Đời sống gia đình:
Trong xã hội truyền thống Việt Nam trước đây, một gia đình điển
hình thường bao gồm ba, bốn thế hệ cùng sống chung. Với tâm lý “nhiều con, nhiều
lộc” nên mọi gia đình mong muốn “con đàn, cháu đống”. Do ảnh hưởng tư tưởng Nho
giáo và quan niệm phong kiến “trọng nam, khinh nữ”, con trai luôn được coi là
trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định. Còn phụ nữ phải tuân thủ lễ
giáo phong kiến ‘tam tòng, tứ đức” (Tam tòng: lúc nhỏ sống dựa vào cha, lớn lên
lấy chồng phải tuân thủ theo chồng, chồng chết phải ở vậy sống theo con trai; Tứ
đức: công, dung, ngôn, hạnh).
Kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua
nhiều văn bản luật, điển hình là Luật Hôn nhân và Gia đình để điều chỉnh các mối
quan hệ trong gia đình cho bình đẳng hơn. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tuyên
truyền vận động cũng được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức lạc hậu của người
dân, bảo đảm bình đẳng giới, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
Ngày nay, quy mô một gia đình hiện đại Việt Nam có xu hướng
thu hẹp lại, chỉ 2-3 thế hệ. Số con của một cặp vợ chồng là hai (chiếm đa số),
tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” không nặng nề như xưa và dần dần bị loại bỏ.
Truyền thống “kính trên, nhường dưới” có từ xa xưa vẫn luôn được duy trì và
phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam.
Trang phục:
Hầu hết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều có trang phục
riêng mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Nhìn chung đa phần trang
phục của các dân tộc được trang trí hoa văn có màu sắc rực rỡ, tương phản: đen
- trắng, đen - đỏ, xanh - đỏ hoặc xanh - trắng và được dệt từ sợi có nguồn gốc
tự nhiên như sợi gai, tơ tằm, tơ dứa, sợi bông..., vừa đẹp, vừa bền mà thoáng
mát, phù hợp khí hậu nhiệt đới.
Thường phục truyền thống của người Việt đối với đàn ông là quần
trắng, áo nâu, đầu vấn khăn, chân đi guốc hoặc dép. Bộ lễ phục thêm áo dài đen
bằng vải hoặc the, đầu đội khăn xếp. Đối với phụ nữ, trang phục cầu kỳ và rực rỡ
hơn: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ
lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the thâm hay màu
nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen.
Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để
lộ ba màu áo. Trong cùng là chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và
kín đáo. Cách ăn mặc truyền thống này đã mang đến cho người phụ nữ Việt một vẻ
đẹp đằm thắm, dịu dàng, thướt tha.
Ngày nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi.
Bộ âu phục thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài khởi phát
từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn, được
phụ nữ Việt Nam ưa thích mặc vào nhiều dịp lễ hội quan trọng trong năm. Chiếc
áo dài hiện tại có thân tương đối bó sát thân người, hai tà áo thả xuống ngang
nửa ống chân, làm cho thân thể người phụ nữ hiện lên những đường cong mềm mại,
dịu dàng nhưng kín đáo, phù hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt
Nam.
Hiện nay, việc giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới
ngày càng mở rộng, trang phục của người Việt nam ngày càng phong phú và mang
tính hòa nhập và thời trang hơn, nhất là trong giới trẻ ở thành phố.
Một số lễ hội lớn của Việt Nam:
Sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hóa dân gian đặc trưng tại
mọi miền trên đất nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ hội mang lại sự
thanh thản cho con người Việt Nam, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm
sự gắn bó và tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp,
nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc “nông nhàn” - mùa xuân và mùa thu, trong
đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên khắp đất nước như Tết Nguyên Đán,
Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Giỗ tổ Hùng Vương...
Tết Nguyên Đán (thường vào cuối tháng Một, đầu tháng Hai hàng
năm):
Là Lễ hội lớn nhất trong các Lễ hội truyền thống Việt Nam.
Đây là dịp cả gia đình xum họp, cùng nhau thưởng thức những món ăn truyền thống,
đi thăm hỏi và chúc tụng những người trong gia tộc, bạn bè, đồng nghiệp. Trong
quan niệm của mọi người, Tết là sự kết thúc của năm cũ - kết thúc của những điều
xấu, rủi ro để bước sang năm mới với những điều tốt lành sẽ đến. Giao thừa là
lúc thiêng liêng nhất; mọi gia đình đều lấy khoảnh khắc này để đặt lễ, thắp
hương thờ cúng thần linh, tổ tiên. Ngoài việc cúng giao thừa, còn nhiều tập tục
vẫn được duy trì vào dịp Tết như xông đất, hái lộc, mừng tuổi.
Lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy âm lịch):
Lễ Vu Lan là một đại lễ báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã
khuất - một tập tục đáng quý, đáng trọng của người Việt, thể hiện tấm lòng ”ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”. Theo Phật giáo, ngày này các âm hồn được lên trần hưởng
lộc. Hầu hết các gia đình đều làm cỗ cúng gia tiên; cúng xong đốt vàng mã cho
vong hồn dùng. Rằm tháng Bảy cũng là ngày xá tội vong nhân mà gọi nôm na theo
dân gian là ngày cúng chúng sinh. Lễ vật gồm có cháo, bỏng gạo, bánh đa, bánh kẹo,
hoa quả… để cúng cho những cô hồn lang thang, không người hương khói.
Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám âm lịch):
Tết Trung thu, còn gọi là ”Tết trông Trăng”, là ngày Tết dành
cho trẻ em. Trẻ em rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng
đồ chơi như đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, bánh nướng, bánh dẻo...Tối đêm Rằm,
hầu hết các gia đình có trẻ em đều có mâm cỗ trông trăng. Cỗ trung thu chủ yếu
là bánh kẹo và hoa quả được tạo thành các con giống bày trên mâm cỗ. Đêm Rằm,
không khí thật náo nhiệt bởi tiếng vui đùa, múa hát của trẻ nhỏ, kết hợp với
ánh sáng của trăng, đèn và nến... Một số nơi còn tổ chức các trò chơi như rước
đèn, múa Lân, múa Sư tử, múa Rồng... cho các em nhỏ vui chơi.
Giỗ tổ Hùng Vương:
Ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ tổ Vua Hùng. Ngày Giỗ
tổ được tổ chức tại khắp mọi miền đất nước Việt Nam và cả ở nhiều nước trên thế
giới, nơi có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Nơi tổ chức Lễ Giỗ tổ
chính thức là Phú Thọ (kinh đô của Nhà nước đầu tiên của Việt Nam – Văn Lang),
nơi đặt Đền thờ 18 vị Vua Hùng. Những lễ phẩm có tính chất tục lệ của Việt Nam
được làm ra và dâng cúng vào dịp này gồm đèn, hương, rượu, trầu cau, nước lã,
bánh trưng, bánh dày. Từ năm 2007, Giỗ tổ Hùng Vương chính thức được công nhận
là ngày Quốc lễ của Việt Nam.
Đền thờ Vua Hùng
Phong Châu, Phú Thọ
Phong Châu, Phú Thọ
Văn học:
Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc
riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học
riêng của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc.
Văn học cổ: bao gồm dòng văn học dân gian, văn học chữ
Hán và văn học chữ Nôm. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động
sản xuất, xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, chủ yếu là truyền miệng
dưới nhiều hình thức khác nhau như truyện kể, thần thoại, sử thi, truyền thuyết,
cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, ca dao, câu đố,
vè... được truyền từ đời này sang đời khác. Dòng văn học chữ Hán: Chữ Hán bắt đầu
du nhập vào Việt Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Sau khi giành được
độc lập dân tộc (năm 938), các triều đại phong kiến Việt Nam, với tinh thần tự
lực, tự cường đã phát triển nền văn học Việt Nam và sử dụng chữ Hán để ghi lại.
Nhiều áng văn thơ bất hủ bằng chữ Hán còn lưu lại đến ngày nay như Bài thơ Thần
của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo; Đại Việt Sử ký của Lê Văn
Hưu. Dòng văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được Việt hóa từ chữ Hán. Văn học chữ Nôm xuất
hiện từ thế kỷ VIII, được phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XVIII và tiếp tục phát
triển tới đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm nổi tiếng được lưu danh tới ngày nay
như Bình Ngô Đại Cáo, Quốc Âm Thi Tập với 254 bài thơ của đại danh nhân Văn hóa
Thế giới Nguyễn Trãi; tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của Vua Lê Thánh Tông;
Bách Vân Thi Tập của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm; Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần
Côn; những bài thơ thể hiện khát vọng cho quyền bình đẳng nam nữ trong chế độ
phong kiến của “Bà Chúa Thơ Nôm” Hồ Xuân Hương… Đỉnh cao phát triển của văn học
của thời kỳ này là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Bên cạnh đó, những
tác phẩm lịch sử viết bằng chữ Nôm cũng xuất hiện nhiều như bộ Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Vũ Quỳnh) hay Lê
Triều Thông Sử của học giả Lê Quý Đôn…
Văn học hiện đại: Việc xuất hiện chữ Quốc ngữ là tiền đề
sản sinh nền văn học mới, văn học hiện đại đầu thế kỷ 18. Dòng văn học hiện thực
phê phán và phong trào thơ mới lãng mạn đã đóng góp những tác phẩm nổi tiếng
cho nền văn học hiện đại Việt Nam với các tên tuổi như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc
Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Trương Vĩnh Ký, Tản Đà, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nam Cao…
Văn học Cách mạng Việt Nam bắt đầu từ 1945 đến nay:
Thời kỳ 1945-1975: Văn học thể hiện khát vọng của toàn
dân tộc mong muốn hòa bình, độc lập, kêu gọi mọi người dân đứng lên đấu tranh
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.…
Kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975, với chủ trương “xây dựng
một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, giới văn nghệ sĩ Việt Nam
đi sâu phản ánh nhiều mặt đời sống xã hội, kêu gọi toàn dân chung sức xây dựng
một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Nền
văn học Việt Nam, với sự đóng góp của hàng nghìn nhà thơ, nhà văn, ngày càng
phát triển nhanh với các loại hình: văn xuôi, thơ, phê bình lý luận... đóng góp
to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam.
Nghệ thuật biểu diễn:
Trong nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam, có nhiều thể loại
như chèo, tuồng, cải lương, rối nước, ca múa nhạc cung đình, hát quan họ, chầu
văn, ca trù, hát then, lý Nam Bộ… nhưng phổ biến nhất và thường được biểu diễn
nhiều nhất là chèo, tuồng, cải lương, hát quan họ, rối nước, lý Nam Bộ và nhã
nhạc (một hình thức của ca múa nhạc cung đình). Dưới đây là sơ lược một vài loại
hình trong nghệ thuật biểu diễn.
Ca múa nhạc cung đình phát triển mạnh vào triều đại vua Lê
Thái Tông với nhiều loại hình ca múa nhạc phong phú như Trung cung chỉ nhạc, Yến
nhạc, Nhã nhạc, Đại nhạc, Văn vũ, Võ vũ… Dưới triều nhà Nguyễn, ca múa nhạc
cung đình phát triển rực rỡ với những điệu múa Bát dật biểu diễn trong các lễ tế
trời của các vị vua Triều Nguyễn tại Đàn Nam Giao, Múa quạt, Tam tinh Chúc thọ,
Bát tiên hiến, Lục triệt hoa mã đăng, Lục cúng hoa đăng trong các nghi lễ của
triều đình phong kiến. Nhiều điệu múa, bản nhạc cung đình còn được lưu giữ và
phát triển cho đến ngày nay. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO chính thức
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới năm 2003.
Múa rối nước:
Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1009 - 1225). Một vở rối
nước thường có nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật (con rối) là một tác phẩm điêu khắc
dân gian, mang dáng vẻ khác nhau, tính cách khác nhau. Con rối được làm bằng gỗ,
bên ngoài phủ lớp chống thấm nước. Nhân vật tiêu biểu của rối nước là chú Tễu với
thân hình tròn trĩnh và nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Nghệ nhân biểu diễn múa rối
phải ngâm mình dưới nước sau màn sân khấu để điều khiển con rối thông qua máy
sào, máy dây. Nhạc đệm cho cuộc diễn là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la… Nghệ thuật
múa rối nước của Việt Nam là loại hình sân khấu cổ truyền, độc đáo được khán giả
nhiều nước trên thế giới ưa chuộng.
Chèo:
Bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, chèo là một loại hình
nghệ thuật sân khấu truyền thống tiêu biểu nhất của Việt Nam. Lúc đầu xuất hiện
ở các làng quê, dần trở thành loại hình sân khấu tiêu biểu của cư dân đồng bằng
Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò.
Văn chèo tự sự (kể chuyện) mang đậm tính trữ tình của ca dao, tục ngữ; tràn đầy
tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh, trí tuệ; tính
nhân văn rất rõ nét; thể hiện khát khao vươn tới hạnh phúc và xã hội hòa thuận,
bảo vệ quyền con người; cái thiện luôn thắng cái ác. Nhân vật trong chèo mang
tính ước lệ, chuẩn hóa với tính cách và tâm lý không thay đổi trong suốt vở. Một
số vở chèo nổi tiếng thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ khán giả là Quan Âm
Thị Kính, Chu Mãi Thần, Kim Nhan… được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền
dân tộc Việt Nam.
Tuồng:
Tuồng còn gọi là hát bội, bộ môn nghệ thuật cổ điển và bác học
bậc nhất Việt Nam, một loại văn nghệ trình diễn cổ truyền ở Việt Nam, phát triển
từ loại hình sân khấu dân gian của văn học Việt Nam, được hình thành trên cơ sở
ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của
dân tộc Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII, Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh
về mọi mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Ngày nay môn nghệ thuật
này vẫn được coi là “quốc hồn, quốc túy” của người Việt, sánh như Kinh kịch của
Trung Quốc hay kịch Noh của Nhật Bản.
Cải lương:
Là loại hình sân khấu kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ
20. Nguồn gốc của cải lương là các bài hát lý, ca nhạc tài tử ở miền Tây Nam Bộ.
Cải lương sử dụng nhiều cách diễn, âm nhạc của tuồng Việt Nam. Cũng như các nghệ
thuật kịch hát dân tộc khác, cải lương bao gồm múa, hát, âm nhạc. Nhạc cụ chủ đạo
trong dàn nhạc cải lương là đàn ghi ta phím lõm và đàn nguyệt. Nhiều vở diễn đã
thu hút sự quan tâm của người hâm mộ như Lục Vân Tiên, Lưu Bình Dương Lễ, Đời
Cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt và Mộng Hoa Vương, Nửa đời hương phấn, Chim Việt cành
Nam, Thái hậu Dương Vân Nga…
Quan họ bắt nguồn từ những lối hát đối đáp nam nữ có từ lâu đời.
Hát quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng, mỗi năm một lần vào dịp hội
làng. Nó gắn liền với tục kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai làng khác nhau.
Hát quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội dung vừa theo làn
điệu, đối lời kèm theo đối giọng. Hơn 180 làn điệu quan họ còn lưu giữ đến nay
đều mang nội dung giao duyên trữ tình thắm thiết, với lời hay, ý đẹp, ngôn ngữ
bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc, với âm điệu phong
phú, trữ tình, với lối hát mượt mà, kỹ thuật “vang rền nền nảy” độc đáo. Tất cả
điều này đã làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Kiến trúc Việt Nam:
Kiến trúc dân gian: bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch đá,
kiến trúc tre nứa lá khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Trong
khi kiến trúc tranh nứa lá phổ biến dưới dạng nhà ở của những cư dân tại nhiều
vùng nông thôn Việt Nam thì kiến trúc gỗ phổ biến và tiêu biểu nhất lại thể hiện
dưới dạng chùa, đình, nhà của những gia đình giàu có trên khắp đất nước. Có thể
điểm tên một số di tích về kiến trúc gỗ như Chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối
Khê, chùa Thái Lạc, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng,
những ngôi nhà cổ tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội, Hội An và Huế...
Kiến trúc gạch đá: tiêu biểu được lưu giữ đến ngày nay là tháp chùa (tháp Hòa
Phong, tháp Báo Thiên, tháp chùa Phổ Minh, tháp chùa Thiên Mụ…), cổng thành, tường
thành (cổng thành nhà Hồ, cổng thành Hà Nội…), tam quan chùa đền (tam quan Văn
Miếu, tam quan Trấn Vũ, cửa Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, cửa Ngọ Môn Huế... Kiến
trúc gạch đá còn một bộ phận đáng kể các đền đài do người Chăm xây dựng (thường
gọi là tháp Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, tiêu biểu và tập
trung nhất ở Khu di tích Mỹ Sơn.
Kiến trúc ngoại du: Từ thế kỷ 19, kiến trúc Việt Nam có
sự chuyển hóa, hòa trộn giữa hai trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và
kiến trúc truyền thống Á Đông. Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng với những khu phố
theo kiểu ô bàn cờ thuận lợi cho việc đi lại. Nhiều tòa nhà được xây dựng theo
phong cách cổ điển Châu Âu mà tiêu biểu là Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà
hát lớn Hà Nội, Ngân hàng Ngoại thương, Bộ Ngoại giao, Tòa Thị chính Sài Gòn,
Bưu điện Trung tâm thành phố Sài Gòn, một số biệt thự… Bức tranh kiến trúc thời
kỳ này xuất hiện những nét mới, đó là những nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn,
Hà Nội, Huế và xứ đạo các địa phương. Một điều khá thú vị là ngay cả những công
trình kiến trúc mang đậm phong cách châu Âu ấy khi xây ở Việt Nam lại được pha
lẫn bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà
tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm.
Giai đoạn 1954–1975: ở Miền Bắc nhiều công trình được dựng
lên theo kiểu kiến trúc của Liên Xô (cũ) như Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cung
Văn hóa Hữu nghị…; ở miền Nam nhiều tòa nhà được xây theo lối kiến trúc Mỹ mà
tiêu biểu là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Dinh Độc lập…
Kiến trúc giai đoạn Đổi mới: Nhiều công trình lớn hiện đại
với phong cách kiến trúc khác nhau như các khách sạn, tòa nhà văn phòng liên
doanh (Horison, Tháp Hà Nội, Sophitel Plaza, Omni, New World…), các khu đô thị
Phú Mỹ Hưng, Ciputra... được xây dựng. Giống như nhiều quốc gia khác, kiến trúc
ngày nay thường bao gồm 4 mảng chính: thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc,
thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch vùng.
Tranh dân gian: Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết
và tranh Thờ. Tranh dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị
thần linh. Tranh dân gian thường được in với kỹ thuật khắc ván để in với số lượng
lớn. Tranh dân gian phát triển khá mạnh vào thế kỷ thứ 16, sang thế kỷ thứ 18,
19 phát triển ổn định ở mức cao. Dựa vào phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ
và nguyên liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh khác nhau.
Tranh dân gian ngày nay hầu hết đã bị thất truyền. Trong số
ít dòng tranh còn tồn tại và được bảo tồn có dòng tranh Đông Hồ được bảo tồn,
phát triển và hiện có mặt ở nhiều nước như Nhật, Pháp, Mỹ… Đông Hồ là một làng
nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh. Nghệ thuật làm tranh Đông Hồ từ
các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất giấy, chế biến màu, rồi đến các khâu
in vẽ tranh đều có những điểm độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật (màu được chế biến
từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên; giấy dó làm tranh là loại giấy làm thủ
công).
Hội họa đương đại: Việc thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương năm 1924 là một bước chuyển quan trọng trong phát triển nền nghệ thuật
tạo hình đương đại của Việt Nam. Tên tuổi của lớp họa sỹ đầu tiên của Trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng được thế giới
biết đến như “Phố cổ Hà Nội” của Bùi Xuân Phái, bức tranh lụa “Chơi ô ăn quan”
của Nguyễn Phan Chánh, “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn hay “Thiếu nữ bên hoa Huệ” của
Tô Ngọc Vân, tranh sơn mài “Bên Hồ Gươm” của Nguyễn Gia Trí, tranh sơn mài “Tiễn
anh khóa đi thi” của Tô Ngọc Vân. Đây là những kiệt tác nghệ thuật vô giá trong
kho tàng văn hóa của Việt Nam. Lớp họa sỹ ngày nay, kế tiếp lớp đàn anh, chú trọng
tiếp nhận tinh hoa nghệ thuật thế giới, đồng thời tìm tòi phong cách thể hiện mới
cho hội họa Việt Nam như sơn dầu, sơn mài, tranh lụa... Tên tuổi lớp họa sỹ này
được nhiều người biết đến thông qua những tác phẩm của họ là Lưu Công Nhân, Phạm
Công Thành, Nguyễn Thụ, Đặng Xuân Hòa, Thành Chương... đang góp phần làm phong
phú thêm kho tàng mỹ thuật đương đại Việt Nam.
Điêu khắc cổ: Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu
khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng
miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Nền điêu khắc cổ
Việt Nam rất đa dạng nhưng chủ yếu tồn tại các bộ phận điêu khắc sau: Điêu khắc
thời tiền sử với những hình điêu khắc trên đá, trong hang động, trên trống đồng,
các đồ gia dụng…; điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; điêu khắc
Chăm Pa ở Trung Nam Bộ; điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; điêu khắc nhà mồ của thổ
dân Tây Nguyên. Mặc dù trải qua bao năm tháng chiến tranh, nhưng hiện nay ở nhiều
nơi trên đất nước Việt Nam vẫn bảo tồn được nhiều đình, chùa miếu mạo với nhiều
tượng Phật và các phù điêu.
Thủ công mỹ nghệ truyền thống:
Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam có lịch sử
lâu đời và phong phú với nhiều mặt hàng nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Các sản
phẩm gốm, sơn mài, lụa, mây tre… có mặt tại nhiều nơi trên thế giới và được ưa
chuộng. Một số nghề vẫn còn lưu giữ và phát triển tới ngày hôm nay, tạo ra công
ăn việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, đóng góp lớn cho xuất khẩu như nghề
làm gốm, dệt lụa, sơn mài, đan lát mây tre, đan nón, đúc đồng, làm đồ gỗ…
Nổi bật trong số các nghề truyền thống là: Nghề gốm với nhiều
loại sản phẩm khác nhau phục vụ nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Ở Việt Nam có
nhiều nơi làm nghề gốm như Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Đồng Nai, Đồng Tháp
và Bát Tràng của Hà Nội, gốm Chăm. Nghề dệt lụa: xuất hiện từ rất sớm trên khắp
đất nước Việt Nam, nhưng nổi tiếng và còn bảo tồn và phát triển tới ngày hôm
nay có Vạn Phúc (Hà Đông), Phương Tành - Trực Ninh (Nam Định). Từ thế kỷ XV, lụa
Việt Nam đã theo chân các thương gia và được nhiều nơi trên thế giới biết đến.
Nghề đan lát mây tre: Với lịch sử hàng nghìn năm, nghề này gắn liền với các loại
nguyên liệu tự nhiên sẵn có tại khắp các miền trên đất nước Việt Nam. Bàn tay
khéo léo của người thợ thủ công Việt Nam đã cho ra đời nhiều mẫu mã đẹp, hấp dẫn
như bàn ghế, gường tủ, khay bàn hoa quả, lẵng cắm hoa…. Những địa phương nổi tiếng
làm những mặt hàng này phải kể đến Hà Tây, Thanh Hóa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét