Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Mọi tác phẩm văn học đều dang dở

  Mọi tác phẩm văn học đều dang dở 
Tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo đặc biệt được hình thành qua quá trình lao động đặc thù của nhà văn. Dù muốn hay không, nó cũng phải mang dấu ấn sâu sắc của nhà văn. Hoạt động sáng tạo của nhà văn lại là hoạt động đặc biệt mang tính đặc thù không giống với bất kỳ hoạt động nào khác. Hoạt động này được thực hiện trong sự chi phối mạnh mẽ, sự tác động sâu sắc giữa các yếu tố đặc biệt. Đó là khả năng quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm…và đặc biệt là tài năng văn chương thực thụ.
Ai cũng có thể nhìn thấy mọi thứ đang hằng ngày diễn ra trong cuộc sống nhưng rồi họ sẽ quên mau như quên đi một ngày mệt mỏi sau một thoáng bâng khuâng, chỉ có nhà văn thì nhớ hoài, suy ngẫm mãi. Nó là biểu hiện của một bản chất nào đó chăng? Nó là sự khởi đầu cho một cái gì đó sẽ khiến con người ta đổi khác? Chúng trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng thúc đẩy khả năng tưởng tượng phong phú của nhà văn bay cao, bay xa vượt qua mọi giới hạn và chắp cánh cho nghệ thuật. Người nghệ sĩ hơn ai hết phải là người sở hữu một tâm hồn giàu cảm xúc. Nhà thơ Tố Hữu khẳng địng: “Thơ là tiếng nói của những tâm hồn đồng điệu”, Musset (Pháp) cũng khẳng định: “Hãy đập mạnh vào tim tôi / Thiên tài là ở đó.”
Tất cả đều nhấn mạnh vai trò của cảm xúc nơi trái tim con người khi sáng tác văn học. Nghệ sĩ là người có “trái tim mong manh” luôn dễ dàng rung lên bần bật trước mọi tác động dù là nhỏ nhất của cuộc sống và tự nhiên. Họ còn phải là nguời có trí tuệ sắc sảo. Họ không chỉ là người dẫn đường chỉ lối và định hướng cho những bước đi của nhân vật mà hơn thế họ là “nhà tiên chi” tiên đoán được những điều sẽ xảy ra, có thể xảy ra. Mỗi tác phẩm văn học được sáng tác trong một tình trạng tâm lý khác nhau, thậm chí chỉ một tác phẩm thôi nhưng cũng được sáng tác trong nhiều trạng thái tâm lý khác nhau.
Người nghệ sĩ bao giờ cũng làm việc trong sự kết hợp giữa trí tuệ và cảm xúc, trí tuệ là cái bất biến và luôn ổn định nhưng cảm xúc thì không như vậy. Nó biến động rất phức tạp nhưng chính nó là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa những người lao động nghệ thuật và những người lao động bình thường khác. Người nghệ sĩ chỉ làm việc khi có cảm xúc, đôi khi là sự lắng đọng tới tận tiềm thức. Thường thì cảm xúc luôn vượt ra ngoài tầm kiểm soát của trí tuệ, trí tuệ trở nên bất lực trước cảm xúc. Đúng như Victor Huygo tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Nhà thờ đức bà Pari” khẳng định: “Tình yêu có những quy luật riêng mà trí tuệ không thể hiểu được”. Chính vì thế tác phẩm văn học là sự đan xen, sự kết hợp một cách tinh vi giữa yếu tố thực và yếu tố ảo. Trong đó xuất hiện nhiều khoảng trống, khoảng lặng hay những khoảng mờ nhạt mơ hồ. Bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có những đoạn bị bỏ ngõ trong tình thế lửng lơ giữa đôi bờ hư thực do quy luật của cảm xúc, cùng những đòi hỏi nghiêm ngặt của nghề văn. Chính điều này làm cho mọi tác phẩm văn học đều trở nên khiếm khuyết mơ hồ và dở dang. Cái ranh giới của sự bắt đầu và kết thúc trở nên nhạt nhòa như sương khói. Bản thân “tác phẩm văn học là vật có ý hướng” thì làm sao hạn định được cái ý hướng ấy sẽ đi tới đâu và dừng lại ở đâu? Đành rằng sự đan sen giữa yếu tố thực và hư, giữa những khoảng trống, khoảng lặng và khoảng mờ và cả những đoạn bỏ ngõ lửng lơ đều tồn tại trên cái phương tiện là ngôn ngữ. Nhưng nếu cố tình bám víu vào ngôn ngữ để mong tìm thấy cái giới hạn cuối cùng của tác phẩm văn học thì hoàn toàn thất bại bởi “ngôn ngữ là ngôi nhà của hữu thể” (Roman Ingarden, Trên đường đến với ngôn ngữ). Ngôn ngữ là phương tiện thẩm mĩ nhưng bản thân nó cũng tồn tại một cách độc lập tương đối.
Đừng ngây thơ đến mức đi tìm một sự kết thúc của tác phẩm văn học trên văn bản văn học. Trong cái văn bản ấy có hàng ngàn vấn đề bị bỏ ngõ, bị treo lửng lơ, có hàng vạn khoảng trống, khoảng lặng và khoảng mờ âm u. Những điều tác giả khao khát được người đọc hiểu nhưng nhất định không chịu nói mà để cho nguời đọc tự tìm hiểu và phát hiện ra thông qua những điều khác đã được mã hóa có trong tác phẩm. Phải chăng đó là bản chất của sáng tạo nghệ thuật, bản chất của văn học? Hay vì tác giả sợ như sợ tình yêu sẽ chết? Vì “tình yêu là một con quỷ, cho nó ăn no nó sẽ chết để cho nó đói khát nó sẽ sống lâu”. Muốn cho nó không chết, chỉ còn cách duy nhất là để cho nó đói khát, thèm muốn và phải từng phút từng giây lê lết đôi chân của mình đi kiếm tìm sự sống. Ngay cả khi ta nhìn thấy tác giả đã đặt dấu chấm hết cho văn bản văn học của mình, thậm chí án ngữ ngay cuối văn bản là một vệ binh khổng lồ và lạnh ngắt “The end” thì nó cũng không phải là dấu hiệu của sự kết thúc mà thực ra lại là dấu hiệu của sự bắt đầu, bắt đầu cho sự đối thoại (Đối thoại giữa người viết và người đọc). Bắt đầu quá trình giải mã văn bản, nó mở đầu cho một đời sống văn học và khi có đời sống văn học, văn bản mới trở thành tác phẩm văn học.
Hãy từ bỏ ý định, từ bỏ mong muốn tìm thấy cái giới hạn cuối cùng của tác phẩm văn học bằng văn bản văn học bởi “không bao giờ ta đạt tới giới hạn bằng văn bản”. Đó là còn chưa kể đến bản chất, đến tính độc lập tương đối và khả năng tạo nghĩa của ngôn ngữ - cái vật liệu xây dựng nên văn bản văn học, tác phẩm văn học.
Hoạt động đọc cũng không phải là hoạt động tiếp thu một cách thụ động một chiều. Nó cũng là hoạt động sáng tạo có vai trò quan trọng không kém gì so với hoạt động sáng tác nên người đọc cũng cần có sự nỗ lực tương đương với người viết trong suốt quá trình tiếp nhận. Quá trình đọc là quá trình lấp đầy những khoảng trống, khoảng lặng, khoảng mờ... Mức độ và hiệu quả của công việc này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thẩm mĩ, trình độ học vấn, tình cảm, tâm lý của người đọc...
Trong vô số vấn đề có trong tác phẩm, người đọc thấy tâm đắc với vấn đề nào nhất, yêu thích vấn đề nào nhất vì nó hợp với tâm lý, với nhu cầu thẩm mĩ của họ nhưng thực tế là trong khi xây đựng vấn đề ấy chính nhà văn cũng không thể nào kiểm soát được giới hạn của nó, không thể khống chế được chiều hướng phát triển của nó. Cái giới hạn của chỉ một vấn đề nhỏ trong tác phẩm đã là vô định, thử hỏi làm sao người đọc có thể cụ thể hoá nó một cách rõ ràng như lấy nước đổ đầy một cái lu? Trong khi đó chính người tạo ra nó cũng bất lực khi buộc phải chỉ ra nó bắt đầu và kết thúc ra sao, khi nào. Chính các nhà văn khi đánh giá lại tác phẩm của mình cũng phải thừa nhận: Không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại sáng tác được như thế. Khi nói về cùng một tác phẩm của mình, nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói hoàn toàn khác nhau thậm chí trái ngược nhau ở hai nơi khác nhau, hai thời điểm khác nhau. Trong quá trình tiếp nhận văn học không thể nào có được sự trùng khít giữa người viết và người đọc dù chỉ là trong một vấn đề nhỏ, một khía cạnh đơn giản nhất của tác phẩm văn học.
Cái khoảng trống, khoảng mờ, khoảng lặng... trong tác phẩm văn học xem ra không thể nào được lấp đầy vì nó được tạo ra bằng chính những khoảng trống, khoảng lặng… trong tâm hồn nhà văn. Tuy vậy bản thân chúng lại tạo nên bản chất của văn học, ở đó đời sống văn học bắt đầu và sự sống được duy trì. Điều gì sẽ xảy ra khi tất cả các khoảng trống được lấp đầy, các khoảng mờ được làm rõ, các đoạn bỏ ngõ được nói rõ? Có lẽ giống như cái mênh mông của không gian vũ trụ được chụp vào một bức tranh, đóng khung lại và treo bất động trên tường. Xem như tác phẩm văn học đã được cấp “giấy chứng tử”, tất cả kết thúc ở đây. Hoạt động cụ thể hóa đã hoàn thành vì không còn gì để tiếp tục...
Tác phẩm văn học phải có một đời sống riêng và để duy trì được đời sống ấy tự bản thân nó phải luôn đòi hỏi sự bổ sung nghĩa. Giống như cơ thể con người luôn có nhu cầu được cung cấp thức ăn, nước uống và không khí để thở hằng ngày hằng giờ. Chỉ khác là cơ thể con người thì tồn tại trong một giới hạn còn tác phẩm văn học thực thụ thì tồn tại vĩnh viễn luôn đòi hỏi sự bổ sung và không bao giờ vươn tới được cái giới hạn cuối cùng.
Nguyễn Thanh Tuấn
Nguồn:VĂN NGHỆ TRẺ
Theo http://www.bichkhe.org/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thế Là Thế Nào Trần Phúc Bảo An - 19 tuổi - Khoa Đạo diễn. Tự lập, lạnh lùng, đẹp trai, tài năng”. Những đứa con gái Sân khấu Điện ảnh...