Hình
ảnh mùa thu trong
ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến

Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà thơ mới đang có một
khoảng cách. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm
đà chân thực dù tác giả có gửi gắm vào trong thơ ít nhiều tâm sự. Thơ thu của các
nhà Thơ Mới từ Giọt lệ thu (Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) đến Đây mùa
thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi
gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng khuâng trước đất trời đã chuyển sang
thu.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo
và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ.
Cả ba bài đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi
bài là một phác thảo với nét bút của nền hội họa phương Đông, không rườm rà lòe loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo. Nhà thơ - họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta
về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỷ này vào độ
sang thu.
Thu vịnh phác họa khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa
thu.
Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể:
trên một ao thu, vào một chiều thu, một ông già trên chiếc thuyền câu thả mồi đợi
cá.
Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau
để thâu tóm những nét nên thơ nhất.
Cảnh thu trong Thu vịnh đã được nhà thơ phác họa như
thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả cảnh. Biên độ
không gian và thời gian không hạn chế: một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm
trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời (c1-2), nước (c3), trăng (c4), hoa (c5)
có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút nhưng điệu thơ, hồn thơ
thì đã vượt khỏi khuôn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý… của nét bút thơ và họa
cổ điển.
Hình ảnh mùa thu trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến
Nét thu quán xuyến tất cả là bầu trời không ủ dột, quẩn
quanh, tù túng mà cao vời vợi, cao ngất mấy tầng, cao hút tầm mắt… và thăm thẳm
màu xanh huyền diệu. Giữa thu bao la ấy, một khóm tre xa xa từ thôn vắng lả ngọn
theo làn gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển càng tô thêm sắc thu: Cần trúc lơ phơ gió
hắt hiu như làm sống động bầu trời vốn tĩnh lặng
Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm
đã vén hay vào buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm “long
lanh đáy nước in trời”; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng tạo nên ảo ảnh màn
khói mênh mông mà các nhà thơ cổ điểm thường gọi là “yên ba giang thượng” (khói
sóng trên sông). Trời thu và nước thu. Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc (trời
nước một màu) là như vậy.
Sau thu thiên, thu thủy là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu
trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng
hành chè tiên, nước ghín, nguyệt đeo về (Nguyễn Trãi); Một trăng, một bóng một
người hóa ba (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám: Vầng trăng vằng vặc giữa
trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song (Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thóc
mách Gương Nga chênh chếch dòm song (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến không
cài song để đón trăng và ngắm trăng chẳng biết trăng ở đây có đòi thơ Tam nguyên
Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ đòi thơ Hồ Chí Minh: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” - Nhật ký trong tù. Hẳn là chỉ có trăng thu mới thân quen với con người đến thế!
Bây giờ đến hoa thu. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”, ý
nhà thơ muốn nói: Mấy chùm hoa trước giậu đã nở từ năm ngoái nay lại đã trổ bông
chăng? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bốn loài hoa quý (lan, sen, cúc,
mai) chọn mùa thu để trổ hoa.
Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ từng trên không xa
tít vọng lại. Âm thanh không líu lo nhưng con chim oanh học nói trong tiết xuân
sang (Truyện Kiều) mà chỉ thoáng qua như nâng thêm tầm cao rộng rộng của không
gian hẳn là đàn ngỗng bay nhanh về phương nam để tránh rét, thường bắt gặp
trong kỳ thu muộn.
“Nhân hứng” mà tác giả đã vẽ xong bức tranh thu. Say theo cảnh
trí thơ mộng nhưng rồi chợt tỉnh. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào – ông Đào Bành
Trạch treo ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở về vui với cỏ hoa và non xanh nước biếc. Nguyễn
Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh nho Nguyễn
Khuyến “thẹn với ông Đào” bởi ông tự cho là mình từ quan hơi muộn?
Với Thu vịnh, chúng ta cảm thu bằng “nhân chứng” chung mà
nhà thơ để lại; với Thu điếu chúng ta có một thú vui nhỏ mà cũng rất
hấp dẫn.
Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao, lắm vũng. Có lẽ không
riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng nhất là các ông già, lúc rảnh
rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá, coi đó là một thú tiêu khiển chăng?
Đối với cụ Tam nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú.
Ông đẩy thuyền xa bờ để được đắm mình trong thiên nhiên bao
la trời nước một màu. Chỉ có câu kết nói đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu
ghi nhận những quan sát và cảm nhận của nhà thơ và cảnh vật đang diễn ra quanh
mình. Ở đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần điểm một
nét, cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và độc đáo. Ông kết hợp tuyệt diệu
hình ảnh và từ ngữ. Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì động và
gợi cảm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo: nước tinh kết và lạnh gây cảm
giác khẽ rùng mình. Thuyền câu vốn đã nhỏ bé khi nhập vào không gian bao la càng
trở nên bé xíu “bé tẻo teo”. Ngư ông dường như cảm thấy mình quá bé trước tạo
hoá!
Thuyền vừa xa bờ, cận cảnh dẫn đến một cảm giác thu mới: Phẳng
lặng trong xanh vốn là đặc tính của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế mà sau này
Tản Đà viết: Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây thành: Màu biếc xao động
khi gió thu khẽ khàng lướt qua. “Hơi gợn tí” nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá
già của cây cao gần bờ lìa cành “đưa vèo” xoay xoay giữa không gian theo chiều
gió… Gió thu là như vậy.
Bình giảng hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết: “Thật tài tình! Nhà
thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ gợn của
sóng: “tí”. Tác giả Đây mùa thu tới quả thật đã phát hiện đầy đủ tài nghệ của
Nguyễn Khuyến.
Chắc là sau khi đã buông câu, nhà thơ mới có dịp ngẩng đầu nhìn
trời và làng mạc vây quanh. Trời thăm thẳm một màu xanh, vài đám mây bạc lững lờ
trôi như tôn thêm độ cao xa của không giang (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt).
Đường đi lối lại trong thôn viễn rặng trúc uống lượn vòng vèo không ồn ào náo
nhiệt như những ngày mùa mà êm đềm u tịch. Nhà thơ “tựa gối ôm cần” chìm đắm vào
cảnh vật tựa sống trong mơ…
Câu kết thức Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Tiếng động của cá
đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực. Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiếc
thuyền nan mỏng mảnh.
Với Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về nhiều thời điểm
khác nhau để cảm nhận vẻ đẹp mùa thu.
Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngôi nhà xuềnh xoàng ở tận
sâu trong làng Và (Vị Hạ) nơi cụ Thượng quan hưu trí thường độc ẩm để tìm cách
lãng quên thế sự; bởi vì người xưa đã nói: “Chỉ có rượu mới phá được thành sầu”.
Từ “năm gian nhà cỏ” này ông nhập vào cảnh thu và quan sát những
nét thu khi về chiều, vào đêm tối hay buổi trăng thu viên mãn. Thu ẩm thường
diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không có bóng dáng buổi
mai hồng hay chính ngọ trong thơ thu. Phải chăng những thời điểm đó không hợp với
tạng của nhà thơ? Hai buổi đêm và một buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu
ẩm.
Một đêm không trăng dày đặc bóng tối trùm lấp đường ngõ, “lập
lòe” ánh sáng đom đóm vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè). Một đêm
khác trăng soi vằng vặc “bóng trăng vàng từ mặt nước ao lóe ra, bốn chữ một gợi
chất vàng [đang dàn trải] ba dấu sắc khứ thanh gợi ánh bắn đi từ loa gợi [vòng
tròn lan tỏa]” (Xuân Diệu). Nguyễn Khuyến dùng thần bút để cực tả đêm
thu.
Một buổi chiều nhẹ tênh từ “nhà cỏ” hay từ bếp nhà ai tỏa ra
làn khói lam chiều? Một nét thân thương và trìu mến biết bao! Và một buổi chiều
khác không còn “tầng mây lơ lửng”, chỉ có da trời ửng màu biếc bao la vô hạn. Nét
phác họa đặc thù này vốn là sở trường của Nguyễn Khuyến.
Phần kết, tác giả đã gửi gắm ít nhiều tâm sự: “Mắt lão không
vầy cũng đỏ hoe… Độ năm ba chén đã say nhè”. Đâu phải vô cớ mà mắt lão Nguyễn “đỏ
hoe”. Cũng không phải vô cớ mà lão uống ít say nhiều (say không tự chủ được
sinh lè nhè). Ông uống rượu để tiêu sầu nhưng sầu đâu có dứt!
Trong bộ ba thơ thu tuy tác giả không trực tiếp nói đến nhưng
vẫn không sao che giấu nổi: Tâm sự nước non đầy vơi dường như chi phối cả cuộc đời
và cảm hứng thơ văn của tác giả. Quý thay Nguyễn Khuyến!
Ba bài thơ thu là những viên ngọc quý trong vườn thơ Việt
Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất nước. Hình tượng và ngôn ngữ thơ đạt đến đỉnh
cao của sự giản dị mà đầy chất thơ. Từ nét bút tạo hình đến các thủ pháp nghệ
thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuốt, chính xác, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần
phong phú độc đáo (kể cả tử vận). kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế… cả ba
bài đều viết theo thể thơ Đường hoàn chỉnh nhưng người đọc không có cảm giác đó
là thể thơ ngoại lai. Nối gót nữ sĩ Hồ Xuân Hương và các nhà thơ Nôm lớp trước, Nguyễn
Khuyến đã góp phần Việt hóa đến kỳ tài thể thơ nhập ngoại này.
Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng được trao
giải nhất trong toàn bộ thơ về làng cảnh Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét