Cây xấu hổ
Chiều lặng ngồi trêu cây xấu hổ
Lá thẹn thò sau đám cỏ rối bời
Hãy ngoảnh lại đây
Có gì mà mắc cỡ
Chỉ mình ta bầu bạn với ta thôi.
Nguyễn Thị Hoài Thanh ngồi một mình
ở Ðồng Xoài, chờ người ta thu hoạch lạc xong thì vào mót. Cô đơn ở xứ người,
để giết thời gian, để quên đi nỗi lo kiếm sống, chị trêu chòng và trò chuyện
với cây xấu hổ. Thế rồi thơ đến.
Khi ở tù ra hầu như tôi chỉ còn một
nhúm bè bạn, trong đó có Nguyên Bình, người không bao giờ bỏ tôi trong những
lúc gian lao nguy hiểm đói nghèo nhất. Anh vẫn đến chơi nhà, nói dăm ba câu
chuyện hoặc nô đùa với các con tôi. Tôi chẳng dám trách ai. Bởi cái ống ngắm
hiển nhiên là đang nhắm vào tôi. Chẳng ai lại muốn mình hiện hình trong vòng
ngắm. Ðừng có đem sinh mạng mình, đời sống gia đình vợ con mình ra đùa cợt.
Thế mà trong những ngày ấy tôi lại
có thêm một người bạn mới: Nguyễn Thị Hoài Thanh. Chị thường xuyên đến nhà.
Nói chuyện với tôi. Bàn chuyện làm ăn sinh sống với vợ tôi. Dạy hai đứa con
gái tôi cách thêu may bôđê để kiếm sống.
Tôi và Nguyễn Thị Hoài Thanh trước
đó chỉ biết nhau chứ chưa hề chào nhau dù gặp nhau trong một cuộc họp, lại
càng chưa một lần đối thoại. Tôi ấm lòng khi thấy chị lên nhà, ân cần, thân mật,
cởi mở như một người bạn thân của cả gia đình và hoàn toàn chiếm được niềm
tin, tình cảm của vợ chồng tôi. Chị như một chỗ dựa tinh thần, một sự động
viên vợ tôi trong những ngày tháng gian lao ấy.
Lúc đó tôi mới biết rằng chị làm ở
Quốc doanh đánh cá Hạ Long, một xí nghiệp tôi cũng từng quen, đã xuống lấy
tin viết bài, nơi sản sinh ra anh hùng lao động Hồ Xuân Tuyên mà Dương Tường
đã viết trong Thuyền Trưởng. Chị mách chúng tôi một cách kiếm sống: Làm
nước mắm.
Ngày ấy nước mắm rất khan hiếm, cắt
theo phiếu, theo tiêu chuẩn thang lương. Có nhà khoa học còn nghiên cứu làm
nước mắm dắt, nấu từ con dắt, một loại sinh vật biển họ trai hến nhưng chỉ nhỏ
bằng cái cúc áo. Ðề tài nước mắm dắt được đăng ký cấp quốc gia hay cấp thành
phố tôi không nhớ. Nhà ai chẳng phải ăn nước mắm. Nước mắm đang lên ngôi.
Chúng tôi bị thuyết phục ngay. Nguyễn Thị Hoài Thanh giảng cho chúng tôi nghe
về con nước, về chợ chiều, cá ươn, cá ế, về loại cá rễ cau, như con chạch
nhưng đỏ, không ai ăn, mua về làm chượp, và điều quan trọng là khi nấu mắm
xong đừng lọc chắt ngay mà cứ để nguyên như vậy cho đến khi nguội hẳn vì
trong quá trình ấy đạm vẫn từ bã thôi ra nước. Rồi chị giới thiệu cho tôi biết
những chợ nào người ta hay bán cá rễ cau. Rồi tính toán tiền cá, tiền muối, một
cân cá được bao nhiêu nước mắm loại một, nước mắm loại hai... Nhưng lấy gì mà
ngâm chượp? Lại cũng chị Thanh. Tối hôm ấy vợ tôi vác xe đi. Chuẩn bị cả giây
co nghĩa là giây cao su, cả bao tải. Lại mất điện. Vợ tôi đi trong bóng tối
hun hút xuống nhà chị. Một khu tập thể không tên gọi, không số nhà.
Cũng may, ban ngày Nguyễn Thị Hoài Thanh đã đưa vợ tôi xuống nhà để vợ tôi
thuộc những ngóc ngách ngoắt ngoéo mà dù cho có tối tăm, mất điện, lại toàn
những mái nhà lô nhô như bát úp ở một khu đất trước đây là trận địa pháo cao
xạ mà về sau khi tôi xin được việc làm ở Quốc doanh đánh cá Hạ Long, mới biết
nó có tên là khu Bãi Cát, vợ tôi vẫn có thể tìm đến tận nơi.
Khi chiếc loa ngã sáu phát chương
trình Quân đội nhân dân, nghĩa là khoảng chín giờ, tôi nghe tiếng gọi của vợ
tôi dưới cầu thang. Tôi vội chạy xuống. Trong bóng tối tôi thấy vợ tôi đang
giữ chiếc xe đạp ở chân thang, và ở poo- ba- ga, một đống gì gồ cao đen
sì.Tôi đặt tay lên đó. Chiến công của vợ tôi. Sự giúp đỡ tận tình của Nguyễn
Thị Hoài Thanh. Niềm hy vọng của chúng tôi. Nó căng. Cứng. Và cong cong. To nữa.
Cái bao tải to thế mà căng phồng.
- Chị Thanh đưa em qua cổng
bảo vệ chứ không cũng không mang được về nhà đâu.
Ðó là một bình gốm chuyên dùng, miệng
nhỏ, có nắp vặn xoáy được để đựng a- xít. Bình dầy nên tuy to nhưng chưa chắc
đã đựng được nửa thùng nước.
Tài sản ban đầu của chúng tôi để tự
kiếm sống là như vậy. Chúng tôi dội nước đầy bình cho a- xít thôi ra trước
khi ngâm chượp. Rồi đi mua cá rễ cau cá ươn cá ế ở chợ. Chẳng mấy chốc mà đầy
hũ. Không dám để hũ dưới nhà. Sợ mất. Chúng tôi bê lên gác, đặt ngoài bệ cửa
sổ. Sốt ruột mong nó phân huỷ, để nó thành chượp, nấu lên thành nước mắm mang
đi bán.
Trong khi chờ đợi có nước mắm bán cả
nhà vẫn cứ phải ăn. Nguyễn Thị Hoài Thanh hiểu được điều ấy. Chị đến dạy vợ
tôi và hai đứa con gái còn chưa đến tuổi dậy thì bô- đê.
- Cái này là làm cho mấy bà buôn ở
chợ Sắt.
Nhìn những mẫu bô- đê của chị tôi mới
nhớ ra rằng ở những gấu quần xa- tanh, gấu áo phin nõn của những người sang
trọng luôn có những hoa văn đục thủng ra rồi viền lại như vậy.
Tôi không hiểu chị học bô- đê ở đâu
mà đẹp thế. Hay chị học ở trường mồ côi? Mà chị có mồ côi và học ở trường mồ
côi như người ta vẫn nói thật không. Rồi lại còn cái chuyện Nguyễn Cao Kỳ (tư
lệnh không quân rồi phó thủ tướng nguỵ) là anh ruột chị nữa. Nói chung là
chung quanh chị có nhiều "huyền thoại", những "hiện thực huyền
ảo" giết người. Dường như biết rằng có những dư luận rất bất lợi cho
mình và mọi người nhìn mình bằng con mắt nghi kị xa lánh nên chị không chủ động
thân thiết gần gũi với một ai. Chỉ đến khi tôi đi tù về chị mới đến nhà tôi.
Người khác có thể sợ chứ chị thì không. Chị nghĩ mọi cách giúp gia đình tôi
kiếm sống. Chị nuôi ngan và bàn với tôi việc nuôi ngan. Chị bảo chị đã nghiên
cứu và tìm ra thủ phạm của việc làm ngan chết hàng loạt là những con giun móc
chui vào lỗ tai ngan vì vậy trong lúc trời mưa tuyệt đối không được cho ngan
sục nước. Chị vẽ ra một viễn ảnh sáng ngời: Tôi mang trên vai một chiếc cuốc
nhỏ, lùa đàn ngan ra bãi Máy Tơ...
Nhưng tất cả kế hoạch của chị cũng
chỉ hoàn toàn là kế hoạch của một nhà thơ. Hoặc kế hoạch mang tính khả thi đấy
nhưng không thực thi được vì người thực hiện lại là tôi.
Tuy nhiên về một mặt nào đấy những
kế hoạch của chị cũng mang lại tác dụng. Nó làm chúng tôi ấm lòng. Nó giúp
chúng tôi có thêm nghị lực sống, vượt qua được những ngày nào cũng dài đằng đẵng
[*] ấy. Chúng tôi vẫn có những người bạn để chia sẻ. Ðiều đó giúp chúng tôi
có thêm nghị lực.
Thế nào mà khi được đi làm trở lại,
tôi lại về Quốc doanh đánh cá Hạ Long, nghĩa là về cùng xí nghiệp với Nguyễn
Thị Hoài Thanh. Ông Hoàng Hữu Nhân nguyên bí thư thành uỷ Hải Phòng, khi đó
là Tổng cục trưởng Tổng cục Thuỷ sản đã cứu tôi, quyết vượt qua mọi trở ngại,
những mưu toan ngấm ngầm công khai của những người có thế lực khác tìm mọi
cách không cho tôi trở lại với cơ quan xí nghiệp nhà nước.
Tôi làm văn phòng. Còn chị Thanh
làm ở phân xưởng, tổ ắc- quy, ngành điện. Trong sổ tay tôi còn ghi lại một buổi
sáng xuân, tôi đứng trên mũi một con tầu đang xảm lại mặt boong. Trời xuân,
không mưa bụi nhưng mát mịn da mặt. Phía bên kia sông, những cây sú lá
xanh thẫm. Chân trời những đám mây xuân tầng tầng lớp lớp. Và
gió. Gió không mạnh, chỉ đủ giục giã lên đường. Người thuyền trưởng đứng sau
tôi. Anh ôm tôi, nhấc bổng tôi lên. Rồi lại đặt tôi xuống.
Từ phía đầu cầu cảng chạy vào một
chiếc xe rùa, một loại xe chạy bằng ắc- quy, êm không một tiếng động. Trên
xe, mấy cô công nhân tươi cười rạng rỡ. Thuyền trưởng bỗng rời vòng tay ôm
tôi, nhao ra lan can: "Cô Thanh ơi, chúng tôi thay ắc- quy đấy nhé”. Lúc
bấy giờ tôi mới để ý là Nguyễn Thị Hoài Thanh đang ngồi trên xe. Quần áo bảo
hộ lao động rộng thùng, chiếc mũ lưỡi chai, khuôn mặt chị ngời ngợi giữa những
món tóc bị gió thổi bay dập dờn trên mặt trên má trên miệng cô công nhân ngồi
đằng sau chị. Chị nói như hét:
- Chưa thay được cho anh
đâu.
Chiếc xe vẫn giữ nguyên tốc độ, vượt
qua chỗ chúng tôi. Thuyền trưởng kêu to:
- Sao lại chưa?
Chiếc xe đã ngoặt về phía cổng cảng.
Vọng lại một câu trả lời của chị nhưng nghe không rõ. Chiếc xe đã biến mất.
Nó lướt qua không một tiếng động. Như nó chưa hề đi qua đây. Một thuỷ thủ
nói:
- Cô Thanh được đấy thuyền
trưởng ạ.
Thuyền trưởng cười:
- Già rồi.
Anh thuyền viên kêu to với đám thuỷ
thủ đang trầu cáp, chuẩn bị cho một chuyến biển mới:
- Thuyền trưởng chê cô
Thanh già các cậu ơi!
- Tớ già chứ không phải
cô Thanh. Hiểu chưa?
Tất cả cười dòn.
Năm ấy Nguyễn Thị Hoài Thanh còn
đang tuổi ba mươi. Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được
cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của
tuổi ba mươi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó
khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa.
- Người ta cứ coi tôi là con mụ Hến
anh ạ.
Chị nói vậy và cười hồn nhiên:
- Ngày ấy mình còn mầu mỡ.
Sau này khi đã lục tuần, ngồi ôn lại
cuộc đời, chị nói với tôi như vậy. Và cũng như cô Hến, cái đám Nghêu, Sò cũng
toàn là các hàng chức sắc nên rất nguy hiểm. Thời gian chị còn làm thợ điện ở
công ty X, chỉ vì không chịu bắt tay ông trưởng phòng của chị mà chị không được
chấm công, không có lương, dù ngày ngày vẫn đi làm với các đội, dù chị đã lấy
đầy đủ xác nhận của các đội sản xuất. (Bắt tay là chuyện bình thường, nhưng
đây lại là một kiểu ra đụng vào chạm, một kiểu lợi dụng của ông trưởng
phòng mà chị biết quá rõ). Và sự việc không dừng ở đấy. Chị ở tập
thể, nghĩa là một nửa gian phía ngoài, còn nửa gian phía trong là kho dụng cụ
(toàn cuốc xẻng). Một trưa đi làm về, chị thấy buồng chị bị khoá. Bé Ðan, con
gái chị đang ngồi khóc ở cửa. Người ta giải thích cho chị hiểu rằng không phải
người ta khoá buồng chị mà người ta khoá kho dụng cụ, bảo vệ tài sản xã hội
chủ nghĩa. Chị gặp người này gặp người khác. Chị đấu tranh. Khi cứng rắn. Khi
mềm dẻo. Lúc pha cả hài hước. Mãi khuya ông trưởng phòng mới hạ lệnh mở khoá
cho chị vào buồng.
Thế rồi khi ông chủ nhiệm công ty
cũng muốn đến với Hến và bị Hến cự tuyệt thẳng thừng mới thật gay go. Lại một
chiều đi làm về, vừa bước vào khu tập thể, bé Ðan đã mếu máo chạy ra:
- Mẹ ơi. Nhà mình toàn bàn ghế
thôi, con không nấu được cơm đâu.
Chị đứng lặng. Cái ô con con hai mẹ
con vẫn chui ra chui vào cửa vẫn mở nhưng chật cứng bàn ghế. Chị đã hiểu. Người
ta quyết không cho chị ở mấy mét vuông này. Chị thì thào với con gái:
- Mẹ con mình khiêng sang nhà bác
chủ nhiệm nhé. Thật khẽ. Ðừng để ai biết.
Lúc đó đã tối. Giờ ăn cơm của cả
khu tập thể. Bụng đói, bé Ðan cùng mẹ khiêng từng chiếc bàn chiếc ghế sang
nhà ông chủ nhiệm. Nhà ông ta rất rộng. Sân. Gian ngoài. Gian trong. Hai mẹ
con đặt những đồ mộc ấy ở gian ngoài. Năm chuyến. Sáu chuyến. Bẩy chuyến.
Ðói. Im lặng. Thở. Như một trò tinh nghịch. Nghe rõ tiếng trò chuyện từ gian
trong. Ngửi cả mùi cơm trộn mì, mùi canh dưa chua ngào ngạt bốc ra. Khiêng gần
xong thì bị lộ. Ông chủ nhiệm quăng bát cơm chạy ra. Gầm lên:
- Cô Thanh! Làm trò gì thế này?
- Tôi sẽ lập biên bản. Cô đúng là một
người quá thể. Không còn coi ai ra gì!
Ông hét không thành tiếng. Cả khu tập
thể vốn dĩ đói nghèo sự kiện, đói nghèo trò giải trí, bỏ dở bữa cơm đổ xô tới.
Mọi người trong gia đình ông kêu thét ầm ĩ. Như một dàn đồng ca.
Nguyễn Thị Hoài Thanh tươi cười lễ
phép:
- Báo cáo chủ nhiệm, tôi đi làm về
thì thấy số tài sản xã hội chủ nghĩa này trong nhà tôi. Tôi không hiểu ai vất
vào. Ðây là bàn ghế chứ ngộ nhỡ thuốc phiện thì có nguy hiểm cho tôi không.
Cho nên tôi phải trình với chủ nhiệm. Hai mẹ con tôi dù chưa ăn, bụng đói
cũng cố động viên nhau khiêng sang. Chả lẽ lại vất ra ngoài sân. Tài sản xã hội
chủ nghĩa không thể thế được. Phải bảo vệ. Nên chỉ còn mỗi cách khiêng sang
nhà thủ trưởng.
Hoài Thanh thắng. Thắng oanh liệt.
Sau trận thắng chị hiểu rằng không thể nào ở lại công ty được, phải tìm cách
chuyển thôi. Trong lúc giao thời thất nghiệp ấy, một người bạn rủ chị đi bán
than cùng ông ta. Mừng như bắt được của. Không phải "một gánh càn khôn
quẩy xuống ngàn, hỏi rằng chi đó gửi rằng than" mà là mua than của mậu dịch
rồi xe đổ cho các nhà. Thứ than cám đã nhào bùn để người ta chim chim lại cho
và bếp lò. Than trộn bùn ướt nặng như đá. "Ông Hạp ơi! Khiêng hộ tôi lên
bàn cân với”! "Ông Hạp ơi! Ðẩy hộ cái xe vào đây”! Tiền thì chia đôi mà
chốc lại ông Hạp ơi, ông Hạp ơi. Xe than đi đổ cũng lắm chuyện bi hài. Chuyến
xe đầu tiên thế nào lại quành đúng vào khu nhà tập thể của chị. Chị lo lắng:
"Ông Hạp ơi. Ðổ cho nhà ai thế này?" Hoá ra đổ cho nhà ông chủ nhiệm.
Chính vợ chồng ông chủ nhiệm cũng ngạc nhiên. Cô Thanh bây giờ đi làm cái này
à? Vâng. Báo cáo chủ nhiệm, việc gì tôi cũng làm để có tiền nuôi mình nuôi
cháu. Hẳn ông chủ nhiệm cười thầm trong lòng: Chiến thắng là thế đấy hử cô
Thanh? Cứ chiến thắng nữa đi. Chị không xấu hổ về tư thế chiến thắng của chị,
cái tư thế nhếch nhác đầy vẻ thất bại của chị. Chị biết thừa câu nói không
thành lời của chủ nhiệm: Cô đã thắng tôi. Nhưng cô đã thấy cái giá phải trả
cho chiến thắng của cô là thế nào chưa? Chiến bại đấy cô ạ! Chị chỉ tự hỏi:
Ông chủ nhiệm hả lòng hả dạ hẳn rồi, nhưng không biết ông có còn chút lòng trắc
ẩn?
Thật ra tự đáy lòng, chị cảm thấy
ngượng. Không chỉ trong lần xe than đổ cho ông chủ nhiệm. Còn nhiều lần khác.
Hôm đầu tiên đến bãi than phố Ðà Nẵng với ông Hạp chị đã ngượng rồi. Hôm ấy
chị đi đôi giầy da cũ của một người bạn cho chị rõ ràng là quá rộng. Cánh
thanh niên có mặt ở bãi thấy một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp đẩy xe vào bãi,
reo hò:
- Chào em gái xinh đẹp.
- Anh đã bảo em cứ ở nhà
rồi anh mang tiền về, sao em còn ra đây làm gì? Nhớ anh quá hả?
- Ái chà! Lại đi giầy bốt-
tin!
Lại một hôm đang đẩy đằng sau, thấy
ông Hạp cầm càng ngoặt vào nhà một cô bạn, chị vội đội lên đầu cái khăn mặt
tuỳ thân đen nhẻm cho nó phủ kín trán, kín hai gò má và kéo sụp nón xuống che
hết mặt. Chị bạn quát:
- Xe đổ vào góc trong cùng ấy. Góc
bên phải cơ mà. Không nhìn thấy gì à? Bẩn hết bếp rồi. Mấy tạ đấy?
Nguyễn Thị Hoài Thanh không nói một
lời đến nỗi chị bạn gắt lên: "Câm đấy à?" Chị bạn không nhận ra chị
vì chị đúng là "một con mụ bán than đen thui thủi" từ nón đến giầy
bốt- tin!
Vừa xe than, chị vừa đi tìm việc.Nhưng
khi chị tìm được việc làm bên Quốc doanh đánh cá Hạ Long, người ta lại không
cấp giấy giới thiệu cho chị mặc dù họ đã cho chị nghỉ việc để liên hệ chuyển
công tác. Chị, chẳng quen ai, không biết trông cậy vào ai, đi lên sở lao động
tìm gặp bằng được ông phó giám đốc. Ông phó giám đốc ủng hộ chị. Có áp lực của
sở lao động, chị được cấp giấy giới thiệu, được đi làm bên Quốc doanh đánh cá
Hạ Long. Nhưng người ta lại vin vào việc chị đã chuyển công tác để trục xuất
chị khỏi khu tập thể. Một cuộc họp lãnh đạo công ty với khu tập thể có mời cả
công an hộ tịch dự. Lập biên bản. Ra nghị quyết...
Hình như Nguyễn Thị Hoài Thanh sinh
ra là để gặp những rắc rối, chịu đựng những rắc rối và vượt qua những rắc rối
khó khăn. Chịu đựng và vượt qua một cách thản nhiên bình tĩnh, không kêu ca
như cuộc đời vốn là như vậy.
Tốt nghiệp trường công nhân kỹ thuật
Hải Phòng, chi ghi vào mục nguyện vọng: Tình nguyện đi bất cứ nơi nào trừ Hà
Nội, Hải Phòng. Bởi vì lúc đó chị vừa li dị và mới sinh cháu gái đầu lòng. Bà
mẹ trẻ tuổi hai mươi ấy không muốn gặp lại người chồng cũ và chỉ mong được
yên tĩnh ở một nơi nào đó. Cầu được, ước thấy. Chị được về Cẩm Phả, coi một
trạm điện đầu trục 2 thuộc mỏ Lộ Trí. Chị và cháu gái mới sinh ở ngay trạm,
liền với nhà đề- bô rộng thênh thang, nhà đề- bô đã có người chết ở đó. Ngày ấy
nơi đây là chim kêu vượn hú. Ngày ấy hai mẹ con suốt đêm nghe gió thổi qua
mái nhà đề- bô, nghe mưa rơi, nhìn nước đổ như thác cuồn cuộn bên ngoài trạm...
Thế rồi từ Cẩm Phả chị lại về Hải
Phòng khi sóng gió trong lòng đã dịu. Rồi chị sang Kiến An. Chị về Vĩnh Bảo.
Có biết việc gì không trải qua. Hãy kể những việc chính: Công nhân xi măng,
thợ điện Hải Phòng điện khí, thợ điện công ty xây lắp, công nhân bóc lạc công
ty xuất nhập khẩu, đứng máy bào cuốn xí nghiệp gỗ Trương Công Ðịnh, công nhân
công ty xếp rỡ, cấp dưỡng công ty vật liệu kiến thiết, súc sạc ắc- quy Quốc
doanh đánh cá Hạ Long... Ðó là chưa kể còn đi giao bánh rán, bánh mì, kẹo lạc,
làm và bán nước mắm... Ðồng lương không đủ nuôi mình mà chị còn phải nuôi
con. Cuộc sống tưởng chừng không có thời gian để thở, đó là chưa kể những chấn
thương tinh thần sau hai lần li dị, ấy thế mà Nguyễn Thị Hoài Thanh vẫn làm
thơ.
Cô gái ngay từ nhỏ đã có khí chất
con giai này thực chất là đa cảm. Năm 13 tuổi bài văn xuôi đầu tiên được in
trên báo Thế Kỷ. Năm 16 tuổi gửi thơ lên báo. Bài thơ không được in vì không chịu
sửa theo ý biên tập. Bài thơ đầu tiên của chị được in trên báo Văn Học, cơ
quan của hội Nhà Văn là bài Lán Mông Giăng (1961). Ðắm mình trong những vất vả
khó khăn của công việc, của một mình nuôi con nhỏ, của mối tình đầu tan vỡ,
chị nghĩ tới một khung cảnh đầm ấm có vợ có chồng và trong khi chị đang nằm ở
lán Mông Giăng này, có một người ngoài kia nghĩ về chị và nói với mọi người
xin chớ ồn ào, để em tôi ngủ.
Em tôi nào ngủ được. Bởi cô đơn. Bởi
hoang vắng. Bởi nhà đề- bô tối om từng có người chết ở liền bên. Bởi những
tia chớp rạch trời thoắt hiện những khóm lau chìm trong bóng tối. Bởi bỗng một
cánh tay đen sì từ nhà đề- bô thò vào cửa sổ (một công nhân lò Lộ Trí lên gọi
điện thoại báo tin máy hỏng). Bởi bé Ðan viêm họng sốt cao. Không ngủ được
thì cứ nằm mơ ước...
Nguyễn Thị Hoài Thanh làm thơ như một
nhu cầu nội tâm. Chị làm thơ để trang trải nỗi lòng. Có một điều ngạc nhiên:
Cuộc đời chị biết bao sóng gió mà thơ chị hồn nhiên trong trẻo thế. Chị có
tài nhìn trong đổ vỡ để thấy được một cái gì vẫn là ấm áp như trong bài Bão
tan:
Cây trụi lá mầu chiều say sắc trắng
Hàng dậu xô làng xóm xích gần nhau
Ngày tháng đề dưới bài thơ này là
năm 1967, nghĩa là lúc Thị Hến đang lâm nạn đuổi nhà.
Có lẽ đó không phải là cái tài của
chị, mà chính là tâm hồn chị. Ðộ lượng, tha thứ, chịu đựng, vượt qua mọi gian
lao và lúc nào cũng hướng về cái đẹp. Ðọc lại những bài thơ của chị in rải
rác trên các báo và tạp chí Văn Học, Văn Nghệ, Văn nghệ Quân đội, Cửa Biển và
một vài tuyển tập, tôi lại có một "phát hiện" mới: Chị yêu Hải
Phòng biết bao! Một Hải Phòng với những thành kiến, những trù dập, những nhọc
nhằn kiếm sống, một Hải Phòng với những cuộc li hôn. Nhưng cũng là một Hải
Phòng của thời thơ ấu, của những kỷ niệm không quên với bạn bè, của khát vọng
vươn tới cái đẹp. Hải Phòng có bốn chiếc cầu ở bốn cửa thành phố thì hai chiếc
đã nằm trong thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh: Bài Cầu Xi măng và
bài Chợ Cầu Rào.
Bài Cầu Xi măng như một bức
thư gửi người anh trai đang sống ở Mỹ, ông Nguyễn Xuân Vinh. (Cũng không sợ lạc
đề nếu nói ở đây rằng ông Vinh là một nhà bác học lớn của Nasa mà
báo Lao Ðộng đã viết một bài dài giới thiệu, ông đã từng chủ trì
nhiều hội nghị không gian toàn thế giới. Trong cuốn tuỳ bút Theo ánh
tinh cầu của ông có đoạn: "Cuốn sách tôi viết nói về quỹ đạo thu hồi
một cách an toàn những phi thuyền không gian. Nhà xuất bản trước khi nhận in
đã đưa bản thảo để lấy ý kiến của nhiều nhà khoa học. Tất cả đều đồng ý đây
là cuốn sách độc nhất, với trình độ khoa học cao nhất viết về đề tài này”.
Không sợ lạc đề vì ông Vinh là nguyên nhân gây ra cái dư luận Hoài Thanh là
em ruột Nguyễn Cao Kỳ).
Anh đã xa cầu xi măng
Ba mươi năm từ đó
Xa con sông quê nước lợ
Anh có mơ một lần
sóng vỗ giấc mơ anh
Cầu xi măng ơi cầu xi măng
Thuở bé em nhìn sang bên sông
Trời đất một vùng chim bay chim lượn
... Mẹ ơi cầu có tự bao giờ? em hỏi
mẹ
Mẹ bảo tuổi cầu cùng với tuổi
anh...
Còn đây là bài Chợ Cầu
Rào chị khóc người em trai Nguyễn Xuân Ðăng mai táng ở nghĩa trang Ninh
Hải (từ thành phố Hải Phòng phải đi qua Cầu Rào mới tới).
Em nằm bên kia sông
Chợ Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Qua chợ dùng dằng
nửa muốn đi nửa toan ghé lại
Ðịnh mua quà cho em nhưng nào biết
mua chi
Em nằm ở bên kia
Bên đây chợ lao xao kẻ mua người
bán
Chỉ một thứ chẳng ai cần bán mua là
nước mắt
Em mặc cả với đời mang nó đi theo
Em nằm bên kia sông
Chợ Cầu Rào chiều hôm nắng tái
Ðến thăm em chẳng cần vội vã
ở nơi đó bao giờ cũng có thể có em
Ðến thăm em rất cần vội vã
ở nơi đó bao giờ cũng không thể có
em
Bài thơ chị làm trên đường sang
nghĩa trang trong buổi sáng một ngày sau khi mai táng mà ta gọi là đi quơ mộ.
Không phải chỉ những cây cầu dính
dáng đến những người thân mới làm Nguyễn Thị Hoài Thanh xúc động. Hải Phòng
là thành phố của hoa phượng. Tháng năm rợp trời hoa phượng đỏ (Hải Như). Hoa
như mưa rơi rơi (Thanh Tùng). Tôi nghĩ bài Hoa Phượng của Nguyễn Thị
Hoài Thanh là một trong những bài đặc sắc nhất về đề tài này:
Hoa rong chơi từ mùa thu năm ngoái
Hôm nay nghe phố gọi rủ nhau về
Gió đã mở nắng đã vàng đã chín
Hồn đã say chân đã bước đinh ninh
Trong ngất ngây như có ai cuối phố
đợi mình
Ai hát nữa điều gì thao thức lạ
Hoa khờ dại cháy mình trong nắng hạ
Ðể thu về tan tác cả lòng ai
Hình như một kỷ niệm đang trở về
cùng chị. Hoa phượng đã làm chị nhớ lại.
Trong ngất ngây như có ai cuối phố
đợi mình
Ai hát nữa điều gì thao thức lạ
Lại nghĩ đến hai câu thơ của Thi
Hoàng:
Một đầu đường không có ai trông
ngóng
Một buổi chiều không biết cất vào
đâu
Ðể thấy những ngày Hoa Phượng ấy của
Nguyễn Thị Hoài Thanh là như thế nào. Rồi chị thương hoa khờ dại cháy mình.
Và lại thương ai. Tôi cứ nghĩ rằng chị tự thương mình. Chị thương chị. Hình
như chị đã yêu, tình yêu chỉ tồn tại có một mùa hoa phượng. Nó đã qua rồi.
Cùng phượng. Tôi lặng người khi đọc những vần thơ của chị viết về nỗi cô đơn:
Sau hồi kẻng tan ca
Tôi ngã vào vòng tay lạnh lẽo của
mùa đông
Tan ca. Ra về. Chỉ là lạnh lẽo một
mùa đông chờ đợi. Bởi vậy khi có người hẹn đến chơi, niềm vui tràn lên đầu lưỡi,
không có ai để chia sẻ, mà không thể không trò chuyện. Thì Nói chuyện với
mèo:
Mèo ơi! Mèo có biết
Có người sắp đến thăm ta
Thời gian đợi bạn không phải là thời
gian vẫn đến và vẫn đi nữa:
Ngày phập phồng như thể có tâm hồn
Ðêm trằn trọc đợi mặt trời thở gấp
Bạn đến. Bạn tâm sự. Rồi bạn đi.
Ngay cả con mèo chị nuôi vẫn quanh quẩn bên chị cũng nhảy sang nóc nhà hàng
xóm với bạn nó. Thì chị tâm sự với mình. Với cây. Với hoa. Ðiều ấy chị đã
quen rồi. Chị thương yêu tất cả. Chị thương cả con bò người bạn chị dắt đi
trên đường phố. Chị chào người bạn chăn bò vất vả để thêm vào đồng lương hưu
ít ỏi rồi chị trò chuyện với bò. Chào bò bằng một cái nhìn nhưng bò chẳng
nhìn đáp lại:
Có lẽ chú tưởng tôi là gốc cây
Với tâm hồn gỗ
Hay ngỡ tôi là cột điện
Trái tim sỏi trộn xi măng
Chị thương móng chân bò dẫm trên đường
nhựa, thương đôi tai bò không được nghe tiếng hát cỏ xanh. Và không chào bò bằng
mắt nữa, chị cất thành lời:
Chú bò ơi!
Chú đi như tù binh
đi về đâu
tới lò sát sinh hay ra đồng ruộng
đi về đâu
tới ngã ba đường tôi với chú chia
tay
đi về đâu
tôi biết rồi đấy nhé (..).
Người rủ rỉ tâm tình là thế. Nhưng
bò vẫn đi. Vẫn không chịu tham gia vào cuộc đối thoại với người.
Người đi. Mèo đi. Bò đi. Có chân là
đi. Chẳng chịu nghe chị, trò chuyện với chị. Thì chị trò chuyện bầu bạn với
những gì không đi được. Từ ngày chuyển về Quốc doanh đánh cá Hạ Long, làm việc
súc sạc ắc- quy (một công việc rất độc hại) chị có một người bạn mới: Sông Cấm,
dòng sông có "những cánh buồm nâu không địa chỉ":
Sông Cấm ơi! Sông như người bạn mới
quen
Thân thiết thế mà sao không hiểu được
Chiều tan ca tôi đi bên dòng nước
Sông với tôi với bóng là ba
Bóng tôi nghiêng với bao la
Sông mang về biển
Bóng tôi còn nguyên vẹn không sông?
(Xin mở một ngoặc đơn: Mong ước mình
là mình, điều ấy là của nhiều người. Nhưng mong ước cái bóng của mình còn
nguyên vẹn khi dòng sông đã mang ra biển thì có lẽ chỉ có Hoài Thanh).
Hơn mười năm sau, vẫn cái nhìn ấy với
sông, với cây và với phố. Lần đầu tiên thân gái dặm trường, bước chân vào cao
nguyên Ðắc Lắc, tối rồi, chưa có chỗ nghỉ lại không một người quen, chị đã có
ngay một người bạn mới: Một phố nhỏ giữa cao nguyên hùng vĩ. Không những thế
chị còn nhận diện được người bạn này, nó giống ai, bao nhiêu tuổi:
Phố như con của mùa Ðông
Vừa mới sinh ra ban nẫy
Chị tới cao nguyên tìm đường đưa
con gái và cháu ngoại vào sinh sống. Cũng như chị ngày trước, con gái chị đã
li dị. Chị đi nhờ xe vào "trinh sát " rồi ra Hải Phòng trông cháu
cho con gái vào gây dựng cơ sở. Tôi chép lại toàn bộ bài Cháu Liên Chi để
thay cho những lời dài dòng của tôi về thời gian chị đã làm bà:
Bố mẹ chia tay từ đó
Về đây cháu ở với bà
Hai gian chông chênh đầy gió
Sớm chiều bà cháu vào ra
Ðêm gối tay bà cháu hỏi
Mẹ sao đi mãi đi đâu
Thương cháu lựa lời bà nói
Thương bà cháu vuốt tay đau
Cha cháu giờ này ở quán
Mắt ngầu be rượu chênh chao
Tình thương cạn kiệt đáy cốc
Môi khô triết lý khô theo
Mẹ cháu miền Nam xa lắc
Suất tầu dành cả đời bà
Nửa đêm nhọc nhằn tráng bánh
Sáng còn đi chợ đường xa
Bao giờ mẹ cháu gửi ra
Suất tầu cho hai bà cháu
Bấy giờ lại được ra ga
Tay xách làn tay dắt cháu
Bóng bà bóng cháu nương nhau
Miền Nam có thương thì đợi
Tuổi bà mới ngoại năm mươi
Năm ấy chị mới ngoài năm mươi. Năm
nay chị đã ngoài sáu mươi rồi. Không thể tay xách làn tay dắt cháu, bóng bà
bóng cháu nương nhau được. Một tai nạn ô tô đã làm chị tàn phế một tay. Tai nạn
xẩy ra ngay Ngã Sáu, gần nhà tôi. Chị nằm ngất trên đường mưa dầm ngày tết, mặt
đường nhựa sền sệt một thứ nước bùn hoa. Cánh tay dập nát, xương gẫy. Nhưng
không thể bó bột vì bùn hoa dính vào thịt gây nhiễm trùng dẫn đến hoại thư.
Hàng ngày bác sĩ làm vệ sinh vết thương bằng nước, bằng ô- xi già và lấy kéo
cắt đi những mẩu thịt nhiễm trùng. Chị cắn răng chịu đựng. Lại còn nhớ đến một
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan khi nghĩ rằng mình bị tàn tật cả đời: Cái vốn
để sinh nhai. Nhớ lại để cười. Bởi vì từ nay chị cũng có cái vốn như người
tàn tật ấy.
Chị bảo người nhà xin cho người tài
xế đã gây ra tai nạn khỏi bị truy tố "vì người ta không cố ý, người ta
cũng khổ như mình". Chị gần như không nhận tiền nong quà cáp của bè bạn,
của những người thân. "Bởi vì anh ạ, nợ ân tình làm sao tôi trả được”.
Ban đêm chị tự phục vụ dù một tay đã dập nát. (Hai đứa con gái, một mới sinh,
một sắp ở cữ, chị bắt chúng phải về nhà). Chị bảo chúng mang cho chị mỗi ngày
ba cặp lồng cơm và muối vừng để chị ăn vào ba bữa sáng, trưa, chiều. Nằm gần
như bất động, chị xúc từng thìa. Ăn như một nhiệm vụ, như một người cần hồi
phục, cần phải sống. Như một cái gì phải vượt qua. Những cô con gái nhăn nhó
hỏi mẹ:
- Con hỏi bác sĩ rồi. Mẹ
không phải kiêng gì cả. Sao mẹ lại cứ ăn vừng?
- Mẹ thích ăn vừng.
Chị nói vậy. Bởi chị biết các con
chị đang rất khó khăn. Chị thương chúng. Chúng là cuộc sống của chị. Ngày
chúng còn thiếu nữ, nhìn chúng cắp sách đi học hay nằm ngủ bên nhau, một nỗi
sợ trào lên trong lòng chị khi chị nghĩ đến một ngày chúng mồ côi mẹ:
Rồi mai đây khi mẹ vắng ít ngày
Các con ơi đêm mùa thu gió lạnh
Ngủ nhớ đắp tấm vỏ chăn cho ấm
Cửa sổ mở ra cho thoáng gió nghe
con
Biết bao lo âu lòng mẹ ngày đêm
Từ khi các con còn là giọt sương
trong lòng mẹ
Nếu như mẹ ra đi khi chưa kịp làm
bà
Thì đêm đêm mẹ vẫn ru những đứa
cháu ra đời trong giấc mộng
Tình thương lớn không thể đo bằng
năm tháng (..).
(..). Ðừng khóc con ơi!
Mẹ ra đi như đêm tối
Bước lặng thầm như thể bóng đêm
thôi
Mẹ lại về trong tiếng chim rơi
Trong làn khói cơm thơm lửa reo bếp
nhỏ
Lời mẹ chuyện trò lao xao trong lời
gió
Bóng mẹ ra vào trong bóng lá xanh
tươi
Có những món nợ nần mẹ phải trả bằng
đời
Một bài thơ về cầu xi măng
Chiếc cầu tuổi thơ đưa mẹ qua con
sông nhỏ
Một cây mướp con trồng
ngọn trườn lên cửa sổ
Lá tay xinh quấn quít song tre.
Thật may. Chị nghĩ. Bánh xe chỉ lăn
qua bắp tay. Nếu nó lăn thêm một chút nữa sẽ đè dập ngực chị. Chị sẽ chết. Và
nếu vậy các con chị thừa hưởng những gì ở chị?
Không có gia tài để lại cho con
Chỉ có nước mắt rơi và ngày vui
chưa trọn
Và thơ cười
đi suốt những đêm đau
Nguyễn Thị Hoài Thanh đã xuất viện.
Chị vẫn sống. Vẫn vào Nam đi mót. Vẫn ra Bắc nâng giấc phụng dưỡng mẹ già
chín mươi tuổi bằng một tay duy nhất còn lành lặn. Chị sống dai dẳng. Hài hước.
Khoẻ mạnh. Và vẫn làm thơ. Ðời Nguyễn Thị Hoài Thanh chưa lúc nào yên tĩnh.
Tuy vậy chị vẫn có thời gian nghĩ đến Kiếp sau:
Kiếp sau nếu được làm chim
Tình thương dang dở bay tìm nơi nơi
Giương cung
đừng nhé người ơi
Vết thương thuở trước luân hồi còn
đau.
[*] Tên một tiểu thuyết của Simonov.
Nguồn: Rừng xưa xanh lá. Bùi Ngọc Tấn. Nxb Hải Phòng, 2003.
|
14/1/1999
Bùi Ngọc Tấn
Theo http://trieuxuan.info/
|
|
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét