Hôm nay nhân ngày rảnh rổi, tôi xin bàn về đề tài văn thơ cho
vui. Trước hết, bàn về Bích câu kỳ ngộ. Thực ra, trong BCKN, Tú Uyên đã gặp
nàng rồi trước khi chàng ta sinh tương tư. Những ai quên câu chuyện, xin nhắc lại:
chàng là Tú Uyên chạy theo một thiếu nữ vào chùa, nhưng nàng biến mất. Đêm về
và mấy ngày sau, chàng ta mới sinh ra tương tư, nằm mơ thấy thần bảo ra cầu gì
đó để gặp nàng. Nhưng khi chàng ra đó thì chẳng thấy nàng đâu mà chỉ thấy một
người bán tranh, và trong tranh có hình một nàng mà chàng ta đã gặp hôm trước.
Thế là thành câu chuyện. Nói chung, cái motif của loại truyền thần kỳ này thì
cũng có trong các văn hóa khác. Tôi đọc đâu đó thấy ở Nam Hàn (bây giờ họ đổi
tên là Hàn Quốc), Nga, thậm chí Mỹ cũng có một câu chuyện tương tự.
Nghĩ cho cùng thì BCKN không có gì đặc biệt về mặt văn
chương, hay giá trị văn học. Thơ thì cấu trúc theo mẫu sáu-tám, rất phổ thông
thời đó (và thậm chí thời nay). Người bình thường mà chịu “đòn” cả ngàn câu thơ
được lặp đi lặp lại như thế thì quả là có kiên nhẫn lớn. Tôi mê Truyện Kiều lắm,
mê đến nỗi nhớ nhiều câu thơ trong đó, nhưng tôi chưa bao giờ đủ kiên nhẫn để
ngồi nghe cả 3000 câu thơ sáu-tám.
Tuy nhiên, câu chuyện BCKN còn tồn tại là vì, theo tôi, nó
cho một giá trị đạo đức (moral lesson). Để ý là sau này chàng Tú Uyên và nàng
Giáng Kiều (toàn tên đẹp!) bay cưỡi cá kình bay về trời. Kể ra thì đó là một
“happy ending”. Và chính cái tình tiết này nó nói lên một thái độ thoát li thực
tế. Câu chuyện xảy ra vào thời Nhà Lê, thời mà Nho giáo phát triển mạnh. Như vậy,
có thể tác giả (chẳng biết đích xác là ai) muốn chối bỏ lí tưởng Nho giáo để
theo đạo giáo chăng?
Chuyện nọ xọ chuyện kia: bàn về thưởng thức nghệ thuật. Thực
ra, đề tài này rộng lớn quá, nên tôi chỉ đưa ra vài nhận xét chung chung thôi,
chứ đi vào chi tiết thì sẽ bàn sau. Tôi nghĩ thưởng thức thơ nhạc như thưởng thức
một bài báo khoa học. Một bài báo khoa học gọi là “hay” phải có ít nhất là một
cái gì mới. Mới về cách đặt vấn đề, mới về phương pháp làm, mới về cách suy diễn
dữ kiện, mới về cách trình bày, v.v... đều là “mới”. Nếu một bài báo không có một
cái gì mới thì bài đó chỉ thuộc loại “me too”, chả có cống hiến gì vào tri thức
con người cả (và loại này rất nhiều trong medical literature). (Viết đến đây
tôi chợt nhớ đến một lời khuyên của một ông bạn: nếu anh là người “trí thức”, nếu
có cái gì mới thì phát biểu, còn không thì im. Nghe qua có vẻ khắc khe quá,
nhưng ông ta quả có lí.) Trong thơ nhạc cũng vậy; một bài thơ “hay”, theo tôi,
phải có một cái gì mới, không mới trong nội dung thì cũng mới về hình thức, chữ
nghĩa. Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là một tác phẩm “original”, nhưng
ngôn ngữ thì original, và cái giá trị lớn nhất của Kiều, theo tôi, là ở phần
ngôn ngữ.
Tôi thấy chúng ta quá dễ dãi trong việc thưởng thức nghệ thuật.
Hễ thấy câu thơ nào, hay đoạn nhạc nào phản ánh đúng tâm trạng mình là cho một
chữ “hay” ngay, mà không cần phân tích gì cả. “Anh ước gì nhà mình chung vách/
hai đứa mình thức trắng đêm nay” là hay vì tôi thấy nó nói đúng tâm trạng tôi,
vì nó mùi mẩn. Nhạc điệu tình tứ boléro là hay vì … dễ ca. Khi được hỏi tại sao
“hay” thì câu trả lời thường là “Tôi thấy hay thì tôi CẢM thấy nó hay”. Chữ “cảm”
là từ chủ đạo ở đây. Tức là, cái hay ở đây trở thành phi tiêu chuẩn. Mà đã phi
tiêu chuẩn thì sẽ có loạn. Tôi rất ngán kiểu phán xét này, bởi vì nó không dẫn
đến một cái gì mới. Thành ra, theo tôi, nghe nhạc để giết thì giờ thì không nói
làm gì, nhưng nếu nghe nhạc mà không chịu khó phân tích thì cũng uổng công lắm.
Nhưng phân tích thì cần phải có lí thuyết và một cái mà tôi gọi là “conviction”
(không chắc dịch ra tiếng Việt làm sao). Đó là nói cái chuẩn “hàn lâm”.
Nhưng nhiều người vẫn thưởng thức nghệ thuật, vẫn cảm thấy
“hay”, dù họ không có lí thuyết hay conviction gì cả. Nhìn một người phụ nữ như
nàng Cindy Crawford chẳng hạn, ai cũng thấy nàng “đẹp”, dù hàng triệu người
khán giả có ai có trang bị lí thuyết gì đâu! Nhưng rõ ràng là nàng đẹp, và cái
chuẩn tàng ẩn phía dưới cái “đẹp” đó là cái chuẩn chung. Vì thế, tôi nghĩ ngoài
phân tích ra, người ta còn phải đi tìm cái tập hợp của số đông đó để cho ra một
cái chuẩn. Nói tóm lại, cái chuẩn có thể đến từ số đông, nhưng cũng có thể đến
từ một sự tiền phong của giới hàn lâm, khoa bảng.
Bây giờ quay sang nhạc và thơ. Trong tiếng Việt mình, trong
nhiều trường hợp thơ và nhạc quyện vào nhau một cách khó phân biệt nổi. Trong một
bài phân tích về nhạc Trịnh Công Sơn đăng đâu đó trên Văn (hay Văn học?) tôi
có đề nghị rằng nên nhìn Trịnh Công Sơn như là một “thi nhạc sĩ” hơn là nhạc sĩ
thuần túy, bởi vì hầu như bài nhạc nào của anh ta cũng có cấu trúc thơ trong
đó, nhưng nhạc thì không có gì đặc biệt. Chẳng hạn như trong Hạ trắng, anh ta
viết:
Đời xin có nhau
Dài cho mãi sau
Nắng không gọi sầu
Áo xưa dù nhầu
Cũng xin bạc đầu
Gọi mãi tên nhau.
Thôi em đừng bối rối
Trong ta chiều đã tàn
Thôi em đừng tiếc nuối
Cho môi còn chút thanh xuân
Tóc em cười trong gió
Trong ta giọt máu mù
Khô theo ngày thương nhớ...
cũng như là một bài thơ năm chữ. Thực ra, ngay từ ngày tập nhạc
đầu tiên ra đời, đã có một nhà thơ từng nhận xét trong lời bạt rằng “Trịnh Công
Sơn là một poètemanqué”. Trong một bài nhạc tiêu biểu khác, người nghe cảm thấy
lời nhạc như những vần thơ bằng trắc đan xén vào nhau một cách tuần tự, lên xuống
đều đặn, không trồi sụt, không gãy xốc, tạo ra âm hưởng rất ư là lôi cuốn và
quyến rũ: Một người già trong công viên/ Một người điên trong thành phố/ Một
người nằm không hơi thở /Một người ngồi nghe bom nổ, hay Tim em người trọ là
tôi/ Mai kia dù có xa xôi cũng đành. Có lẽ cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công
Sơn là ở chỗ này: chỗ mà những lời hay ý đẹp được đan xén khắng khít nhau qua
giai điệu nhạc cực kỳ đơn giản. Người nghe cứ bị thu hút theo những Tầng tháp cổ,
Hoa vàng mấy độ, Cánh vạc bay, Dấu chân địa đàng, Chiếc lá thu phai …
Tôi thấy các nhạc sĩ có hai khuynh hướng phổ thơ sang nhạc: một
là giữ nguyên lời thơ, và hai là chỉ lấy ý nhưng thay đổi lời. Khuynh hướng đầu
được nhiều nhạc sĩ ứng dụng, nhưng khuynh hướng hai thì ít hơn. Những nhạc sĩ
phổ thơ theo khuynh hướng hai làm tôi “phục sát đất” là Phạm Duy và Phạm Đình
Chương, và sau này thì có Phú Quang và Trần Tiến.
Nhưng trong khuynh hướng thứ nhất cũng có vài bài khá thành
công. Trong số các bài này tôi nghĩ có thể lấy “Ngậm ngùi” (Huy Cận) do Phạm
Duy phổ thành nhạc, ra làm ví dụ. Một anh “bạn già” của tôi (PQTuan) đã từng
bàn tán về bài này cũng khá lâu trên Thế Kỷ 21, nay xin đem ra bàn tiếp. Bài
thơ mới này đơn giản, viết theo thể sáu-tám, rất thông dụng trong thơ ca Việt
Nam. Cái đặc tính của loại thơ này là tất cả các câu đều được chấm dứt bằng vần
bằng. Trong tiếng Việt ta, vần bằng là vần tĩnh, không gẫy sốc, một vần nghỉ
ngơi. Trong âm nhạc, tính nghỉ ngơi của vần bằng thường được thể hiện bằng chủ
âm của âm giai (Do). Thành ra, không phải ngẫu nhiên mà khi phổ thành nhạc, Phạm
Duy biến các chữ cuối câu thành âm giai Do:
Nắng chia nửa bãi chiều rồi (Do thấp)
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu (Do thấp)
Sợi buồn con nhện giăng mau (Do cao)
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây (Do cao)
Đến đoạn giữa thì giai điệu nhạc chuyển sang âm giai Fa, và
ngay cả nhịp thơ 3/ 3 cũng được “dịch” sang nhạc rất trung thực: Ngũ đi em/ mộng
bình thường; Ngủ đi em/ Ngủ đi em … Cái câu “ngủ đi em” được nhắc đi nhắc lại
để nhấn mạnh bài nhạc là một lời ru. Tóm lại, đây là một bài nhạc đơn giản được
“diễn dịch” từ một bài thơ cũng đơn giản, nhưng lại trở thành một bài hát hay.
Có thể nói không ngoa rằng tác giả của những Tràng giang, Buồn đêm mưa, Nhạc sầu,
Áo trắng, v.v... còn “sống” đến ngày nay và sẽ còn sống mãi cũng qua bài nhạc
này.
Nhưng không phải chỉ có thơ sáu-tám mới dễ phổ thành nhạc, mà
ngay cả thơ có cấu trúc tự do cũng có thể trở thành nhạc dễ dàng, nhờ vào sự
phân phối âm thanh trong thơ. Trong bài Hạnh phúc buồn (thơ Du Tử Lê), tác giả
(Hoàng Thanh Tâm) “dịch” sang nhạc một cách trung thực, hầu như không thay đổi
một lời thơ nào. Hai đoạn đầu của bài hát là những câu thơ 7 chữ:
Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
Tôi buồn như phố cũ mưa bay
Bàn chân từng ngón ngưng không thở
Lạc mất đường đi tạnh dấu bày
Hỏi nắng đi rồi em sẽ hay
Tôi gầy như phiến lá trên cây
Gió khuya thôi rớt ngàn tâm sự
Thiên đường tôi đây là người hay ai
mà trong đó, mỗi đoạn, hai câu đầu gieo theo “luật” phân phối
4b + 3t, 5b + 2t; nhưng đến câu 3 và 4 thì số lượng thanh bằng cao hẳn lên, nhất
là đoạn 2, câu 4 chỉ toàn thanh bằng. Có lẽ đây là một sự cố ý để cho đoạn nhạc
có tính tạm ngừng, trước khi vào đoạn điệp khúc. Thực vậy, đến đoạn điệp khúc,
tác giả bắt đầu dùng nhiều chữ có thanh trắc hơn, tiết tấu cũng cao hơn và dồn
dập hơn hai đoạn đầu, và câu thơ cũng chuyển từ 7 thành 8 chữ, làm cho lời dài
ra, tha thiết thêm:
Sông chẳng thể không trôi về biển lớn
Người bến bờ buông tóc thả cho mây
Nên suốt kiếp tôi vẫn là đứa trẻ
Buồn vui theo chiếc kẹo ở tay người
Chữ “lớn” cần phải kéo dài ra thì mới tuyệt, vì nó là âm vang
và muốn cho người nghe một sự van nài!
Trong bốn câu với 32 chữ này, có đến 15 chữ (hay 47%) là
thanh trắc (so với 32% trong hai đoạn đầu)! Đến đoạn cuối (Hỏi gió đi rồi em sẽ
hay/ Tôi chờ em đến thắp đêm vui/ Có đêm nhìn xuống bàn tay lạnh/ Và chỗ em
ngồi đã bỏ không), thanh âm lại quay về luật phân phối của hai đoạn đầu, làm
cho người nghe có cảm giác ngừng nghỉ. Nhưng cả hai chữ cuối cùng (lạnh và
không) đều là phụ âm vang, làm cho câu hát có tính ngân nga. Vì lời nhạc và lời
thơ không khác nhau, cộng với giai điệu đơn giản, và lời thơ hết sức tha thiết,
khẩn cầu, người ca sĩ hát bài này trở thành người đọc thơ. Đọc chứ không phải
ngâm nhé (cũng theo anh PQT)!
Nhưng không phải bài thơ nào cũng đơn giản như thế. Có bài
câu cú phức tạp, không có vần, nhưng vì nhờ nhịp điệu nên chúng cũng có thể trở
thành những bài hát hay. Ở đây, tôi muốn lấy vài câu thơ trong bài Dòng suối
trăm năm của Du Tử Lê mà tôi có lần phân tích ra làm ví dụ:
Chẻ đôi sông núi: đêm bưng mặt
Đêm quấn khăn vào sâu ấu thơ
chẻ đôi thân thế: mù tăm tích
Ta nghĩa trang nào? - chôn, cất nhau
Thoạt đầu đọc bài thơ, lời đã khó hiểu, mà vần thì không rõ rệt
chút nào cả. Nhưng rõ ràng là nó có điệu. Vậy cái điệu gì đã làm cho bài thơ trở
thành một bài nhạc hay? Tôi thấy cách sắp xếp từ ngữ tưởng như là “gồ ghề” ấy lại
rất có hệ thống. Đọc kỹ bốn đoạn thơ đó theo thanh bằng (b) và trắc (t):
t b b t / b b t
b t b b / b t b
và lặp lại:
t b b t / b b t
b t b b / b t b
Do đó, sự phân phối âm thanh trong bài thơ quả không phải ngẫu
nhiên, mà rất có hệ thống. Cách ngắt câu câu trước (b b t) và câu sau (b t b) tạo
nên một dãy âm thanh trầm bổng liên tục. Câu thứ hai được kết thúc bằng thanh bằng
như để lại âm vang ngân nga, hứa hẹn với người nghe một dãy âm thanh mới. Tính
chung bài hát, chỉ 72 chữ mà có đến 42 (hay 58%) chữ là thanh bằng, nhưng chúng
được thay đổi một cách tuần tự, làm cho một đoạn nhạc khá êm dịu. Nhưng không
yên tĩnh. Chẳng hạn như trong câu Chẻ đôi sông núi, Chẻ đôi tâm thất, và Chẻ
đôi con gio, khoảng cách thanh điệu giữa sông và núi, giữa con và gio, và giữa
tâm và thất tương đối cao, làm cho người nghe vừa tĩnh lại phải động, không được
ngừng nghỉ, phải đón chờ một cái gì bất trắc... Có lẽ vì thế mà bài thơ có một
sức lôi cuốn rất cao khi được chuyển thành một ca khúc.
Hôm nào hứng sẽ bàn về khuynh hướng thứ hai, tức là nhạc sĩ
chỉ dựa vào lời thơ, nắm lấy cái ý chính của bài thơ mà viết thành nhạc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét