Tản mạn về hậu hiện đại và
1. Hậu hiện đại và đại tự sự
Những năm gần đây, giới nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật Việt
Nam bị ám ảnh rất nhiều bởi cái gọi là Chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism).
Khoảng năm năm về trước, người ta còn khá dè dặt và dè chừng với phạm trù này;
đến nay thì hầu như đa số đều công nhận sự tồn tại của nó.
Về phương diện lý thuyết, chủ nghĩa hậu hiện đại đến từ
phương Tây với các đại diện tiêu biểu là J. F. Lyotard, P. Anderson, T.
Eagleton, F. Jameson, J. Baudrillard, I. Hassan... Có thể hiểu Hậu hiện đại ra
đời vào thập kỷ 60 của thế kỷ 20 như là một sự phản ứng lại với
chủ nghĩa hiện đại (cái hiện đại), phản ứng lại những mô thức định sẵn. Post
(sau) ở đây không có nghĩa chỉ một tiến trình lịch sử, cái này ra đời thì cái
kia biến mất, mà là một sự phản ứng trở lại. Cho nên theo nhiều nhà nghiên cứu [i], Hậu hiện đại là một khái niệm phi
thời, nghĩa là trong bất kì xã hội nào, thời kỳ nào có sự khủng hoảng tinh thần
cũng có thể tồn tại tinh thần hậu hiện đại, có chăng ở những giai đoạn gần đây,
tinh thần ấy nổi trội, đậm đặc và ở nhiều nơi trở thành chủ đạo mà thôi. Hậu hiện
đại mang tinh thần thời đại chứ không chỉ thuần là văn nghệ như một số trào lưu
khác (như tượng trưng, siêu thực chẳng hạn). Là một trạng thái tâm thức (state
of mind), nên rất khó để định nghĩa Hậu hiện đại là gì, bởi nó chống lại những
khái niệm tuyệt đối, chống lại những nguyên lý bất di bất dịch... và chống lại
(hay phá dỡ, phá bỏ) đại tự sự. Thực ra, nếu hiểu "chủ nghĩa" theo
cách cổ điển, nghĩa là mang tính triết học và gắn với một trường phái triết học
nào đó, thì gọi là "chủ nghĩa hậu hiện đại" còn nhiều bất ổn, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam; có lẽ vì thế, cũng nhiều người thay thế bằng các cụm từ
khác, như "tâm thức hậu hiện đại", "hoàn cảnh hậu hiện đại",
"điều kiện hậu hiện đại", "văn hóa hậu hiện đại"... Những cụm
từ này cơ bản chỉ đặc trưng trạng thái lịch sử thời đương đại; và chúng ta nên
hiểu, chủ nghĩa hậu hiện đại là khái quát về một cách thức nhìn nhận thế giới.
Khác với các chủ nghĩa trước đây, hậu hiện đại là
trào lưu hầu như không tìm được sự đồng thuận trong quan niệm của các triết
gia. Người thì cho rằng nó tồn tại trong tất cả các thời kì xã hội - những thời
kì có sự khủng hoảng tinh thần; người thì cho nó là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện
đại; xuất hiện sau khi chủ nghĩa hiện đại kết thúc [ii]. Sở dĩ có sự khác nhau này, có lẽ một phần
do bề mặt ngôn ngữ của khái niệm (Postmodernism) - chứa đựng yếu tố chỉ thời rõ
ràng; trong khi đó nội hàm người ta hiểu và nó bao chứa lại quá rộng lớn. Phải
chăng đây cũng là một khái niệm rất hậu hiện đại, bởi tính chất giải trung
tâm, hoài nghi lý tính, khó nắm bắt bằng những kết luận chắc chắn[iii]. Tuy nhiên, dù có sự khác nhau trong cách
nhìn nhận về "thời", không ai không thừa nhận sự xuất hiện và tồn tại
thực sự của Hậu hiện đại trong xã hội ngày nay.
Đại tự sự (grand narratives/ grands récits) hay tự sự chủ
(master narratives), siêu tự sự (metanarrative) là một khái niệm của chủ nghĩa
Hậu hiện đại (Postmodernism), được Lyotard đưa ra trong cuốn "Hoàn cảnh Hậu
hiện đại (La Condition Postmoderne). Nó ngầm chỉ một dạng thức của tồn tại xã hội,
trên nhiều phương diện: chính trị, kinh tế, đạo đức, triết học..., không riêng
gì văn học nghệ thuật. Có nhiều cách hiểu (nhưng đa số ý chính là thống nhất)[iv], chúng tôi tạm thời đưa ra một định nghĩa
trong cuốn Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại của Richard Appignanesi và
Chris Gattat: Đại tự sự là những chân lý được coi là phổ quát, tuyệt đối
hoặc tối hậu, được dùng để hợp thức hóa hay chính đáng hóa một số đề án nào đó,
có thể là đề án chính trị hoặc đề án khoa học[v]. Và cũng như Hậu hiện đại, rất khó
xác định rõ đại tự sự là một cái gì đó - một cái gì đó cụ thể, bởi, có lẽ, ý
nghĩa ngầm chứa của nó là khá trừu tượng, nhằm gọi tên một trạng thái, một tính
chất, một tinh thần đã được xây dựng nên và tin tưởng. Nếu nhìn nhận bằng cách
đơn giản hóa nhất, thì theo tôi, có hai phương diện: thứ nhất, Đại tự sự là những
cái phổ quát, cái chung mà nhân loại cùng trải nghiệm trong lịch sử; thứ hai,
là những cái mà người ta quan niệm, hi vọng và có thể biến nó trở thành phổ
quát (hợp thức hóa). Thời đương đại được xem là thời cáo chung của các đại tự sự
và theo một số nhà nghiên cứu thì Hậu hiện đại nghi ngờ và mang theo cái chết của
Đại tự sự. Tính đến thời điểm này, có thể nói, tinh thần đại tự sự đã là truyền
thống và luôn quan trọng trong văn học Việt Nam. Trong một trạng thái lịch sử mới,
tinh thần này lay chuyển thế nào, có thể đặt lại câu hỏi hay đưa ra một phản đề
hay không. Bài viết này của chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của tinh thần ấy
trong văn hóa Việt Nam nói chung và văn học nói riêng.
Bản nguyên một dân tộc nào cũng phải tìm đến một đại tự sự để
hình thành và dựa dẫm vào để duy trì. Các dân tộc đều xây dựng niềm tin về sự
trường tồn vĩnh cửu của mình. Niềm tin ấy thể hiện qua các thiên sử thi, qua hệ
thống thần thoại... nó hình thành nên các cổ mẫu -những mẫu gốc - những định
thức kiến tạo bất biến (Lại Nguyên Ân - Từ điển thuật ngữ văn học). Cổ mẫu
như là sản phẩm của tư duy con người, tiếp nối từ đời này qua đời khác và không
ngừng được tái sinh. Cổ mẫu vừa mang tính nhân loại lại vừa mang đậm bản sắc
dân tộc. Bởi vì có dạng cổ mẫu gắn liền với sự sinh tồn và phát triển của loài
người, như đất, nước, lửa, gió - phụ thuộc vào điều kiện địa lí, tính chất sinh
tồn của một cộng đồng mà tâm thức về nó có những đặc điểm riêng. Bên cạnh đó, sự
thay đổi của điều kiện sống, điều kiện lịch sử sẽ tạo nên những thay đổi trong
quan niệm về mẫu gốc, đồng thời cũng dẫn đến những biến thể của mẫu gốc. Chắc
chắc rằng ở một dân tộc có bản sắc văn hóa, dù hiện đại hay hậu hiện đại, những
mẫu gốc, những sợi dây ràng buộc con người ta với các yếu tố tâm linh, với những
cách suy tư quen thuộc vẫn không hề mất đi. Nó chỉ được nhân lên và có thêm biến
thể. Một trong những tầng nghĩa của chủ nghĩa hậu hiện đại là chấp nhận và tôn
trọng tính đa văn hóa, chấp nhận những ngoại vi. Mà một bản sắc thì
không thể chỉ xây dựng trên những yếu tố tản mạn, nó phải dựa trên một cái gì
đó cố định, có tính chất ổn định tương đối. Đại tự sự trong phạm vi một bản
sắc văn hóa vì thế là cái quan trọng, nó giống như là nền tảng mà từ đó một
nền văn hóa được xây dựng nên.
Hơn nữa, đại tự sự có vai trò to lớn trong cách tư duy của
con người, trong cách con người cảm nhận thế giới và xã hội. Sự tồn tại của nó
có thể chỉ ở dạng tiềm tại nhưng không ai có thể phủ nhận. Những huyền thoại có
thể là không có thực nhưng các dân tộc đều cố gắng xây dựng và duy trì. Truyền
thuyết về nỏ thần, về Sơn Tinh, về Chữ Đồng Tử... ít nhiều đều mang tính huyền
thoại. Yếu tố này là một cách mã hóa để nói lên sức mạnh kì diệu của nhân dân
hoặc sức mạnh của một nhân vật anh hùng nào đó trong lịch sử. Bút pháp huyền
thoại đến nay vẫn rất thịnh hành trong văn học, đặc biệt ở những trào lưu mới
như văn học phi lí, văn học huyền ảo... Các tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo đến
nay không những được duy trì mà giống như càng phát triển hơn; bởi con người
ngày càng cảm thấy bất định, sống trong một thế giới mà mọi thứ có thể xẩy ra
(từ chiến tranh, loạn lạc, xấu tốt lẫn lộn, thức ăn không đảm bảo, tai nạn giao
thông, bệnh tật, li dị, trộm cắp...) thì người ta buộc phải tìm đến các niềm
tin, cũng là tìm đến để lấy lại trạng thái cân bằng - là một cách tự vệ của con
người muôn đời. Phải nói rằng rất khó để chứng minh được vai trò của đại tự sự
trong tâm thức cộng đồng, rất khó để chỉ ra những cái cụ thể, bởi nó luôn ở trạng
thái trừu tượng, khó nắm bắt. Chỉ thấy rằng khi ta suy tư trăn trở về xã hội, về
một ai đó, ta không thể tách khỏi cách suy xét của một người phương Đông; khi
xác lập một giá trị, cũng không thể dựa trên một hệ thống tiêu chí nào khác,
ngoài phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngày xưa, Nguyễn Du suy nghĩ
về con người qua thế giới cây cỏ của một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước; đến
Xuân Diệu, con người đã trở thành tiêu chuẩn của cái đẹp, nhưng cái đẹp ấy cũng
được miêu tả trong thế so sánh với thiên nhiên đất Việt; rồi các nhà thơ nhà
văn đương đại, dù sáng tác theo phong cách nào, dấu ấn của chất liệu và tư duy
Việt vẫn rất rõ.
Mỗi quốc gia, mỗi con người đều không thể tồn tại lâu dài với
trạng thái bất ổn. Bất ổn là tạm thời. Ổn định mới là lâu dài, mới là cái người
ta hướng đến. Để có được điều đó lại cần đến những đại tự sự, những niềm tin để
bấu víu. Chỉ có điều, đừng nhìn đại tự sự như một cái gì đó có tính cố định
vĩnh cửu (nếu nhìn như vậy chúng ta sẽ thấy sự bất cập, điểm hạn chế của nó). Đại
tự sự có thể được thay thế, được làm mới, bị mờ hóa bởi một đại tự sự khác.
Nhưng rất khó phá dỡ hoàn toàn một đại tự sự, dù thế nào nó vẫn bảo tồn lại những
mảnh ghép, những phiên bản, bởi có ba lí do: thứ nhất, nó gắn với lịch sử hình
thành và phát triển của một dân tộc, một cộng đồng lãnh thổ; thứ hai, nó gắn với
yếu tố địa hình và khí hậu một khu vực; thứ ba, nó đã trở thành yếu tố trừu tượng
tồn tại trong tư duy, trở thành phi vật thể (vật thể thì phá dỡ rất nhanh, phi
vật thể thì bền vững hơn nhiều). Cho nên, hậu hiện đại có thể hoài nghi đại tự
sự, nhưng không thể phá bỏ hay xóa hết hoàn toàn ảnh hưởng của các đại tự sự như
một số người đã nói.
Hiện nay, ở Việt Nam, dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa, theo
chúng tôi cũng đang có tinh thần hậu hiện đại; từ góc độ bản thể con người, nó
tồn tại nhiều hơn ở lớp dân số trẻ. Văn học bắt rễ từ đời sống nên đương nhiên
trạng thái xã hội ảnh hưởng mạnh mẽ đến nó. Sự xuất hiện của nhiều phương tiện
truyền thông đã làm cho văn học không cần thiết là cuốn "bách khoa toàn
thư" về cuộc sống nữa, nó cần phải khu biệt vào phạm vi mà chỉ riêng nó
có, riêng nó có thể làm được, đó chính là trạng thái chông chênh của con người,
là những bất ổn mà các lĩnh vực khác không thể thể hiện được. Trước năm 1986,
có thể nói, văn học đã hoàn tất vai trò lịch sử của mình (hoàn tất đến đâu lại
là vấn đề khác), còn đến thời đại ngày nay, vai trò ấy được đặt ra và được thực
hiện như thế nào, điều này phụ thuộc vào hai vấn đề: thứ nhất là vị trí của văn
học so với các lĩnh vực khác trong đời sống văn hóa; thứ hai là sự thay đổi
trong nội dung và cách viết tác phẩm, có thể phù hợp với nhu cầu của độc giả
hay không. Đối với xã hội nào thì việc xây dựng niềm tin vẫn là điều cần thiết,
bởi chính nó có chức năng giải quyết được những bất ổn của cá nhân con người và
xã hội. Những băn khoăn, trạng thái vô định, vô lí tưởng, chán nản, hoài nghi
những giá trị, trầm cảm... của con người thời đại phải chăng xuất phát từ sự khủng
hoảng niềm tin và sự cô đơn. Đại tự sự của thời hiện đại (hay quá khứ) có thể
lu mờ, nhưng hậu hiện đại - dù rằng muốn phá bỏ các đại tự sự, rất có thể vẫn
xây dựng nên các đại tự sự khác, bằng một cách khác nào đó. Bỏ qua các loại chủ
nghĩa, chỉ soi chiếu dưới góc độ con người và xã hội thì thời nào, với ai một ý
niệm chân lí, một hệ thống xác tín đều có vai trò to lớn. Bất cứ diễn ngôn nào
cũng nhuốm màu thời đại, vì thế trên thực tế chúng ta đang thấy những văn bản với
cách viết rất mới, với ngôn từ và nội dung không còn "cao sang" nữa
mà có phần suồng sã, có phải đó là những tiểu tự sự đang được cổ súy. Trở
lại với cái chết của Đại tự sự, xin nói thêm rằng, mỗi thể loại, cũng như các
trào lưu, chủ âm khác, đều có vai trò lịch sử của mình. Khi vai trò lịch sử kết
thúc, nó sẽ rút ra phía sau. Ngồi ở hàng ghế phía dưới, không còn là người diễn
giảng, thuyết trình nhưng thiếu nó chắc chắc có một chỗ trống. Như nhà nghiên cứu
Nguyễn Hưng Quốc - người nỗ lực giới thiệu lí thuyết Hậu hiện đại vào Việt Nam
- đã nói về cái chết của Đại tự sự: "Chết - không có nghĩa là tận tuyệt mà
chỉ có nghĩa là: hoặc không còn là yếu tố chủ đạo, hoặc không còn tồn tại như
nó vẫn thường được hiểu và tin: chết với tư cách một cao trào, một chủ âm, một
ý niệm"[vi]. Tinh thần của văn học, đến thời đại này
buộc phải có những thay đổi, thậm chí là bước ngoặt. Các thử nghiệm văn học
không ngừng được đưa ra. Nó có sức sống lâu bền hay không, có giá trị hay không
không thể phán quyết trong ngày một ngày hai nhưng với sự xuất hiện ngày
càng nhiều các tác phẩm viết theo kiểu mới (từ Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Linh Khiếu)
dễ dàng thấy văn học đang chứng minh được sức sống của mình và đang thực hiện
vai trò của mình: hồi đáp những tiếng vọng từ tâm thức xã hội và tâm thức con
người.
Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống có một đại tự sự riêng. Vì thế
các cách diễn đạt khác nhau về đại tự sự thực ra là những áp dụng riêng biệt của
các nhà nghiên cứu vào từng lĩnh vực. Xét riêng trong văn học, theo chúng tôi,
đại tự sự thường là: Những tác phẩm với dung lượng lớn, có tầm khái quát lớn
lao, mong muốn thâu tóm toàn bộ lịch sử vào trong một câu truyện, ví dụ
như: Chiến tranh và hòa bình (L. Tostoi); đề cập đến các vấn đề to lớn
mang tính toàn thể như dân tộc, nhân loại; mong muốn xây dựng nên những huyền
thoại, những hình tượng có tính khái quát, tiêu biểu, mang tính đại diện; xây dựng
những niềm tin lớn.... Đại tự sự và tiểu tự sự là hai mặt của cuộc sống,
không phải có quan hệ to nhỏ, tổng thể - bộ phận kiểu tiểu thì ở trong đại,
mà đó là khái quát từ hai cách nhìn nhận, đại tự sự thì hướng đến cái chung,
cái trung tâm, cái cơ bản; tiểu tự sự thì hướng đến cái khác, hướng đến giải
trung tâm. Văn học trước 1986 ở nước ta chủ yếu hướng đến tinh thần đại tự sự,
đặc biệt là tự sự mang tinh thần lịch sử và tinh thần dân tộc. Nó hướng đến cái
chung mang tính sự kiện. Những cái chung thuộc về con người đôi khi bị bỏ qua,
chứ chưa tính đến các tiểu tự sự. Sau 1986, trong văn học, những câu chuyện thuộc
về cá nhân lên ngôi là đúng, là hợp lý, nhưng như thế không đồng nghĩa với việc
đại tự sự mất vai trò của nó, kể cả trong các thể nghiệm hậu hiện đại.
Trong thơ ca đương đại, Nguyễn Quang Thiều có lẽ là nhà thơ
đã khẳng định được phong cách, khẳng định được giá trị của mình ở một mức độ
nào đó. Thơ anh không chỉ được yêu thích và gây tranh luận ở Việt Nam mà còn được
dịch ra nhiều tiếng nước ngoài. Từ "Sự mất ngủ của lửa" (1991) anh
giã từ cách viết cũ để làm một cuộc cách tân táo bạo. Thơ anh đã là dòng ý thức,
là những phân mảnh thể hiện những suy nghiệm, nghiệm sinh về các vấn đề đời sống
hằng cửu. Nội dung không còn là các sự kiện và biến cố lớn lao nhưng cụ thể dễ
dàng nhìn thấy được nữa, mà tất cả tập trung vào các vấn đề của con người, của
cõi người, cái mà mỗi chúng ta đều phải đối mặt: Sinh, Tử, cái chết, Nỗi
buồn, Thất vọng, hi vọng, sự hoang mang, hoài nghi, tái sinh, hồi sinh, hủy diệt,
hiện hữu, phù du... .Nó không chỉ thể hiện từng tâm trạng cá nhân, từng cảm xúc
nhất thời mà có tham vọng nâng lên tầm triết học. Tâm thức mà Nguyễn Quang Thiều
thể hiện trong tác phẩm có nhiều phần tái hiện tâm thức hiện đại, khi con người
tồn tại quên mình trong thế giới của chát và game online - với rất nhiều những
trải nghiệm giả tưởng, những trải nghiệm mà không phải là trải nghiệm. Và khi bất
chợt dừng lại, đứng yên, mọi thứ tan loãng như không còn gì cả. Đối diện với điều
đó sao có thể không mơ hồ về giá trị tồn tại của mình? Các tác phẩm mới
ra đời của anh như "Nhân chứng của cái chết", "Lò mổ" đều
thể hiện suy tư ấy. Và có thể nói, những vấn đề mà con người luôn phải đối mặt
trong nhận thức tồn tại của mình chính là một đại tự sự mới của hậu
hiện đại, vì đó chính là trải nghiệm chung mà nhân loại đang trải qua.
Văn học thế giới và Việt Nam đang cùng gặp gỡ nhau ở đó. Khi ta đọc tác phẩm của
Duras (như Người tình), của H. Murakami (như Rừng Na uy, Biên
niên kí chim vặn dây cót), của trường phái Linhlei (với các tác giả như Vệ Tuệ...),
của Nguyễn Bình Phương (Những đứa trẻ chết già, Thoạt kì thủy, Ngồi), của Thuận
(Paris 11 tháng tám, T mất tích), của Đỗ Quyên... đều có thể cảm nhận được trạng
thái mơ hồ và cô đơn mà con người đương đại đang phải đối diện.
Xét về phương diện thẩm mĩ, có thể nói, nhiều tác phẩm mới kiểu
hậu hiện đại không hề dễ đọc (như thơ của Đỗ Kh, Phan Bá Thọ, Bùi Chát, Lý Đợi,
Nguyễn Hoàng Nam..., truyện Nguyễn Bình Phương...). Trước đây, trong văn học
nghệ thuật, những cái cao xa, có khoảng cách với đời sống thường nhật thì mới
được xem là đẹp, là nghệ thuật đích thực. Giờ đây, ý niệm ấy đang dần bị thay
thế. Người ta chủ trương đưa những cái bình thường (tầm thường) thậm chí (nếu
trước đây) dung tục vào tác phẩm. Các trào lưu nghệ thuật đương đại được khởi đầu
bằng các tác phẩm hội họa. Tác phẩm "Fountain" (1917) của Marcel Duchamp
(1887-1968) là trường hợp "khét tiếng" nhất trong lịch sử mỹ thuật.
Vào tháng 5/1917, Marcel Duchamp, qua những người trung gian, đã trưng bày cái
bồn tiểu (ký tên tác giả là một ông R. Mutt nào đó) tại phòng triển lãm 291 của
Alfred Stieglitz ở New York. Vào lúc ấy và cả bây giờ, ít ai có thể khẳng định
chắc chắc về giá trị nghệ thuật của nó. Chỉ có thể nói rằng, hành động của
Duchamp là một sự khiêu khích, một sự chối từ với những cách tư duy nghệ thuật
hiện hữu. Giá trị của tác phẩm toát lên từ sự khiêu khích ấy. Điều đó cũng đưa
tên tuổi Duchamp vào lịch sử nghệ thuật và khiến cho những tác phẩm sau này của
ông được công nhận và đón nhận. Ở nhiều thời điểm quan trọng, những bước ngoặt,
giá trị của tác phẩm đôi khi là ở hành động, ở cách thức công bố, tuyên chiến
chứ không phải ở bản thân nó. Tác phẩm Tình già của Phan Khôi - mở đầu cho
phong trào Thơ Mới, tuyên bố kết thúc vai trò của Thơ cũ phần nào có thể là một
ví dụ. Giống như thế, nghệ phẩm "Những hộp xà phòng Brillo" của
Warhol (Mỹ) không khác với những gì bán ở các cửa hàng. Tại sao nó lại có thể
trở thành nghệ thuật? Trong cuốn sách "Thế mà là nghệ thuật ư?"[vii] Cyuthia Freeland đã đưa ra nhiều trường
hợp và nhiều cách nhìn, cách lí giải phong phú. Về trường hợp này, bà viết
"Warhol đã chứng minh rằng tất cả đều có thể trở thành nghệ phẩm, nếu được
tạo cho một hoàn cảnh và lí thuyết thích hợp"[viii], và bà dẫn lời triết gia Arthur Danto
"Không gì có thể trở thành một nghệ phẩm nếu thiếu đi một diễn giải giúp
nó trở thành như thế"[ix]. Nếu như vậy, trên tinh thần cầu thị và
mong muốn đổi mới, những tác phẩm còn chưa thể đọc của chúng ta cũng đang chờ đợi
"một diễn giải", "một lí thuyết" để nó có thể trở thành nghệ
thuật. Hơn nữa, những thể nghiệm ban đầu, đôi khi, là những tấm ván lót đường để
chờ đợi những đỉnh cao. Và nếu có một lý thuyết, một tiêu chuẩn nào đó, thì
chúng ta lại đang hướng đến một cái phổ quát cần thiết.
Tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại là điều cần thiết không chỉ
đối với giới nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật. Mỗi lý thuyết trước hết đều là
công cụ của tư duy. Tính hệ thống của hậu hiện đại dù có thể lỏng lẻo hơn một số
lí thuyết khác, nhưng nó là lí thuyết về thời đương đại, và nó mang tính toàn cầu,
dù có ý thức hay không, mỗi chúng ta đều chịu ảnh hưởng bởi tinh thần hay trạng
thái hậu hiện đại. Hơn nữa, tính chất hậu hiện đại tồn tại trong mọi phương diện
của cuộc sống, nó đang tác động mạnh mẽ đến cách sống, cách suy tư của chúng
ta, không có lí gì lại không tìm đến một qui phạm hóa để hiểu hơn về xã hội và
về chính mình.
Tuy vậy, đặc biệt là người sáng tác, có lẽ, cũng không nên tuyệt đối hóa một phương diện nào đó, đừng bị ám ảnh quá nhiều bởi các tuyên bố về những cái chết (cái chết của điển phạm, cáí chết của đại tự sự, cái chết của tác giả...) mà đôi khi hãy nghi ngờ nó, và sáng tác, như một câu hát của Beatles "hãy để điều đó tự nhiên thôi" (Let it be) - nghĩa là đừng cố gắng áp đặt và nuôi tham vọng phải thế này thế kia.
Tuy vậy, đặc biệt là người sáng tác, có lẽ, cũng không nên tuyệt đối hóa một phương diện nào đó, đừng bị ám ảnh quá nhiều bởi các tuyên bố về những cái chết (cái chết của điển phạm, cáí chết của đại tự sự, cái chết của tác giả...) mà đôi khi hãy nghi ngờ nó, và sáng tác, như một câu hát của Beatles "hãy để điều đó tự nhiên thôi" (Let it be) - nghĩa là đừng cố gắng áp đặt và nuôi tham vọng phải thế này thế kia.
* Ghi chú: Bài viết đã đăng trên: Tạp chí Văn nghệ quân
đội, số 708, tháng 3/2010, từ trang 100 đến trang 106; trang web của Tạp chí
VNQĐ.
[ii] Xem Văn học hậu hiện đại
thế giới - những vấn đề lí thuyết (Đặc biệt, bài viết "Chủ nghĩa hậu
hiện đại hay là hiện tượng chồng chéo khái niệm" - Nguyễn Văn Dân, tr 108
- 146), NXB Hội nhà văn, 2003.
[iii] Ở đây chúng tôi ví dụ một
"định nghĩa" khá dễ hiểu để người đọc tiện theo dõi: chủ nghĩa hậu
hiện đại có nhiều cấp độ: rộng, nó chỉ những điều kiện văn hoá, triết lý sống
và phong cách sống của cả một thời đại; hẹp, nó chỉ một trào lưu sáng tác với
quan điểm mỹ học và kỹ thuật cũng như thủ pháp riêng, khác với những tác phẩm
ra đời trong quỹ đạo hiện đại chủ nghĩa trước đó (Nguyễn Hưng Quốc - Chủ
nghĩa hậu hiện đại và những cái (cần) chết trong văn học) - tienve.org.
[iv] Ví dụ: Đại tự sự (grands
récits) hay tự sự chủ đạo (master narratives) là những chuyện kể (stories)
mà một nền văn hóa hay một dân tộc tường thuật và tin vào. Nó tạo nên tâm thức
cộng đồng và duy trì sức mạnh của một nền văn hóa hay một dân tộc (Inrasara
-http://inrasara.com/)
[v] Richard Appignanesi - Chris
Gattat, Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, NXB Trẻ,
2006, tr 103.
[vi] Nguyễn Hưng Quốc, Chủ nghĩa hậu
hiện đại và những cái (cần) chết trong văn học Việt Nam, http://www.tienve.org
[vii] Cynthia Freeland, Thế mà
là nghệ thuật ư?, Như Huy dịch, NXB Tri thức, 2009. Các tác phẩm "Fountain",
"Những hộp xà phòng Brillo", "Đái vào chúa" đều được đề
cập trong cuốn sách này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét