăn cấm khoảng giữa thế kỷ XVI.
Bởi tôn giáo mới này có vẻ khó dung hoà với các tôn giáo trước đây, đặt căn bản
trên suy luận nguồn cội và ấp ủ bằng lòng biết ơn. Thêm vào đó, Kitô giáo chỉ dạy
con người có một Thiên Chúa là cha, coi mọi người bình đẳng, huynh đệ.
Làm sao chấp nhận được trong văn hóa xã hội nho giáo «quân, sư, phụ».
Khi chính quyền Lê trung hưng quyết đấu tranh với nhà Mạc là lúc Lê Huyền
Tông (1663-1671) hai lần cấm Đạo Kito
8. Kiến tạo văn hóa vật thể và tinh
thần.
Giai đoạn Lý Trần, tức thời tự chủ thống nhất, có nhiều công
trình còn di chỉ. Trước hết là Thăng Long, Hoàng thành gồm hai lớp, bảo vệ nhiều
cung điện bề thế. Tiếp đến là bao nhiêu chùa chiền, mà ngày nay còn di lại một
số báu vật cho ngành du lịch và khảo cổ: chùa Một Cột, chùa Giạm, tháp Báo
Thiên, tháp Chương Sơn v.v. Sử gia Lê Văn Hưu ghi một hiện tượng rất lạ thời
họ Trần:
“Nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có
chùa.”
Cùng với nghề nông phát triển và dân cư sinh hoạt, việc đắp
đê được quy hoạch hẳn hoi, thêm chức hà đê sứ. Thiết lập thủ đô Thăng Long 36 phố
phường cũng đòi hỏi kỹ thuật đê sông Hồng.
Nhiều nghề khác cũng tiến bộ, như: nghề gốm, nghề sứ, nghề
đúc đồng và chạm khắc trở thành tinh vi. Nghề dệt vải và dệt lụa nổi tiếng ở
phường Yên Thái. Hàng Đào nghề nhuộm. Thành phẩm của những nghề trên đẩy mạnh
việc buôn bán trong và ngoài nước.
Văn hóa tinh thần cũng phát triển trong thời Tự chủ và tự
cường.
Đạo Ông Bà thêm những biểu hiện tôn kính anh hùng liệt
sĩ. Chính từ thời này, để tương đối với Hoa Nam, người ta “tìm lại” và “viết lại”
nguồn gốc dân tộc với Con Rồng cháu tiên. Phổ biến chuyện Một Bọc trăm
con, để tạo hiệp nhất các dân tộc. Tuy nhiên, những lỗ hổng còn lớn :Triều đình
không chỉ lập phả hệ 18 đời vua Hùng và đề cao Con Rồng Cháu Tiên, mà còn bắt
tuyên thệ trước Thần Đồng Cổ (Trống Đồng, tượng trưng thần tổ là Thần Sấm) để
quan dân đều trung hiếu.
Đạo Nội với Tứ Bất tử đều nói lên sự phối hợp giữa thần
thánh và con người, giữa quí tộc và bình dân…. Vị thần nào cũng lo phúc đức cho
đời.
Ngành Văn hóa phụng tự từ đó phát sinh: thi ca, múa hát
và cúng tế trong lễ hội, trong hiếu hỉ. Những lễ hội lại gợi hứng cho ca, vè,
thi, phú, tuồng chèo và lên đồng, coi bói.
Tuy Tam tứ giáo đồng nguyên và song hành, nhưng nhà Lý chú trọng
tới NHO giáo hơn. Triều Lý lập Văn Miếu (1070) thờ Thánh Hiền, lập Quốc Tử Giám
(1076) đào tạo nho sĩ quí tộc, mở khoa thi Thái Học sinh để tuyển hiền tài… Hán
học trở thành con đường hứa hẹn dẫn tới giàu sang.
Triều đại sau – Nhà Trần – tất nhiên phải làm gì cho
khác để thu phục nhân tâm. Thi Thái Học sinh trở thành thi Tiến Sĩ. Tránh Nho
sĩ bước đầu gièm pha chuyện thay đổi chủ, Triều Trần ra mặt ủng hộ Phật giáo
hơn. Khuynh hướng này không chỉ để lại chùa và tháp, còn để lại nhiều tác phẩm
văn học đậm đà hương vị Thiền. Văn chương chữ Hán đời Trần cũng đáng hãnh diện
về những tác phẩm hàm ý đề cao Dân Tộc như Đại Việt Sử Ký, Việt Điện U
Linh, Lĩnh Nam Chích Quái…
Chính ngôn ngữ văn học đời Trần cũng thêm một ngành quan trọng:
CHỮ NÔM. Nhờ thứ chữ này, mà người bình dân không đọc nổi, chỉ nghe cũng có thể
thưởng thức thi văn của thức giả trong dân tộc mình. Tuy còn lệ thuộc Hán văn về
tự dạng và luật thơ, những chữ Nôm đã thực sự giúp chúng ta có một nền văn học
tự chủ đáng tự hào. Thiên Chúa Giáo là bộ phận sử dụng chữ Nôm nhiều nhất và
nhiều thể loại văn nôm, trong khi văn học chữ Nôm của nho gia chỉ là văn vần. Một
giáo sĩ Majorica cũng viết tới ba bốn chục tác phẩm !
[37] Văn hóa Việt Nam thời giành
nhau làm chủ
Từ sau nhà Trần tới ngày bị Pháp đô hộ, nhân dân chúng ta
không được tròn một thế kỷ thanh bình và thống nhất lãnh đạo. Tình trạng
an-ninh chính trị thiếu, sẽ suy giảm kinh tế, xã hội; nhưng văn học nói riêng
và văn hóa nói chung không hẳn xuống theo.
1. Bối cảnh lịch
sử và văn hóa Hồ - Hậu Trần
Để giảm áp lực trong nước do những thần dân trung thành với
Trần triều và để làm nhẹ ảnh hưởng Trung Quốc, nhà Hồ dời đô về Thanh Hóa và gọi
là Tây Đô [7], với quốc hiệu là Đại Ngu. Ngay từ khi phò Lê, Hồ Quí Ly đã biểu
lộ tài cao với những mộng ước to lớn cho dân tộc về kinh tế và văn học:
Hạn điền: mỗi chủ đất chỉ được làm chủ dài nhất là mười
năm, rồi chính quyền xét cấp lại.
Hạn nô: ấn định về nô lệ và những người làm công cho một
chủ nhân.
Tiền giấy, được họ Hồ sử dụng là thuộc vào lớp tiên
phong của nhân loại. Thật là tiện lợi.
Về văn học, Quí Ly phê bình kinh điển Nho học, ấn định
chữ Nôm là văn tự chính thức. Ông cũng mở thêm trường tại các lộ, phủ Sơn Nam,
Kinh Bắc, Hải Đông. Ông tổ chức lại các kỳ thi và các môn thi.
Họ Hồ thất bại, vì các cận thần và cựu thần nhà Lê nhìn ông
là chuyên quyền, tiếm quyền và giảo quyệt, nên tích cực hoặc tiêu cực chống đối.
Vì thế, khi Trương Phụ và Mộc Thạnh đem hơn hai trăm ngàn quân sang đánh, năm
1407, cha con Hồ Quí Ly đều đại bại và bị bắt.
Con cháu và vua tôi nhà Trần nhảy ra chớp thời cơ để giữ quyền
tự chủ. Đáng tiếc, các ông Hậu Trần cũng chỉ chống đỡ được bảy năm với Giản Định
Đế [8] và Trùng Quang Đế [9], rồi đất nước chúng ta bị Triều Minh trấn áp.
2. Cưỡng bức
văn hóa thời Minh.
Rút kinh nghiệm dùng bạo lực cả ngàn năm trước không thành
công, Triều Minh sau chiến thắng vội rút võ quan về, để dùng văn trị. Văn quan
Hoàng Phúc được trao quyền.
“Nắm quyền cai trị được gần một tháng, tháng Chín năm đó
(1414) Hoàng Phúc bắt các phủ huyện, châu dựng văn miếu, lập đàn tế lễ hàng năm
thờ xã tắc Phong Vân, Sơn Xuyên và các thần theo phong tục Trung Hoa. Hắn còn đặt
ra luật cấm trai gái nước Việt cắt tóc ngắn. Phụ nữ phải mặc quần dài áo ngắn
theo phong tục phương Bắc. Cũng tháng Mười năm ấy, theo lời bàn của Tham nghị
Bành Đạo Tường, Hoàng Phúc đã cho mở trường học tiếng Trung Hoa và ra sức lôi
kéo mua chuộc sĩ phu, thầy thuốc, tăng đạo, để phục vụ nền đô hộ.
Năm Ất Mùi (1415), Hoàng Phúc cấp lộ phí, cho người đi theo
phục dịch và bắt các quan cai trị các địa phương phải đón tiếp long trọng những
người Việt sang Kim Lăng thụ phong chức tước để về nước làm việc cho chính quyền
đô hộ…
… Ngoài việc đào tạo và mua chuộc các quan chức, Hoàng Phúc
còn thực hiện âm mưu thiêu hủy những bi ký của những người Việt từ trước để lại,
một số có giá trị lớn chúng đưa về Bắc. Hàng năm nhà Minh còn bắt các địa
phương Đại Việt phải cống nạp những nho sinh trẻ, những thợ thủ công lành nghề
để đưa về Kim Lăng, hòng hủy diệt dân tộc Đại Việt…” [10]
Đối phó với cưỡng bức văn hóa, người Việt đa số đoàn kết bảo
tồn văn hóa truyền thống và đòi chủ quyền dân tộc, mà kết quả đời đời ghi nhớ
là cuộc thắng lợi của nhà Lê.
3. Tiếp biến
văn hóa thời Sơ Lê
Vừa khi thành công kháng chiến, các triều vua Việt Nam ưa du
nhập nhiều nét văn hóa Trung Hoa, vừa để tô chuốt cho “thiên mệnh đế vương”, vừa
để che đậy mặc cảm dân tộc nhược tiểu.
Đầu năm Mậu Tuất [11], Lê Lợi và các bạn chính thức dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Thừa
hưởng tài sản tinh thần và vật chất từ bốn đời. “Truyền thuyết kể rằng:
Lớn lên Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc
áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát ‘đế vương’ ở động Chiêu Nghi. Sau đó
một người phường chài là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê
Lợi thì thanh gươm không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên gươm có khắc hàng
chữ triện, Lê Lợi biết là một thanh gươm quí. Hai ngày sau vợ Lê Lợi ra vườn
hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ lối triện, trên lưng quả ấn
khắc tên họ Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có
khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt
được thì vừa vặn không sai chút nào.
Từ đó ông càng tin rằng vận nước đã được trao vào tay mình,
càng chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp nuôi chí và chờ thời vận…” [12]
Sau hơn mười năm chiến đấu bằng binh khí và ngoại giao, nhất
là luôn luôn đề cao nhân nghĩa, Lê Lợi lên làm Thuận Thiên đại vương của nước Đại
Việt, nắm quyền xây dựng đất nước theo mộng ước của mình.
Theo lăng kính văn hóa, chúng ta thấy Đại Việt thời Hậu Lê đã
có khả năng tiếp biến văn hóa tốt đẹp trong khoảng chín chục năm. Cũng chính nhờ
tiếp biến văn hóa Việt Trung như thế mà nhiều vua thời Lê vinh quang.
3.1. Chính sách nông nghiệp
Nông nghiệp vẫn là thế mạnh của nhân dân chúng ta. Để đủ sức
tự cường, triều Lê cải tiến với việc phân điền, tỉnh điền và hộ đê. Vừa lên
ngôi, Lê Thái Tổ đã cho kiểm kê hộ khẩu, làm sổ hộ, sổ điền và tiến hành việc
quân điền. Tới đời Lê Thánh Tông thì chính sách quân điền đã thành đạt, tư tưởng
trọng nông đã thật sự vào tâm não người nho sĩ:
Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
3.2. Sinh hoạt văn nghệ nhân gian
Kẻ Sĩ đa số từ nông phát xuất và khi đời nghiêng bóng lại trở
về nông. Khoảng cách giai cấp thật gần gũi. Thưởng thức văn nghệ và giải trí
như cầm kỳ thi tửu họa… thì giai cấp nào cũng có. Tác phẩm Hí Phường phả lục của
Lương Thế Vinh cho biết Tuồng và Chèo là hai loại hình văn nghệ sân khấu nhân
gian đã phát triển rộng và cao.
3.3. Đào tạo nhân tài
Nhìn lại, chúng ta thấy gần như các triều đại tự chủ Việt Nam
có ưu điểm này là biết chấp nhận nhân tài, đào tạo nhân tài bằng những phương
pháp và quy tắc công khai, phổ biến cho toàn dân. Do đó, con vua, con quan hoặc
con lê thứ đều phải học tập và dự thi. Khó có tình trạng:
“Con vua thì lại làm vua,
Con bác sãi chùa lại quét lá đa.”
Con bác sãi chùa hoặc con bần cố nông mà có chí tiến thủ, có
tư chất và gặp điều kiện thích hợp, thì vẫn không bị dòng máu hoặc đảng phái cản
trở, đến độ người người tâm niệm: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
“Mùa Thu, tháng Tám [13], xây Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ
hình Thất Thập Nhị Hiền… để bốn mùa cúng tế…” [14]
Năm năm sau, nhà Lý mở khoa thi Nho giáo đầu tiên. Rồi tiếp tục,
tuy có thể “phép thi lúc này chưa có thể thức nhất định. Thỉnh thoảng có chiếu
vua ban ra cho học trò trong nước vào kinh dự thi. Nhà vua thường tự coi thi ở
sân điện…” [15]
Kể từ năm 1232, nhà Trần đặt ra học vị Thái Học Sinh cho thí
sinh thành đạt, sau Lê đổi thành Tiến sĩ… Nho học thích ứng đã giúp nhân dân Việt
Nam thêm nhiều người tài đức. Nhờ có nhiều nhân sĩ tài cao giúp đỡ như Ức Trai
Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn… Lê Sơ đã tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài phục
vụ hoàng triều và nhân dân. Lê Thái Tổ mở đầu các khoa thi. Chúng ta đều hiểu
tác dụng tôn quân của Khổng học. Nhân dân càng thấm nhuần châm ngôn “Quân-sư-phụ”,
việc cai trị càng ổn định.
Tuy thế, phải nhận rằng thời Lê Sơ có nhiều nhân tài kiệt xuất.
Ức Trai ngày nay được quốc tế nhìn nhận là nhà văn hóa lớn. Ai nghiên cứu văn
chương Quốc âm cũng phải đọc tới Quốc Âm thi tập với 254 bài thơ của ông.
Lên ngôi mới 2 tuổi, nhờ Tuyên Từ hoàng thái hậu điều khiển
triều chính, Lê Nhân Tông “Thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan
chầu, thân đến kinh diên đọc sách, mặt trời xế bóng về Tây mới thôi.” [16]
Lê Thánh Tông xứng đáng được ca tụng là Nguyên Soái của Tao
Đàn với Nhị thập bát Tú. Là nhà thơ lớn và sáng tác phong phú, người tổ chức việc
học và thi cử chu đáo nhất thời phong kiến Đại Việt. Cũng không bao giờ trong lịch
sử Việt Nam người ta được thấy tình nghĩa thi văn nối kết vua tôi, thông cảm
lãnh đạo và nhân dân như thời Hồng Đức.
Bộ máy nhà nước quân chủ đó cũng thường xuyên được đổi mới,
nhờ đường lối tiến và cử của các khoa thi và các trường thi. Tầng lớp sĩ phu hiển
đạt, từ đời Lê Thái Tông, 1442, được khắc tên vào bia đá để ở Văn Miếu, sau khi
bảng vàng và áo mão vinh qui, thường tham chính bên cạnh và nhiều khi thay quí
tộc. Nhiều nho sĩ không hiển đạt, trung thành với nghề giáo, vẫn thấy được trò
cũ của mình thành rường cột đất nước.
3.5. Tận tâm vì Gia Đình, vì Tổ quốc.
Những vua như Lê Thánh Tông, khi từ trần mới 56 tuổi, mà để lại
14 con trai, 20 con gái… thì không hẳn vì họ đuổi theo sắc dục mà quên giáo dục
con hoặc lo cho dân tộc. Sinh con, giáo dục con là thước đo lòng yêu dân. Chính
Thánh Tông tự thuật:
Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc Trời dám trễ đâu
Trống dời canh còn sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Đối với họ, bảo vệ gia phong mới bảo vệ Đất Nước:
“Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ
đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại
làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng.”
Chính từ thời này [17] chúng
ta có địa đồ Đại Việt, rồi Đại Việt Sử ký Toàn thư và Thiên Nam dư hạ tập…
3.6. Pháp trị
Văn trị theo đạo làm người, gia đạo và tình làng nghĩa xóm đã
là tốt, nhưng với đông đảo quần chúng thuộc đủ mọi điều kiện sống khác nhau,
không thiếu những người ác tâm phá hoại và những người yếu đuối dễ bị cuốn
theo. Xã hội cần Luật pháp. Do đó, khi có được luật pháp, người ta coi như một
chặng đường mới, sáng tỏ hơn:
“Trước kia, việc kiện tụng trong nước phần nhiều đều rất phiền
nhiễu, phép quan thường câu nệ, cố làm cho khắc nghiệt, khiến cho nhiều người bị
oan uổng quá đáng. Vua lấy đó làm thương xót, bèn sai quan Trung Thư san định
ra luật lệnh, châm chước cho thích hợp với thời thế, chia ra thành môn loại và
điều khoản khác nhau, gọi là Hình Thư của một triều đại, khiến cho ai
xem dễ hiểu. Sách làm xong, vua xuống chiếu cho ban hành, dân đều lấy làm tiện.
Đến đây, việc xử án được thẳng thắn, rõ ràng, cho nên vua [18] mới
cho đổi niên hiệu mới là Minh Đạo và cho đúc tiền Minh Đạo.” [19]
Phải nhận rằng Pháp trị thời đó khá nghiêm minh hoặc quân chủ
mà “dân chủ” – có thể hơn bây giờ? – ta mới thấy pháp quan mà dám xử cả hoàng
thái tử Lý Long Xưởng.
Nếu đời Lý có Tô Hiến Thành thì đời Trần có hai luật gia nổi
tiếng là Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn.
Nhưng nổi tiếng nhất và là bộ luật trước nhất còn giữ lại
được đến nay: Luật Hồng Đức, công bố năm 1483, với 721 điều đáng kể. Đào
Duy Anh viết: “Đời Lê Thánh Tôn châm chước pháp luật nhà Tùy và nhà Đường soạn
thành bộ luật Hồng Đức gồm có hình luật và hộ luật, lại định riêng kỳ xử việc
nhỏ và kỳ xử việc lớn…” [20]
Chúng ta có thể tự huyễn hoặc không khi tạm kết một thoáng
nhìn lại văn hóa thời Lê Sơ:
Trên cơ sở văn hóa dân tộc hoặc là văn hóa bản địa, văn hóa
thời Lê Sơ đã du nhập và thích ứng thật nhiều nét văn hóa Nho giáo qua giới sĩ
phu.
[38] Văn Hóa Việt Nam thời buổi phân tranh
Khi nhà Lê suy sụp, tình hình chính trị xã hội Việt Nam để lại
những trang sử huynh đệ tương tranh: Lê - Mạc, Lê - Mạc - Trịnh, Lê - Mạc - Trịnh
- Nguyễn.
1. Bối cảnh lịch sử
Sau gần tám chục năm cầm quyền, xét chung nhà Lê tỏ ra xứng
đáng và nhân dân phát triển.
Lê Túc Tông lên ngôi ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tý [21].
Tháng 11, sai sứ lên đường sang Trung Quốc; nhưng sứ chưa qua biên giới đã phải
triệu hồi, vì Túc Tông qua đời. Ông đã căn dặn: Con thứ hai của Hiến Tông
là Tuấn, người hiền minh nhân hiếu, có thể lên ngôi chính thống…. Nếu thân
vương nào chiếm ngôi trời thì người trong nước giết đi…”
Thái hoàng Thái hậu, thân mẫu Hiến-tông và bà của Túc Tông,
là người muốn đặt Lã Côi Vương, vì Tuấn con của kẻ tỳ thiếp, không xứng
đáng. Khi thành Lê Uy Mục, Tuấn giết bà và một số đại thần như Đàm Văn Lễ,
Nguyễn Quang Bật… Tuy thế, điều đáng tiếc hơn nữa là Tuấn mê đắm tửu sắc cũng
như sát nhân. Sứ giả nhà Minh đã phải than:
An Nam tứ bách vận vưu trường
Thiên ý như hà giáng quỷ vương.
Vận nước Nam còn dài bốn trăm năm
Mà sao ý trời cho vua quỷ xuống.
Cháu nội của Lê Thánh Tông là Oánh cũng bị “quỷ vương” tống
giam đợi giết, đã vượt ngục vào Thanh Hóa và tháng 11 năm 1509 bất thần dẫn
quân về chiếm hoàng thành, bức tử Lê Uy Mục và lên làm Lê Tương Dực [22].
Năm 1513, khi sang phong vương cho Tương Dực, sứ giả Minh triều là Trần Nhược
Thủy và phó sứ là Phạm Hy Tăng đã cùng nhận xét:
“Quốc vương An-nam mặt thì đẹp, mà người lệch, tính thích
dâm, làm vua lợn, loạn vong sẽ tới không lâu ”.
Không lâu, tháng Tư Bính Tý, 1516, cận thần Trịnh Duy Sản sai
người đâm chết Lê Tương Dực, đón cháu bốn đời Lê Thánh Tông là Huệ, 11 tuổi, về
làm vua Lê Chiêu Tông [23].
Chiêu Tông phải đến tận cung Mạc để phong Đăng Dung làm Thái
Phó, Đăng Doanh làm Dục Mỹ Hầu. Phẫn uất, Chiêu Tông âm mưu chống Mạc. Mưu lộ,
ông vua yếu đuối phải chạy trốn. Mạc và cận thần tôn chàng thanh niên 16, em
Chiêu Tông là Xuân, làm Lê Cung Hoàng [24].
Khi chịu không thấu, ngày 15.6.1527, Lê Cung Hoàng phải “nhường
ngôi” cho Mạc Đăng Dung. Chấm dứt 10 đời vua Lê với một trăm năm trị nước [25].
Chính khi Đăng Dung lên ngôi, Nguyễn Kim dựng nghĩa Cần Vương
ở Thanh Hóa. Rồi khi Đăng Dung mất thì Đăng Doanh làm Thái thượng Hoàng cho Mạc
Phúc Hải. Khi Phúc Hải chết sau sáu năm làm vua chọi gà và xướng ca, thì ở
Thanh Hóa, Nguyễn Kim cũng bị đầu độc chết và binh quyền vào tay Trịnh Kiểm.
Mạc Phúc Nguyên lên ngôi năm 1546, nhưng trong triều phe phái
anh em vẫn giành giựt, bên ngoài thì quân Lê Trịnh từ Thanh Hóa kéo ra đòi lại
giang san.
Phúc Nguyên chết, chú bé Mậu Hợp lên làm vua suốt 29 năm,
nhưng càng lớn lên chú càng ham tửu sắc, để cuối cùng bị quân Lê Trịnh bắt
trong chùa cùng với hai kỹ nữ [26].
Rảnh tay phía Bắc, quân Lê Trịnh thấy bận tâm về phía Nam, vì từ năm Mậu Ngọ [27],
Nguyễn Hoàng đã được làm trấn thủ Thuận Hóa, âm thầm thực hiện sấm Trạng Trình:
“Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Từ tháng 2 năm Quí Dậu [28] lại
được phong làm Thái Phó lo trấn giữ cả miền Nam.
Tuổi 89, Nguyễn Hoàng mới mất sau 4 con trai là Hà, Hán,
Thành, Diễn. Người con thứ năm là Hải đang ở Bắc làm con tin, Nguyễn Hoàng trối
vương quyền lại cho người con thứ sáu, 51 tuổi: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có
núi Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền.
Núi sẵn vàng, sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh
hùng. Nếu biết dạy dân luyện lính để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ
nghiệp muôn đời, bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ
cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dạy của ta ”.
Phật chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên cầm quyền năm Quí Sửu, 1613,
thì năm Kỷ Mùi 1619 Trịnh Tùng đem quân vào bắt đầu những thập niên Trịnh Nguyễn
phân tranh.
Lính vua, lính chúa, lính làng
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà
Để em đi đỡ chàng và bốn năm…
Nhờ có Đào Duy Từ hiến kế, Phúc Nguyên đã đắp xong Lũy Thầy
và tổ chức quân đội khá qui mô.
Thời Nguyễn Phúc Lan [29],
hai lần quân Trịnh vào đánh đều bị bại và phản công. Nguyễn Phúc Tần [30] dẫn
quân chiếm tới 7 huyện ở Nghệ An của miền Bắc. Mãi tới năm Canh Tý [31] Trịnh
mới khôi phục được.
Năm Kỷ Mùi [32],
chúa Nguyễn “cho phép” cựu tướng triều Minh là Dương Ngạn Địch cùng Trần Thương
Xuyên và ba ngàn gia thuộc vào khai phá vùng Gia Định, Mỹ Tho. Không lâu, khu vực
này thương mãi phồn thịnh. Không chỉ thuyền buôn người Thanh, mà cả người Nhật
Bản và Tây Phương cũng giao thương.
Nguyễn Phúc Trân chỉ cai trị bốn năm [33],
nhưng lại là người chú trọng tới nhân dân hơn. Ông giảm thuế và chế định tang lễ
cho nhẹ nhàng hơn. Con ông thì khác. Nguyễn Phúc Chu [34] không
chỉ đòi dân đóng góp công sức và sinh mạng để mở đất qua Phan-rang, Phan-rí,
Hòa Đa, tới tận Phiên Trấn…. Ông còn xây cất một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở
chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am. Nguyễn Phúc Chú [35] lên
cầm quyền khi 30 tuổi và chỉ điều hành đất nước mười ba năm, nhưng thời gian
này có hai dấu mốc văn hóa:
1.1. Đồng hồ công cộng
Ông cho đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn duyên hải. Đồng hồ
trước còn cần nhập từ Tây phương, sau Nguyễn Văn Tú đã chế tạo được.
1.2. Mạc Thiên Tứ và Chiêu Anh Các
Mạc Cửu được làm tổng binh trấn Hà Tiên từ năm 1708, con trai
là Mạc Thiên Tứ được Nguyễn Phúc Chú cho cầm quyền thay cha từ 1736 với tước Đô
Đốc Trấn Hà Tiên. Không chỉ chú trọng giao thương như cha, Thiên Tứ còn mở
Chiêu Anh các, qui tụ văn nhân thi sĩ. Họ lưu tới 320 bài thơ của 25 tác giả gốc
Hoa và 6 thi sĩ người Việt.
1.3. Khởi đầu kinh đô Huế
Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 25 tuổi [36],
quyết xưng VƯƠNG. Năm Giáp Tí 1744 ông đúc ấn Quốc vương và Kỷ Mùi chính thức
tiến dần lên ngôi. Tại Phú Xuân, ông cũng bắt đầu kiến thiết quy mô: điện Kim
Hoa và điện Quang Hoa, các gác Dao Trì, Triệu Dương, Quang Thiên, các nhà Tựu Lạc,
Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên v.v. Ở thượng lưu sông Hương, ông cho xây
dựng phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ khắc họa rất tinh xảo. Tường
trong, tường ngoài đắp rồng, hổ, lân, phượng, hoa cảnh…. Phú Xuân trở thành đô
thị chính trị và văn vật.
Nguyễn Phúc Thuần, hoàng tử thứ 16 lên ngôi trong cảnh phế lập
và bị cận thần uy hiếp. Người lộng hành chính là Trương Phúc Loan. Cảnh hãm hại
trung thần, bán quan buôn tước và bóc lột nhân dân đều phát sinh từ đầu mối họ
Trương này. Tại Tây Sơn, Bình Định, ba anh em Nguyễn Nhạc dấy binh và được nông
dân nhiệt thành ủng hộ… Quân Trịnh thừa cơ đánh thốc vào. Tháng 12 năm 1774,
quân Trịnh đánh úp Phú Xuân. Tây Sơn hoà với Trịnh để đánh vào Nguyễn. Phúc Thuần
tự trận, Nguyễn Huệ chiếm Long Xuyên tháng 9 Đinh Dậu… [37] Cháu
là Nguyễn Phúc Ánh, 17 tuổi, nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc che giấu, rồi chạy thoát ra
đảo Thổ Chu, tập họp binh tướng. Năm chục chiến thuyền Anh đổ bộ chiếm lại và bố
phòng Bến Nghé. Năm Canh Tí [38],
Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi, dùng ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn
chi bảo ”.
Chúng ta biết: Từ đó tới năm 1802, từ Nam Quan tới Cà Mau, loạn
lạc và chiến tranh không trừ phần đất nước nào của chúng ta: Lê - Trịnh - Tây
Sơn - Nguyễn Phúc, thêm vào đó những lực lượng ngoại quốc : quân Thanh xâm lược,
quân Thái Lan, Bồ Đào Nha, quân Pháp trợ lực….
Giữa muôn vàn đổ nát, điểm văn hóa sáng chói nhất là sức chịu
đựng kiên cường của dân tộc Việt Nam và việc định hình Chữ Quốc Ngữ..
[1] Tạ Ngọc Liễn dịch, trong “Chân dung văn hóa Việt Nam”
[2] Niên hiệu của Trần Nhân Tông từ 1293
[3] Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông
[4] Nơi Tạ Hiền nước Tấn phá quân Bồ Kiên nước Tần
[5] “Bạch Đằng Giang Phú” của Trương Hán Siêu, Tạ Ngọc Liễn
trích trong “Chân Dung văn hóa VNam”, Bến Tre 1999, tr. 100-101
[6] Tạ Ngọc Lễ, sđd. Tr. 165-166
[7] 1400-1407
[8] 1407-1409
[9] 1409-1413
[10] Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr. 143-144
[11] 1418
[12] Quỳnh Cư- Đỗ Đức Hùng, sđd. Tr. 147
[13] Tức năm 1070, thời Lý Thánh Tông
[14] “Đại Việt sử ký toàn thư” bản kỷ, q. 3, tờ 5a
[15] “Lịch triều hiến chương loại chí” Khoa mục chí, q.
26
[16] Theo văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ ghi.
2. Mấy đặc điểm văn hóa Việt Nam thời này
Điểm đầu tiên trong cuộc huynh đệ tương tàn là tranh giành
chính nghĩa cho mình và lên án người khác, khiến “đàn em” không còn biết chọn
phe phái nào. Đành “chịu trận”.
2.1. Mất lý tưởng hoặc
phân hóa lý tưởng
Kể từ khi Lê tàn, Mạc lên ngôi và Lê Trịnh gắng trung hưng,
người Việt Nam nói chung không còn quan niệm đồng nhất về lý tưởng quốc gia,
dân tộc. Kẻ sĩ, nói riêng, cũng không còn hợp nhau trong lý tưởng tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ.
Khâm Định Việt Sử kể chuyện Trịnh Khải chạy Tây Sơn năm 1786,
cũng là để nói lên hiện trạng đó:
“Khi Trịnh Khải chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lăng thì quân
sĩ đi theo đã tan tác gần hết. Bấy giờ, có viên Thiên sai làm việc ở Lại Phiên
là Lý Trần Quán [1], trước đó được
cử đi truyền hịch để chiêu mộ nghĩa binh, bất ngờ gặp Khải, Lý Trần Quán giả vờ
nói với người học trò của mình là Nguyễn Trang rằng:
Đây là quan Tham Tụng người họ Bùi [2] đi lánh nạn
đến, anh hãy hộ vệ ngài, đưa ngài qua bên kia địa giới của huyện này.
Nguyễn Trang biết đó là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn
Bá, bắt giải nạp cho giặc [3]. Trần Quán được
tin ấy, vội vàng chạy đến vừa lạy vừa khóc, nói rằng:
- Đẩy chúa vào tình thế này, tội là ở thần.
Nói xong, lấy nghĩa lớn mà khuyên bảo Nguyễn Trang, nhưng
Trang lại nói:
- Sợ Thầy không bằng sợ giặc, quí chúa không bằng quí
thân.
Chắc chắn rằng một phần vì mục tiêu chính trị, phần thấy lý
tưởng Nho giáo từ mấy thế kỷ đến nay không còn đủ sức nơi tam cương ngũ thường
nữa, họ Lê, họ Mạc và họ Trịnh vẫn là theo Nho giáo và Phật, nhưng tranh giành
quyền bính như họ thì sao gọi là theo lý tưởng Nho giáo hoặc Tổ quốc, Dân tộc ,
hoặc từ bi hỉ xả!
Họ Nguyễn Phúc miền Nam đề cao quan niệm thờ Trời, Phật và
Lão giáo, chẳng hạn: Nguyễn Hoàng tự xưng chúa tiên và xây chùa Thiên
Mụ [5]. Nguyễn Phúc
Nguyên xưng chúa Phật [6], Nguyễn Phúc
Lan tự xưng chúa Thượng [7].
Chúng ta thường nghe phác họa anh em Tây Sơn như nông dân
vùng lên cứu quốc. Xin coi lại:
“Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên,
Nghệ An. Khoảng những năm 1653-1657 quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài, chiếm được
7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam, họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện
trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía Nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây
Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tây Sơn Nhất (nay là thôn An Khê, phủ
Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.
Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy
Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng, sinh
được ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông làm
nghề buôn trâu, cuộc sống cũng khá giả…
… Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại (thu thuế ở một trạm thuế
trong vùng), những vụ thuế năm Tân Mão [8], thu được bao
nhiêu Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền, Nhạc bỏ trốn
cùng hai em vào ở núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi
nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây…” [9]
Ngay cả khi Nguyễn Huệ đại thắng ngoại xâm và vinh hiển lên
ngôi, Nguyễn Nhạc cũng không nhường, Nhạc vẫn làm vua vùng từ Bình Thuận đến Quảng
Nam ngày nay [10].
2.2. Cơ cấu tổ chức chính
trị phi lý
Trong nước vẫn có vua, truyền dòng và nối ngôi. Nhưng vua chỉ
là hư vị. Chúa cũng truyền dòng, nối vị, mà chúa mới nắm thực quyền.
Chúa Nguyễn cũng từ từ trút bỏ quyền lực trên đầu mình. Nguyễn
Phúc Chu [13] đã
tự xưng là Quốc chúa, Nguyễn Phúc Chú [14] là Ninh
Vương, Nguyễn Phúc Khoát [15] vừa
là Võ Vương, vừa tự đúc tiền Thái Bình và vận động triều Thanh nhìn nhận
mình.
2.3. Mua quan, bán chức
Vẫn có kỳ thi tuyển nhân tài ra làm quan giúp nước đấy, nhưng
thi không chắc đậu và đậu không bảo đảm hoan lộ tốt đẹp. Vàng bạc mới bảo đảm.
Một Trịnh Doanh đã ba lần xuống lệnh bán quan chức:
Năm Mậu Thìn [18] “Hạ
lệnh cho bách quan văn võ, ai nộp tiền hoặc thóc, sẽ trao cho các chức phẩm
khác nhau.” [19]
Người đã xuất tiền hoặc đổ thóc ra mua quan chức, sẽ tìm lại
bằng đủ cách bất công và bóc lột:
Con ơi nhớ lấy câu này:
Thêm vào chiến tranh, quan quân quấy nhiễu như thế, người dân
làm sao có thể an cư và lạc nghiệp.
2.4. Thi cử cũng hư hỏng
Đọc lại trang sử hồi đó, chúng ta cứ tưởng như truyện đang xảy
ra trong cái thời dối trá này. Từ đó hoài nghi : Phải chăng tham nhũng, chạy chọt
đã là một nét tiêu cực cố hữu trong “văn hóa” VN.:
“Học trò đã quen thói đua nhau chạy chọt, quan trường thì coi
nhẹ kỷ cương, công khai gởi gắm. Vì thế, người đỗ đạt phần nhiều không có thực
học, miệng thế bàn tán rất xôn xao. Chúa Trịnh Doanh nổi giận, bắt tất cả thi lại,
đánh hỏng đến trên hai trăm người…” [23]
Tình trạng bi đát đến độ con của danh sĩ Lê Quí Đôn mà cũng
đi vào “sổ đỏ” nhân kỳ thi Hội, tháng 10 Ất Mùi [24]:
“Quí Kiệt là con của Quí Đôn, vào kì đệ tứ, Quí Kiệt và Đinh
Thì Trung đổi quyển cho nhau, việc bị bại lộ, Đinh Thì Trung bị khép vào tội
đày đi Yên Quảng, còn Quí Kiệt phải về làm dân thường. Đinh Thì Trung phát giác
ra bức thư gửi gắm của Lê Quí Đôn ở Lê Quí Kiệt, nhưng chúa Trịnh Sâm lấy cớ rằng
Lê Quí Đôn là bậc Huân thần, bỏ đi không xét, chỉ luận thêm tội cho Quí Kiệt, bắt
giam trong ngục cấm ở cửa Đông.” [25]
Thi, với bao nhiêu là chính sách, là chiếu cố, là gởi gắm…
cho nên sỉ số tăng ghê gớm. Phan Huy Chú viết:
“… Quan Thự Phủ là Đỗ Thế Giai bàn rằng, dụng binh hao tổn
nhiều, tiền tài nhà nước thiếu thốn. Vậy, hãy cho mỗi người được nạp ba quan rồi
miễn cho họ việc khảo hạch, cũng gọi tiền ấy là tiền thông kinh! Vì lẽ
này, kẻ làm ruộng, người đi buôn, cho đến cả đám hàng thị và bọn buôn bán vặt
cũng nhất nhất làm đơn xin nạp tiền thi. Đến ngày vào thi, sĩ tử đông đến nỗi dẫm
đạp lên nhau, có kẻ chết ở cửa trường. Còn trong trường thi, kẻ mang theo sách,
kẻ hỏi chữ, lại có cả kẻ mượn người thi thay, chúng ngang nhiên làm bậy, chẳng
biết kiêng nể phép tắc là gì. Những người đậu mà có thực tài, mười phần không
được lấy một.” [26]
Chính vì những tranh chấp quyền bính và danh lợi đó, mà nhân
dân chúng ta đã uổng phí bao tài năng trong những thế kỷ người mình tự chủ.
2.5. Những điểm son văn học
Hẳn là có bao nhiêu phí phạm trong xã hội phân tranh; tuy thế,
gặp thòi bình hoặc giữa “cơn giố bụi”, dòng tiến hóa của dân tộc không thể hoàn
toàn bị tàn phá. Mỗi thực cảnh xã hội chính trị là bối cảnh của một vài điểm
son văn học. Thí dụ:
Vì tôn quân và tôn trọng quyền dân tộc, chúng ta có những
tác phẩm sử địa để đời như:
Trùng San Lam Sơn thực lục,
Hoan Châu phong thổ kí,
Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục
Hồ thượng thư gia lễ.
Việt sử bị lãm,
Lạng Sơn toàn thành đồ chí.
Thời này cũng xuất hiện những tác phẩm văn chương chữ Nôm của
Đạo Công giáo, như đã nói, và tác phẩm Hán Nôm giá trị nho giáo như:
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn.
Cung oán ngâm khúc và
Thi tập ngẫu hứng thì có thật nhiều, nhất khi tác giả đi
sứ:
Sứ hoa thi tập và Vạn thọ thánh tiết khánh hạ thi tập của
Phùng Khắc Khoan [37] nổi
tiếng. Tập Vạn thọ có lời tựa của Sứ giả Triều Tiên Lý Chi Phong.
v.v.… đều gợi lên thời kỳ thi văn rộ nở.
Độc loại về Y học phải kể tác phẩm thiên tài y khoa Lê Hữu
Trác [42] với
bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh.
2.6. Tư tưởng và tôn giáo
Chúng ta đã nói: Tư tưởng và Lý tưởng Nho giáo suy thoái. Thời
tự chủ mà người cùng dân tộc tranh giành quyền bính này, người ta tìm lẩn trốn,
hoặc tìm lại nguồn gốc thần thiêng cội nguồn dân tộc để sống và để an tâm:
- Người ta tìm lẩn
trốn
Vì thế sáng tác ra những thơ phú truyện, thưởng thức quang cảnh
thiên nhiên và hưởng nhàn,
Vì thế tư tưởng Đạo giáo phổ biến.
- Người ta tìm hòa
giải
Nên Đạo Nội phát triển, nhất là sùng kính Tứ bất tử. Nên nhớ
rằng Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan được thuật lại như người đầu tiên được thánh mẫu
Liễu Hạnh hiển linh và trao sứ mạng phổ biến việc lập đền, tôn thờ thánh mẫu
này [43].
Vì chiến tranh khiến ai cũng cảm thấy cái chết bất ngờ có thể
tới, người ta trở về với tín niệm hồn bất tử, nên việc lên đồng và thờ cúng
vong linh thịnh hành. Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên và Lĩnh
Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú cũng ở trong vùng tư tưởng tôn giáo
này.
KITÔ giáo là một yếu tố rất mới lan tỏa thời này.
Với giáo thuyết tin yêu Thiên Chúa và đồng loại, Kitô-giáo nhẹ
nhàng vào Việt Nam từ hồi nào không rõ. Thời Lê Huyền Tông 1663-1671 mới để lại
dấu vết của sử thần (nha Nguyễn) là hai lần vua hạ lệnh cấm Đạo, một Đạo đã
truyền vào ba tổng thuộc hai huyện Trung Châu Bắc Việt (Nam Định ngày nay).
Nhưng tới Mạc Lê-Trinh và Nguyễn chúa thì người ta lại thấy có những quốc thư gởi
Macao hoặc Roma để xin nhà truyền Đạo. Đây đó, người ta đã thấy những thánh đường
Công Giáo và những nghi lễ thờ kính Chúa, nghi lễ hiếu hỉ cho người theo đạo, rất
được dân ta trọng vọng…Rồi lại có những lần chính quyền trục xuất người truyền
đạo và cấm dân theo đạo.
Ngoài những kinh sách truyền đạt giáo lý, Văn chương quốc âm
phải kể những ca vãn song thất lục bát của công giáo, những truyện các thánh và
sách “gương tội”, “gương phúc”, “truyện Thày Lazaro Phiên” đã khai sinh dòng
văn xuôi quốc âm, một thể loại độc đáo chỉ gặp thấy nơi “nhà đạo”. Một mai, nếu
được tái xuất, những tác phẩm thi văn chữ nôm của Linh mục Lữ Y Đoan và công
nương Catarina chị chúa Trịnh sẽ chói sáng.[44]
Chỉ cần đọc Bài Giảng Trên Núi của sách Tin Mừng theo Matthêu
hoặc một tác phẩm nào trong Tân Ước cũng thấy được rằng đạo lý Kitô giáo thật sự
đáp ứng mong muốn mãnh liệt của nhân dân Việt Nam trong triều chính “huynh đệ
tương tàn” đó. Những tín đồ đầu tiên của Kitô giáo thật sự đã đem vào Văn Hóa
Việt Nam nhiều yếu tố mới .
Như thế, thời này có thể băng hoại về kinh tế và chính trị,
nhưng tận thâm tâm người dân Đại Việt vẫn thành tín và trân trọng Trời, Đất,
Con Người và vạn vật.
Về bờ cõi giang san, Nguyễn Gia Long đã thu phục được rộng
hơn bao giờ hết; nhưng về văn hoá, Nguyễn triều có mang lại được gì tốt đẹp
hơn hoặc khôi phục được những giá trị cổ truyền từ thời Lý Trần?
1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Năm 1786, Nguyễn Ánh đánh bật Nguyễn Lữ khỏi vùng Gia Định [45].
Liền bốn năm sau đó, ông luôn luôn tổ chức những “trận giặc mùa”: lợi dụng gió
mùa để kéo hải thuyền ra tấn công Nguyễn Nhạc. Tháng 3 năm 1799, ông hạ Qui
Nhơn và đổi là Bình Định.
Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh đánh bật triều đình Tây Sơn của
Nguyễn Quang Toản và chiếm lại Phú Xuân. Một năm tiếp theo là những bước tiến
thần tốc, như không có gì cản trở được, vì thế, tháng 7.1802 Nguyễn Ánh đã là
ông vua một nước Việt Nam thống nhất lớn hơn bao giờ hết trong lịch sử Đất
Nơ]sc ta.
Giai đoạn đầu: 1802-1884
82 năm các vua nhà Nguyễn mặc tình thi thố tài năng cai trị một
nước Việt Nam độc lập, với vài người Âu cố vấn.
Thực ra, ngay từ đầu, vẫn phải chịu ảnh hưởng của Trung Hoa.
Lê Quang Định được cử làm chánh sứ sang Trung Hoa xin phong vương và nhìn nhận
tên nước là Nam Việt. Năm Giáp Tí [47],
Thanh triều mới cử Tề Bồ Sâm, Án sát Quảng Tây, sang phong vương cho Gia Long
Nguyễn Ánh, và đặt tên nước là Việt Nam. Vì Nam Việt của Triệu Đà xưa gồm cả một
phần Nam Trung Hoa. Thế kỷ XIX năm Bính Dần [48] tại
điện Thái Hòa, Gia Long chính thức xưng Đế.
Thực ra, năm 1858 Pháp bắt đầu kế hoạch thực dân, năm 1862
chúng chiếm ba tỉnh miền Đông. Sau năm năm [49],
triều Nguyễn đã phải ký thỏa ước nhường trọn sáu tỉnh miền Nam Việt Nam, nơi đã
từng là đầu cầu cho quân Nguyễn về tấn công khôi phục toàn quốc. Từ 1873, Pháp
lại biểu lộ dã tâm chiếm toàn quốc Việt Nam khi tấn công Hà Nội.
Dầu sao, cho tới hòa ước Patenôtre Pháp ký với triều Nguyễn [50] và
Hòa ước Thiên Tân Pháp ký với Thanh triều, thì trên pháp lý, triều Nguyễn mới
đánh mất chủ quyền độc lập của Việt Nam [51] và
phải điều hành đất nước theo cây gậy lãnh đạo của Thực dân Pháp.
Giai đoạn thứ hai: 1884-1945
Điểm chung của giai đoạn này là thực quyền của người Pháp
trên quyền hành vua quan.
Nếu nhìn qua lăng kính dân tộc, người ta có thể coi như
hai chặng:
1884-1916: bảo vệ chủ quyền hoàng-việt, Hoàng đế, thí dụ Hàm
Nghi, Duy Tân; triều thần cũng còn nhiều cương quyết bảo vệ chủ quyền cho dân tộc
hoặc cho vua.
1916-1945: cố giữ ngai vàng. Vua không còn thực quyền nào,
nhưng vẫn gắng giữ ngai vàng, dù phải hy sinh hết quyền lợi của nhân dân. Đó là
khi Đồng Khánh và Bảo Đại sợ mình đi phải vết xe Duy Tân.
Gia Long từng theo luật Thanh triều, giành quyền lo cho dân
nước; nhưng khi triều đình càng yếu nhược, nhân dân càng cảm thấy mình có nhiệm
vụ bảo vệ nòi giống: các đảng phái chính trị đứng ra tổ chức lãnh đạo quần
chúng đấu tranh, và họ có cách làm của họ, kiên trì mãi tới thành công.
2. Những đặc
điểm văn hóa thời Nguyễn
2.1. Phục hưng và thanh lọc
văn hóa Nho giáo
Ngay từ năm Canh Tí, 1780, khi chưa tiến qua được vương quốc
Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã mở khoa thi Hương tại Gia Định. Vậy mà khi thống nhất
giang san rồi, các vua nhà Nguyễn cho tuyển sinh đậu rất ít, để tìm thực lực và
lấy lại giá trị cho khoa bảng.
2.2. Văn chương chữ Nôm
Cựu Hồ Nguyễn Tây Sơn, cũng giống như nhà Hồ trước đây, chủ
trương dùng chữ Nôm để toàn dân có thể thưởng thức được nội dung các bản văn
triều đình và xã hội, cũng như thưởng thức những công trình thi văn của người
mình. Triều Tây Sơn phù du qua giòng lịch sử, triều Nguyễn Phúc cố lập lại thượng
phong Nho-học, nhân dân chúng ta cũng gặt hái được những tác phẩm giá trị
bậc nhất của văn chương chữ Nôm, như:
Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du
Thơ của Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Các thể loại thi ca của nhiều nho sĩ như Nguyễn Công Trứ,
Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Cao Bá Nhạ, Trần Tế Xương v.v.
2.3. Văn chương quốc ngữ
và tính phổ biến văn học
Thứ chử mà văn nhân thi sĩ trong dân chúng ta dùng cả ngàn
năm, chỉ là chữ Hán. Thứ chữ mấy trăm năm lưu dụng trong cả xã hội và tôn giáo,
trong cả những tác phẩm giá trị thật cao, vẫn chỉ là chữ Nôm. Còn thứ chữ mới,
chính thức được phổ biến từ ông vua cuối triều Nguyễn, liền được coi là QUỐC NGỮ! Thực không nhờ quyền lực và thế lực nào hơn là do giá trị nội tại của loại mẫu
tự Việt-hóa từ La tinh này với cách kết cấu rất khoa học nhưng đơn giản, mà những
thế hệ truyền đạo Thiên Chúa đã dầy công tạo hình cho nó.
Với thứ văn tự này, người Việt Nam chỉ cần học ít tháng là có
thể đọc tất cả các sách và viết ra mọi cảm nghĩ của mình, thay vì mất cả chục
năm như thời học Hán Nôm.
Tứ đó, tỉ lệ người bình dân biết đọc biết viết tăng vọt với cấp
số nhân. Những nhà văn, nhà thơ quốc ngữ vừa đông, vừa gồm mọi lứa tuổi và địa
vị xã hội.
Cũng do đó, chữ quốc ngữ góp phần rất lớn trong tiến bộ xã hội
của dân tộc ngay từ thời Nguyễn.
2.4. Học chánh
Trước hết Học chánh triều Nguyễn tự chủ vẫn là NHO HỌC. Chỉ
khi chịu Bảo Hộ, việc học mới đổi sang Tân Học và Chữ Quốc Ngữ.
2.4.1. Nhìn chung
Nhà Nguyễn phục hưng và ủng hộ Nho giáo, để tổ chức mọi tầng
lớp xã hội hướng về hoàng đế và tùy thuộc triều đình. Chính vì thế mà Triều Nguyễn, ngay từ khi chưa thống nhất giang san, đã mở
các khoa thi để tuyển chọn người có học; nhưng trải qua hàng thế kỷ “lính vua,
lính chúa, lính làng…” đâu còn được bao nhiêu thanh niên, càng không còn mấy người
có học. Tất nhiên người đậu không nhiều và khó có người xuất sắc. [52]
Nguyễn Ánh thu dụng nhiều danh nho của thời Lê - Trịnh - Tây
Sơn như Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích.
Nhà Nguyễn thống nhất giáo dục và thi cử, sửa lại các luật
thi cho thống nhất và nghiêm minh, sửa lại học vị.
Người đậu thi Hương được gọi là Cử Nhân, được ghi danh vào Hổ
Bảng [53],
được cấp thẻ đồng, dự yến Lộc Ninh và đương nhiên được vào kinh dự thi Hội.
Nếu trong kỳ thi Hương, ai chỉ đậu 3/4 thì được gọi là Tú
Tài, ghi danh ở Mai Bảng [54],
dự yến Lộc Ninh, nhưng không được thẻ đồng và không được dự thi Hội. Muốn vào
thi Hội thì năm sau phải thi và đậu Hương thí.
Thi Hội có đậu Chánh bảng thì sau đó mới được vào thi Đình, đậu
Phó bảng thì không đuợc. Tiến sĩ hoặc người đậu đại khoa này được nêu tên trên
Kim Bảng [55],
cũng gọi là Long Bảng [56].
2.4.2. QUỐC TỬ GIÁM và QUỐC SỬ QUÁN
Nói chung, hai cơ quan này đã có từ trước, nhưng triều Nguyễn
vẫn làm mới lại:
a/ Quốc tử
giám
Lý Nhân Tông [57] đã
khai sinh Quốc tử giám năm 1076 với ba quan chức: Tri giám, Quốc tử giám tế tửu
và Quốc tử giám tư nghiệp.
Gia Long đệ tam niên [58],
Quốc tử giám được thành lập ở Huế với hai quan chức: Chánh Đốc học và Phó Đốc học.
Quốc tử giám thời Nguyễn qui tụ những ai?
“Sai chọn con em của các nhà tôn thất từ 10 tuổi trở lên và từ
15 tuổi trở xuống cho được vào học tại nhà Quốc tử giám” [59].
Thực ra, người được qui tụ về Quốc tử giám không đông, nhưng ảnh hưởng khuyến học
của nó thì lan ra cả nước.
b/ Quốc sử
quán
Cơ quan này chịu trách nhiệm biên soạn và lưu trữ mọi tài liệu
liên quan đến nhà nước. Triều Trần đã lập Quốc sử viện từ sáu thế kỷ trước và
đã tuyển chọn được nhân tài để làm việc trong cơ quan này:
“Mùa Xuân, tháng Giêng năm Nhâm Thân [60] quan
giữ chức Hàn Lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu là Lê Văn Hưu vâng sắc
chỉ soạn xong bộ Đại Việt Sử Ký chép sử từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu
Hoàng, gồm 30 quyển, đem dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi.” [61]
Gia Long lập Quốc Sử Quán, nhưng công trình xây dựng chỉ hoàn
thành năm 1821, thời Minh Mạng. Chính ông vua này đích thân đến kiểm nhận công
trình và cho khắc bia đá trước cổng: Khuynh Cái Hạ Mã.
Dù bạn là quan chức, qua đây Bạn phải xuống ngựa và nghiêng lọng.
Nhìn qua các chức vụ cũng thấy tầm quan trọng người xưa đặt ở
Quốc Sử Quán: 1 Tổng tài, 1 Phó Tổng tài, 10 Toản tu [62],
25 Biên tu [63],
5 Hiệu Khảo [64],
12 Thu Chưởng [65],
8 Đằng Lục [66].
Số nhân viên có thể thật đông, theo nhu cầu.
Đây là một trong những cơ quan còn để lại nhiều tài liệu văn
hóa thật quí, bởi họ đã làm việc nhiều. Thí dụ:
Kêu gọi và sưu tầm tài liệu sách vở trong toàn quốc
Biên soạn nhiều công trình lớn, thí dụ:
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (52 quyển)
Đại Nam thực lục (453 quyển)
Đại Nam liệt truyện (87 quyển)
Tạo thành phong trào học tập, nghiên cứu sâu rộng. Từ đó có
được những nhân tài lớn, như nhà bách khoa toàn thư Phan Huy Chú
(1782-1840), người để lại nhiều tác phẩm lớn như:
Lịch triều hiến chương loại chí (49 quyển)
Hoàng việt địa dư chí (2 quyển)
Lịch đại điển yếu thông luận…
2.5. Thi xã
Chúng ta đã biết Tao Đàn, nhị thập bát tú của Lê
Thánh Tông, thế kỷ XV, là một thi xã. Chiêu Anh các của nhóm Mạc
Thiên Tứ, thế kỳ XVIII, cũng là một thi xã. Chúng ta nhắc qua Bình Dương
thi xã rồi Bạch Mai thi xã thời Nguyễn.
Bình Dương thi xã khi chào đời, sau ngày Gia Long lên
ngôi, mang tên Sơn Hội ở Gia Định; nhưng nó nổi tiếng từ khi đã là
Bình Dương Thi xã với điểm tụ Gò Cây Mai:
“Gò Cây Mai nằm về phía nam Trấn thành [68],
cách trấn thành ba mươi dặm rưỡi. Nơi đây đất nổi gò cao, trên gò ấy có nhiều
cây mai thuộc giống Nam Mai, gốc và cành rườm rà, nhưng khi nở ra, cánh hoa
không có tuyết, chỉ có lá đỡ và mùi thơm mà thôi. Thứ hoa này thụ bẩm được linh
khí mà sinh ra, cho nên, không thể đem trồng ở nơi khác được. Trên Gò Cây Mai
có ngôi chùa gọi là chùa An-Tôn. Từ nơi đây, đêm đêm vang lên tiếng đọc kinh,
ngày ngày có chuông sớm trống chiều rền trong mây khói, cảnh sắc thật thanh u kỳ
lạ. Dưới Gò Cây Mai lại có con suối chảy quanh, các cô gái chiều chiều chèo ghe
nhỏ đi hái sen. Những khi có tiết đẹp thì văn nhân tài tử rủ nhau mang bầu rượu
túi thơ, leo lên trên gò mà ngâm vịnh xướng họa. Dưới gốc mai, thơ và hoa cùng
thi tỏa hương nồng, đó quả là thắng cảnh của du khách.” [69]
Thật nhiều người tham gia thi xã này, nhưng nổi nhất hẳn là Gia
Định tam gia : Trịnh Hoài Đức, Ngôn Nhân Tĩnh và Lê Quang Định.
Bạch Mai thi xã ra đời nửa thế kỷ sau Bình Dương thi xã.
Tụ điểm chính vẫn là Gò Cây Mai;nhưng nội dung thi ca thì khác lắm rồi, vì
vương quyền nhà Nguyễn và chủ quyền dân tộc bị đe dọa nặng nề. Tác phẩm chủ yếu
văn Nôm của những người tiêu biểu như Phan Văn Trị, Nguyễn Hữu Huân, Huỳnh Mẫn
Đạt…
Bạch Mai thi xã tan rã cùng với thành Gia Định thất thủ ngày
17.2.1859.
Nói chung, khi phục hưng và chấn chỉnh việc học Nho và đạo
Nho, nhà Nguyễn đã nhắm tới lợi ích phổ biến “Trung Quân” Chính các nho sĩ ở khắp
nơi và trong mọi giai tầng nhân dân sẽ theo và đòi hỏi người khác theo khuôn
thước nho giáo: Tam Cương, Ngũ Thường. Thế là thêm vào Hình Luật Gia Long, có
Nhân-trị của đạo nho.
3. Tổ chức Hành chánh
Đạo nho làm nên nét văn hóa tinh thần, tổ chức hành chánh làm
nên văn hóa xã hội và vật thể.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, nhà Nguyễn tổ chức hành
chánh dưới triều đình: Tỉnh xuống Phủ xuống Huyện xuống Tổng xuống Xã xuống
Thôn Làng.
Chính quyền các cấp dưới huyện đều do dân cử; triều đình
không bổ, mà chỉ nhìn nhận. Trung ương cũng chẳng cần “xuống nắm địa phương”. Tất
nhiên mỗi cấp dưới cũng chịu ảnh hưởng quyết định của cấp trên.
Tại mỗi thôn làng, nhà Nguyễn cũng cho xây Đình, vừa làm nơi
nhắc nhớ anh hùng liệt nữ, những ân nhân của làng, vừa là nơi tụ họp hội hè và
bàn bạc việc chung lớn nhỏ.
Hai nét đó đủ cho thấy “cái ách” triều đình nặng nhẹ tuỳ tinh
thần địa phương. Thực chất thì chính quyền không có thủ đoạn bó dân hoặc “bàn
tay sắt bọc nhung”.
4. Tôn giáo
Nho giáo là chính đạo của triều Nguyễn. Bên cạnh đó, triều
đình không có vấn nạn nào về Phật giáo, Lão giáo và nhất là Đạo Nội, ngoài ra
việc gắng quy tụ dưới quyền hoàng đế.
Khi kiến thiết kinh thành Huế, Triều đình cũng quan tâm tới
đàn Nam Giao. Việc nhà vua thay toàn dân tế Trời là theo tinh thần phổ quát cổ
thời. Nhà Nguyễn đưa vào pháp luật. Việc tế giao cũng được qui định rất
trang trọng [70].
Thêm vào đó là những qui định để tôn giáo ủng hộ chính quyền. Vì thế, nói chung
các vua Nguyễn đề phòng Thiên Chúa Giáo, dầu chính nhờ một vị Giám mục trong
tôn giáo này mà Gia Long gượng lại được trước những đòn chí mạng do Tây Sơn.
Ủng hộ Đạo Nội, tiếp nối thêm việc tôn sùng Thánh Mẫu
miền Nam với thần tích và đền thờ Bà Đen. Ngay ông vua cuối thời độc lập nhà
Nguyễn là Tự Đức, ông vua sùng Nho, cũng “can thiệp vào tất cả các đền thờ bằng
cách gia phong cho tất cả các thần trong nước…” [71]
Chúng ta cũng biết chuyện Nguyễn Công Trứ được dân Kim Sơn Tiền
Hải ở Ninh Bình và Thái Bình lập miếu “thờ sống” vì công khẩn điền lập ấp, mà bị
triều Nguyễn giáng chức và triệu hồi…
Nói chung, cũng như trong mọi chính thể tập quyền, Văn Hóa bị
chính quyền mưu đồ nắm giữ, nhưng đó vẫn là của Toàn Dân. Cũng chính vì chủ
trương tập quyền, mà triều Nguyễn công khai cấm Đạo Thiên Chúa gay gắt và lâu
dài hơn hết. Mà một trong những lầm tưởng chính là coi Thiên Chúa Giáo như phát
xuất từ Âu châu Đồng thời khẳng định rằng không theo lệnh vua mà bỏ Đạo là coi
thường triều đình. Đối lại, một số thừa sai hiểu lầm răng “ đạo hiếu” là tôn
giáo và do đó “thờ ông bà cha mẹ” là “đa thần, là mê tín”. Từ sai lầm đó, phía
chính quyền nghiêm trị, phía giáo dân cho rằng mình phải làm chứng cho sự thực: ”Một Thiên Chúa duy nhất được tôn thờ; dù biết ơn và tôn kính, người không thờ
người”.
[44] Xin đọc thêm trong “Lịch sử văn học Công Giáo VN.” của Võ Long Tê,
NXB.Tư Duy.1965 hoặc “Công giáo trên Quê hương Việt Nam” q.1. Nguyễn Thế Thoại
[51] 1965 thời Paul Ely toàn quyền cuối cùng, Pháp mới trao trả độc lập
Việt Nam cho chính phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm.
[40] Giao lưu văn hóa Việt Âu trước
thời Nguyễn
Nói về giao lưu văn hóa Việt-Âu, chúng ta có thể chia làm hai
chặng: Trước thời Nguyễn và Trong thời Nguyễn, hoặc từ thế kỷ XVI tới 1802 và từ
1802 tới 1956.
Trước thời Nguyễn, yếu tố Âu châu mang văn hóa vào Việt Nam,
hầu hết là những người theo Thiên Chúa giáo, thuộc ngành Kitô Công giáo Roma. Họ
đa số là nhà buôn, số rất ít là nhà truyền giáo, mà vẫn phải nhờ phương tiện
nhà buôn để tới và trụ lại trên đất nước chúng ta. Thiên Chúa Giáo, danh xưng
đúng hơn là Kitô giáo, phát sinh từ Ysrael , ở Tây Băc Á, truyền qua đế
quốc Roma từ đầu công nguyên. Từ thế kỷ thứ Năm đến thứ Tám các dân du mục –
xưa gọi là man di – từ bắc phương chia nhau đế quốc Roma, đã theo Kito
giáo , lập thành các nước châu Âu.
1. Bối cảnh lịch
sử
Chúng ta đã biết
1.1. Lịch sử thế giới ghi nhận rằng:
“Thế kỷ XV, khi người Bồ Đào Nha và Y-Pha-Nho chiếm đất thực
dân, thì phần đông các nước Châu Âu về kinh tế đã hướng theo chiều tư bản chủ
nghĩa, về chánh trị áp dụng chánh sách quân chủ chuyên chế. Tại Bồ Đào Nha, một
nước nhiều thị trường nhất, vua Jean II [1] không thèm triệu tập quốc hội nữa.
Vua chiếm hết các nguồn lợi ở thuộc địa. Từ năm 1503, vua đứng
ra mua gia vị, cho bọn trung gian bán lại. Lợi về phần vua từ 50 đến 60 phần
trăm.
Ở Ba Tây, lúc đầu người Bồ Đào Nha nào cũng được tới buôn bán
miễn là nộp 10 phần trăm tiền lời mua bán nô lệ và 28 phần trăm tiền lời các thứ
hàng hóa nhập cảng khác. Nhưng về sau bọn quan lại chiếm độc quyền thương mãi.
Từ thế kỷ 16 trở đi vua Bồ Đào Nha trực tiếp tổ chức công việc
cai trị thuộc địa để củng cố uy quyền của họ ở đó. Các hội buôn ở Ấn Độ, Châu
Phi và Ba Tây dần dần lọt vào các xí nghiệp thương mãi vĩ đại do vua làm chủ.
Người Y-Pha-Nho khi tìm được Tân thế giới chỉ chiếm giữ quần
đảo Antilles. Họ bắt đầu khai thác đồn điền…
… Dần dần người Y-Pha-Nho chiếm cả đại lục trừ xứ Ba
Tây [2] của người Bồ Đào Nha và vùng Đông Bắc Mỹ đến thế kỷ 16 bị
người Anh và Pháp chiếm cứ…[3]
Sự phát triển hàng hải của người Bồ Đào Nha và sự mở mang đế
quốc thực dân của người Y-Pha-Nho gây nhiều ảnh hưởng quan trọng cho nền kinh tế
thế giới.
Ảnh hưởng đầu tiên là các đường giao thương giữa châu Á và
châu Âu thay đổi làm cho các hải cảng Đại Tây Dương phát đạt mà các hải cảng Địa
Trung Hải sa sút…
Về mặt tinh thần, kiến thức loài người nhờ những phát kiến vĩ
đại ấy mà mở rộng thêm. Những điều mới lạ thức tỉnh óc khoa học, thúc giục con
người lao mình vào công cuộc tìm tòi, nghiên cứu…” [4]
Về phương diện nghiên cứu triết học, thần học và các khoa học
tự nhiên, nước Pháp không thua dân tộc nào ở Âu châu hồi đó; nhưng về hàng hải,
còn lâu Pháp mới theo kịp Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và xứ Venitia. Mãi năm 1598,
Pháp mới chiếm được một phần nhỏ ở Bắc Mỹ châu, tức vùng Virginie và Canada. Phải
tới thời Louis XIV với 72 năm cai trị [5], Pháp mới có hải thuyền sánh được với Anh và Hòa Lan. Tuy thế,
khi máy hơi nước ra đời, Anh sẽ vượt lên xa các nước, rồi trở thành vương quốc
rộng nhất trong thế kỷ XIX.
1.2. Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo
Lịch sử Giáo Hội Kitô-giáo cũng cho người ta quan niệm rằng
hàng chục thế kỷ Giáo Hội này lan tràn khắp Âu châu tới biển Bắc Băng Dương và
Đại Tây Dương và miền Bắc Phi, tới vùng Sa mạc mênh mông miền Nam…. Họ ngưng tại
đó, vì cứ tưởng rằng đã thi hành xong lệnh truyền của Ngài Sáng Lập, Đức Kitô: Loan
báo Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Khi hàng hải phát triển, người ta mới thấy rằng còn những dân
tộc, những vùng đất chưa nghe loan báo Tin Mừng. Giáo Hội Kitô-giáo, đứng đầu
là Giáo-hoàng, phải tìm cách cho thày giảng tới những vùng “đất mới” này.
Không có phương tiện, Giáo hoàng của thế kỷ XV và XVI ủy
cho triều đình Bồ Đào Nha nhiệm vụ truyền Đạo và bảo trợ nhà truyền giáo, vì những
người đó đều là Kitô-hữu.
1.3. Lịch sử Việt Nam trong Đông Nam Á
Lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI bắt đầu với Lê Túc Tông, tiếp liền
Lê Uy Mục không thể đứng vững, nếu không có Mạc Đăng Dung trợ lực; nhưng chỉ một
phần tư thế kỷ sau, nhà Mạc bắt đầu chia cắt giang san nhà Lê. Chúng ta đi vào
nội chiến với Lê - Mạc - Trịnh - Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc. Phe nào cũng muốn
thắng, nên phe nào cũng tìm thế lực ngoài yểm trợ. Cố vấn Tây Phương và vũ khí
Tây Phương còn quan trọng trong chiến tranh hơn hàng hóa vải vóc và đồng hồ…
Người và hàng hóa đương nhiên mang theo những yếu tố văn hóa.
Âm thầm, vua chúa và nhân dân chúng ta đã chủ động tiếp thu và bắt đầu giao lưu
văn hóa với Tây Phương.
Cũng ngay từ thế kỷ XVI, các nhà truyền Đạo Kitô theo các tàu
buôn Bồ Đào Nha vào Việt Nam. Để có nơi ở và phương tiện sống, họ thường làm nhân
viên của công ty hoặc của thương điếm. Ngoài những giờ làm việc đó, họ truyền Đạo.
Để dễ hiểu, người ta đặt lên và gọi Đạo Kitô là “Hoa Lang Đạo ”.
Khi nào vui vẻ vì thương thuyền và hàng hóa, tặng phẩm v.v.
các vua chúa Việt Nam cho họ tự do truyền giáo và người dân theo Đạo. Khi nào
thấy bất lợi và nghi ngờ họ làm lợi cho đối phương , vua chúa ra lệnh ngăn cấm.
Sang thế kỷ XVI và XVII, khi Tây Ban Nha thành cường quốc
kinh tế và đế quốc chinh phục Tân Thế Giới Mỹ châu, họ cũng chinh phục mấy ngàn
hòn Đảo trong Thái Bình Dương, ở về phía Đông Nam nước ta, làm nên một nước
mang tên vua Tây Ban Nha, nước Philippines. Vì trước chưa hề thành một dân, một
nước, nên Tân quốc gia này rất sớm bị Tây-hóa và trở thành nước Công-giáo duy
nhất ở Á-châu. Các nhà buôn và các thừa sai truyền giáo tại Trung Hoa, Nhật Bản,
Việt Nam và Chiêm Thành, Châm, Chân Lạp cũng thêm những người mang quốc tịch
Tây Ban Nha, rồi Pháp, Italia. Tuy mang quốc tịch khác nhau, có khi dòng giống
khác nhau, họ đều là những nước đang phát triển nhờ văn hóa Công-giáo. Họ đến,
không chỉ truyền Đạo, mà gián tiếp cũng mang vào những yếu tố văn hóa Tây
Phương của văn minh Thiên-Chúa-giáo.
“Từ thế kỷ 17, người Âu đã sang buôn bán ở nước ta. Trước hết,
người Bồ Đào Nha mở thương điếm ở Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, đồng thời người
Hòa Lan cũng mở thương điếm ở Phố Hiến (Hưng Yên). Người Bồ Đào Nha giúp khí giới
cho chúa Trịnh, người Hòa Lan giúp khí giới cho chúa Nguyễn.
Sau, Anh và Pháp theo gót, xin vào buôn bán. Lúc đó, đã có một
số giáo sĩ vào truyền đạo Da-tô, khi thì được lưu thông dễ dàng, khi thì không.
Tóm lại, ảnh hưởng của người Âu chưa có gì.” [6]
Hẳn chúng ta nên nhìn kỹ hơn và phân tích kỹ hơn.
2. Vài nét văn hóa Tây-phương vào Việt
Nam trước 1802
Dầu “đơn giản hóa vấn đề”, chúng ta vẫn cần ghi nhận:
2.1. Gián tiếp và Trực tiếp
Trước hết, có thể nói văn hóa Tây phương vào Việt Nam theo đường
gián tiếp và trực tiếp. Gián tiếp do thương mại cổ thời (như thấy trong di chỉ
Trăm Phố). Gián tiếp qua ngả Trung quốc, Nho sĩ và chữ Hán. Trực tiếp do
chính người Tây phương du nhập.
Ngay từ thời Tây Hán, nhiều nhà truyền giáo Kitô-giáo đã tới
Trung quốc. Thời Nguyên thống trị Trung Hoa, có những người Âu như Marco-Polo
được bổ nhiệm vào những chức vụ cao trong triều. “Minh Thái Tổ sau khi đuổi người
Nguyên, bài xích người Tây phương triệt để. Đến năm 1516, vua Vũ Tôn mới cho
người Bồ Đào Nha đến ở Quảng Châu. Kế đó, người Anh, Hòa Lan, Y Pha Nho [7] cũng được tới Trung Quốc buôn bán và truyền Đạo.
Năm 1601, Ricci [8] được vua rước tới Bắc Kinh dạy hoàng thái tử. Giỏi khoa học,
ông dịch hình học Euclide ra tiếng Mãn Thanh, cùng làm sách Vạn Quốc Dư Đồ. Kế
ông, có người Đức Schall. Ông này lập một xưởng đúc súng (1636). Ngoài ra, giáo
sĩ dòng Jésuite [9] còn đến truyền bá các thứ khoa học như Thiên văn học, Lịch
pháp, cơ khí học, số học, địa lý học, dược học, pháp thuật v.v.… Khoa học
Tây phương bắt đầu truyền sang Trung Quốc từ đó.” [10]
Với cầu hán tự, những gì thuộc Văn Hóa Tây phương nhập vào
Trung quốc, cũng không bao lâu sau có ở chúng ta. Ngay đến cuốn Giáo-lý Công
giáo của Cha Ricci cũng thành sách học đạo của một số nho sĩ và sách dạy Đạo của
một số “thầy giảng” tiên khởi Việt Nam, thế kỷ XVI-XVII. Những sách khoa học do
giáo sĩ này sáng tác cho người Tàu, hiển nhiên cũng có nhiều người Việt hoặc Nhật,
hoặc Cao-ly đọc và học thêm văn hóa Tây phương.
Trực tiếp là chính các người Âu tới buôn bán hoặc truyền Đạo
hoặc phục vụ triều đình cũng mặc nhiên hoặc công nhiên truyền bá văn hóa của họ
vào cho người Việt Nam.
2.2. Từ thương phẩm tới vũ khí, từ lái buôn đến cố vấn
và giáo sĩ truyền giáo.
Chúng ta đều biết: Con đường tơ lụa có thể là “xa lộ
quốc tế dân dụng” đầu tiên nối liền hai ba đại lục và hàng hóa chuyên chở trên
đó đa phần từ Nam Đông phương sang Tây phương và Trung Cận Đông: Tơ lụa, tiêu, ớt,…
đá quí, đồ gồm sứ và đồ đồng.… Nhưng vải dệt máy và súng đạn thì Tây
phương tiến bộ hơn Đông phương trầm lặng. Chính vì thế, khi khai thác đường
hàng hải thì tàu Tây chở sang những vải dệt máy, đồng hồ… và súng đạn.
Khởi đầu, chính vì Tây phương kỹ nghệ hóa sớm hơn, mà cũng vì
chúng ta nội chiến nhiều hơn.
2.3. Tôn giáo và học thuyết xã hội
Dầu từ những bộ tộc du mục, mang dòng máu hiếu động và hiếu
chiến, người Tây phương cũng đã hàng chục thế kỷ học làm nông và theo đạo lý
Kitô-giáo [11], nhưng họ vẫn mang khuynh hướng xã hội tự do, bình đẳng. Họ
tin sức mạnh của công lý. Có gạt đạo lý qua bên, họ cũng tin mạnh được yếu
thua. Khác hẳn quan niệm tam cương ngũ thường của Nho giáo và lề thói
các dân tộc Đông Nam Á châu chúng ta.
Chính vì thế, từ thế kỷ XVI tới nay, các chính quyền ở Việt
Nam (giống như cả vùng) thường vẫn ưa thích và lợi dụng văn hóa phẩm và con người
Tây-phương, nhưng lại đề phòng, ngăn ngừa hoặc nghiêm khắc cấm đoán việc truyền
Đạo Kitô, nhất là chi Giáo Hội Rôma, vì chi này tổ chức chặt chẽ hơn các chi hội
“cải cách” hoặc “tân giáo”, hoặc gọi chung là “tin lành”. Ngay đến anh em Tây
Sơn, người “đạo dòng”, một khi nắm quyền cũng theo cung cách đó.
Mặt khác, tin hay không tin, người ta vẫn phải nhận rằng
bạo lực chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp lâu bền.
Chính vì thế, mà mỗi khi “nới lỏng” hoặc “làm ngơ”, chính quyền
lại thấy số tín đồ Công-giáo đã tăng quá mức mình tưởng và chấp nhận. Năm 1658
có chừng 300.000 tín đồ Công-giáo người Việt Nam. Dầu loạn lạc, dầu chiến tranh
chết chóc, dầu chính quyền cấm đoán, năm 1848, khi Minh Mệnh nằm xuống sau ba lệnh
cấm Đạo chính Ông ban hành, số tín đồ Công giáo vẫn lên tới 420.000.
Kết quả: Khung trời Tôn giáo ở Việt Nam, từ thế kỷ XVI đã thực
tế có thêm những người và nét văn hóa Kitô-giáo: trong kiến trúc, thi ca, quan
niệm và tổ chức đời sống. Những nét văn hóa Công-giáo không dễ hòa đồng vào với
các tôn giáo khác, ngoại trừ hình thức cung kính và thi ca.
[1] 1495-1521
[2] Bresilia
[3] Thật khó hiểu: “Từ1506”, “từ thế kỷ XVI”, “đến thế kỷ
XVI”… tác giả muốn nói về những năm nào? Năm nào Bồ Đào Nha? Năm nào Tây Ban
Nha? Năm nào người Anh?!
[4] Nguyễn Hiến Lê – Thiên Giang, Lịch Sử Thế Giới, cuốn
III, ch. III
[5] 1643-1715
[6] Sđd. IV, tr. 100-101
[7] Y Pha Nho = Tây Ban Nha = Espana = Espagne
[8] Giáo sĩ Matteo Ricci “Lợi Mã Đậu”
[9] Quen gọi “Dòng Tên”
[10] Nguyễn Hiến Lê, sđd, tr. 173-174
[11] “Anh em chỉ có một Cha trên trời, một Thầy là Đức Kitô,
còn tất cả là anh em.”, Kinh Tân Ước, Mt 23, 8
PHẦN IV
VĂN
HÓA VN.
THỜI TOÀN CẦU HÓA
Giao Lưu Văn Hóa Việt Âu
Văn Hóa VN. thời toàn cầu hóa
Bảo tồn di sản văn hóa
12.
GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT ÂU
“Nói đến đài kỷ niệm dựng ở Hà Nội năm 1941 để ghi ơn giáo
sĩ Alexandre de Rhodes, Học giả Nguyễn Văn Tố đã viết: ’Mỗi khi chúng ta
đi qua giữa cảnh trí này, chúng ta sẽ tưởng niệm cùng một lúc cụ Hàn Thuyên,
cha đẻ chữ Nôm, và vị giáo sĩ Dòng Tên, ngoài việc hoàn thành chữ Quốc Ngữ, còn
cống hiến cho ta những tài liệu quan trọng về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam” [1].
Đối chiếu Hàn Thuyên và Alexandre de Rhodes, học giả Nguyễn
Văn Tố muốn chúng ta lưu ý đến công trình tiên phong của Hàn Thuyên trong việc
phát động nền văn học chữ Nôm và của Alexandre de Rhodes trong việc phát động nền
văn học chữ Quốc Ngữ“. [2]
[41] Giao lưu văn hóa Việt Âu thời Nguyễn
Mấy thế kỷ trước Nguyễn triều, vua Lê và Chúa Trinh, vua Mạc
và chúa Nguyễn có xin người Âu giúp, cũng chỉ là xin cho một vài giáo sĩ, nhiều
hơn là xin giao thương , mà thứ hàng đắt giá nhất là vũ khí và quí nhất là một
hai giáo sĩ làm cố vấn khoa học, thiên văn trong triều. Mở đầu thời Nguyễn là
xin giúp quân đội, rồi tới giai đoạn không những không nhờ, còn kháng chiến, mà
vẫn bị quân Tây phương đàn áp và văn hóa Tây phương tràn vào.
1. Bối cảnh lịch
sử
Cứ xét bối cảnh Quốc Tế và Việt Nam, chúng ta thấy dễ hiểu
cung cách hành xử của mấy ông vua Nguyễn Triều và trào lưu tiếp biến văn hóa .
1.1. Bối cảnh quốc tế
Khi Âu-châu đã đi vào kỹ nghệ hoá và ngoại thương, Trung Hoa
và Á Đông vẫn hì hục theo nông nghiệp thủ công.
Đầu thế kỷ 16, Bồ Đào Nha sau khi đặt đầu cầu ở Ấn Độ, đã tiến
sang chiếm Malacca, rồi định đặt cơ sở ở Quảng Đông [3], nhưng không thành công. Ít chục năm sau, họ đổi chiến thuật
hùng hổ thành ngon ngọt, nên thuê được Macao (Áo Môn) làm thương cảng. Tiếp
theo, người Tây Ban Nha, người Anh và Bồ Đào Nha cùng đưa thuốc lá từ người Mỹ
da đỏ vào tập cho người Tàu da vàng hút. Sau đó, người Anh đưa một thứ sản phẩm
Ả-rập qua Ấn Độ để truyền vào Trung Hoa: Nha-phiến. Buôn nha-phiến là mối lợi lớn
nhất người Anh kiếm được qua thương trường Ả-rập – Ấn-độ – Trung-hoa.
Nha-phiến còn là một ngòi nổ thử sức Đông - Tây.
Năm 1838, Tổng đốc Lâm Tắc Từ dâng sớ về triều:
“Nếu không cấm tiệt được nha phiến thì chỉ vài chục năm nữa,
trong nước không còn lính để chống địch, mà cũng không đủ tiền cung cấp binh
nhu ”.
Vua Đạo Quang liền ra lệnh nghiêm cấm và nghiêm phạt tới mức
tử hình, phái Lâm Tắc Từ làm Khâm sai đi Quảng Đông thi hành. Người Anh chống
trả. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất dẫn tới hòa ước Nam
Kinh: Trung Quốc phải mở cửa Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải,
còn Hồng Kông thì Trung Quốc tặng Anh quốc luôn 99 năm !
Trung Quốc loạn lớn, Tây phương quậy phá thêm. Cuộc chiến
tranh nha phiến lần thứ hai [4] dẫn tới hòa ước Bắc Kinh: Thuốc phiện được bày bán công
khai, người Âu Mỹ hưởng quyền lãnh sự tài phán.
Nga đã thừa cơ hội Âu Mỹ quần thảo Trung Hoa để mở trận Đông
tiến, bảo hộ Mãn Châu và lan dần ra tới biển [5].
1..2. Bối cảnh Việt Nam
“Người hùng Đông phương” là Trung Hoa đã bị xâu xé như thế, mấy
nước nhỏ như chúng ta [6] không thể không bị giày vò, nhất là khi chúng ta đang tan
nát vì nạn ngũ quyền : Trịnh, Mạc, Lê, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Phúc…
“Cuối thế kỷ 18, Nguyễn Ánh thua Tây Sơn, nhân quen một người
Pháp làm giám mục đạo Da-tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine), bèn
nhờ Bá Đa Lộc xin chính phủ Pháp giúp khí giới, binh lính để diệt Tây Sơn. Bá
Đa Lộc vui vẻ nhận lời. Nguyễn Ánh giao hoàng tử Cảnh và quốc ấn cho Bá Đa Lộc
để làm tin.
Năm 1787, Bá Đa Lộc vào yết kiến vua Louis XVI. Pháp đương gặp
lúc quốc khố rỗng không, chẳng giúp được gì cả. Bá Đa Lộc phải xuất tiền mua
khí giới và mộ lính chở sang Việt Nam vừa lúc cách mạng 1789 nổ ra ở Pháp.
Từ đó, thế lực Nguyễn Ánh mạnh lên; khi thắng được Tây Sơn,
thống nhất quốc gia, lên ngôi vua, ông không quên ơn người Pháp, đối với họ có
biệt nhãn, cho họ tự do buôn bán và truyền đạo.
Trong thời Minh Mạng, sự giao thiệp Việt Pháp có phần nhạt nhẽo,[7] tới đời Tự Đức thì hai bên hóa ra thù hằn nhau. Nguyên
nhân là Pháp muốn chiếm nước ta. Tự Đức hiểu dã tâm đó, ra lệnh cấm đạo.
Năm 1858, dưới triều Nã Phá Luân đệ tam, liên quân Pháp – Y
Pha Nho tấn công Đà Nẵng rồi Gia Định. Năm 1862, triều đình phải cắt cho Pháp
ba tỉnh miền Đông Nam Việt, năm 1867, mất luôn ba tỉnh miền Tây nữa. Cao Miên
trước vẫn thần phục ta, lúc đó bị Xiêm quấy nhiễu, Pháp can thiệp, ép Xiêm phải
để Pháp bảo hộ Cao Miên.
Năm 1870 (triều Tự Đức), Pháp phải cắt hai tỉnh Alsace và
Lorraine cho Phổ, càng nóng lòng muốn kiếm thêm thuộc địa để bù lại, tỏ thái độ
xâm lăng rõ ràng, gởi quân đội viễn chinh qua với mật lệnh: “Bắc Việt tiếp
giáp với những tỉnh Tây Nam Trung Hoa, ta nên chiếm giữ lấy để cai trị ở Viễn
Đông được chắc chắn”. Năm 1873, Pháp tấn công Bắc Việt, thành Hà Nội thất
thủ, nhưng quân Pháp vẫn chưa hoàn toàn thắng thế. Năm 1883, Pháp lại tấn công
Bắc Việt một lần nữa, chiếm Hà Nội rồi vô chiếm luôn Thuận An. Năm sau, nhà
Nguyễn ký một hiệp ước chịu để nước Pháp bảo hộ và chủ trương việc ngoại giao.
Muốn bắt nhà Thanh nhận chủ quyền của mình ở Việt Nam, Pháp
tuyên chiến với Trung Hoa và thắng nhiều trận trên biển (Phúc Châu và Đài Loan)
và trên bộ (Tuyên Quang) [8].
Lịch sử còn ghi lại:
Với hòa ước Patenôtre (1884) ký giữa Pháp và triều Nguyễn, với
hòa ước Thiên Tân tiếp đó của Pháp và Thanh triều, Pháp “chính thức được nhìn
nhận” (!) là chủ của thuộc địa Nam Kỳ và Bảo hộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ Việt Nam,
Lào và Cambodge.
2. Đặc điểm
văn hóa giao lưu Việt-Âu thời này
Thật nhiều đặc điểm của thời văn hóa Việt-Âu giao lưu, chúng
ta chỉ điểm ra một số quan trọng:
2.1. Không nhất quán
Văn hóa Âu Á thật là quá khác nhau, nên khi gặp nhau, đều đòi
hỏi cố gắng. Gần như suốt quá trình gặp gỡ cả mấy trăm năm, luôn luôn có hai
khuynh hướng hoặc tình cảm pha trộn: Lợi dụng và chống đối, ngay cả khi từng bộ
phận lớn hoặc nhỏ gắng dung hòa hoặc thích ứng văn hóa. Có khi bùng lên
mãnh liệt, khi khác lại âm thầm len lỏi vào cuộc sống. Bùng lên bằng cải
cách do chế độ mới chủ trương. Bùng lên bằng phong trào bình Tây sát
Tả, bằng sắc chỉ và đạo dụ cấm đạo. Những len lỏi vào cuộc sống, người ta
vẫn lai rai nhận thấy nhiều ít qua thi văn, qua sự lựa chọn kiểu nhà cửa hoặc
phương tiện tiêu dùng, qua cả những công việc hiếu hỉ của người dân.
2.2. Đối kháng văn hóa
Có thể nói: Đối kháng văn hóa, khi chúng ta tiếp xúc với Tây
phương, khởi đầu là do “ý thức hệ”. Chúng ta chủ trương con người có sống theo
luân thường đạo lý – nói rõ hơn là sống trong tam cương ngũ thường – thì mới
đúng đạo làm người. Còn người Âu Mỹ thì theo Bình đẳng, Tự do, Huynh đệ, theo
tiêu chuẩn Tin Mừng, hoặc theo chủ trương sức mạnh của đế quốc từ ngàn xưa.
Hiển nhiên có những người thực tâm “vì đạo lý” hoặc vì ý thức
hệ; nhưng cũng thật nhiều người – nhất là những người nắm quyền trong xã
hội và gia đình – chỉ dựa vào tam cương ngũ thường để bảo vệ quyền lợi của cá
nhân và giai cấp họ. Phía Âu Mỹ chính thức dựa vào sức mạnh đế quốc tiên tiến,
nhưng không thiếu những con người thực sự vì giáo lý Tin Mừng [9] mà quyết tâm truyền Đạo và truyền bá văn hóa Tây phương.
Đối kháng còn mang riêng nghĩa chống đối vì yêu nước thương
dân Việt Nam. Giáo sư Lê Văn Chưởng viết:
“Chống lại Âu hóa hay nói một cách khác là ý thức đề kháng
văn hóa ngoại xâm. Ý thức này phát xuất từ lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam
mà trong giai đoạn này được thể hiện bằng cuộc chiến đấu của Nguyễn Tri Phương
đã chặn đứng bước tiến xâm lăng của Pháp ở Đà-nẵng (1858). Ý thức để kháng ngoại
xâm như một thác nước chảy ngầm cho nên khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Việt
luôn gặp sức kháng cự của nghĩa quân và của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của
Trương Đinh, Nguyễn Duy Dương, Nguyễn Trung Trực… Ở Bắc Bộ và Trung Bộ thì do sự
lãnh đạo của Hoàng Diệu, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám… Và, các phong trào chống
Pháp như Cần Vương, Văn Thân, Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, mà đỉnh
cao là sự ra đời của mặt trận Việt Minh…” [10]
Nếu muốn gọi những người như Đinh Công Tráng, Nguyễn Trung Trực,
Phan Đình Phùng v.v. là nhà ái quốc thì đúng; còn những vị như Tôn Thất
Thuyết, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, dù có ái-quốc thì cũng
chủ yếu là Trung-Quân. Phong trào Cần Vương cũng thế. Ngay cái tên của
nó cũng nhắm tới ông vua, dù là ông vua chưa trưởng thành, bất xứng. Mà trước
đó, những người “ái quốc” nhận là phong trào Văn Thân. Nhưng “Văn Thân ” vẫn
là khẳng định đấu tranh vì ý thức hệ nho giáo – có thể hoặc không đồng nghĩa với
“yêu nước, thương dân”, vì hai phạm trù này giáo huấn Khổng Mạnh dành cho nhà
vua., không cho đại chúng nhân dân.
Phải tới những người, vì noi gương Nhật Bản, mà chủ trương Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và Duy Tân mới không còn là đấu tranh
vì ý thức hệ nho giáo nữa. Nhưng, những người này lại không chủ trương chống Đạo
hoặc giáo huấn Bình Đẳng Tự do, không chủ trương dùng bạo lực như những người
và phong trào trước đó. Những người thuộc ba phong trào này không thực sự chống
văn hóa Âu Mỹ; chỉ chống về phương diện chính trị thực dân và về một số nét văn
hóa Tây phương mà chúng ta coi là lố lăng hoặc ngược với bản sắc dân tộc.
2.3. Cấm Đạo (Công giáo)
Một trong những hành động mãnh liệt và được lặp lại nhiều lần
trong mấy thế kỷ, có khi lôi cuốn thật nhiều người Việt Nam… là việc Cấm Đạo
Kito, với những lời mạ lị sâu độc. Người ta không thể hiểu đúng, nếu chỉ hiểu
theo quan niệm chính trị hoặc từ giác độ tôn giáo. Phải nhìn và phân tích việc
cấm Đạo theo tầm nhìn văn hóa, người ta mới hiểu thấu và hiểu đúng.
“Phần thư khanh nho ” thời Tần Thủy Hoàng đâu phải thực
chất có mục tiêu cấm Nho giáo hoặc nho học. Thực ra, đó chỉ là để bảo vệ ngai
vàng Tần Thủy Hoàng và ghế thừa tướng Lý Tư. Tần vẫn dùng chữ Nho và sách Nho
do họ nhuận sắc hoặc biên soạn., nhưng thừa tướng Lý Tư và Tần Thỉ Hoàng muốn
các nho sĩ của họ và phục vụ cho họ thôi.
Cấm Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam từ thời Lê Trịnh đâu phải vì sợ
người Bồ hoặc Tây chiếm đất đai. Ngay đến Cảnh Thịnh cấm Đạo cũng hoàn toàn
không phải vì thương dân thương nước. Cấm Đạo thời Nguyễn đa số vì thấy tín đồ
không “cắn cỏ phục tùng” vua quan, vì sợ người tín đồ bị Pháp lợi dụng mà xâm
chiếm chủ quyền của triều đình.
Đấy là một sai lầm lớn khi khởi đầu với Minh Mạng, Thiệu trị.
Sai lầm đó có thể giồn một số người sang hàng ngũ chống đối… Dầu sao, số đó chỉ
chiếm tỉ lệ thật nhỏ :
“Viễn cảnh dân chúng, trước hết là giáo dân nổi dậy hưởng ứng
đoàn quân “giải phóng” chỉ là sản phẩm tưởng tượng của các giáo sĩ. Và phải chủ
quan đến mức cuồng tín thì mới dự kiến phát động được quần chúng nhân dân một
nước đứng lên “vũ trang khởi nghĩa” hưởng ứng một quân đội nước ngoài đến nã
súng chẳng những vào thành lũy của vua quan mà cả vào nhà cửa, ruộng nương của
họ! Riêng giáo dân, dù từ lâu, họ là nạn nhân của một chính sách phân biệt đối
xử có lúc nghiệt ngã đến mức vô nhân của một chế độ phong kiến. R. de Genouilly
nhận xét về các “làng công giáo” ở Gia Định: “Đáng lẽ họ phải tỏ ra nồng
nhiệt với chính nghĩa của chúng ta. Cứ qua kết quả mà xét, sự nồng nhiệt đó đã
không có”; giáo dân “luôn luôn đứng bên lề” [11]
Cứ đọc các châu bản nhà Nguyễn cũng thấy có nêu lý do cấm đạo
vì lỗi luân thường đạo lý (nho giáo) hoặc một vài trường hợp vì nghi ngờ mưu phản
(phản Nguyễn triều, nhất là phản chính hoàng đế đương quyền). Do đó, khi nhà cầm
quyền thực mạnh, hoặc hoàn toàn không hy vọng lấy được chủ quyền lại, thì cũng
không nói gì truyện cấm Đạo nữa.
Việc cấm Đạo hôm nay tại một số nước cũng cùng những nguyên
nhân đó.
[42] Tiếp biến văn hóa Việt Âu thời Nguyễn
Có thể thấy việc tiếp biến văn hóa Âu - Việt diễn ra mau lẹ
hơn tiếp biến văn hóa Ấn - Việt với Phật giáo hoặc Hoa Việt với Nho giáo.
1. Về văn hóa vật thể
Văn hóa vật thể là những nét dễ thấy nhất và dễ ảnh hưởng.
Xây dựng Hạ tâng cơ sở
Ngay từ những thập niên cuối thế kỷ XIX, nghĩa là sau khi đặt
vững quyền cai trị, người Pháp đã bắt đầu lo những xây dựng cơ bản , như: Hệ thống
giao thông đường bộ và thủy liên tỉnh và giữa các huyện, tổng. Hải hành và đường
bộ xuyên Việt là hai công trình có quy mô lớn đầu tiên. Sau hai tuyến ngắn đường
sắt Saigon - Mỹ Tho và Lạng Thương - Lạng Sơn, tới đường sắt Saigon - Hà Nội.
1.2. Phương tiện giao thông
Cùng với đường, phương tiện giao thông cải tiến và đổi mới:
không còn chỉ là gồng gánh cho bình dân hoặc lừa ngựa cho quí tộc. Nông dân
thêm cộ bò, rồi xe kéo, xe đạp. Đầu thế kỷ XX, người ta thấy xe “ôtô” của các
quan về đến huyện, đến tổng. Sau đó là ôtô-hàng hoặc xe đò chở hành khách. Đường
sông đường biển đã xuất hiện canô và phà chạy bằng máy hơi nước.
Các nghề truyền thống như nông và ngư nghiệp, thủ công nghiệp
cũng được cải tiến thật nhiều. Tiêu thụ mạnh hơn, vì thị trường trong nước tăng
nhờ giao thông thuận tiện. Còn thêm những thị trường lớn trong khối Đông Dương
và Liên Hiệp Pháp.
Có thể nói : Nội thương và ngoại thương đã chính thức phát
triển và được nhân dân ham thích hơn cả nông lâm ngư nghiệp. Hà Nội, Hải Phòng,
Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn Chợ Lớn có bề thế đô thị. Nam Định, Hòn Gai, Qui Nhơn,
Biên Hòa, Mỹ Tho…là những thị trấn nổi tiếng.
Nếp sống thành thị từ từ hiện ra khác hẳn nông thôn và lôi cuốn
hơn nhiều.
1.4. Kiến trúc
Kiến trúc nhà cửa của thị dân là những khu phố , những ngôi
nhà khang trang mang dáng dấp Tây phương. Nổi hơn nữa là những cơ sở của chính
quyền như Phủ Toàn quyền, dinh Thống đốc, Tòa án, Bưu điện, nhà Hát, nhà Ga, Bến
Xe v.v. Các cơ sở giáo dục còn được biết đến nhiều hơn : Đại Học Đông Dương,
Trường Viễn Đông Bác Cổ, các trường Cao Đẳng và Trung học Kỹ Thuật… các cơ sở từ
thiện, bác ái, bệnh viện, nhà thương, viện tế bần, cô nhi viện, nhà dưỡng lão
v.v.nhất là các nhà thờ và nhà dòng Công giáo.
2. Về Văn hóa Phi Vật Thể
Văn hóa phi vật thể quan trọng hơn và cũng biến chuyển hơn
2.1. Chữ Quốc Ngữ
Không chỉ là vì nhu cầu truyền đạo, mà còn vì tiến trình của
nhân dân Việt Nam, các giáo sĩ – nhất là Alexandre de Rhodes - đã tận tâm với
việc sáng chế và hoàn thành kiểu viết ngôn ngữ Việt Nam bằng mẫu tự la tinh, sớm
được gọi là Quốc Ngữ .Nếu học theo kiểu xưa, người ta phải nhớ chừng tám chục
ngàn chữ Nôm, mới đọc được các loại sách. Mẫu tự la-tinh và cách ghép vần quốc
ngữ đơn giản đến độ một người khiếm thị, chỉ dùng xúc giác đầu ngón tay -
cũng có thể học đọc và viết trong mấy tháng. Việc đơn giản đó càng rút ngắn thời
gian hơn nữa cho nghề in ấn và phổ biến kiến thức.
Năm 1651, nhà in của Tòa Thánh Roma cho ra đời hai tác phẩm của
giáo sĩ Alexandre de Rhodes;
Phép giảng tám ngày …
Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha –Latinh
“Đó là hai tài liệu xác thực đầu tiên về chữ quốc ngữ và văn
quốc ngữ nữa“ [12]
Khởi từ nhu cầu dùng mẫu tự latin để sinh hoạt với chúng ta [13], các hế hệ giáo sĩ ngoại quốc và các thày giảng (nho sĩ tòng
giáo) đã từ từ hoàn thành một trong mấy loại chữ viết toàn hảo bậc nhất : Chữ
Quốc Ngữ. Về điểm này, lích sử dân tộc chúng ta và dân tộc Đức có một trang rất
giống nhau. Giáo sĩ truyền giáo theo mẫu tự latin để sáng chế cho dân tộc “quê
hương thứ hai” của họ một lối chữ viết.
Các thừa sai truyền Đạo ở Nhật Bản và Trung Hoa cũng đã làm
thế, nhưng họ không thành công, lối viết của họ không phổ biến được. Về trước:
Trung Hoa đã có tự hào về chữ Nho và vẫn ngày thêm đơn giản hóa. Nhật cũng đã
thành công nhiều trong việc đơn giản hóa chữ nho làm chữ Nhật. Về sinh hoạt
thừa sai, giáo sĩ tại hai nước trên không gặp được cảnh sống “gia đình” như
giáo sĩ tại VN. Sống với Thày giảng và “anh em nhà Đức Chúa Trời”.
Hẳn là suốt mấy trăm năm, chữ mà sau được coi là “Quốc ngữ”
chỉ thông dụng trong phạm vi những người công giáo hoặc trực tiếp liên hệ
với họ. Tác phẩm quốc ngữ xưa nhất của người Việt Nam là của linh mục Philippê
Bỉnh, người đã ở lại Âu châu từ 1796 tới 1830. Tác phẩm của Ngài còn tại thư viện
Vatican.
Vì muốn bảo vệ đạo Nho và chữ Hán mà quan lại triều Minh Mạng
từng dâng sớ xin cấm Đạo và tiêu huỷ hết tài liệu chữ quốc ngữ:
“Các sách vở viết chữ mọi rợ cũng phải đốt hết. .
.[14]
“Đến sau khi Nam Việt Nam thành thuộc địa (1867), chính phủ
đem chữ quốc ngữ dạy ở các trường học. Các nhà tân học bấy giờ như Trương Vĩnh
Ký, Paulus Của, cũng dùng chữ quốc ngữ để viết văn. Ở Trung Việt bấy giờ có ông
Nguyễn Trường Tộ xin triều đình thông dụng chữ quốc ngữ, nhưng trong buổi hán học
thịnh hành lời đề xướng của ông không ai để ý đến. Đến đầu thế kỷ 20 thì các
nhà học giả Bắc Việt như Đào Nguyên Phổ, Phan Kế Bính cũng bắt chước văn sĩ Nam
Việt mà dùng chữ quốc ngữ để viết sách viết báo.
Năm 1906 chính phủ Bắc Việt đặt Hội Đồng Cải Cách Học Vụ (Conseil de perfectionnement de l’enseignement sửa lại chương trình và bắt đầu
dùng Việt Ngữ làm một môn giáo khoa phụ. Năm 1908 ở Trung Việt đặt Bộ Học để
thi hành việc cải lương ấy. Thế là Việt Ngữ đã được chính phủ thừa nhận đem
dùng ở trong học giới. Đến năm 1915 vầ 1919 ở Bắc Việt và Trung Việt bỏ khoa cử.
Từ đó Việt Ngữ có địa vị trọng yếu trong chương trình học vụ mà lần lần thông dụng
trong khắp ba xứ “ [15]
Một khi người Việt Nam rộng rãi tiêp nhận thì nhờ lối viết và
học đơn giản này trong một giai đoạn nhất định, người ta vượt xa mau lẹ hơn những
dân tộc quanh mình.
Một thiên kỷ chữ Hán cho đồng bào chúng ta thâu lượm được nhiều
kiến thức không bằng nửa thế kỷ quốc ngữ Nhiều tác phẩm Hán Nôm của cha ông
chúng ta và những tác phẩm ngoại quốc được phiên âm và phiên dịch. Cùng với một
số trường có chương trình Pháp, hoặc nhận ngoại ngữ Pháp, thật nhiều tác phẩm
văn học Pháp cũng dễ dàng qua quốc ngữ để đến với dân ta. Sau đó, Pháp văn
thành chuyển ngữ để người Việt Nam đọc và học tác phẩm của các dân tộc Âu Mỹ.
Thế là chúng ta được dẫn tới nhiều ngành văn học chưa hề có trong lịch sử Hán
văn : thư từ, báo và tạp chí.
Ngay trước khi có “Công báo quốc ngữ Gia Định Báo”, tờ
báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ [16] thì nhà in đã được xây dựng ở Miền Nam [17]. Từ nay, các sách Đạo Công giáo không cần in nhờ Nazareth
Hong Kong nữa.
2.2. Chính Tư Tưởng và Tinh Thần.
Con người sống trong bối cảnh văn hóa không những có khả năng
từ từ biến đổi môi trường, mà còn có phương tiện để dễ dàng tiếp nhận những tư
tưởng mới. Thế là tinh thần con người cũng từ từ biến đổi.
Nói chung, nhiều người Việt Nam trong giao thoa văn hóa Việt
Âu nhận ra rằng “biển học” của nho gia không mênh mông như các cụ đồ tưởng. Nho
học sâu hơn rộng. Tam cương ngũ thường có bảo đảm phần nào trật tự trong cuộc sống
con người và xã hội, nhưng cũng bóp nghẹt và trăng trói nhiều năng lực, khi nó
không đồng dạng nho giáo.
Giống như nhóm Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu bên Trung Quốc,
một số Nho Sĩ Việt Nam đọc hán văn của họ và đọc sách báo mới cũng cảm nghiệm
nhu cầu đổi mới xã hội Việt Nam. Phan Bội Châu cùng anh em Duy Tân Hội trong Việt
Nam Quang Phục Hội chủ trương Đông Du giúp nước. Lương Văn Can và Nguyễn Quyến
hướng dẫn Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.. Lớp trẻ có học càng mau lẹ tìm Tự
do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân đạo. Tự Lực Văn Đoàn với những nhà thơ nhà văn trẻ,
Tây học, đã đấu tranh mãnh liệt bằng nhiều cách, nhất là “tiểu thuyết luận đề”
, để nhân dân Việt Nam “theo mới, hoàn toàn theo mớí không chút do dự” [18] …
Họ có công gây ý thức văn hóa Dân Tộc:
“ Một đổi mới quan trọng nữa là sự ý thức mạnh mẽ về quốc
gia, về dân tộc trong quan niệm làm văn học. Xưa lịch triều, nho gia coi Hán học
là quốc học, Hán tự là “chữ ta”, văn chương Trung Hoa là văn chương mình. Cũng
vì vậy nên các cụ đã phần nào chểnh mảng với việc sáng tác quốc văn. Bước sang
hiện đại, mất nước, rồi bừng tỉnh trước thế giới năm châu, ý thức quốc gia về
chính trị cũng đưa người Việt Nam đến ý thức quốc gia về văn học. Người ta công
kích tổ tiên đã đi học mướn viết nhờ và lo xây dựng lấy một quốc học chân
chính. Vì vạy mà ngay từ đầu, cả các nhà nho cũng cương quýết dứt bỏ chữ Hán,
triệt để hoan nghênh chữ quốc ngữ, dùng quốc ngữ để viết văn. Cũng nhờ vậy mà
sau tuy bị Pháp đô hộ, chuyên dạy cho học thuật Pháp, chữ Pháp, người ta không
đi đến lập lại cái lầm xưa, lấy chữ của kẻ thống trị làm chữ của mình, mà vẫn
lo nuôi dưỡng ngành quốc văn, chuẩn bị cho nó một chỗ ngồi trong một ngày mai độc
lập. . .” [19]
Nhờ các khoa học vật lý và nhân văn, tâm nhìn của người Việt
Nam không còn bị đóng khung trong sách Nho và Trung Hoa vĩ đại, mà bắt đầu nhìn
ra thế giới và vũ trụ.
2.3. Phương Pháp Đào Tạo
Có Những nhà Nho được ca tụng tầm cỡ bác học. Nhưng nhìn kỹ,
trải ngàn năm nho học, chúng ta chỉ có được năm ba người kịêt xuất như thế. Nhận
định sâu hơn, phải thấy rằng các vị đó dù sáng tác một khối lượng tương đối lớn,
nhưng không đa diện và thiếu độc đáo. Lãnh vực xuất sắc là sử địa, lễ nhạc tiền
nhân. Thật khó tìm được tác phẩm lý luận phê bình hoặc nghiên cứu khoa học.
Trong giao lưu văn hóa Âu Mỹ Việt Nam, thế giới văn nghệ và
khoa học vừa đông, vừa đa tài hoặc biệt tài, khiến kinh ngạc cả những nước tiên
tiến.
Thành quả đó, nhờ phương pháp đào tạo Âu Mỹ vừa cởi mở, vừa
thúc đẩy khai phá. Thế hệ thầy không sợ, mà còn mong trò hơn mình, sung sướng
đón nhận từng ý kiến bất đồng của trò, để cùng xem xét lại.
Ngay từ thời manh nha văn học quốc ngữ tại Nam Kỳ, Trương
Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã được người Pháp và người Anh ca tụng.
Thí dụ J.Bouchot viết về Petrus Trương Vĩnh Ký:
“Ông (Petrus Ký) đọc và nói rành được 15 sinh ngữ và cổ ngữ
Đông Tây phương, trong số đó ông viết được 11 thứ”.
J.Thompson, nhà du lịch Anh còn nhận xét kỹ hơn nữa :
“ Petrus Ký là giáo dân Nam Kỳ và giáo sư trường thông ngôn
Sài Gòn. Ông là một ngoại lệ đặc biệt trong đám dân bản xứ. . Ông theo học trường
trung học công giáo Pê Năng, và tôi không bao giờ quên sự kinh ngạc của tôi khi
được giới thiệu với ông. Petrus Ký ngỏ lời bằng một thứ tiếng Anh rất khá, với
giọng pha một chút Pháp. Tiếng Pháp ông cũng nói được, mà nói không kém thuần
tuý và tao nhã . Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ý đối với ông cũng quen
thuộc như những tiếng nói Đông Phương. Một hôm, tôi đến thăm thấy ông đang soạn
tập ‘Phân tích đối chiếu những sinh ngữ trên thế giới’.Cuốn sách ông đã để công
nghiên cứu từ mười năm. Ông có bên tay tất cả một kho sách hiếm và quí mà ông
đã thu thập được, phần ỏ Âu châu, phần ở Á châu. Vào buổi tối, một ông Cố Đạo đến
góp chuyện với chúng tôi, và lúc tôi ra về, để lại cho hai ông tranh luận bằng
tiếng La-tinh về một vấn đề thần học”. [20]
Là nhà chính trị, Trương Vĩnh Ký còn là nhà văn. Ông Long Điềm
tính ra Trương Vĩnh Ký viết từ năm 26 tuổi (1862) tới ngày từ trần (1898) được
118 sách! [21]
Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy chỉ sau một phần tư thế kỷ
“cách tân văn hóa”, nhiều người Việt Nam đã tốt nghiệp, trở thành giáo sư trong
nước hoặc trong những trường đại học, cao đẳng nói tiếng Anh Pháp Tây Ban Nha
trên thế giới.
Thế mà những tiến bộ ấy và bản chất thông minh của chúng ta vẫn
chưa đủ chuẩn bị cho dân tộc chúng ta tiến vào kỷ nguyên văn hóa điện tử. Tiếng
Pháp và nhất là chữ quốc ngữ là phương tiện tốt ; nhưng chính sách cai trị của
Pháp không tốt. Thực chất nó nhằm khai thác dân tộc chúng ta. Muốn thế, như bất
cứ “lực lượng khai thác” nào, nó dùng mọi cách tuyên truyền cho chúng ta thấy
mình quá hèn yếu trong khi chúng quá uy hùng và tiên tiến. Công
giáo Việt Nam, tuy mang bản chất bình đẳng, huynh đệ và tự do trong ThánhThần,
nhưng hội nhập vào môi trường Nho Phật và nông thôn Việt Nam, nên lo vun trồng
thuận thảo và khiêm tốn hơn nghĩ tới đấu tranh công bình, bác ái. Vì thế, chính
Công giáo trong giai đoạn này cũng chưa giúp được nhiều, cũng chẳng làm chứng
được bao nhiêu.
2.4. Phương pháp khai thác
Sẽ thật là thiếu sót nếu chúng ta không nhìn thấy điều tai hại
này cho người Việt Nam trong thời “tiếp biến văn hóa”. Đó là phương pháp khai
thác thuộc địa của người Pháp.:” Chia mà Trị”. Họ tạo chia rẽ và phân hóa theo
địa lý và lịch sử, theo tôn giáo và nghề nghiệp…
Hậu quả là đại đa số nhân dân VN. bị bóc lột đau đớn mà không
sao đoàn kết được để vùng lên tự vệ.
“Vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Việt Nam từ 1924 đến 1939 gấp
hơn 6 lần từ 1898 đến 1918. Diện tích đồn điền cao su từ 17.000 héc ta năm 1917
tăng lên gần 100.000 hécta năm 1929. Giấy phép làm mỏ do chính quyền thực dân cấp
năm 1914 là 257 chiếc, năm 1930 là 17.685 chiếc.
Để bảo đảm thu lợi nhuận thuộc địa tối đa, chính quyền thực
dân Pháp thực hành thủ đoạn độc quyền kinh tế, độc quyền kinh doanh một số
ngành công nghiệp nặng, độc quyền nắm phương tiện giao thông vận tải, độc quyền
khai thác những mỏ có trữ lượng lớn, độc quyền chiếm đất lập đồn điền, độc quyền
xuất nhập khẩu, độc quyền muối, thuốc phiện, rượu, độc quyền ngân hàng, độc quyền
bán buôn “[22] Cứ 1000 làng thì có đến 1500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc
phiện. Hằng năm người ta cũng đã tăng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12
triệu người bản xứ. [23]
[1] Nguyễn văn Tố. Tạp chí Indochine, số 41 ngày 12.6.1941
[2] Võ Long Tê “Lịch sử văn học công giáo Việt Nam”
I.tr.227-228
[3] Năm 1517
[4] 1856-1860
[5] Nga sẽ đụng Nhật Bản
[6] Trừ Nhật Bản, vì Minh Trị thiên hoàng kịp thời canh tân
[7] Không chỉ “nhạt nhẽo”, Minh Mạng đã công khai muốn bãi
nhiệm những công thần của Gia Long, dù là Pháp hay Việt. Minh Mạng đã lệnh cầm
chân các thừa sai ngoại quốc bằng lệnh tập trung để “dịch sách”, lệnh trục xuất
…
[8] Nguyễn Hiến Lê, sđd, tr. 100-102
[9] Mọi người là anh em, con một Cha, Thiên Chúa.
[10] Sđd, tr. 85-86
[11] Văn thư 4.3.1859, Bùi Thân Phượng trích trong “Vài vấn đề
về bối cảnh lịch sử dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất 1862” trong “Một số
vấn đề lịch sử Đạo Thiên Chúa trong lịch sử Dân Tộc Việt Nam”, Viện KHXH và
BTG, Tp.HCM, 1988
[12] Phạm thế Ngũ “Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên“
q.III, ch.III. Quốc học tùng thư 1965
[13] Trước hết, các giáo sĩ dùng để dạy tiếng Việt cho những
giáo sĩ mới tới. Thí dụ gs. Fr.de Pina dạy gs. Alex. De Rhodes.
[14] “Giáo Hội Công Giáo ở VN” ph.3 ch.12. do Một giáo
sư sử học.
[15] Đào Duy Anh “Việt Nam Văn Học Sử” thiên thứ
Tư, IX ngôn ngữ
[16] Năm 1868, Petrus Trương Vĩnh Ký là chủ bút.
[17] Nhà in Tân Định năm 1863
[18] Một trong “Mười Điều Tâm Niệm” của Hoàng Đạo
[19] Phạm thế Ngũ “VN.văn học sử giản ước tân biên”,
q.2, thiên 2.
[20] Mười năm du lịch ở Trung quốc và Đông Dương
[21] “Những sách của cụ TV.Ký” Tri Tân số 44 ngày 28.1.1911
[22] Hồ Chí Minh “bản án chế độ thực dân Pháp” Hà Nội
1980,tr.98
[23] Lịch sử Đảng Cộng Sản VN. Sơ thảo. Hà Nội 1984,ch.1
tr.28.
Nguyễn Thế Thoại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét