Saigon 16/2/1965
Gửi Ngô Vũ Tournesol (Dao Ánh)
Ex nihilo nihil fit...(ra từ hư vô, chỉ có hư vô)
Du rien rien ne se fait...
Ánh hư vô của mùa xuân
Hãy trở về làm miền thần thoại cô đơn cũ
Những buổi mai hư vô
Những chiều tối hư vô
Những ngày tháng năm hư vô
Niềm tin cùng lòng chân thành đã bị ma quỷ đưa về vực sâu
Ánh hư vô của mùa xuân lá xanh hư vô
Còn gì đây trên từng sợi tóc đã nặng đầy tủi nhục
Hãy trở về làm loài chim hồng có tiềng hót nhỏ
Có niềm kiêu hãnh âm thầm, có tâm hồn cao thượng
Déjà le néant se dévoile dans l’angoisse... (người thống khổ cảm thức hư vô - J.P.Sartre)
Trịnh Công Sơn
Gửi Ngô Vũ Tournesol (Dao Ánh)
Ex nihilo nihil fit...(ra từ hư vô, chỉ có hư vô)
Du rien rien ne se fait...
Ánh hư vô của mùa xuân
Hãy trở về làm miền thần thoại cô đơn cũ
Những buổi mai hư vô
Những chiều tối hư vô
Những ngày tháng năm hư vô
Niềm tin cùng lòng chân thành đã bị ma quỷ đưa về vực sâu
Ánh hư vô của mùa xuân lá xanh hư vô
Còn gì đây trên từng sợi tóc đã nặng đầy tủi nhục
Hãy trở về làm loài chim hồng có tiềng hót nhỏ
Có niềm kiêu hãnh âm thầm, có tâm hồn cao thượng
Déjà le néant se dévoile dans l’angoisse... (người thống khổ cảm thức hư vô - J.P.Sartre)
Trịnh Công Sơn
Anh cầu mong cho con người bớt thù nhau
và tình yêu nảy chồi
trên cùng khắp.
(TCS. Blao 1/1/65 )**
Những nhân vật nổi danh, có cuộc đời rộng lớn thường tự nhìn
lại và để lại cho xã hội một tập hồi ký. Tôi tin rằng có rất nhiều người cầu
mong và đón đợi Trịnh Công Sơn để lại cho chúng ta những ký ức, để tìm hiểu
thêm hay khám phá ra những suy tư thầm kín sáng tỏ hành trình sáng tạo của nghệ
sĩ, cùng sự ứng xử của chính TCS qua nửa thế kỷ lịch sử đau thương nước mắt mà
TCS đã cảm nhận với những bài ca bất hủ. Tôi nghĩ trước rằng đó là một sự chờ đợi
không hợp lý; viết hồi ký cần một tư duy thiết thực, bình thường cặn kẽ cân nhắc
một hai, ngược hẳn với bản chất của nhà thơ, nhạc sĩ tài hoa thâm trầm mộng mơ
lãng mạn. Nhưng nay, vào dịp kỷ niệm mười năm ngày mất của TCS, chúng ta may mắn
được biết có “một tập thư tình”* của TCS, in thành sách chỉ tiếc rằng
quá kiểu cách và đồ sộ (giá bán 600.000đ) nên không đến được với quần chúng. Những
bức thư cũng chính là một cuộc độc thoại khắc khoải, trong một giai đoạn
1964-1968, trên một lối ngoặt cốt yếu trong sự hiện thành của nghệ sĩ. Hồn
nhiên bộc lộ con người TCS, tâm tư và nghệ thuật, con người thật và triền miên,
đã trở nên thần tượng của bao nhiêu thế hệ.
Nghệ sĩ chân chính thường là phải có thiên phú hay hiện thành
trong môi trường thuận tiện để có cảm thức hồn nhiên sâu sắc, có mỹ cảm, có
hoài bão từ bỏ sự giả dối tầm thường…nhưng trong cuộc đời thường cũng phải có
những bước ngoặt (một sự lệch lạc ngẫu nhiên bất tất), để thức tỉnh bản năng của
chính mình, đảm nhận sứ mạng hay đúng hơn (như cho TCS) cái nghiệp của
thi hào hay của nhạc sĩ…Theo tôi biết, trong đời TCS đã trải qua hai bước ngoặt.
“Khi Trịnh Công Sơn mười sáu tuổi (1955), cụ thân sinh bị tai
nạn xe gắn máy, bất đắc kỳ tử! Con cả của gia đinh nhiều em nhỏ, TCS phải cảm
thấy bao nhiêu nỗi tang thương bất hạnh…Khoảng một năm sau, luyện võ quyền lại
bị người em trai (Hà) đánh một quyền giập xương và bẹp phổi. TCS liệt
giường dưỡng bệnh hơn một năm. Bà mẹ thường đưa TCS vào tu dưỡng trong chùa. Nằm
an tĩnh ngày này sang ngày khác -theo chính TCS nói- túc mệnh nhìn những ngọn
cây, lá phất phơ trong gió, nghe tiếng tụng kinh và tiếng mõ suy tư về cõi khổ,
về lẽ huyền bí vô thường. Để vang dậy trong hồn mình những câu thơ như lời cầu
nguyện, những điệp khúc siêu thoát như tiếng chuông chùa, những câu thơ những
điệp khúc sau trở lại ẩn kín trong những bài ca, sáng tác của cả đời
mình” (Trích từ “Đàm Thoại”, tản mạn của Mộc Giai, Sài Gòn 2002)
Sự bất hạnh thêm nữa là, từ một gia đình doanh nhân “sống những
ngày cũ huy hoàng giàu sang, bây giờ cùng xót xa âm thầm trên sự suy sụp của
gia đình” (TCS, Blao 27/10/1964). Sự suy sụp đó có thể là cái cớ để TCS từ
bỏ nhà trường, tuy nhiên TCS thật đã có vốn học thức trường quy hơn nhiều cậu
tú (như có thể thấy qua hành văn Pháp ngữ kinh điển, thể hiện trên những “thư
tình gửi một người”).
Bước ngoặt thứ hai, năm 1962 chiến tranh càng ngày càng khốc
liệt, chính quyền của Việt Nam Cộng Hòa triệt để thi hành lệnh tòng quân với mọi
thanh niên. Trước lệnh đó, duy nhất là mưu toan trì hoãn, TCS chỉ có cách là
xin nhập học trường Cao Đẳng Sư Phạm Qui Nhơn (một lẽ duy nhất là không cần phải
có một chứng chỉ học bạ cao nào). Sau hai năm, tháng 9/1964 TCS bị bổ làm giáo
viên tiểu học vùng sâu vùng xa tại Bảo Lộc (Blao), giữa đường xa lộ từ
Sài Gòn đi Đà Lạt.
Gần hai năm ở tỉnh lỵ Qui Nhơn, TCS vẫn là sinh viên nghệ sĩ
vô tư (đã có nhiều bài ca được biết đến), chắc chắn là xuất sắc, nhiều bạn bè,
và gia đình luôn luôn tiếp cận, có lẽ còn lưu sống ở thành phố Huế nhiều hơn là
ở Quy Nhơn.
Chỉ khi phải đến Bảo Lộc, vào đầu mùa thu 1964, TCS mới thật lần đầu tiên xa gia đình, không sống với bạn bè với người thân. Một mình cô đơn lạnh lẽo trong một nơi hoang vu, như một “épave” (đồ tàn phế) trên cơn nước lụt cuốn mang đi” (TCS, Blao. 29/12/1964) đầy đọa vào chốn khốn cùng. Một sự khốn cùng choáng váng cảm tưởng, dù chỉ lưu lại Bảo Lộc hơn một năm, như là mãi mãi trôi dạt, xa tất cả, xa thân yêu, xa cả xứ “Huế, quê hương đó mà anh không còn mong quay về” (TCS, Blao 17/9/1964).
Chỉ khi phải đến Bảo Lộc, vào đầu mùa thu 1964, TCS mới thật lần đầu tiên xa gia đình, không sống với bạn bè với người thân. Một mình cô đơn lạnh lẽo trong một nơi hoang vu, như một “épave” (đồ tàn phế) trên cơn nước lụt cuốn mang đi” (TCS, Blao. 29/12/1964) đầy đọa vào chốn khốn cùng. Một sự khốn cùng choáng váng cảm tưởng, dù chỉ lưu lại Bảo Lộc hơn một năm, như là mãi mãi trôi dạt, xa tất cả, xa thân yêu, xa cả xứ “Huế, quê hương đó mà anh không còn mong quay về” (TCS, Blao 17/9/1964).
“(Blao! Chỉ có) đêm tràn trên đồi núi, đêm trên từng ngọn
cỏ và gió lạnh của rừng núi cùng len về. Từng đoàn xe GMC chở đầy lính về cách
xa đây 10, 15 cây số. Những trận đánh nhỏ vây quanh đời sống... Chung quanh
mình những người thân thuộc vẫn tiếp tục ngã xuống… Không khí chiến tranh trùm
lên đất đai này. Có nhiều đêm anh thức dậy giữa những tiếng đại bác nổ rất gần
và thao thức suốt đêm lo âu.… Chắc rồi tháng tư anh đã bị gọi đi Thủ Đức (nhập
ngũ)…Thật là buồn nhưng phải làm gì hơn. Đêm đã lạnh và đã buồn. Cây cỏ lao
xao. Anh chỉ còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo” (TCS. Blao
29/12/1964)
Nhưng chính sự buồn thảm sâu lắng đó, gần gũi chiến tranh, cảm
nhận sự tang thương đau khổ của phận đời, tiếp xúc tận cùng sự cô đơn bất hạnh
như một hố thẳm không lối thoát, lại là bước ngoặt để nghệ sĩ đảm nhận nghiệp của
mình. TCS bắt đầu giai đoạn sáng tác vô cùng phong phú (1964-1968), viết “những
bản nhạc dính liền với thân phận, quê hương và đất đá” (TCS. Đà Lạt
3/5/1966). Những tập ca nhạc đã đưa TCS vào thần thoại!
Một sự căng thẳng liên tục trong sáng tác nghệ thuật, cùng một
lúc lại cảm nhận như mình đang sống “trong giai đoạn buồn bã nhất của tuổi
anh, hiatus-vực-thẳm chôn mình bằng những cơn xoáy cuốn hút” (TCS. Saigon
28/9/64). Nên không ngạc nhiên gì, như bao nhiêu văn nghệ sĩ, TCS đã “uống rượu
từ chiều cho đến đêm muộn màng. Không có gì giúp mình tìm thấy hư vô
hay hơn. On trouve le vide dans le whisky” (TCS. Saigon 16/11/64). “Bao giờ
anh say vừa, cũng thấy thú bởi vì thấy mình can đảm hơn để khinh thường cuộc
đời và chống đối trường kỳ với nó. Nhưng không bao giớ anh say thật!” (TCS.
Dran 12/11/1964). (Dran, Đơn Dương)
Không bao giờ say thật, khi vào khuya từ giã bạn
bè, cố quên chai rượu đục, vẫn tiếp tục tự giải tỏa, TCS dưới ánh đèn mờ hay
bên cây nến trắng thắp sáng ngồi viết những “thư tình gửi một
người”.
Những bức thư gửi dài dài cốt yếu trong hơn hai năm của nghệ
sĩ đa tài, có cuộc sống nội tâm hình nhi thượng, giữa sự cảm nhận hư vô và
phận người nặng những hoài vọng hư hư thực thực, của nghệ sĩ 25 tuổi viết cho một
nữ sinh 16 tuổi! Có thật là những bức thư tình không? Hay là “anh mê sảng?
Anh chỉ còn một thứ khí giới đó làm ngôn ngữ cho đời mình. Anh mong được mê sảng
suốt đời với những người mình yêu thương, với bạn bè, với chính mình nữa….Lời
mê sảng đi từ một chân thành tột cùng trong tiềm thức….Anh viết cho ai hay viết
cho chính mình!” (TCS. Dran 12/11/1964) Điều chắc chắn chính là một cuộc độc
thoại. Những bức thư có thể tạo dựng thành kịch bản một cảnh, một màn, một nhân
vật nói chuyện với chính mình trong sự cô đơn của phận con người.
Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng thư viết là tràn đầy tình
yêu. Tình yêu cho nữ sinh Ngô Vũ Dao Ánh.Tình yêu trinh nguyên “virginale
comme un lys”, một bông hoa lys trắngcủa vùng đất hứa (TCS. 27/10/64 với
truyện “Terre promise”, André Maurois), đôi tay thiên thần và bóng dáng lụa là
trắng sáng thủy tinh; “…ngang qua khoảng rừng cao su im tối, anh như bao giờ
cũng thấy bóng Ánh trắng sáng thủy tinh chập chờn trong vùng cây đen và bãi cỏ
xanh màu an nghỉ…Anh đã nghĩ tới hành lang giáo đường trên vùng ăn năn…Ánh có
thể mặc áo trắng lụa là đi bằng những bước chân nhỏ nhẹ trên đó. Anh đã cúi
mình xuống ý nghĩ và hình ảnh ấy thật lâu như ám ảnh…”(Theo Kim Yến - http://sgtt.vn/Van-hoa)
Những bức thư tình nhẹ nhàng ẩn dụ như những câu thơ tình cuả
Xuân Diệu. Tất cả là biểu tượng của tình yêu. Biểu tượng tình yêu là nữ
sinh dịu dàng đến thăm anh khi anh cô đơn buồn nản, châm cho anh điếu thuốc,
dâng anh ly rượu và lắng nghe anh thì thầm những lời cầu nguyện trước sự khắt
khe của trời đất, sự vô tình của lòng người. Những lời ca réo rắt Hạ Trắng,
Lời buồn Thánh, Mưa Hồng, Còn tuổi nào cho em…Người thiếu nữ trong sáng và
thánh thiện, mang mang âu tư sầu muộn như thông cảm muốn cứu rỗi dục vọng trần
tục và tội lỗi thầm kín của trần gian.
TCS đã thái quá không? Rung động tâm hồn nữ sinh trước ngưỡng
cửa vào đời bằng những tình tứ mông lung, trừu tượng và ảm đạm để rồi nàng còn
biết cần phải thực tế hơn không trước sự đời? Nhưng Dao Ánh, thiếu nữ có học thức
có chiều sâu, đã biết thâm trầm lặng lẽ đón nhận những bức thư như những câu ca
thánh thoát của nhạc sĩ đại tài. Không có lời phải ứng đáp nào trong những bức
thư. Chỉ có một ngày Dao Ánh đáp: “Ôi! Màu mắt rồi có ngày đổi màu như thế.” (TCS.
Blao 27/10/64) Một câu như tiên đoán cái năm 1967 không xa, Dao Ánh bỏ xứ Huế,
rồi xuất ngoại (1968) và lập gia đình (1969). Một chuyện “tình đơn thuần như
hoa cỏ” (TCS Blao 27/10/1964) rồi cũng tàn héo. Huế ngày 24/2/1967, TCS gửi
một bức thư cho Dao Ánh, “người tình bạc bẽo nhất cuộc đời của anh”, và Huế
ngày 25/3/1967, TCS viết chia sẻ cùng với Dao Ánh rằng “chúng mình chấm dứt
tình yêu đó ở đây”.
Một giã từ rồi tới như buổi chiều, mặt trời vừa nấp sau dãy
núi, rừng cây đã tối đen, côn trùng vang lên báo hiệu vào đêm. Hình ảnh của Dao
Ánh chắc chắn hiển hiện trong những bài ca thanh khiết mà tôi nhắc đến trên, biểu
tượng của tình yêu vời vợi như “bông hồng thoáng nở trong sương mù” (TCS)
Hơn hai mươi năm sau (1989) gặp lại ở Paris, “PS. Hôm gặp Ánh ở Monge-Paris
5ème buồn như muốn khóc.” (TCS. HCM 19/8/1989), TCS đã làm một bài ca
thật riêng cho Dao Ánh nhắc nhở thời tha thiết xa xưa ấy: “Xin trả nợ người” (TCS.
1993). Một bài ca rất TCS, âm thầm nuối tiếc như dòng sông cứ lặng lẽ trôi mang
đi những cánh hoa rơi. Dao Ánh dù bỏ ra đi, đã biết mang theo và cất kín tập
thư này. Chắc như một chuyện tình thật đẹp và trong sáng, như những mối tình mà
người ta sống trên màn ảnh hay với những trang tiểu thuyết không bạc màu. Những
lời thư rồi thầm vang trong tâm hồn của thiếu phụ, như những bài ca tình của
TCS đang và còn vang mãi trong những tâm hồn mộng mơ tươi trẻ và trong những
tâm hồn giữ mãi những nhớ nhung mông lung dù chính cuộc sống chỉ là vật lộn và
tranh đấu với những nhu cầu, những tham vọng và hệ lụy của thể xác.
Ngoài những lời tình tứ, “Thư tình gửi một người” có
giá trị không thường. Bộc lộ cho chúng ta thấy ngoài tài hoa hiển nhiên ai cũng
biết, TCS có căn bản tất yếu của tài năng nghệ thuật. Một chiều sâu trí thức, một
tâm hồn lãng tử, một cái nhìn trong trắng mãi mãi trẻ thơ, một hoài bão ước mơ,
một tư duy nội tâm siêu thoát, mà cuộc đời cho phép và hay bởi chính bản thân
không vẩn một chút gì bụi bậm tình thường (công danh, sự nghiệp, sinh nhai), một
lòng thương yêu vô tận gia đình, bạn bè, và cả chính mình yếu đuối giữa sống và
chết…
“Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đêm reo rất trong ở bãi cỏ. Trên
trời mặt trăng nhòa nhạt trắng. Mây đốt lên quanh vòm trời một hàng lửa trắng
xóa. Anh ngồi đây ôm xác mình quá nhỏ nhoi để có thể gọi tên bạn bè cho đỡ nhớ.
Có thể có một tình cờ nào đó không, như một buổi chiều, buổi sáng Ánh trôi dạt
về đây và anh mừng rỡ chết. Cái chết thật yên vui như một lần được vinh thăng với
hình ảnh trinh trong còn kết lại trong mắt.” (TCS. Blao 23/10/1964)
Một đoạn văn có chiều sâu rộng lượng siêu hình như giấc mơ.
Thêm đây một đoạn văn tuyệt vời của nội tâm:
“Làm sao quên được nỗi bàng hoàng đong đưa mình trên từng sợi
mưa xám bạc, qua bao nhiêu đồi núi khác nhau.Bao nhiêu nguyên liệu thời gian đó
đã chất chứa trong anh thành một tiếng hát ngút ngàn ca tụng vực thẳm huy hoàng
của khốn cùng. Mà số phận thì càng hẩm hiu và sự khắc nghiệt càng đẩy xa mình
đi vào những vùng heo hút.” (TCS. Blao 23/10/1964)
Một sự chất chứa nội tâm để tất cả những bài ca cuả TCS trước
hết đều là những bài thơ. TCS không phải là nhạc sĩ thông thường viết nhạc phổ
thơ người. Có lẽ trong sáng tác của TCS chỉ có một bài nhạc phổ thơ duy nhất.
Đó là bài “Cuối cùng cho một tình yêu”, mà cũng nên hiểu là làm từ một ý
thơ của Trịnh Cung, chứ thật không phải từ một bài thơ đã viết và đã in ra (mà
một bài thơ hòa đồng của hai người bạn, phôi thai với điệu nhạc .TCS dixit).
Tôi chọn đưa ra một đoạn văn sau đây:
“Có tuổi nào mang lá vàng ướp vào sách. Có tuổi nào nhặt lá
vàng đếm cho đủ tuổi mình. Có tuổi nào nhặt lá vàng rồi ngồi khóc. Có tuổi nào
giữ lá vàng trong tay mà bâng khuâng. Còn tuổi nào nhìn đá sỏi, nhìn tường
quách rêu phong, nhìn dã tràng sò ốc. Ôi! Có bao nhiêu tuổi trên đời này để
nhìn cho hết thiên nhiên” (TCS. Saigon 18/10/1964)
Đó thật là những ý thơ, TCS rồi viết ra thành bài ca “Còn tuổi
nào cho em”. TCS là thi sĩ, thi sĩ lai láng lãng mạn. Người ta hát những
bài ca thường hát lại hai ba lần; nhưng với những bài ca của TCS, ca sĩ luôn trở
về điệu nhạc nhưng với lời từ thứ hai hay thứ ba khác. “Mỗi ngày tôi chọn
một niềm vui” cả bài ca là một điệp khúc cho tám đoạn thơ biến dạng trùng
trùng điệp điệp. Những bài ca của TCS bao giờ cũng để lại ngay cho người nghe một
dư âm chính một phần vì những lời ca biến chuyển, ý thơ như vẫn còn luôn mãi
tràn trề lai láng trong thinh không.
Nhiều người tự hỏi làm sao TCS có thể sáng tác phong phú như
vậy (600 bài ca?). Cái khả năng là TCS luôn luôn mở rộng tâm hồn đón nhận tiếng
vang đến từ bốn phương. Từ một câu nói triết lý Tây phương, từ một quyển truyện
của André Gide (La porte étroite) hay của Françoise Sagan (Bonjour
tristesse), từ một bài hát của Phạm Duy, từ tiếng ca của Bạch Yến, Lệ Thu,
Thái Thanh… Tất cả đều vang vọng trong tâm hồn TCS như tiếng gió vang vang
thành âm thanh huyền bí trong động đá, cái hang động sâu lắng của tâm hồn.
“(Bài ca) *J’entends siffler le train* quấn chặt cổ anh như một
loài rắn, quấn chặt thân anh, quấn chặt ngực anh – anh co mình ngồi im; tiếng
hát của Khánh Ly thả xuống, trải dài, chạy quay vùng bóng tối…trói gọn anh vào
một *j’ai failli courir vers toi*, *j’ai failli crier vers toi* (cái thằng
anh chỉ muốn chạy đi tìm em, cái thằng anh chỉ muốn gào gọi tên em) và một tiếng
hát khác nhỏ hơn, âm thầm lôi phăng anh đi về một vùng cao hơn, xa hơn, có tiếng
đàn guitare rất đục và vùng lá non buổi chiều trong con mắt đốt bằng lửa mặt trời” (TCS.
Đà Lạt 19/9/1964)
Vô hình trung, tập “thư tình gửi một người” cũng là thực chứng
của lịch sử. Thế hệ của TCS, những lớp người trưởng thành vào những năm 1960, là
thế hệ từ Nam ra Bắc đổ máu xương trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1960-1975).
Phạm Công Thiện, một nhân chứng của thế hệ, coi đó là “hố thẳm” của bản thể
nhân sinh xã hội, sự đấu tranh muôn đời giữa “thiện và ác, tàn bạo và mộng mơ,
gian tà và lòng nhân”***. TCS coi đó là bất hạnh nghịch lý, đến với đất nước
chúng ta để anh em chung một nhà giết hại lẫn nhau với súng đạn của Liên Xô,
Trung Cộng và của Tư bản dân chủ đế quốc Mỹ. Chắc phải là nghiệp chướng nhiều
năm kết tụ, hãm hại lẫn nhau ngay trong trại lao của thực dân đế quốc Pháp, giữa
những người đầy nhiệt huyết vì dân vì tổ quốc nhưng chính kiến khác nhau về xã
hội về con người, đấu tranh giai cấp hay chỉ là bè đảng, hận thù phân chia kẻ
có với kẻ không, chìm đắm với những lý thuyết đại ngôn tư tưởng, ý thức hệ ngoại
bang tức thời. “Những bản nhạc dính liền với thân phận, quê hương và đất
đá” (TCS. Đà Lạt 3/5/1966) chính là những lời than thở trước cái bất hạnh
nặng khổ đau tang tóc của định mệnh, cộng với những ước vọng bao la tới một thời
an bình, tay nối tay, cùng nhau thấy mặt trời sáng trên quê hương…Nhiều người
đã nói đó là những bài ca “phản chiến”; nhưng thế nào có thể là phản chiến, khi
không có một lời nào kêu gọi chiến sĩ hạ súng, bỏ thiết giáp cùng nhau bãi chiến,
phản kháng những sức mạnh đen tối của bạo lực và của hận thù! TCS chỉ biết buồn
và lo âu đưa chính em trai của mình và những người bạn ra tòng quân ở Thủ Đức,
trại huấn luyện sĩ quan của Việt Nam Cộng Hòa.
TCS ca thán giùm cho thế hệ, thế hệ thanh niên cả miền Nam và miền Bắc đã phải cầm súng lên để giết hại nhau, như một số phận nằm ngoài tầm tay ý chí của chính mình, của dân tộc mình.
TCS ca thán giùm cho thế hệ, thế hệ thanh niên cả miền Nam và miền Bắc đã phải cầm súng lên để giết hại nhau, như một số phận nằm ngoài tầm tay ý chí của chính mình, của dân tộc mình.
Tiêu biểu nhất, theo tôi nghĩ, là bài hát: “Cho một người
nằm xuống”. Khóc cho ai? Khóc cho phi công chiến sĩ, máy bay phản lực tác chiến
bị bắn rơi giữa trời và đất. Anh là ai? “Một con vật kiêu hùng” (L’homme
est un animal fier- TCS nhắc câu của triết gia người Pháp Alain), đã làm những
gì số phận bắt anh phải làm, nhưng trời đất, người tình và những người bạn sẽ
khóc anh như một trái tim, như một người hùng, một cánh chim lạc vào trong đêm
tối. Những lời ca như vậy đủ cho ta biết tại sao trong những năm 1968 và về sau
các tướng sĩ, các câu lạc bộ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn tiếp đón TCS
như một thượng khách, để trong một khoảnh khắc quên tang tóc thù hận và lòng hiếu
chiến. Để về sau kẻ chiến bại bỏ giáp ra đi, nằm nghe vọng mãi những bài ca “phản
chiến” cuả TCS, và những kẻ khải hoàn thắng trận, ngậm ngùi đóng cửa thầm kín lắng
nghe cũng những lời ca đó và tự hỏi nghĩa lý gì trong chiến thắng khi tình nhân
loại đã mất đâu đó với những xác chết bỏ bên dọc đường.
Những bức “thư tình gửi một người” còn giúp cho ta
hiểu thật tại sao TCS hiện diện trong lòng người, là kho tàng văn nghệ của đất
nước. Chính là TCS không bao giờ làm người hùng trước những trắc trở của cuộc đời,
với sự yếu đuối của cành trúc, ngọn lau trong gió lớn, TCS hoàn toàn non trẻ
trong trắng vô tư trước những sóng bão bất tất của xã hội, của lịch sử. Cái gì
TCS với nghệ thuật để lại trong tâm hồn của mỗi người là sự cảm thức tận cùng
cái vực thẳm, mà nhân loại từng người đều phải rơi vào, vực thẳm của cô
đơn. Chúng ta đều tận cùng cô đơn, không tình yêu tha thiết nào có thể cứu
rỗi. Chúng ta đều cô đơn trong một đêm đông, muôn vật xung quanh đều yên nghỉ,
ta nằm nghe tiếng gió rít của mùa đông, đối diện với chính mình, thầm nhớ những
bộ mặt thân yêu, tràn đầy tình thương mất mát, và mang mang hoài mộng chờ đợi một
cái gì chính ta không biết…
* Thư tình gửi một người - Tập thư Trịnh Công Sơn gửi
cho nữ sinh Ngô Vũ Dao Ánh. Nhà xuất bản trẻ - Việt Nam 2011. Sách in bìa cứng
và giấy dầy khổ lớn - giá 600.000 đ.vn
** (TCS. Blao 1/1/1965): Một trong tập thư, thư đề ngày
1/1/1965 viết ở Blao
*** Necrology: Phạm Công Thiện (1941 - 3.8.2011)
24/4/2011
Ngô Văn Tao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét