Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng
Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô
hạn của cụ đối với chính mình đối với tha nhân, đối với xã hội thì đó
là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không nói đến Phật giáo thì đó
cũng là một thiếu sót quan trọng, vì toàn bộ sự nghiệp văn thơ của cụ đều
phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho người
hậu thế. Vì vậy cho nên khi nghiên cứu về văn thơ của cụ thì bắt buộc chúng ta
phải biết về nhân sinh của chính cụ và qua quan niệm khổ của Phật giáo. Theo
giáo lý của đức Đạo sư thì nền tảng căn bản của việc học Phật được đặt trên ba
học Giới-Định-Tuệ, cho nên Thiền định được coi như là một pháp môn tu học chung
cho cả hai thừa Đại và Tiểu trong việc hoàn thiện ba nghiệp thân-khẩu-ý thanh tịnh
để chấm dứt khổ đau mà đức Đạo sư đã căn cứ vào những hiện tượng duyên khởi-hiện
hữu-vô thường-biến dịch của nhân sinh và vũ trụ mà xác nhận rằng: “Thế gian là
giả tạm, bất toàn, trống rỗng, là đau khổ”. Ngay đến những trạng thái mà người
đời cho rằng hạnh phúc an vui cũng luôn bị luật vô thường chi phối nên chúng chỉ
là những trạng thái có được giả tạm không thật hữu, nên chúng cũng thuộc về đau
khổ. Do đó, đau khổ bao gồm tất cả mọi ý nghĩa được quan niệm có được phát xuất
từ ba phương diện:
Khổ-khổ (Dukkha-dukkha), hoại-khổ (viparināma-dukkha), và
hành-khổ (samkhāra-dukkha) [ba phương diện này chúng tôi đã giải thích phần dẫn
nhập], bằng vào giải thoát khổ đau do ba nghiệp sinh ra, khi hành giả đạt được
giải thoát hoàn toàn khổ đau thì tự nhiên an lạc hạnh phúc hiển bày.
Và theo cái học của Thiền thì gồm có: Thiền Thế gian, và Thiền
Tiểu thừa - Thiền Đại thừa (Như lai Thiền) cuối cùng là Thiền của Tối thượng thừa
(Tổ sư Thiền). Ba loại Thiền trước được y cứ vào văn tự của kinh điển để học và
thực tập, nhưng riêng Tối thượng thừa Thiền thì không y cứ vào văn tự của kinh
điển thông thường mà chỉ tạm mượn những kinh nào khế hợp với căn cơ bén nhạy tạo
ra những nghi tình bất hợp lý đối với thế trí biện thông của thế gian, cộng với
những duyên sống để khai mở những vướng mắc của vô minh khổ đau cho hành giả mà
thôi, nên Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đã chủ trương “Dĩ tâm truyền tâm, bất lập văn tự. [1]”. Ở đây Nguyễn Du tiên sinh
cũng đã từng học Thiền và thực tập thiền qua kinh Kim cương (một quyển Kinh mà
Thiền tông Trung hoa mượn làm duyên, để y cứ cho những người mới bước chân vào
Tối thượng thừa Thiền thực tập của Hoàng Mai ngũ tổ và, cũng nhờ Kinh Kim cương
mà Tổ Huệ Năng thành vị tổ sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa [2]. Nhưng vì sao tiên sinh đã từng thực tập
Thiền bằng cách độc tụng tư duy về kinh Kim cương hàng nghìn lần mà cũng vẫn
chưa ngộ được chỗ rốt ráo của kinh, trong khi chỉ qua cái nhìn lại “dưới chân
đài phân kinh” của Thái tử Lương Chiêu Minh xưa kia còn để lại, thì ngộ ra được
cái bổn lai diện mục rốt ráo của Kinh Kim Cương chính “Vô Tự” thị chân kinh (Tối
thượng thừa Thiền)? Thật ra ở đây cụ Tiên Điền, nếu trước đó đã không độc tụng
hàng nghìn lần kinh Kim Cương thì chưa chắc qua cái nhìn đó cụ có thể ngộ ra được
chỗ rốt ráo của kinh được! Nhưng chính nhờ đã huân tập hàng nghìn lần về nghi
tình “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm, 應無所住而生其心”[3] (nên sinh tâm mình vào nơi không có
chỗ trụ). Vậy nơi nào là nơi không có chỗ trụ? Đây chính là cái nghi tình được
tạo ra bởi thiền Công Án hay Tham Thoại Đầu của Tổ sư Thiền mà cụ đã
được huân tập kinh qua đến mức vừa đầy; bây giờ chỉ cần giọt nước cuối cùng đổ
vào nghi tình đó thì cái nghi tình đó sẽ bùng vỡ. Ở đây chính cái nhìn lại “Dưới
chân đài phân kinh” là giọt nước cuối cùng để Tiên sinh ngộ ra được “Vô tự”
chính là chân kinh, cũng chính là không chỗ trụ. Giờ đây đích thị Nguyễn Du
tiên sinh đã trở thành một Thiền sư. Nhưng trước khi để trở thành một Thiền sư
thì Nguyễn Du tiên sinh trước đó cụ đã kinh qua những năm tháng dài độc tụng tư
duy, nghiền ngẫm về kinh Kim Cương, và trước đó nữa tuy chúng ta không biết được
cụ đã học tập những kinh sách nào được ghi lại qua văn thơ, nhưng qua tư tưởng
Phật giáo, mà cụ đã thể hiện trong văn thơ để lại ngoài truyện Kiều ra, cho
chúng ta thấy rằng Phật giáo Tiểu thừa đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cụ qua
nhân quả báo ứng của mỗi cá thể được thay thế bởi mệnh Trời, thể hiện tư
tưởng nhân duyên sống của nhân sinh, qua đó chúng bị luật vô thường luôn chi phối
đổi thay. Mệnh Trời ở trong truyện Kiều chỉ là một tiền đề được cụ nêu lên để đại
diện cho một quan niệm của Nho giáo, bằng vào nhân bản tính qua tác nhân tạo
nghiệp của con người theo luật tắc nhân quả báo ứng của Phật giáo mà phủ định
đi tính siêu hình Định mệnh hay Thiên mệnh của Nho giáo, điều này nếu không muốn
nói là điều sai lầm của Nho giáo mà cụ nhìn ra được. (việc này chúng tôi sẽ bàn
kỹ qua nghiên cứu truyện Kiều).
Qua tiểu sử của cụ, ngoại trừ mười năm của thời thơ ấu an ổn
sống trong vòng tay của mẹ và gia đình tại Thăng Long, nhưng sau đó những biến
cố cứ mãi dồn dập đổ lên đầu cậu bé Nguyễn Du: mười tuổi cha mất, mười hai tuổi
mẹ lại qua đời không gì bất hạnh và đoạn trường hơn là làm đứa trẻ mồ côi cả
cha lẫn mẹ vào cái tuổi đang còn ham chơi, đang cần chỗ nương tựa… và cũng từ
đó bắt đầu cụ nếm mùi thăng trầm khổ ải tủi nhục trong nương nhờ ở tạm
từ nơi này qua nơi khác và, cũng luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của những người
thân. Việc đổi thay triều đại, việc lên voi xuống chó chỉ trong tích tắc và, những
hậu quả đầy khổ đau tất yếu theo sau qua chánh báo (cá nhân) cùng y báo (gia
đình-xã hội), đã nói lên được tính vô thường khổ đau luôn hiện hữu qua cuộc sống
nhân sinh và riêng cá nhân cụ. Hơn bốn mươi ba năm còn lại trên cõi đời, trong
khoảng thời gian này, ngoài mười năm giang hồ cát bụi, sống xa mái ấm gia đình
lúc nào cụ cũng mang một nỗi buồn đau rộng lớn, thương mình, thương những người
thân, thương cho những đồng loại phải chịu đày đọa khổ cực. Cửa nhà tan nát đổi
thay trong kiếp người bên cạnh những đổi thay của ngoại cảnh thiên nhiên, thời
thế loạn lạc chia ly, kế sinh nhai mịt mờ phía trước, thân phận ăn đậu ở nhờ tủi
cực khôn nguôi, nỗi lo lắng luôn dằn vặt trong nếp tư duy suy nghĩ, đến nỗi mới
ba mươi tuổi trên đầu mà tóc trắng bạc phơ, tư tưởng muốn sống nơi vắng vẻ vô sự
cũng bắt đầu xuất hiện:
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Tư tưởng muốn xuống tóc vào rừng ở ẩn làm một người vô sự trước
cuộc sống là một dấu hiệu tự quy hướng vế chính mình để dọn đường cho việc
nghiên cứu Phật pháp và thực hành độc kinh Phật, trở thành một hành giả tu tập
thiền sau này của cụ. Tư tưởng này xuất hiện trong khoảng thời gian mười năm
lưu lạc giang hồ cát bụi đã hình thành qua những kinh nghiệm sống, kinh qua
trong những đắng cay khổ nhục của cuộc sống lưu đày rày đây mai đó của một thân
lữ thứ trên quê hương rộng mà không có nhà, có thể đây là thời gian từ năm
1786-1795. Sau mười năm lưu lạc giang hồ cụ đã trở về sống với núi rừng dưới
chân núi Hồng Lĩnh bên dòng Lam giang và, cuối cùng cũng không tránh được phải
ra làm quan với một thái độ bất đắc dĩ, để từ đó cụ ghi lại cuộc đời mình qua
những vần thơ chữ Hán đầy thương đau và buồn chán, nghiệt ngã cho chính mình và
tha nhân cùng xã hội. Những hình ảnh cụ ghi lại qua thơ văn không ngoài cái
quan niệm vô thường-khổ-không của Phật giáo như trên chúng tôi đã trình bày đối
với cuộc đời qua khổ-khổ, hoại khổ, hành khổ, đầy ngậm ngùi đớn đau, đầy xúc động
trong một cái nhìn sâu xa từ hiện tượng đến bản chất của chúng. Cái nhìn tận
căn đẽ này chính là cái nhìn chánh kiến của Phật giáo, từ mê qua ngộ. Khi là mê
thì các pháp trở thành pháp thế gian, pháp hữu lậu, pháp khổ đau; còn khi chúng
ta ngộ ra rồi thì các pháp này trở thành pháp xuất thế gian, pháp vô lậu, pháp
an vui giải thoát.
Từ một cậu bé tuổi vừa lên năm đã theo gia đình về quê nội tại
Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh dưới núi Hồng Lĩnh, cạnh sông Lam, khi cha mình
cáo lão từ quan về quê vào năm Tân mão 1771 [4]. Đây là dấu hiệu mở màn của bước chân đầu
cho những bước phong trần khổ ải sau này của cụ. Sau khi cậu bé Nguyễn Du theo
cha và gia đình về quê thì, năm năm sau người cha mất đi và, tiếp hai năm nữa
là mất luôn cả người mẹ thân yêu. Bây giờ cậu bé Nguyễn Du thật sự đã trở thành
trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ; mới mười hai tuổi đầu mà cậu bé phải chịu một nỗi mất
mát đớn đau đoạn trường đến thế thì cuộc đời của cậu sẽ ra sao sau này?
Đây là những ký ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những năm biến động sau này cho cả gia đình và cá nhân cậu bé. Những hình ảnh đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ là người đã trải qua và kinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:
Đây là những ký ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những năm biến động sau này cho cả gia đình và cá nhân cậu bé. Những hình ảnh đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ là người đã trải qua và kinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:
“Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,
憶 昔 吾 翁 謝 老 時
飄 飄 蒲 駟 此 江 湄
仙 舟 激 水 神 龍 鬥
寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛
一 自 衣 裳 無 覓 處
兩 隄 煙 草 不 勝 悲
百 年 多 少 傷 心 事
近 日 長 安 大 已 非
(Giang Đình hữu cảm)
Dịch:
Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
Tấp nập ngựa xe bến sông này.
Thuyền tiên rẽ nước rồng giao đấu,
Lọng quý trên không hạc gieo lành.
Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
Khói cỏ đôi bờ chịu bi thương.
Cận nhật kinh thành nhiều khác lạ,
Trăm năm nhiều ít chuyện thương tâm!
Qua bài thơ này Nguyễn Du tiên sinh đã ghi lại những kí ức những
cảnh tượng đã xảy ra khi cha cáo lão từ quan về làng, khi mình còn là một cậu
bé vừa lên năm nào ngựa xe trên bến dưới thuyền, cờ lọng quý che phủ rợp trời
cho đến khi áo xiêm lộng lẫy không còn tìm thấy nữa và, những biến động gia
đình xảy ra sau đó; mọi việc vô thường đều đổi thay một cách nhanh chóng, từ
hình thức trạng thái tâm lý này đổi sang hính thức trạng thái tâm lý khác. Ngay
đến khói cỏ bên đôi bờ đê không còn xanh nữa mà đã theo lòng người bi thương
không kém và, những biến động khác thường nơi kinh đô cũng thay đổi. Lòng người
thay đổi, thế sự đổi thay. Từ những thay đổi này: nếu là lìa xa những người
chúng ta thương yêu quí mến như cha mẹ, anh chị em, bà con quyến thuộc bạn
bè và, những hoàn cảnh yêu thích của ta (thuộc về ái biệt ly);
cùng những gì mà chúng ta mong muốn đạt được: như mong cùng chung sống với
nhau, không chia lìa ngăn cách, nhưng chúng không thuận tình với mong ước
của chúng ta (thuộc về cầu bất đắc) thì, tất cả những điều đó mang đến
cho cá nhân Nguyễn Du tiên sinh và cả cho chúng ta những điều đau khổ thương tâm
hết.
[1] 以心傳心。不立文字(Đ.T. 48,
trang 03713b13 Huyết mạch luận, Thiếu thất lục môn).
Trên là những nét chấm phá về cuộc đời long đong chìm nổi khổ
đau mà Nguyễn Du tiên sinh đã kinh qua và nhìn thấy ngay trong cuộc sống của
chính mình và tha nhơn trong xã hội. Trước hết cá nhân tiên sinh đối với với
gia đình anh em họ hàng thân thích và, nơi quê hương cố chủ; vì biến cố gia
đình: cha mẹ mất sớm sau đó mang đến tình trạng gia đình ly tán, thậm chí đến
nơi ở cũng không còn nữa. Ngay bản thân của Nguyễn Du tiên sinh phải cậy nhờ
vào anh em cùng những thân nhân khác mà sống lay lất qua ngày. Thời gian ly tán
này (ái biệt ly) là một thời gian tạo ra những biến động về tâm lý cho cậu bé
Nguyễn Du, một cảm thức đau khổ về nỗi chia ly và một mặc cảm ăn nhờ ở đậu sinh
ra đau buồn và hận cho chính thân mình không làm gì được trong khi đầu đã bạc
mà thời gian cứ qua đi:
“… Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên …”
鴻 嶺 無 家 兄 弟 散
白 頭 多 恨 歲 時 遷
(Quỳnh Hải nguyên tiêu) [1]
Dịch:
… Hồng Lĩnh không nhà anh em vắng,
Bạc đầu hận lắm tháng năm qua…
hay:
“ … Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.”
故 鄉 弟 妹 音 耗 絕
不 見 平 安 一 紙 書
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
… Đệ muội quê nhà bặt âm tín,
Thư báo bình an chẳng thấy nào!
Từ ly tán cửa nhà, anh em mỗi người mỗi ngả theo sự thăng trầm
của chánh báo và y báo, vì vậy tin tức quê nhà và cả anh em cũng bặt vô âm tín.
Đây là một thứ tình cảm mong muốn được tin nhau, được gặp lại nhau mà không được
nên mang bộ mặt “Cầu bất đắc”, thì sẽ sinh ra khổ đau, từ đó:
“ … Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thinh sơ…”
一 片 鄉 心 蟾 影 下
經 年 別 淚 雁 聲 初
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
… Bao năm lệ biệt đầu tiếng nhạn
Một tấm lòng quê nhớ dưới ánh trăng…
Hay:
“ … Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm…”
羈 旅 多 年 燈 下 淚
家 鄉 千 里 月 中 心
(Xuân dạ)**
Dịch:
… Bao năm làm khách đèn chong lệ,
Nghìn dặm quê nhà trăng dõi tâm …
Lệ nhỏ dưới đèn, dưới trăng biểu hiện cho hình ảnh cụ Nguyễn
Du đang là người lữ khách sống nương nơi quê người, một thân một mình cô độc
vào những lúc nhớ nhà, nhớ quê, nhớ người thân mà không được toại nguyện trong
việc gặp lại nên phải âm thầm chịu đựng nỗi dày vò thương nhớ khổ đau. Nó là
hình ảnh giải tỏa nỗi nhớ nhung khổ nhục qua giọt lệ âm thầm rơi dưới đèn dưới
trăng; chỉ có đèn và trăng là vật chứng giám nỗi niềm riêng tư cho lữ khách.
Cho dù cụ lúc nào cũng nghĩ nhớ đến quê nhà, nhưng không có cách nào để giải
quyết nỗi nhớ thương đó nên đành chấp nhận nó như chấp nhận nỗi bất hạnh của
chính mình:
“… Hành nhân hồi thủ xứ,
Vô ná cố hương sầu.”
行 人 回 首 處
無 那 故 鄉 愁
(Tái du Tam Điệp sơn)**
Dịch:
“… Người đi quay đầu nhìn quê cũ,
Đành vậy! thương sầu cố hương thôi.”
Đành chấp nhận thân tàn xin gởi quê người, vì thân xác này trở
thành trở ngại cho việc đi đứng trở về thăm quê, nhưng hồn người, tư tưởng người
không phải là vật có chất ngại nên tự do tự tại trong việc đi về thăm viếng cố
hương. Đây cũng là một hình thức để an ủi và chia sẻ làm vơi đi nỗi thương nhớ
vì xa quê:
“… Đỗ vũ nhât thinh xuân khứ hỉ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.”
杜 宇 一 聲 春 去 矣
魂 兮 歸 來 悲 故 鄉
(Ngẫu thư công quán bích I)**
Dịch:
… Một tiếng cuốc kêu xuân đã qua,
Hồn ơi về lại, thương cố hương.”
Và cứ như vậy nỗi thương nhớ quê nhà cứ dày vò tâm hồn và
thân xác cụ như vậy là mười năm trường, vẫn là kẻ khách lữ phong trần tha
phương cầu thực, sống bám nhờ vào người, trong khi trên đầu tóc bạc lại bạc
thêm:
“Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia…”
十 載 風 塵 去 國 賒
蕭 蕭 白 髮 寄 人 家
(U cư II)**
Dịch:
Mười năm gió bụi quê xa cách,
Tóc bạc phất phơ cậy nhà người…”
Mười năm gió bụi khổ đau thương nhớ cũng đủ đề cho cụ nhìn rõ
ra được chân tướng của cuộc đời qua khía cạnh “ái biệt ly” là khổ, “cầu bất đắc”
là khổ. Đây chỉ mới là hai khía cạnh của tám khía cạnh khổ theo đức Đạo sư đã dạy.
Trong thời gian mười năm giang hồ cát bụi và, những năm còn lại trên cõi đời cụ
còn có những nỗi khổ khác nữa được thể hiện qua trong cuộc sống như: Sống, già,
bệnh, tử [2],
oán thù đối mặt nhau, năm uẩn không đều hòa. Đây là những hiện tượng tất yếu phải
kinh qua của đời người cho bất cứ một cá nhân nào hiện hữu thì phải bước qua
và, chúng cũng trở thành những nguyên nhân đưa đến những kết quả khổ đau khác
trong cuộc đời mà cá nhân cụ và mọi người phải gánh chịu: Hoàn cảnh loạn lạc của
chiến tranh cũng đưa đến chia lìa chết chóc người thân, tan nát nhà cửa về gia
đình cũng như xã hội về mặt kinh tế, chúng là hậu quả của “Oán tắng hội” sinh
ra đau khổ đổ lệ u hoài cho kiếp người;
“… Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
Ngư long lãnh lạc nhàn thu da,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.”
桑 梓 乒 前 千 里 淚
親 朋 燈 下 數 行 書
魚 龍 冷 落 閒 秋 夜
百 種 幽 懷 未 一 攄
(Bát muộn)**
Dịch:
… Bà con dưới đèn vài tin nhắn,
Quê nhà binh lửa, lệ rơi xa
Đêm thu tịch mịch cá rồng lặng
Trăm mối u hoài một chưa vơi.”
[1] Tổng tập Văn Học Việt nam trọn bộ 42 tập (tập
14,) trang 622.
[2] Tử ở đây mang ý nghĩa sống chết trong từng sát-na một. Chỉ
cho sự sống chết thay đổi nhau của những tế bào để tạo nên sự tiến
hóa, kể cả tâm lý thay đổi. Sự thay đổi này chính là sự sống chết thay nhau
trong từng giây từng khắc. Nếu không có sự thay đổi này thì con người sinh ra
lúc nào cũng vẫn là một giọt máu, không có những hiện tượng trẻ lên ba, trẻ lên
mười, để trở thành thiếu niên, thanh niên và cuối cùng già yếu và chết đi. Ở
đây nói đến tính hiện hữu của Duyên khởi tánh không của cuộc sống.
Ai trong chúng ta không lo không sợ cho những người thân yêu
của mình trước cơn binh lửa nơi quê nhà, khi chúng ta từ nghìn dặm xa không
giúp gì được cho họ, chỉ biết cầu nguyện và dùng nước mắt của mình để tạm vơi
đi niềm đau khổ đang dày vò; trong khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè và sợ sệt
lẫn nhau khi ở quê người.
“… Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn …”
異 鄉 養 拙 初 防 俗
亂 世 全 生 久 畏 人
(U cư I)**
Dịch:
… Quê người tỏ vụng phòng thế tục,
Đời loạn luôn sanh sợ mọi người…”
Đây là một kế sống an toàn dành cho những nạn nhân tha hương
của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ làm đối tượng cho mọi sự đối đầu
thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn lạc cũng có thể đưa người về cõi chết
hay tù tội, điều đó chúng ta không thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ
Tiên điền Nguyễn Du cũng là nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang
hiện hữu trước mắt cụ vào lúc bấy giờ mà ra:
“ … Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm …”
四 海 風 塵 家 國 淚
十 旬 牢 獄 死 生 心
(Mỵ trung mạn hứng)**
dịch:
Gió bụi khởi khắp nơi, lệ nước nhà,
Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên sinh mới có đủ thời gian để ngồi
tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ
chết, đó là một thứ tâm lý bình thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự
không biết ngỏ cùng ai, vì nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng
Lĩnh, đó chính là nỗi khổ tâm của cụ:
“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”
我 有 寸 心 無 與 語
鴻 山 山 下 桂 江 深
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Ta có tấc lòng không biết bày tỏ cùng ai,
Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới núi Hồng.
Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà không biết đem nó ra để bày
tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm khó nói ra, hay là cái sâu thẳm
không ai dò biết được như đáy dòng sâu Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn
Du chúng ta có thể hiểu theo nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và
cũng có thể: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó
là những nỗi đau của riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau
chung của mọi người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong những
trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhân tai), mà còn nữa: Nào là
cái đau khổ vì thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta bất cứ giờ
phút nào:
“… Cố hương hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
十 口 孩 兒 菜 色 同
(Ngẫu hứng IV)**
Dịch:
… Cố hương hạn hán hại nhà nông,
Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…
Một thân một mình nơi tha hương đất khách, nhưng cụ vẫn canh
cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà lâm vào thiên tai hạn hán mất
mùa, không đủ cái ăn cái mặc, thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu
do thiếu ăn. Và có gì đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt
giường, còn phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà
đang réo gọi nữa!
“… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành động …”
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
一 身 臥 病 帝 城 東
(Ngẫu đề)**
Dịch:
… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành sơn,
Một thân nằm bệnh, đông kinh thành …
Một thân một mình nơi đất khách lại bị bệnh, người thân không
có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành âm thầm chịu đựng với con bệnh
cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những ngày xuân:
“Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…”
長 途 日 暮 新 遊 少
一 室 春 寒 舊 病 多
(U cư II)**
Dịch:
Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…
Trong khi sống nơi đất khách quê người thân thì nhiều bệnh tật,
tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật
càng ngày càng tăng chứ không giảm và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm,
càng ngày bệnh càng trầm trọng hơn:
Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”
多 病 多 愁 氣 不 舒
十 旬 困 臥 桂 江 居
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng thông…
Không có buồn nào bằng cái buồn người bị bệnh nặng mà không
người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ
Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành
bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian
phá tan màng u ám cho nhân loại được nhờ:
“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
An đắc huyền quang minh nguyệt hiện,
Dương quang hạ chiếu phá quần âm.”
十 年 夙 疾 無 人 問
九 轉 還 丹 何 處 尋
安 得 玄 關 明 月 見
陽 光 下 照 破 群 陰
(Ngọa bệnh II)**
Dịch:
Mười năm tật bệnh không người hỏi,
Tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần?
Mong hiện ánh sáng trăng màu nhiệm,
Ánh dương chiếu xuống phá quần âm.
Qua những bài thơ trích đoạn ở trên, chúng tôi chỉ trích ra một
ít trong những số bài thơ chữ Hán được cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào
những khổ đau buồn thương nỗi nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của
gia đình trong loạn lạc chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ,
thiên tai hạn hán, chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ
Nguyễn Du cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến
khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống đầu người,
chúng có thể nhìn thấy rõ được:
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
xuân lan thu cúc thành hư sự,
hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
壯 士 白 頭 悲 向ẻ 天
雄 心 生 計 兩 茫 然
春 蘭 秋 菊 成 虛 事
夏 暑 冬 寒 奪 少 年
(tạp thi I)**
Dịch:
Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu bạc,
Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
Xuân lan thu cúc thành chuyện huyễn,
Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.”
Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn
đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình
ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu
đã bạc lại bạc thêm. Đây là những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang kinh
qua và chứng kiến trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới
ba mươi tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành qua
bài thơ “tự thán” cụ viết;
“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”
生 未 成 名 身 已 衰
蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹
(Tự thán I)**
Dịch:
Sống chưa thành danh thân đã suy
Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.
Chính vô thường mang lại cho chúng ta cái khổ đau. Qua đó, vì
tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi (tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện
tượng, vật chất chung quanh cuộc sống chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô
thường) chúng ta không giữ được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta
đã thấy qua những lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương
nhờ nơi Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân
đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân qua bài
Xuân nhật ngẫu hứng.
“… Nam phố thương tâm khan lục thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai ...”
南 浦 傷 心 看 綠 草
東 皇 生 意 漏 寒 梅
(Xuân nhật ngẫu hứng)**
Dịch:
Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
Nhưng còn những nguyên nhân gián tiếp mà chúng ta trong nhất
thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên
ngoài đến bản chất bên trong, đó chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm
chính cho mọi bất toàn trong cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao
nhiêu là khổ nạn cho kiếp người:
“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.”
古 今 未 見 千 年 國
形 勢 空 留 百 戰 名
莫 向 清 華 村 口 望
疊 山 不 改 舊 時 青
(Vị Hoàng doanh)**
Dich:
Nước nghìn năm xưa nay chưa thấy,
Hình thể mất, còn danh trăm trận.
Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa nữa,
Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.
Triều đại nào tồn tại nghìn năm chúng ta chưa thấy! Ngay đến
doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay
hình thể quân trại không còn nữa, mà chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng
xảy ra trăm trận chiến thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng
Điệp sơn vẫn còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ
thay đổi, nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. cũng giống
như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ còn dân tộc đất
nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống có những thay đổi
bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng cũng có những biến đổi tinh
thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó thuộc về vô hình. còn hiện tượng thì
luôn tùy thuộc vào thời gian mà thay đổi như:
“Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
Môn yềm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”
桃 花 桃 葉 落 紛 紛
門 掩 斜 扉 一 院 貧
住 久 頓 忘 身 是 客
年 深 更 覺 老 隨 身
(U cư I)**
Dịch:
Hoa lá cây đào rơi lác đát,
Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu xiêu.
Ở lâu quên hẵn mình là khách,
Năm tháng càng qua thân càng già…”
Những hiện tượng như lá đào hao đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu
chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái thay đổi của nó; nhưng thời gian qua
đi thì chúng ta khó mà hình dung được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ
nhìn được qua kết quả của nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng.
Thời gian vô thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người đến mọi vật
xung quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá cây
trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v… không gì
không bị biến hoại thay đổi:
“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư…”
十 載 塵 埃 暗 玉 除
百 年 城 府 半 荒 墟
(Bát muộn)**
Dịch:
“Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
Thành quách trăm năm nửa hoang tàn…”
Hay:
“…Thành quách suy di nhận sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải…”
城 郭 推 移 人 事 改
幾 處 桑 田 變 滄 海
(Long Thành cầm giả ca)**
Dịch:
Thành quách đổi thay việc người đổi,
Vô thường biến đổi luôn tạo ra những cú sốc đau cho những người
cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn
bất diệt mà nuôi lớn lòng tham lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ
nô lệ cho chúng mà đẻ ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta,
nhưng cuối cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ
hai bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự vật
là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:
“Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.[1]”
古 時 明 月 照 新 城
由 是 昇 龍 舊 帝 京
衢 巷 四 開 迷 舊 跡
管 弦 一 變 雜 新 聲
千 年 富 貴 供 爭 奪
早 歲 親 朋 半 死 生
世 事 浮 沈 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星。
(Thăng Long 2)
Quách Tấn dịch:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ
Danh lợi quyền lực là những món mồi khá hấp dẫn đối với những
ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn
lòng tham lợi, tham danh, tham quyền lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi.
Nhưng có ai trong chúng ta được cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều
hơn, cao hơn để bỏ đầy túi tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng
ta là “được voi đòi tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là
để thỏa mãn lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở
hữu cá nhân mình, gia đình mình… Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ nhọc
cay đắng càng theo sau và, những oán đối cũng tùy theo đó mà hình thành tạo
thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn được gì sau
khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:
“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”
伯 圖 泯 滅 千 年 後
古 墓 荒 涼 三 尺 秋
(Á phụ mộ) [2]
Dịch:
Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
Nghiệp bá tan tành sau nghìn năm.
[1] Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973.
trang 170
[2] Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn
học 1996.
Sở dĩ cụ Nguyễn Du tiên sinh đã giữ được thân mình trong cát
bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái nhìn tinh tế và sâu thẳm đối với cuộc
đời cũng như đối với các sự vật chung quanh cuộc sống, đó là cái nhìn trong vô
thường bến dịch vẫn còn có cái thường còn không biến đổi, nó chính là bản thể của
sự vật. Tuy mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị vô thường biến khác
nhung bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không trường tồn. Chúng vẫn
trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào, chúng vẫn hồng như mọi buổi
chiều ráng hạ, chỉ có sắc màu (của ráng chiều thì lúc nào cũng màu hồng,
lá của cây rừng thì lúc nào cũng là một màu xanh, ánh sáng mặt trời mặt
trăng vẫn sáng như ngày nào) là không đổi:
“Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.”
無 窮 今 古 傷 心 處
依 舊 青 山 夕 照 紅
(Mạn hứng II)**
Dịch:
Điều thương tâm xưa nay vô cùng tận
Núi biếc như xưa chiều chiếu ráng hồng.
Đọc qua thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du chúng ta gặp những bài
thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường biến hoại luôn có cái thường còn bất biến
mà đạo Phật thường gọi là “Vô thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ trên Nguyễn
Du tiên sinh cho chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của hiện tượng giới
của sự vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường tồn bất biến của bản
thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng không bao giờ thay đổi bất
cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng sáng như màu nguyên thỉ; hay lá
cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh của những ẩn dụ cho những chân
lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo nhà Phật, hay:
“… Ðạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…”
達 人 心 境 光 如 月
處 仕 門 前 青 假 山
(Tạp ngâm 2)**
Dịch:
Tấm lòng đạt nhân vầng trăng sáng,
Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.
Chính nhờ có cái nhìn muôn vật giữa cuộc đời này nó mang ý
nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật giáo nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc nào
cũng sống trong khổ đau của cuộc đời mà cụ vẫn không bị cuộc đời quật ngã, vẫn
hiên ngang sống. Người đạt đạo, nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh với vầng
trăng sáng, với màu xanh của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn dụ cho
chân lý, cho tấm lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên môn của Phật
giáo gọi là: “Tâm vô phân biệt” là “Chân tâm” là “Tâm vô sự”.
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa cụ về với Phật một cách tự
nguyện và tự biến thành mình là hành giả tu tập thiền định sau này. Qua mười
năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã kinh qua trong đau thương tiếc nhớ
khi lăng lóc giữa cát bụi phong ba của cuộc đời: Một mặc dù cụ nhìn thấy rõ bộ
mặt thật của cuộc đời trong khổ đau qua vô thường-khổ-không theo quan điểm của
Phật giáo và mặt khác cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn
xuống tóc vào rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật
và thực hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:
“ … Mãn cảnh giai không hà hữu tướng…”
滿 境 皆 空 何 有 相?
(Đề Nhị Thanh động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Trước hết, từ khi cụ nhìn ra được hiện tượng và bản chất của
mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư tưởng muốn xuống tóc ẩn tu làm người vô
sự đã đưa cụ đến việc học Phật và thực hành theo những lời Phật dạy tùy căn cơ
có được của mình. Thật ra ở đây không ai biết được cụ đã học Phật từ bao giờ và
học ở đâu? để đẻ ra cái kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền, để có thời gian huấn tập và ngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh Thái tử phân
kinh thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh Phật cũng giống
như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo vào lúc nào và học những
kinh sách nào, học ở nơi đâu? với cuộc đời năm chìm bảy nổi lênh đênh từ nơi
này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm manh áo cũng đủ đứt hơi rồi huống chi là
học hành; thế mà theo như tiểu sử của cụ cho chúng ta biết rằng cụ đã từng đi
thi và đỗ tam trường trong một kỳ thi Hương và sau đó cụ không đi thi tiếp nữa!
Thì việc học Phật của cụ cũng vậy, chỉ biết qua bài thơ chính cụ làm ra qua bài
“Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” Như vậy cụ đã tập Thiền Công án
qua hàng nghìn lần độc tụng về Kinh Kim Cương và cũng đã ngộ được bản Kinh này
qua “Vô tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi nghĩ thì có thể cụ bắt đầu học Phật
Khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng thời gian mười năm giang hồ gió bụi
của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ tâm sự chán đời muốn xuống tóc vào rừng ẩn
tu cũng trong khoảng thời gian này.
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.”
何 能 落 髮 歸 林 去
臥 聽 松 風 響 半 雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Có lẽ đây là giai đoạn quyết định chuyển mình cho một bước đi
mới sau này của cụ. Theo chúng tôi trong hiện tại hoặc sau này, việc cụ không
tiếp tục theo đuổi con đường thi cử để thực hiện “chí cỡi mây” của mình theo
cái học của Nho gia vào lúc bấy giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ gởi
cho cụ khi cụ còn lưu lạc trong đó có câu: “Tự hữu lăng vân chí” (Người vốn
có chí cỡi mây) có hai lý do: Thứ nhất nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt thật
của hiện tượng (vô thường-khổ đau) cùng bản chất của mọi sự vật là không, do
nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định không tiếp tục
con đường khoa hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác với triều đình
Tây Sơn nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào đi nữa thì đây vẫn là
quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm người vô sự: “nằm nghe tùng hát
gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ cũng bắt đầu chuyển đổi cho việc học Phật
và thực hành sống theo nếp sống vô sự của Phật, vì cụ đã nhận thức rằng:
"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
悵 望 紅 塵 渺 無 際
不 知 日 日 此 中 行
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)**
Dịch:
Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
Sớm chiều trong đó bước quẩn quanh.
Vì lợi danh quyền lực cuối cùng cũng chỉ mang đến khổ
đau và trói buộc chân chúng ta vào vòng dây oan nghiệt chạy quanh suốt đời mãn
kiếp trong chốn hồng trần không bao giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì chúng
ta không biết bước đi như thế nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của vòng
luân hồi lẩn quẩn đó. Giờ đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một vị Tăng an
nhiên thả giấc ngủ dưới những làn mây cô đọng chung quanh giấc cô miên lãng
đãng trong rừng núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan biểu hiện lên sắc thái tự tại
thong dong trong cuộc sống:
"… Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
停 雲 處 處 僧 眠 定
落 口 山 山 猿 咡 哀
一 炷 檀 香 消 慧 業
回 頭 已 隔 萬 重 崖
(Vọng Quan Âm miếu)**
Dịch:
Mây đọng nơi nơi Thầy an giấc,
Chiều xuống non non vượn kêu thương.
Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp tuệ,
Quay đầu đã cách vạn trùng nhai.
Ở đây chỉ cần biết quay đầu lại là bờ giác ngộ giải thoát,
chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn trùng trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt
lý thể thì sinh tử tức là Niết-bàn, khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay đầu
tức là ngộ, là Phật, là vô lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu tức là
mê, là chúng sanh, là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê chúng sanh
mà hiểu Phật thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:
“ … Sắc không cảnh giới mang bất ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma …”
色 空 境 界 茫 不 悟
癡 心 歸 佛 佛 生 魔
(Phân Kinh thạch đài)**
Dịch:
… Cảnh giới sắc không, mê chẳng biết,
Tâm mê hiểu Phật, Phật thành ma…
Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách yếu của phương cách tu hành
và, cũng từ đó hành giả theo Phật có thể thực hành để đạt được sự thể ngộ chân
lý qua cuộc sống bằng vào thực hành tu tập để đạt đến trạng thái hư linh không
tịch rỗng rang này, chứ không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để nói về
cảnh giới Phật, cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ cũng chỉ là
kiến thức mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê như Kinh Viên
Giác đức Đạo sư đã dạy ngài Kim Cang Tạng rằng:
Kim Cang Tạng đương tri Như
Lai tịch diệt tánh
Vị tằng hữu chung thỉ Nhược
dĩ luân hồi tâm
Tư duy tức toàn phục Đản
chí luân hồi tế
Bất năng nhập Phật hải Thí
như tiêu kim khoáng
kim phi tiêu cố hữu Tuy
phục bản lai kim
Chung dĩ tiêu thành tựu nhất
thành chân kim thể
Bất phục trùng vi
khoáng Sanh
tử dữ Niết-bàn
Phàm phu cập chư Phật Đồng
vi không hoa tướng
Tư duy do huyễn hóa Hà
huống kết hư vọng
Nhược năng liễu thử
tâm Nhiên
hậu cầu Viên Giác.
“ Kim Cang Tạng nên biết Như
lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ Nếu
dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới Phật Cảnh
Phật thành luân hồi
Phật tánh tuy sẵn
có Phải
tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn
có Phải
lọc quặng mới thành
Khi đã thành vàng
y Không
trở lại làm quặng
Sanh tử và Niết
bàn Phàm
phu cùng chư Phật
Thảy đều như hoa đớm Tâm
suy nghĩ đã huyễn
Nên lời nói cũng huyễn Làm
sao nhập được chơn
Nếu rõ được tâm
này Mới
cầu được Viên giác. [1]”
Nếu muốn có cuộc sống bình an vô sự theo cụ Nguyễn Du thì cần
phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư linh), sau đó chúng ta làm gì cũng
không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết chúng ta phải thực hành ngay trong cuộc sống:
“ … Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.”
羨 殺 北 窗 高 臥 者
平 居 無 事 到 虛 靈
(Ký hữu)**
Dịch:
… Muốn làm người nằm cao nơi cửa bắc
Sống yên vô sự đạt đến hư linh.
Khi mà con người sống bình an vô sư thì chính đó là cuộc sống
của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang, không bị cái gì trói buộc được. Đó là
một điều mà ai là người tu Phật cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy và, ở
đây cụ Nguyễn Du cũng vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống bình yên
vô sự như hình ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:
“… Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như …”
山 僧 對 竹 兩 無 恙
牧 豎 騎 牛 一 不 如
(lạng sơn đạo trung)**
Dịch:
… Sư bên khóm trúc vô sự cả,
Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng trâu…
Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư núi và khóm trúc bên nhau
nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức khác nhau không liên quan, trên mặt
tinh thần cũng không can hệ với nhau, sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc có
cái thể hiện vô sự của nó; cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy mục
đồng đang nghêu ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về. Đây
là những hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc,
mà ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc sống. Vì
sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói buộc vào bất cứ điều
kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các duyên sống chung quanh,
nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhân tạo ra nghiệp của thế gian. Ở
đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách sống vô sự này qua:
“Bất sầu cửu lộ triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
不 愁 久 露 霑 衣 裔
且 喜 鬚 眉 不 染 塵
(Dạ hành)**
Dịch:
Tay áo dầm sương không ngại ướt
Mày râu, mừng chẳng nhiễm trần ai.
Những hình ảnh ẩn dụ của cụ đưa ra cho chính bản thân mình,
đó chính là bước đi giải thoát vô ngại của đạo Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời
chứ không phải lánh đời, mà vẫn sống, vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói chung
là vẫn làm tất cả mọi chuyện như người thế gian không khác; nhưng chỉ khác với
người thế gian là sống với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời trói buộc
qua tác nhân không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô ngã, vô pháp
thì đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói buộc. Đó chính
là lối sống của cụ:
“… Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
笑 啼 徇 俗 干 戈 際
緘 默 藏 生 老 病 餘
(Tạp Thi II)**
Dịch:
…Theo đời cười khóc qua thời loạn,
Già bệnh rồi im lặng yên thân.”
Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta lúc nào cũng trong sáng qua cuộc
sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống hay sống bằng cách vô sự, không nhiễm ô đời,
không để chuyện đời vướng mắc vào tâm mình, tức là chúng ta sống với tâm vô
phân biệt. Đó là lối sống với tâm không còn phân biệt chấp trước vào sự vật;
tùy duyên mà sống không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như chuyện khóc cười
theo đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để cho đời và thời
cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng ta bị trói buộc
vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta sẽ bị đau khổ vì
sự trói buộc đó. Đau khổ là hậu quả của mọi tác nhân tạo ra nghiệp do cuộc sống
của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một kinh
nghiệm sống của chính cụ qua tâm không sau khi nghiệp chướng được tiêu trừ:
“ … Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không …”
老 去 未 知 生 計 拙
障 消 時 覺 夙 心 空
(Thôn Dạ)**
Dịch:
… Già rồi vẫn còn vụng về sinh kế
Tâm không ở đây chính là tâm trong sáng, tâm vô sự, tâm chân
thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra đã được tiêu trừ rồi thì chính ngay lúc
đó chúng ta giải thoát được khổ đau và, cuộc sống của chúng ta cũng trở nên tự
tại an lạc được thể hiện, nên cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực hiện cho bằng
được tâm vô sự này.
[1] Đ. 17, No. 0842, Đại Phương Quảng Viên Giác
Tu-đa-la liễu nghĩa, trang: 0915c22 (HT. Thích Thiện Hoa dịch.)
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ nói đến cái quả khi chúng ta
tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không còn gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng
rang, hay bảo là tâm không, hiện tiền; nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói
chung, riêng cái nghiệp trí tuệ tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là
nghiệp của trí tuệ thiện thuộc pháp hữu lậu.
Như kinh nghiệm ở trên cụ Nguyễn Du đã cho chúng ta biết rằng:
Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm chúng ta trở nên rỗng rang không gì trói buộc,
đó là một kinh nghiệm tâm linh có được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ, để từ đó
cụ bắt đầu cho cuộc sống của chính mình qua:
“ … Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư …”
未 有 文 章 生 孽 障
不 容 塵 垢 雜 清 虛
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Chưa thấy văn chương sinh nghiệt chướng,
Không để bụi nhơ vấy rỗng trong.
Vì bụi nhơ chính là chướng nghiệp chúng có khả năng làm mờ đi
bản tính rỗng rang thanh tịnh của chúng ta, và mặc khác chúng kéo chúng ta vào
con đường sinh tử khổ đau. Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ với bụi
nhơ bằng cách không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta và, lấy
văn chương để tiêu khiển.
Vì chính văn chương không phải tự nó sinh ra chướng nghiệt,
mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra những nghiệp chướng bằng vào thân-khẩu-ý
làm công cụ cho ba độc tham lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn ngã chấp và
pháp chấp tạo ra mọi thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là nghiệp và, khi
nghiệp đã trừ đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong sáng, tinh thần nhẹ
nhõm an lạc tự hiện ra:
“… Tam lan song hạ ngâm thinh tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.”
三 蘭 窗 下 吟 聲 絕
點 點 精 神 遊 太 初
(ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Dưới cửa tam lan im bặt tiếng,
Tinh thần nhẹ nhõm đạo thái sơ.
Tức là chỉ cho trạng thái tinh thần lâng lâng nhẹ nhõm rỗng
rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi mà mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị
cắt đứt thì, tâm thần trở nên nhẹ nhàng thư thái lân lân, vì tâm lúc này không
bị ràng buộc bởi các duyên trói buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu cũng ảnh
hưởng đế sự ràng buộc lệ thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong sáng vắng
lặng. Đối với cụ Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên đối những cảnh
sắc bên ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, cho dù đó là việc
hoa nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay đâm chồi nẩy lộc, cũng
không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động nữa:
"… Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự
Tứ thời tâm kính tự như như".
葉 落 花 開 眼 前 事
四 時 心 鏡 自 如 如
(Tạp thi II)*
Dịch:
… Lá rụng hoa khai ngay trước mắt,
Cõi làng năm tháng vẫn không thay.
Tức là tấm lòng của cụ vẫn trong sáng rỗng rang như cái bản
lai diện mục của nó từ nguyên thủy chưa nhuốm bụi trần phiền não sinh tử vậy. Vì
trong hiện tại cõi lòng cụ được như như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm mình
vào thiền định. Có lẽ cụ đang tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có thể trụ
vào nơi không có chỗ trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt tủy của bản
kinh Kim Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung Quốc nói riêng cũng như
Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn
trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nỗ lực thực hành nó, cho nên tâm của cụ lúc nào
cũng ở trong nghi tình thiền định này:
"… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly Thiền...”
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
(Đề Nhị Thanh Động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng sao?
Thời gian mà cụ bắt đầu có ý muốn xa lánh đời để xuống tóc ẩn
tu là thời gian cuối những năm từ 1786-1795, lúc này cụ gần 30 tuổi và thời
gian mà cụ sống không lìa thiền đã thể hiện ra trong bài thơ này là vào những
năm 1802-1804 tức là khoảng 36 hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với đạo
Phật là khá sớm và, việc cụ tự nói lên sự tu tập đọc tụng kinh Kim Cương đến
hàng nghìn lần không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở ngoặc
một tí, vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình thức nào nhất
định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bản và mục đích cuối cùng
của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, để mọi người không tạo ra nghiệp
khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập cũng có rất nhiều cách: độc, tụng, học
hành, lễ bái hay làm bất cứ phương cách nào như chúng ta thường nghe là vô lượng
pháp môn tu, ở bất cứ nơi đâu, ở chùa hay ở tại thế gian cũng có thể tu tập được
hết, với mục đích là để làm cho ba nghiệp của thân-miệng-ý không tạo ra tác
nhân nghiệp và, dành cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó, chứ không phải chỉ
dành cho các vị xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một tỳ kheo ni mới gọi là
tu theo đạo Phật, còn những người không mang hình thức này không phải là người
của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp rất nhiều khi đọc những
bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam, khi viết về Phật giáo. Có
nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở chùa theo Phật mới gọi là những
người tu theo đạo Phật còn những tại gia không ở chùa thì không phải là người của
đạo Phật!.)
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn cho mình một phương pháp tu
cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của chính cụ cho nên Thiền Công Án là một
phương pháp Thiền Định làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý của cụ. Vì trong Thiền
Công Án này có nhiều cách để huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham thoại đầu
về nghi tình công Án này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng đi tụng lại
cho đến lúc miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập nhiều ngày,
nhiều tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn mạnh, chỉ cần
nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình sẽ bùng vỡ ngay,
đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như vậy, với mục đích là huân
tập đọc đi đọc lai làm cho nghi tình càng ngày càng lớn hơn và, cho đến lúc nào
đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ bùng vỡ, như trường hợp của cụ Nguyễn
Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch Đài là duyên cuối cùng, là giọt nước cuối cùng cho
nghi tình Kinh Kim Cương của cụ bùng vỡ. Có nhiều người nghĩ rằng đọc kinh
không phải tu, nhưng đó là một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh cũng là một phương
pháp cắt đứt hết mọi duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh và, việc định tâm
vào bản kinh chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm vào kinh thì mọi
duyên khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản kinh thôi. Lúc này
thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc bằng miệng như tụng,
chúng ta dùng mắt để đọc và miệng thì giữ im lặng; như vậy thì ba nghiệp
thân-miệng-ý chúng ta đang định vào trong kinh không tạo ra các nghiệp. Vậy là
ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta ngay lúc đó không tạo ra nghiệp dữ rồi, đó là một
cách tu trong muôn ngàn cách tu khác. Ở đây ai trong chúng ta bảo đọc không phải
là tu đây!!!? Tu chỉ có một cái nghĩa đơn giản là sửa và, thiền định là một
cách sửa tâm hay nhất đối với những người có căn cơ này. Việc lựa chọn kinh Kim
Cương để cụ Nguyễn Du tu tập bằng cách đọc kinh là một trong muôn nghìn cách tu
thiền định trong đạo Phật, với mục đích là để làm lắng động cái vọng tâm đang
lăng xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ, mà cắt đứt dần mọi thứ tạp niệm
của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác, miệng tạo tác. Lâu ngày chầy
tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở nên trong sáng rỗng rang trở lại.
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống như nước giếng xưa vốn vắng lặng
trong sạch không bị người khuấy động, trăng sáng chiếu soi thấy bóng rõ ràng,
vì đó là bản chất vắng lặng của nước. Nếu khuấy động lên thì chúng sẽ đục,
ánh trăng sáng sẽ không còn thấy được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy không
dao động trước mọi duyên thì với bản chất trong sáng thanh tịnh của nó thì tự
nó sẽ chiếu soi khắp cả và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua bà thơ ẩn dụ
đạo ý:
"Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
明 月 照 古 井
井 水 無 波 濤
不 被 人 牽 捨
此 心 終 不 搖
縱 被 人 牽 捨
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 井 水
(Đạo Ý)**
Trăng sáng chiếu giếng xưa
Nước giếng không gợn sóng
Không bị người khuấy động
Tâm này thật chẳng động
Nếu bị người khuấy động
Lay động rồi lại dừng
Một cõi tâm lắng đọng
Như trăng soi giếng xưa.
Thật ra đó chỉ là một thí dụ, cụ đưa để ví dụ cho tâm con
người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu được rằng tâm ta khi định một chỗ
thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng trong vắng lặng cũng giống như nước giếng
xưa nếu khuấy động làm cho nó đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết, còn nếu để
nguyên không khuấy động thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh nghiệm được
cụ rút ra từ cuộc sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ thường ngày
chúng ta không thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của chúng ta, mà
chỉ thấy hoàn toàn là những phiền não khổ đau làm cho chúng ta đau
khổ; tâm vật lý này luôn vô thường, luôn tạo ra cho chúng ta những thứ phiền
não khổ đau từ: xa lìa người thân, những vật mà mình đang sở hữu thuộc về của
mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ, thù oán, hoặc những vật mà
chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện trước chúng ta cũng tạo ra
những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn thuộc về chúng ta (vật chất lẫn
tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không được cũng làm cho chúng ta đau khổ; nói
chung là mọi thay đổi trong cuộc sống bất như ý chúng ta là mang lại cho
chúng ta những đau khổ. Chính những đau khổ này nó vấy đục tâm tư chúng ta,
nó làm cho tâm tư chúng ta tối tăm u ám như nước giếng xưa đang trong lành bị
chúng ta khuấy đục lên vậy, công dụng hiển thị sáng soi không còn nữa. Do đó
chúng ta muốn tâm chúng ta trong lành sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh
thần cho đến vật chất chúng ta chỉ cần không đắm nhiễm chạy theo nó để bị
trói buộc bị khuấy dục lên thì đó chính là tâm vô sự, đó chính là Phật, là
tâm không như cụ đã từng viết:
“… Phật bổn thị không bất trước vật…”
佛 本 是 空 不 著 物
(Phân kinh thạch đài)**
Phật vốn là Không, chẳng chấp vật.
Khi tâm chúng ta không chấp vào mọi sự vật chung quanh cuộc
sồng từ tinh thần cho đến vật chất thì đó chính là Phật. Phật này bản thể là
tính không, tướng của Phật là không vì sự hiện hữu của sắc thân nên Phật do
nhân duyên tích hợp mà tác thành, thân Phật này không có thực thể, nó chỉ là
một giả hợp của Năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp của
đất, nước gió, lửa (thuộc vật chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp của
tinh thần (thuộc tâm). Vậy thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên
hòa hợp là hiện hữu, nên sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh,
vì Phật chỉ là một giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì tâm
cũng không.
Vậy tâm chúng ta đục hay trong cũng từ nơi ta cả chứ không
ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, cho nên cụ khuyên chúng ta nên:
"… Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…"
人 了 此 心 人 自 度
靈 山 只 在 汝 心 頭
(Phân kinh thạch đài)**
Dịch:
… Người rõ tâm này, người tự độ,
Linh Sơn [1] chỉ ở nơi tâm người …
Vì thường thì chúng ta hay cầu Phật ở nơi bên ngoài chúng
ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, rất nhiều người nỗ lực tìm cầu Phật
bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính mình nơi mỗi người, đó là một cái nhìn vô
minh thiếu chánh kiến, nên lầm đường lạc lối cầu Phật bên ngoài. Theo cái
nhìn thấu tâm đạt lý của cụ Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản tâm của
mình rồi thì chính mỗi người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi vô minh mờ
tối của chính mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong sáng của chính
mình hiện hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào khác ngoài
chúng ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Du mà không biết chữ Hán hay không đọc
những tập thơ mà cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của cụ đã chịu ảnh hưởng
Phật giáo như thế nào mà viết về Nguyễn Du và Phật giáo thì, đương nhiên có
những cái nhìn tưởng tượng lệch lạc về vấn đề này. Qua những điều chúng tôi
trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo cụ không phải là người của Phật
giáo? không phải là người tu theo Phật nào?! Những điều chính cụ viết ra
không chịu hiểu không chịu đọc rồi ngồi đó tưởng tượng sai lầm rằng Nguyễn Du
ảnh hưởng tâm học của người này người kia v.v… đem áp đặt lên người cụ, trong
khi thơ cụ không có bất cứ chỗ nào đề cập đến chủ trương tâm học. Bởi vì “Người
rõ tâm này, người tự độ, Linh Sơn (chỗ Phật nói pháp) chỉ tại tâm ngươi”
không phải là “tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm” Tâm tức là Phật, Phật tức
là tâm sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta không nhận ra được tự tánh tâm
mình, không nhận ra bản lai diện mục của chính mình là vì chúng ta tìm Phật
bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp, từ nơi này đến nơi kia để tìm; nhưng
rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì người chỉ đi tìm cái bóng của mình không
thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi chính ta mà ta không biết, càng chạy
đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê hương xứ sở nguyên sơ của chính mình chỉ
vì vô minh phiền não che lấp nên không thấy đó thôi:
"Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
年 年 秋 色 魂 如 許
人 在 他 鄉 不 自 知
(Giang Đầu Tản Bộ)**
Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy
Vì mãi xa nhà không biết thôi.
Tóm lại qua những bài thơ mà chúng tôi đã trích dẫn trong
ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho chúng ta một cái nhìn đúng về nhà thơ
đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo trong đời sống “bất ly Thiền” hằng ngày của cụ,
là một nhà thơ vĩ đại không những là của Việt Nam ta không thôi, mà cụ còn là
một trong những nhà thơ vĩ đại nhất thế giới nữa. Cái vĩ đại của Cụ nhờ vào
hai yếu tố thứ nhất bởi một thứ trí tuệ nghiệp được huân tập di truyền từ nhiều
kiếp trước cộng với cái trí tuệ nghiệp được huân tập từ kiếp này, từ cuộc sống
qua đó Phật giáo là một tác động quan trọng đối cuộc sống của cụ, nhất là Thiền
tông là một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ khám phá ra bộ mặt thật của
chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ sáng tác ra những tác phẩm
mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều và Văn Tế thập loại chúng
sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ nhận thuyết Thiên mệnh của
Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự mình vươn lên trong cuộc sống
được:
“ … Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao. …” (Kiều)
Với quan niệm mệnh trời như vậy thì chúng ta còn làm được
gì, đành phải bó tay bó chân thôi!
“… Thôi đành nhắm mắt đưa chân.
Thử xem con tạo xoay vần ra sao?...” (Kiều)
Đúng là với quan niệm như vậy nó làm cho con người trở nên
yếu mềm, nhu nhược. Đây mới là quan niệm làm cho con người bi quan yếm thế của
Nho giáo đối với cuộc sống, chứ không phải quan niệm đời là khổ của Phật giáo
là quan niệm bi quan yếm thế như nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ là kết quả
khổ, phát sinh từ nguyên nhân, chính con người của mỗi cá nhân mang đến kết
quả đó mà thôi chứ đời không phải là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Vậy muốn quả
khổ này mất đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra khổ thì đời tự
nhiên hết khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi quan yếm thế như một
số người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở đây với quan niệm mệnh
Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới
được phần thanh cao thì, đây mới chính là quan niệm làm cho con người trở nên
bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc sống. Nhưng đó là quan niệm mệnh trời
của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền đề và, tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự
tác tự thọ, của Phật giáo qua nhân quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người
làm thì tự con người nhận lấy cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của
mệnh Trời kia. Thật sự nếu có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một
cán cân mà thôi:
“Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. …”(Kiều)
Như vậy thì Trời đâu có thiên vị và làm theo ý Trời được,
mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo ra mà theo đó mới bắt người chịu
những kết quả tương ứng với những tác nhân trước đó của họ. Vậy thì mệnh
Trời đã bị con người tước đoạt rồi, vì Trời nếu có, bây giờ chỉ làm một cán
cân, cần giúp cho con người trong việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế
nào thôi. Vì vấn đề nặng nhẹ có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con
người đại diện cho chữ tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng như
nhau trên mặt lý tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết luận
cho bài viết này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ hai,
bài kế tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.…
* Bài này trích một phần từ bài viết:
- Nguyễn Du “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
**Sách tham khảo:
- Tổng tập Văn Học Việt Nam tập 13, 14.
- Tố Như thi, Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn
1973.
- Nguyễn Du toàn tập, Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn
học 1996.
- Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm của Nguyễn Thạch
Giang và Trương Chính, NXB
Văn hóa thông tin.
[1] Linh Sơn: gọi cho đủ là Linh Thứu sơn, là chỉ cho núi
Linh Thứu nơi đức Đạo sư nói pháp độ sinh khi Ngài còn tại thế. Có hai thời kỳ
đức Đạo sư nói pháp ở nơi đây: Một, thời kỳ đức Đạo sư thuyết Kinh Pháp Hoa.
Hai, thời đức Đạo sư phó pháp cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp (theo Thiền tông) “Dĩ
tâm truyền tâm”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét