Vài cảm nhận từ ca khúc
Không biết tự bao giờ, tôi yêu những ca khúc viết về Hà Tĩnh
quê mình đến vậy (?!) Có phải vì “duy ý chí” khi nghĩ mình là người Hà Tĩnh nên
tôi cứ đồ rằng những ca khúc viết về mảnh đất và con người của núi Hồng, sông
La hay đến mức mà hiếm một vùng quê nào trên đất nước này có được! Có thể kể
ra: Chào em cô gái Lam Hồng; Người con gái sông La; Gửi sông La; Một khúc tâm
tình của người Hà Tĩnh; Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh mình thương; Nơi ấy quê
mình; Mời anh về Hà Tĩnh; Câu đợi câu chờ; Sông La ngày về; Núi Hồng, Sông La;
... v.v...
Vậy duyên cớ nào mà một dải đất nhỏ hẹp của “khúc ruột miền
Trung” nghèo lúa gạo mà giàu nghĩa tình cùng… thiên tai, họa dịch, nắng lửa,
bão giông lại có cả một kho tàng phong phú những ca khúc “vượt thời gian” như
thế!? Câu trả lời xin được dành về phía các bạn. Nhưng có một điều chắc chắn rằng
người Hà Tĩnh mình dù làm gì và ở đâu cũng lấy làm tự hào bởi có rất nhiều những
tình khúc nổi tiếng viết về quê hương như thế. Những bản tình ca ấy từ lâu đã
thấm sâu vào lòng người một cách tự nhiên và say đắm. Phải chăng đó chính là di
sản nghệ thuật đích thực mà các nghệ sĩ như những con tằm miệt mài dứt ruột, nhả
tơ để dệt cho đời và cho Hà Tĩnh những tấm thảm nghệ thuật lộng lẫy, đa sắc màu
và đủ sức công phá thời gian?!
Cảm ơn các nhạc sĩ đã ưu ái dành cho Hà Tĩnh những tấm lòng!
Quả thật, xưa nay, nhiều nhạc sỹ đã rất thành công khi viết về
mảnh đất và con người nơi đây. Các tác phẩm ấy đã trở thành “Những bài ca đi
cùng năm tháng”. Và cùng với nó là những tên tuổi cũng sống mãi với thời gian
như Ánh Dương, Doãn Nho, Lê Việt Hòa, Nguyễn Văn Tý, An Thuyên, Hồ Hữu Thới, Mạnh
Chiến, Ngọc Thịnh, Quốc Việt… và đương nhiên, trong đội ngũ sáng tác đông đảo ấy,
chúng ta không thể không nhắc tới một nhạc sỹ gạo cội đã gắn bó với mảnh đất và
con người Hà Tĩnh bằng nhiều ca khúc để đời. Đó chính là nghệ sĩ tài hoa - cố
nhạc sĩ Trần Hoàn. Ông có những tình khúc về quê hương Hà Tĩnh đi vào lòng người
đã từ rất lâu mà nổi bật là nhạc phẩm “Mời anh về Hà Tĩnh”. Hình như Trần Hoàn
duyên nợ với quê hương Hà Tĩnh mình nhiều lắm (?!) Bởi, những giai điệu, tiết tấu,
âm sắc và ca từ trong các sáng tác của ông cứ trở đi, trở lại và neo đậu trong
trái tim của người dân xứ Nghệ nói riêng và nói chung cho tất cả mọi người dân
nước Việt. Trong số đó, có một nhạc phẩm mà gần đây, tôi tình cờ mới được nghe
bởi chất giọng trong trẻo, sâu lắng mà ngọt ngào của một nữ ca sỹ, ca khúc: “Ơi
con sông Ngàn Phố” mà ca từ được thể hiện dưới hình thức của ngôn ngữ thơ:
Ơi con sông Ngàn Phố của tôi ơi
(chứ) Em sinh khi mô (1) thì tui (2) đây nỏ (3) biết
Những chuyện ngày xưa kể mần răng (4) cho hết
Chỉ biết bây giừ (5) xanh biếc những bờ cây
Ơi con sông Ngàn Phố của hôm nay
Nắng ban mai nhuộm sông màu sáng
Và Ngàn Sâu như hai hàng lụa trắng
Để sông La chảy mãi lững lờ.
Tôi đi từ chợ Thượng; tôi ngược bến Tam Soa
Như con thuyền ngày xưa, tôi đi theo Ngàn Phố
Hương Sơn quê mình đó, với Nước Sốt, Cầu Treo
Dãy núi Nầm cheo leo, quanh năm trầm mặc.
Tôi đi giữa đồng lạc, qua viếng mộ Lãn Ông
Gặp đường Hồ Chí Minh, vắt ngang con đường Tám
Đường lên thăm nước bạn, cũng có gì đâu xa
Rừng thắm nở hoa, chờ đợi anh trở về.
Ngàn Phố của hôm nay, gừng vẫn cay, muối vẫn mặn
Mà nghĩa tình càng sâu nặng, con cá Mát với bát chè xanh
Đã đến giờ xa nhau, đã đến phút chia tay
Mà răng đi nỏ được, mà răng đi nỏ được
Ơi Ngàn Phố của tôi...!
Hai khổ thơ mở đầu được phát triển trên nền
nhạc êm êm, nhẹ nhàng, đậm âm sắc câu vè, điệu ví dân ca xứ Nghệ, ngọt ngào như
tiếng mẹ à ơi. Một là “con sông Ngàn Phố” của ngày xưa: “Em sinh khi mô mà tui
đây nỏ biết?” và một là “con sông Ngàn Phố của hôm nay, nắng ban mai nhuộm sông
màu sáng”. Giọng nữ trung đầy mê hoặc của nữ ca sỹ dìu dặt, thướt tha, luyến
láy như đưa tôi về với con sông Ngàn Phố thuở hồng hoang. Vượt qua không gian,
băng qua thời gian cùng những biến cố, thăng trầm của năm tháng, của lịch sử để
có một Ngàn Phố hợp lưu cùng với một Ngàn Sâu “như hai hàng lụa trắng” dệt nên
một La giang êm đềm “lững lờ” trôi, mà trên đó có rất nhiều chiến công đã đi
vào huyền thoại.
Chất liệu dân ca như hòa quyện trong mỗi ca từ. Cảm từ “Ơi” ở
đầu mỗi khổ thơ kết hợp với động từ sở hữu “của” (“Ơi con sông Ngàn Phố của tôi
ơi!” và “Ơi con sông Ngàn Phố của hôm nay) cùng với sự sáng tạo của ca sỹ, được
chắp cánh từ giai điệu mang âm hưởng mượt mà, dịu ngọt của dân ca Nghệ - Tĩnh,
tạo nên âm ba du dương, lắng sâu và da diết như đăm đắm, day dứt; như bâng
khuâng, luyến nhớ và tự hào trước biến cố của thời gian “vật đổi sao dời” và cảm
thức của lòng người. Rồi cũng từ chính hai khổ thơ ngắn ấy, người nghệ sĩ như
muốn níu thời gian từ thuở hồng hoang trở về với hiện tại để cho “con sông Ngàn
Phố” hôm nay không còn là một hiện tượng tự nhiên hoang sơ nữa mà thực sự trở
thành một nhân vật trữ tình, được tác giả cách điệu hóa thành “Em” – “Em sông
Ngàn Phố" (?). Một sự phi lý trong logic đời sống nhưng lại thật có lý trong
nghệ thuật. Rất táo bạo mà cũng thật dễ thương! (chứ) “Em sinh khi mô thì tui
đây nỏ biết”). Có lẽ (tất cả chúng ta) cũng chỉ có thể biết rằng con sông Ngàn
Phố khởi nguồn từ phía tây thuộc dãy Trường Sơn còn “sinh khi mô” thì đố ai mà
biết được(?!). Cái quá khứ thuở “khai thiên lập địa” với hiện tại đã vượt lên
không gian và thời gian vô định để xích lại gần nhau bởi cụm từ “chỉ biết”. “Chỉ
biết bây giờ xanh biếc những bờ cây” mà thôi. Còn ngoài ra, chỉ là sự tồn tại
khách quan!
Mô típ “chứ” mà ta thường gặp trong ví giặm Nghệ - Tĩnh (giặm:
chêm, thêm, xen, giặm vào những chỗ trống, thưa (giặm lúa) như: “Em ơi (chứ)
khoan vội bực mình”; (chứ) “giận thì giận mà thương thì thương”; (chứ) khi tui
chưa đánh thằng Mỹ, thì nghe đồn ngược đồn xuôi…” v.v…Và khi đến “Một khúc tâm
tình của người Hà Tĩnh” thì đã được nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sử dụng rất “đắc địa”
ở câu mở đầu: (chứ) “Đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh…” và lần này trong ca khúc “Ơi
con sông Ngàn Phố” lại được Trần Hoàn phát triển hết sức linh hoạt. Mặt khác,
việc đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “tôi” ở câu đầu được tác giả tinh tế chuyển
ngay sang tiếng địa phương Hà Tĩnh “tui” ở câu thứ hai, kết hợp việc sử dụng với
tần số cao các phương ngữ khác như “khi mô”, “nỏ biết” tạo nên tính đậm đặc của
ngôn ngữ xứ Nghệ trong một câu hát, gây cảm hứng thích thú cho người nghe: (chứ)
“Em sinh khi mô thì tui đây nỏ biết”.
Như vậy, từ việc kết hợp tinh tế chất liệu dân đến cách vận dụng
rất khéo những phương ngữ Nghệ - Tĩnh như “khi mô”,“nỏ”, “mần răng”,“bây giờ”
v.v…, người nghệ sĩ đã cùng ta đi từ quá vãng xa xưa trở về với cuộc sống hôm
nay bằng hai khổ thơ tiếp theo rất giàu tính tự sự với yếu tố kể nhằm “điểm
danh” những vùng “địa linh”, những “nhân kiệt”, “hiền tài” đậm chất sử thi, đã
đi vào sử sách; gợi nhớ về một thời chưa xa mà mảnh đất và con người Hà Tĩnh phải
gồng mình lên, bám đất quê hương để mà tồn tại, để mà sống và làm nên lịch sử,
làm nên Đất Nước. Hơn một lần chúng ta đã từng được gặp những địa danh, những
con người như thế trong ca khúc “Mời anh về Hà Tĩnh”: “… vào tận Đèo Ngang rồi
vòng lên Chu Lễ… ghé Đức Thọ, Hương Sơn; Can Lộc vào Cẩm Xuyên; Thạch Hà ra Hồng
Lĩnh… qua huyện Nghi Xuân,… thăm mộ Nguyễn Du;… lên đồi Cụ Phan,… qua nhà Trần
Phú…”.
Đây không phải là sự trùng lặp, mà là trước đó, trong “Mời
anh về Hà Tĩnh”, nhạc sĩ muốn thể hiện cảm xúc trào dâng của mình, nhưng chưa
nói hết, đến ca khúc này, ông lại gợi nhắc và nhấn mạnh thêm một lần nữa như để
khẳng định, để tự hào và thưởng thức:
Tôi đi từ chợ Thượng, tôi ngược bến Tam Soa
Như con thuyền ngày xưa, tôi đi theo Ngàn Phố
Hương Sơn quê mình đó, có Nước Sốt, Cầu Treo
Dãy núi Nầm cheo leo, quanh năm trầm mặc
Tôi đi giữa đồng lạc, qua viếng mộ Lãn Ông
Gặp đường Hồ Chí Minh, vắt ngang con đường Tám…
Những tên đất, tên người được tác giả nêu lên ở đây đâu chỉ
là những nơi ghi dấu chiến công trong quá khứ dựng nước và giữ nước! Đó còn là
những địa chỉ văn hóa và những vùng kinh tế mở trong thời “hội nhập”, “mở cửa”.
Đó là bến Tam Soa (ba dải lụa) nơi hợp lưu của Ngàn Sâu, Ngàn Phố để đổ vào
dòng La thuộc địa phận xã Tùng Ảnh, Đức Thọ - vùng “địa linh” với biết bao
“nhân kiệt” như Phan Đình Phùng, Trần Phú… Rồi Nước Sốt, Cầu Treo là nơi khởi
nguồn và là tiềm năng cho những vùng kinh tế mới. Giai điệu trầm lắng như thủ
thỉ, tâm tình; như lời ru ngọt ngào da diết; như hoài niệm mà cũng rất mực tự
hào, muốn gọi mời khách thập phương hãy về với “Hương Sơn, Ngàn Phố, Nước Sốt,
Cầu Treo…”
Nếu như ở đoạn trên là âm hưởng nhẹ nhàng dàn trải và lắng
sâu thì đến đây, nhịp điệu và tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập như để khắc hoạ
hình ảnh dòng sông nơi thượng nguồn, có độ dốc lớn, nước chảy xiết hơn, câu hát
như được tách ra làm tư với nhịp 3/2 và 2/2 tạo sự dứt khoát, gấp gáp như nhịp
chèo trên sông Ngàn Phố:
Tôi đi từ/ chợ Thượng/ tôi ngược bến/ Tam Soa
Như con thuyền/ ngày xưa/ tôi đi theo/ Ngàn Phố
Hương Sơn/ quê mình đó /có Nước Sốt,/ Cầu Treo
Dãy núi Nầm/ cheo leo/ quanh năm/ trầm mặc……
Ai đã từng lên Hương Sơn nếu đi đường bộ, sẽ phải qua ngã ba
Nầm. Trong kháng chiến chống Mỹ, đây thuộc tuyến đường mòn Hồ Chí Minh, con đường
huyết mạch đã trở thành “túi bom” mà giặc Mỹ điên cuồng ngày đêm dội xuống hòng
cắt đứt sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Giờ
đây trên đỉnh núi Nầm tọa lạc một nghĩa trang Liệt sỹ hoành tráng, nơi yên nghỉ
cho những người con của quê hương Hà Tĩnh, của Mẹ Việt Nam đã hy sinh vì Tổ quốc
và nghĩa vụ quốc tế cao cả đối với nước bạn Lào. Bởi vậy mà dãy núi Nầm càng
thêm “trầm mặc” và thiêng liêng! Chất liệu dân ca vùng quê Nghệ Tĩnh đã quyện lại,
lắng sâu vào từng ca từ, được nhạc sĩ xử lý một cách linh hoạt và uyển chuyển tạo
nên tiết tấu đậm đặc âm sắc chất giọng xứ Nghệ. Khổ thơ cuối như một dấu lặng,
khép lại cảm xúc trước lúc đạt tới cao trào và độ viên mãn khi người nghệ sĩ vận
dụng chất liệu “gừng cay, muối mặn” trong câu ca dao “Muối ba năm, muối đang
còn mặn; Gừng chín tháng, gừng hãy còn cay” để chỉ một Ngàn Phố hay nói rộng ra
là một Hà Tĩnh hôm nay đã đổi mới và đi lên cùng đất nước. Đã “đàng hoàng, to đẹp
hơn” nhưng vẫn luôn giữ một điều không bao giờ thay đổi, đó là tình người sâu nặng,
thủy chung, nghĩa tình, son sắt. Và ta bắt gặp ở đây một sự so sánh cũng thật
đơn sơ, dung dị “Ngàn Phố của hôm nay, gừng vẫn cay, muối vẫn mặn. Mà nghĩa
tình càng sâu nặng, như con cá mát với bát chè xanh...”
Hương Sơn nổi tiếng với nhiều đặc sản quý hiếm như lộc nhung
hươu, như cam bù, mật ong rừng cùng nhiều lâm sản quý… vậy nhưng nhạc sĩ chỉ chọn
hai sản vật bình dị nhất đó là “con cá Mát” và “bát nước chè xanh” để bộc bạch
tấm lòng của người dân Hương Sơn, Hà Tĩnh mình chân quê mà nặng tình, chung thủy.
Đơn sơ mà rất đỗi bền chặt, sáng trong! Điều đó đã cắt nghĩa vì sao đôi chân
người nghệ sĩ cùng tất cả những ai đến với Hương Sơn, trong giờ phút chia xa cứ
như bị níu giữ, không thể nào “dứt áo ra đi” nổi “Đã đến giờ xa nhau, đã đến
phút chia tay; Mà răng đi nỏ được! Mà răng đi nỏ được?” Điệp cú pháp “Mà răng
đi nỏ được?! Mà răng đi nỏ được?” đã được ca sĩ thể hiện bằng sự kéo dài và luyến
láy không dứt âm ba đó, tạo nên sự dùng dằng, day dứt để cuối cùng bật lên cảm
xúc dâng trào, trong niềm kiêu hãnh và tiếc nuối khi phải chia tay: “Ngàn Phố của
tôi!”
Chưa có may mắn được biết danh tính của người thể hiện
ca khúc này nhưng tôi thật sự xúc động, tự hào và cảm ơn cô gái - ca sỹ đã chắp
cánh cho bài hát “Ơi con sông Ngàn Phố” được thăng hoa trong bầu trời âm nhạc.
Bài hát đã ghi thêm vào danh sách những ca khúc tuyệt vời, hát về quê hương Hà
Tĩnh yêu dấu của chúng ta!
Có rất nhiều nhạc sĩ viết về những dòng sông và có rất nhiều
dòng sông được các nhạc sĩ thể hiện và gửi gắm bởi nhiều cung bậc tình cảm say
đắm khác nhau của lòng mình, nhưng “Ơi con sông Ngàn Phố” của nhạc sĩ Trần Hoàn
là nhạc phẩm có một tiếng nói riêng, một cảm xúc riêng, là bản tình ca sâu lắng
mà dâng trào như những nhịp sóng, mãi vỗ dào dạt vào bến bờ tâm khảm của người
nghe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét