Trước rạng đông một ngày đầu tháng tám, tôi lên một chiếc
xe van chín chỗ, từ Sài Gòn về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng tôi
sẽ không kể lại từng phút giây của hai ngày đáng nhớ ấy (hôm đó và hôm sau) mà
tôi gặp Tư và gia đình cô ở Cà Mau, bởi vì cuộc hành trình này (như bây giờ tôi
nhận ra) không chỉ là non mười một tiếng đồng hồ ngồi xe về đất Mũi, nhưng là một
chuyến trở về “quê thật”của tôi. Quê ấy chẳng phải là một nơi nào đó trên
bản đồ địa lý, nhưng là một vùng tâm tưởng của một người đã ra đi hơn bốn chục
năm trời. Và gặp Tư không phải vì tò mò về một tác giả mà tôi đã đọc nhiều
và yêu thích, nhưng để hình tượng hoá khung cảnh sản sinh những tác phẩm có sức
rung cảm tuyệt vời của một nhà văn mà tôi đã gọi là “đặc sản miền Nam”.
Xe chuyển bánh từ giữa lòng bóng tối, loà nhoà ánh đèn vàng của
Sài Gòn còn ngái ngủ, vào ngoại ô trong sương lúc bình minh, qua những địa danh
quen thuộc của tuổi trẻ tôi: Bến Lức, Tân An, Ngả ba Trung Lương, Cái Bè,
Cai Lậy, Cầu Mỹ Thuận, Vĩnh Long (chẳng biết người tôi quen hơn bốn mươi năm
trước bây giờ ở đâu?), Cần Thơ, và những nơi có thể tôi đã qua nhưng không còn
nhớ: Sóc Trăng, Bạc Liêu. Càng xa Sài Gòn, đường càng xấu, khủng khiếp nhất
là đoạn từ Bạc Liêu đến Cà Mau. Và rồi khoảng ba giờ chiều hôm ấy,
dưới ánh nắng vừa hực lại sau một thoáng mưa to, bên vệ đường vào thị xã Cà
Mau, một người trẻ (tôi còn nhớ đã thốt thầm: trời, sao trẻ vậy!) như nữ sinh
trung học, quay xe Dream ngừng lại cúi chào tôi. Nguyễn Ngọc Tư.
Suốt buổi chiều hôm ấy tôi trò chuyện nhiều với Tư, dùng cơm
tối với Tư và ba Tư. Sáng hôm sau đi ăn cháo cá với Tư (và, cao điểm của
đời tôi: được Nguyễn Ngọc Tư chở Honda vòng quanh thị xã Cà Mau), về nhà
(cũng là cửa hàng) của vợ chổng Tư, lại nhà ba má Tư ăn trưa với cả gia
đình. Rồi chia tay, tôi trở lại thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi sẽ không nói về Tư nhiều hơn nữa bởi vì, tôi phát giác,
Nguyễn Ngọc Tư mà tôi gặp chính là Nguyễn Ngọc Tư mà mọi người đều có thể biết
rõ qua các bút ký của cô,và Cà Mau mà tôi đến là Cà Mau trong tất cả những gì
Tư viết.
Đó là môt người phụ nữ rất trẻ, dung dị, bình thường, nhưng
kiên cường và bản lĩnh. Tư sống gần ba má, anh chị. Từ thế hệ nội,
ngoại, cả gia đình của Tư đều là bộ đội trong chiến tranh chống Mỹ. Chị
và anh của Tư sinh ra trong chiến khu trước hoà bình, còn Tư thì sinh ra ở Bạc
Liêu (năm 1976, nhưng không ai nhớ ngày nào, chỉ nhớ đêm ấy trời không trăng, tối
mịt) rồi về sống ở Cà Mau từ hồi bốn tuổi. Ngoài đời, Nguyễn Ngọc Tư mà
tôi đã gặp rõ ràng là Tư của Lời cho má, Sân nhà, Tắm sông, Chơi
một mình, Một mái nhà, Nguyệt - Người bạn không biết viết văn, Cửa sau. Và Cà Mau mà tôi thấy chính là chợ (hãy đọc lại Chợ nổi Cà Mau, - chút
tình sông nước), là sông, là xóm làng (Đất Mũi mù xa, Nhớ đất, Tháng Chạp ở
rạch Bộ Tời) trong bút ký Nguyễn Ngọc Tư.
Song tôi phải nói, đến Cà Mau, tôi mới thấy rõ hơn sự gắn bó
của Nguyễn Ngọc Tư với con người, với đời sống, với đất nước quanh cô. Bối
cảnh gia đình cho Nguyễn Ngọc Tư một cái nhìn mà tôi ít thấy ở ai
khác. Đó là cái nhìn thật trưởng thành nhưng của một người rất trẻ, đó là
cái nhìn của kẻ đã sống qua máu lửa, chứng kiến lắm đau thương, nhưng với con mắt
vô tư của một người sinh ra khi đã hết chiến tranh. Đó là cái nhìn
của một gia đình chân chất và trầm lặng, hãnh diện đã làm tròn nhiệm vụ đấu
tranh cho đất nước, không chút nghi ngờ tương lai của dân tộc, nhưng chẳng có ảo
tưởng nào về những mặt bất toàn của hiện tại. Đó là những người bị thiên
tai liên miên vùi vập (Chờ đợi những mùa tôm, Đi qua những cơn bão khô, Ngậm
ngùi Hưng Mỹ), nhưng bao giờ rồi cũng đứng lên và xây dựng lại. Đó là những
người nặng tình với công lý, song không phải là thứ công lý khô khan, quyết liệt
của kẻ bị áp bức, bốc lột thời bị trị, mà là thứ công lý đầy nhân ái, giận
nhưng không oán, trách nhưng không thù (Mơ hết, Kính thưa anh nhà báo, Làm cho
biết, Tản mạn quanh… cái cổng).
Và, đến Cà Mau, tận mắt nhìn sông, nhìn chợ, tận tai nghe tiếng
gà gáy sớm, tiếng máy ghe bình bịch sau nhà Tư, rồi nhớ lại những bút ký của Tư
(mà hầu như tôi nhớ hết!), tôi thêm một ý nghĩ: nếu là nhà làm phim, Nguyễn Ngọc
Tư sẽ rất tài tình. Bạn hãy đọc, hoặc đọc lại, một sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư (tỉ như Mối tình năm cũ), rồi trả lời giùm: đó là phim hay truyện? Những chi tiết trong đó làm người đọc thẩn thờ, nhưng sao ấy, chúng không tủn mủn
tẩn mẩn, mà sáng và vui. Cái nhìn của cô trong Chợ nổi đúng là
một cái nhìn “điện ảnh”: những gam màu thật tươi, những “cận ảnh” bất ngờ, song
đôi mắt nhà văn ấy không bị vướng cái rè rè cơ động, cái xoay chuyển chậm chạp
của máy quay phim, mà gần hơn với cái tung tăng của một con bướm nhỏ. Cảnh
và người, lạ mà thân, xa mà gần, náo hoạt mà tĩnh yên, và đầy lòng thương mến. Nguyễn Ngọc Tư cho biết cô hay nghe nhạc khi viết, và tôi không ngạc
nhiên. Đúng là văn của cô nghe như nhạc. Nhiều truyện của cô gần
như một bài vọng cỗ (hay một thứ ballad, nếu nói cách kiêu kỳ) hơn bất cứ gì
khác. Và, như bài vọng cỗ, chúng thường là những chuyện buồn, đôi khi rất
buồn, kết thúc bằng một nốt trầm, một sự lửng lơ.
Có thể hình dung phần lớn cuốn-phim-bút-ký của Nguyễn Ngọc Tư
như một con thuyền vượt sóng: một bên là những rộn ràng sống động của
sinh hoạt đời thường, một bên là những đòi hỏi (rất nghiêm trang và chính đáng)
cho công lý. Nguyễn Ngọc Tư là tiêu biểu của thế hệ Việt Nam mới, sinh ra
sau thống nhất, trong thanh bình, nhưng luôn quý trọng những hi sinh, và hãnh
diện chấp nhận kế thừa những người mang lại thống nhất và thanh bình ấy.
Hãnh diện với quá khứ và xông vai tiếp tục đi tới. Những người như
Nguyễn Ngọc Tư cực khổ mà không than phiền. Đâu đó trong nụ cuời e thẹn
(và rất xinh!) của cô là sự trong sáng của một tuổi trẻ hãy còn đây. Ở
Nguyễn Ngọc Tư là phong cách ngoan hiền nhưng kiên quyết, cuộc sống giản đơn
nhưng thấp thoáng một nội tâm phức tạp và bí ẩn (những lúc cô chợt im lặng giữa
câu chuyện, con mắt trở nên đăm chiêu, làm tôi giật mình). Nguyễn
Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng: nhiều người rất thích
nhưng cũng có người (“đáng thương thay!”, tôi nói) lại dị ứng. Tôi đã cự
với Tư về cách ví von này bởi vì, theo tôi, văn của Tư không chỉ là một trái
này hay quả nọ, mà là cả hàng chục, hàng trăm loại trái cây, hoa quả.
Nhìn cảnh chợ Cà Mau, tôi tin là tôi đúng hơn Tư. Xin lỗi nha Tư!
Tôi hỏi Nguyễn Ngọc Tư có cảm thấy cô lập trong đời văn không
(nhớ rằng Cà Mau dù gì cũng là hơi xa đông đảo những người viết khác) thì Tư lại
bảo nếu không còn làm ở chỗ hiện tại (Hội Văn Học Nghệ Thuật Cà Mau) cô muốn sẽ
về công tác ở một Hội Nông Dân ở vùng xa, vùng sâu hơn nữa, nơi không ai sẽ biết
cô là nhà văn nhà báo (ít ra trong vài tháng đầu, cô nói đùa) để cô biết thêm về
đời sống của họ. Nguyễn Ngọc Tư là như thế đấy.
Khi trao tặng Tư một quyển biên khảo mà tôi có tham gia, nhìn
tay cô loáng thoáng lật nhanh trang giấy, tôi chợt nhớ chỉ vài năm trước đây
chính bàn tay nhanh nhẹn ấy còn hái rau để má đem ra chợ bán mỗi sáng.
Bàn tay hái rau, nấu cơm, rồi lật sách và cầm bút! Những chuyển biến gần như
huyền thoại của một phụ nữ đảm đang, một tài năng thiên phú. Có điều tôi
hơi hổ thẹn là ngồi với Tư, tôi lại nói nhiều hơn Tư! Nếu tôi là
người nổi tiếng thì Tư có thể viết một bút ký “Gặp Trần Hữu Dũng ở Cà Mau” tiết
lộ những “tâm sự” của tôi, chắc tôi phải độn thổ!
Vậy bạn đừng quở tôi, nghe nói đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư
mà sao không kể gì về Cà Mau, không kể gì về cô Tư hết vậy? Bởi vì, Cà Mau ở đây chính là sự bình dị của hàng trăm tỉnh làng trên mọi miền đất nước. Những tỉnh làng không hoành tráng, không nhiều danh lam thắng cảnh, thưa khách
tham quan, và nghèo, nhưng là cái nôi, cái nguồn của sức sống dân tộc. Bởi vì, Nguyễn Ngọc Tư ở đây là hình ảnh một phụ nữ miền Nam như rất nhiều phụ nữ khác,
không phải là một trong “mười khuôn mặt tiêu biểu năm 2003” (dù cô có là), một
người đàn bà còn rất trẻ, không son phấn, bận bịu chồng con, chăm lo ba má, quần
quật công việc cơ quan, và sáng tác. Và chuyến đi Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư của
tôi là một cuộc trở về (vì tôi đã lớn lên ở đó) với ruộng vườn miền Nam ruột thịt,
một cuộc viếng thăm (vì lại phải ra đi) những đứa em, đứa cháu, những bà con và
bè bạn (mới và cũ) đang sống nơi ấy, vui, buồn, gian nan và thành đạt, nhưng
trong tất cả là khí tiết của quê hương.
*Bài đã đăng đầu tiên trên nguyệt san Diễn Đàn, số 154,
tháng 9/2005, dưới bút hiệu Tiểu Hằng Ngôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét