Tôi nghe tin nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm cứ tưởng như
chuyện đùa. Nhà văn này, và tác phẩm của cô, đôn hậu, trong sáng như một
khung trời xanh. Ai tưởng tượng được sấm sét có thể nổ trên bầu trời
thanh bình đó? Cô bị đánh mà ai cũng thấy đau. Cây viết trên bàn như cũng
rùng mình. Kim đồng hồ quặn một phút mặc niệm. Cho văn chương.
Từ khi đọc "Cánh đồng bất tận" tôi đã muốn
viết một thư cho tác giả mà chưa có dịp. Bỗng nhiên đây là dịp tốt. Không phải tôi định viết về cả tác phẩm: chỉ về một trang trong đó thôi. Không ngờ trang đó bây giờ ăn khớp với thời sự văn chương, cho phép tôi vừa gởi
lòng đến tác giả, vừa mặc niệm với kim đồng hồ. Đó là mấy câu mở đầu cho
truyện "Cánh đồng bất tận":
"Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển
sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được,
nhưng nhiều điều buộc phải "bó tay". Ví dụ như mấy lời này:
"Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng
cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì - dù chỉ một lời. Hãy
yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc
làm cho mình giận dữ (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo
Visuddacaraz). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu,
muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới
khó làm sao..."
Đọc lại những hàng trên trong hoàn cảnh mới, tôi có cảm tưởng
bây giờ tác giả đã... đạt đạo. Chắc chắn cô đã không đập phá, cào
cấu. Chắc chắn cô đã cần một sự yên lặng "tuyệt đối" để suy
nghĩ, để hành động sao cho đúng. Nhà sư kia cũng chỉ nói bấy nhiêu thôi,
nhưng lời nói hùng hồn quá và đã đến không đúng lúc. Giận là chuyện thường
ngày. Nhiều khi là cần thiết, là hay, nếu đó là giận bất công, giận áp bức,
giận cái xấu. Vấn đề là mình phản ứng thế nào, có muốn làm Trương Phi hay
không, có muốn đốt nhà hay không khi giận con chuột. Cô Tư đã đem chuyện
giận ra để mở đầu, tôi cũng bắt chước cô đi vào chuyện giận trước. Không
chừng giữa cái giận và cái hứng sáng tạo của nhà văn có một khoảng trống yên lặng
nào đó giống nhau chăng.
Kinh nghiệm
của tôi về cái giận là tôi rất khổ mỗi khi giận. Tôi rất khổ và khổ rất
lâu mỗi khi cãi cọ với ai. Biết như thế nhưng vẫn giận, vẫn cãi. Vậy
thì làm sao vẫn cãi, vẫn giận, mà đừng khổ? Chiến lược thì rất rõ: đừng để cái
giận nó kéo mình đi. Nhưng chiến thuật là thế nào? Kinh nghiệm riêng của
tôi là thế này: làm bất cứ một hành động gì, cử chỉ gì, ý nghĩ gì không có chút
liên quan nào với cơn giận đang bốc. Rót một ly nước. Uống một ngụm.
Nhìn chậu hoa đang héo và nghĩ: hôm qua quên tưới nước cho nó. Sắp lại một quyển sách vào kệ. Nhìn hai con ngựa đang đùa với nhau trong bức tranh trên tường. Nghe theo tiếng xe đang chạy ngoài đường. Tiếng nói chuyện của trẻ con đi học về. Trong khi cơn giận đang kéo mình đi, nghĩ đến bất cứ một cái gì khác là để cắt đứt nó. Một hình ảnh đẹp. Một người thân. Một câu thơ. Một câu kinh. Nghĩ đến thôi, không cần đọc, nghĩ chớp một cái, rồi nếu bám theo được một chữ thì cố bám. Câu kinh nằm lòng của tôi là:
Nhìn chậu hoa đang héo và nghĩ: hôm qua quên tưới nước cho nó. Sắp lại một quyển sách vào kệ. Nhìn hai con ngựa đang đùa với nhau trong bức tranh trên tường. Nghe theo tiếng xe đang chạy ngoài đường. Tiếng nói chuyện của trẻ con đi học về. Trong khi cơn giận đang kéo mình đi, nghĩ đến bất cứ một cái gì khác là để cắt đứt nó. Một hình ảnh đẹp. Một người thân. Một câu thơ. Một câu kinh. Nghĩ đến thôi, không cần đọc, nghĩ chớp một cái, rồi nếu bám theo được một chữ thì cố bám. Câu kinh nằm lòng của tôi là:
Chận được cơn giận
Khi đang bùng lên
Như thể hãm được
Xe chạy có đà
Thì người như vậy
Như Lai gọi là
Người lái xe giỏi
Còn những người khác
Chỉ cầm cương hờ.
Nghĩ như vậy để làm gì? Để tạo khoảng trống giữa
cơn giận và thân miệng. Để tay chân đừng làm bậy, miệng đừng nói bậy. Làm một cái gì, nói một câu gì trong khi giận là thêm cũi cho lửa. Tất
nhiên, không phải lúc nào tôi cũng thành công; nhưng càng ngày tôi càng bớt thất
bại.
Nếu tôi giận quá, không nghĩ gì khác được, thì chiến thuật thứ
hai được đem ra: nhìn cơn giận. Nhìn nó đến, nhìn nó đang hành hạ mình,
nhìn nó bốc lửa, nhìn nó thiêu đốt, cứ để nó thiêu đốt, nhìn nó hạ lửa, nhìn
than hồng... Cơn giận đang muốn cuốn tôi theo nó; tôi hãm nó lại không
được thì tôi nhìn nó đi. Vấn đề không phải là cố làm mất nó: sức mấy mà
nó mất. Vấn đề là phải ý thức về nó, đừng để mất ý thức. Cơn giận
không muốn gì hơn là mình đổ nó lên đầu người khác. Mình nhìn theo nó thì
mình tránh được chuyện đó, tránh làm nô lệ. Nhìn theo nó cũng là để tạo
khoảng trống trước bước chân nó đi.
Hai chiến thuật đó được hỗ trợ thêm bằng một suy nghĩ căn bản:
phải biết phân biệt con người và hành động, có hành động ác nhưng không có con
người ác. Nếu giận, hãy giận cái hành động, đừng giận con người. Người gây cái ác cũng chỉ là nạn nhân của hàng trăm yếu tố bên ngoài; họ đáng
thương hơn là đáng giận và nên thương họ. Hơn ai hết, chắc bây giờ cô Tư
đang thấm điều này. Chung quanh tôi ở đây, chung quanh cô Tư ở bên nhà,
dường như ai cũng biết gởi cái giận của mình vào đâu cho đúng chỗ. Dường
như ai cũng biết giận và biết thương, biết giận cái gì, biết thương ai.
Giận cái hành động chứ không giận người thì không đổ giận lên đầu người khác bằng thân, bằng miệng. Tức là tạo khoảng trống đó thôi!
Giận cái hành động chứ không giận người thì không đổ giận lên đầu người khác bằng thân, bằng miệng. Tức là tạo khoảng trống đó thôi!
Tôi học được câu chuyện này trong sách. Hãy tưởng tượng
ta đang chèo thuyền dạo chơi êm ả trên sông một buổi chiều sương mù. Thuyền
đang nhẹ trôi như vậy thì, ô hay, bỗng hiện ra từ trong mù sương một chiếc thuyền
của ai cứ nhắm thẳng vào thuyền ta mà xông tới. Choảng! Nó đâm vào
ta rồi. Giận quá, ta muốn la lối, chửi mắng một trận nên thân, nhưng nhìn
lại thì thuyền kia trống trơn, chẳng có ai trong đó. Làm gì bây giờ? Chửi
đổng trời đất một tiếng rồi cũng im thôi. Nhưng ví thử bây giờ thuyền kia
không trống mà có người chèo, chuyện gì sẽ xảy ra? Trời đất sụp đổ, xô xát,
không chừng đổ máu. Cái gì làm hai tình trạng khác nhau? Chỉ thế thôi: một
bên có người khác để ta trút cơn giận, một bên chẳng có ai nên cơn giận tự tiêu. Vậy thì phải chăng hãy suy nghĩ về cái trống thì mình làm chủ được
cơn giận?
Cho nên các người học thiền phải học ngồi. Học thở. Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở như vậy để làm gì?
Để chú tâm? Không hẳn. Để rốt cuộc chỉ còn hơi thở mà không còn người thở. Chỉ còn thở vào, chỉ còn thở ra, như gió thổi qua cửa trống. Cái gì bên
ngoài cũng vào ra như vậy. Con chim hót trên mái nhà? Thì tiếng chim đi
vào, tiếng chim đi ra. Không có người để thích thú: chà, con chim mùa
xuân đã về. Cũng không có người để bực dọc: chà, con chim làm ồn quá
không để cho người ta thở. Cái gì trống thì không vướng mắc. Cơn giận
cũng thế. Cơn giận đi vào, cơn giận đi ra, như tiếng chim. Học thiền
là học mở cửa. Mở cửa cho tất cả đi vào, kể cả cơn giận. Mở cửa cho
tất cả đi ra, kể cả chính mình. Quên mình đi là cứu cánh của học thiền. Bởi vì quên mình thì mới có tất cả. Cái vỏ lúa không quên mình, không
làm trống mình đi, thì cây lúa không mọc được. Khúc củi không
quên mình đi thì lửa không rực bốc. Có nhiều khi khúc củi không chịu quên
mình: khi đó thì không có lửa, chỉ khói cay mắt. Lửa bốc lên không phải từ
gỗ, mà từ cái trống của gỗ. Cô Tư đâu có cần theo đạo Phật,
nhưng cô Tư biết trống hơn bao nhiêu người học thiền. Có người
phỏng vấn cô về chuyện nhà văn thế này thế kia, cô trả lời: "tôi vẫn không
nghĩ mình là nhà này nhà nọ". Cô trống như vậy thì khó đánh cô lắm.
Đánh vào khoảng trống thì tự mình mất đà, đã không trúng ai mà còn ngã
chúi. Hơn thế nữa, cô biết cô trống thì cô nhìn ai mà chẳng thấy người đó
cũng trống? Cô sẽ nghĩ: đâu có ai đánh mình! Ấy là một mớ thành kiến, một
mớ mê muội đang biểu diễn mấy đường quyền đó thôi, có con cá nào đâu mà chém
cái thớt!
Thế là từ chuyện giận của cô Tư tôi đã đi qua chuyện trống của
thiền mất rồi. Nhưng thiền và sáng tạo nghệ thuật thì có gì khác nhau
đâu! Cả hai bên đều nhắm vào cái chỗ trống ấy! Đây, tôi kể
chuyện nghệ thuật. Đời xưa, có người thợ mộc vâng lệnh vua đẽo một cái
giá chuông. Ông đẽo tài tình thế nào mà khi chuông đánh lên, tiếng ngân
nga như đi vào tận tâm can của cả thiên hạ. Hỏi ông bí quyết, ông bảo: có
gì đâu, tôi ăn chay nằm đất cho lòng thanh tịnh, rồi tôi quên mất lợi lộc vua
ban, quên mất thưởng phạt, quên cả triều đình chức tước, quên luôn thân thể tứ
chi của tôi, cứ thế tôi đi vào rừng, tôi ngắm thân cây, ngắm thiên nhiên hiển lộ
trong thân cây, lựa cây nào tràn đầy thiên nhiên nhất, rồi sau đó, sau đó, chỉ
sau đó thôi, tôi mới mường tượng ra cái giá chuông sẽ đẽo. Ông thợ mộc vứt
hết; ông vứt hết thì ông mới có tất cả, có tất cả thiên nhiên trong ông. Thiên nhiên đó bắt gặp thiên nhiên cuồn cuộn trong thân cây, làm sao chuông
không ngân nga tiếng thần? Ông vứt hết, vứt luôn ra khỏi đầu cái định kiến, cái
chấp trước về giá chuông; với cái đầu trống trơn như vậy, giá chuông ông đẽo
làm sao không khác giá chuông của cả thiên hạ từ xưa đến nay? Chuyện ấy, tôi kể
lại từ ông Trang Tử.
Cùng nói chuyện nghệ thuật cả thì đời nay cũng vậy, bên Tây
cũng vậy thôi. Ai cũng biết những tranh vẽ cây nổi tiếng của Matisse. Nhà danh họa ấy đã vẽ cây như thế nào? Ông thú thực: bao nhiêu lần ông đã vẽ
cây nhưng chẳng lần nào thành công. Lúc đầu, ông bê cả cái cây vào tranh,
nghĩa là cái cây thế nào thì ông vẽ thế ấy. Kết quả làm ông nản, vì ông
thấy tranh không có hồn, chẳng nói được gì về mối cảm xúc của ông về cây. Tiếp theo, ông cố đưa vào tranh chỉ tình cảm, xúc động của ông mà thôi, nhưng
ông lại bị choáng ngợp trước vẽ đẹp của thân cây, trước sức vóc lực lưỡng của
thân ấy và bí ẩn chứa đựng trong đó, đến nỗi ông chỉ vẽ thêm được một hai cành
thôi rồi ngưng nửa chừng. Vậy mà, lạ thật, khi ông nhìn cây trong lúc
không có ý định vẽ thì lại thấy toàn thể cây từ thấp lên cao. Cứ thế, dù
cảm nhận được cây từ gốc đến ngọn, hễ cầm cọ vẽ là ông bị thân cây chiếm trọn đầu
óc. Vẽ thân cây xong, đến khi thêm cành lá, lá cành tuồng như chỉ để cắt
nghĩa đây là cái cây, chẳng đem lại chút rung động nào. Mãi hoài như vậy,
rất lâu, hễ động đến cành lá là y như ông bị dội lui, rất khổ sở. Cho đến
một hôm, không có ý định gì trước, ông vớ tập giấy viết thư và thử vẽ cành
lá bằng cách đơn giản nhất: mỗi lúc cây từ từ hiện ra dưới ngòi bút, ông lại thấy
lá cành mọc ra.
Đó là đoạn thư ông viết cho người bạn tâm giao. Ông vẽ
cảnh không được vì vướng tình, tình quá đầy. Ông vẽ tình cũng không được
vì vướng cảnh, cảnh rào rạc thần hồn. Đầy ắp tình, đầy ắp cảnh, đầu ông lại
còn đầy ắp cái ý định vẽ. Chưa vẽ mà đầu đã bị đóng khung trong ý định,
làm sao bức tranh vọt ra? Phải mở cửa cho nó! Phải làm trống cái
đầu! Cho nên Matisse chỉ vẽ được cây khi không có ý định gì trước.
Ông viết rõ trong bức thư: "Tôi nghe nói các ông thầy dạy
vẽ bên Tàu dặn học trò: vẽ cây, hãy có cái cảm giác trèo lên với nó khi bắt đầu
vẽ từ gốc". Làm sao trèo lên dần dần với cây trong tranh nếu không sống
trọn vẹn với nó và chỉ với nó mà thôi? Làm sao sống trọn vẹn với chỉ một mình
nó nếu không vứt bỏ hết tất cả ra khỏi đầu, nếu không làm trống cái đầu?
Matisse viết thêm trong một thư khác: để vẽ cây thực sự, đừng
bao giờ có "một hình ảnh đã tạo ra trước". Ông giải thích:
"Tôi không lý luận khi tôi vẽ: các họa sư Trung Quôc bảo rằng khi vẽ cây
phải trèo lên với nó. Tôi cũng làm như vậy. Nhưng đừng nói trong
khi vẽ: tôi đang trèo lên với nó đây và lý luận trên đó. Khi tôi làm một
việc gì, tôi không tìm kiếm, tôi chỉ cho". Matisse nói: chỉ
cho. Có khác gì các ông thiền sư đâu: chỉ làm, chỉ ngồi, chỉ thở. Cho, làm, ngồi, thở là có. Còn tất cả là không. Từ đâu thổi tới
phơi phới ngọn gió trong tranh Matisse? Từ cái trống đó. Ông thổ
lộ: "Hình như nỗi vui toát ra trong tranh của tôi bây giờ nhiều hơn trước;
đó thực là điều mà tôi đã thử làm cách đây năm mươi năm. Phải trải qua bấy
nhiêu năm tôi mới đạt được trình độ cho phép tôi nói được điều tôi muốn
nói".
Diễn tả một cách khác, cụ thể hơn, nhưng cùng trên một ý phải
biết vứt bỏ trong khi sáng tạo nghệ thuật, Picasso viết: "Ai cũng có một dự
trữ như nhau về năng lượng. Người trung bình phung phí năng lượng của họ
bằng trăm nghìn cách. Tôi, tôi dồn tất cả sức lực của tôi vào một hướng
mà thôi: vẽ. Và tôi hy sinh tất cả mọi chuyện khác vì nó: hy sinh anh, hy
sinh tất cả mọi người, kể cả tôi". Kể cả tôi! Chỉ còn vẽ
thôi. Người vẽ cũng không còn. Cũng trống trơn. Vì không
còn người đứng vẽ nữa cho nên Picasso có thể vẽ ba bốn giờ liên tục, không làm
một cử chỉ nào thừa. Có người hỏi ông đứng lâu như thế có mệt không, ông
lắc đầu: "Không. Khi tôi làm việc, tôi để cái thân của tôi ngoài cửa,
như các người hồi giáo cất bỏ giày dép trước khi vào giáo đường. Trong
tình trạng đó, cái thân chỉ nguyên vẹn hiện hữu dưới dạng cây cỏ, và chính vì vậy
mà giới họa sĩ chúng tôi thường sống rất lâu".
Giống hệt như thiền, bí quyết của sáng tạo nghệ thuật là trở
về lại với cái đầu trống trơn, cái đầu của đứa bé, cái sơ tâm, cái đầu
chưa hề bị ảnh hưởng về bất cứ cái gì khác. Viết một câu văn cũng vậy, một
câu thôi, không người cầm bút nào nảy ra được một ý hay, một tứ mới, nếu không
vứt bỏ đi hết những gì đã học, đã đọc. Vậy thì cô Tư giận gì, giận ai, nếu
người nào đó đổ tràn vào đầu cô một trăm cái chữ "phải": phải thế này,
phải thế nọ? Người đó nói cái chuyện gì đâu đâu, nào có liên quan gì đến chuyện
viết văn?
Trên kia, tôi nói: khi cơn giận nổi lên, tôi cố cắt đứt nó bằng
một cử chỉ, một hình ảnh, một ý nghĩ, một câu thơ, một câu kinh... Bây
giờ, giận chuyện cô Tư, tôi cũng cắt đứt bằng một bài thơ, bài thơ mà tôi vốn
thích từ ngày còn đi học, của Jacques Prévert, "Để vẽ chân dung một
con chim":
Trước
hết vẽ một cái lồng
với cánh cửa mở
sau đó vẽ
một cái gì xinh
một cái gì đơn sơ
một cái gì đẹp
một cái gì ích lợi
cho con chim.
Rồi đặt khung vải cạnh thân cây
trong vườn
trong rừng non
trong rừng già.
Nấp sau cây
không nói
không cử động...
Đôi khi chim đến nhanh
nhưng cũng có khi hàng năm đằng đẵng
mới quyết định đến.
Đừng nản.
Chờ.
Chờ hàng năm cũng chẳng sao.
Chim đến nhanh hay chậm
với thành công của tác phẩm.
Khi chim đến
nếu nó đến
hãy im lặng thật sâu
chờ chim vào lồng
và khi chim vào rồi
nhè nhẹ đóng cửa lồng bằng bút vẽ.
Rồi
xóa hết nan lồng từng cái một
mà cố tránh đừng động đến lông chim.
Sau đó vẽ cây
chọn cành nào đẹp nhất để vẽ
cho chim.
Cũng vẽ lá cây xanh và hơi mát của gió
bụi mặt trời
tiếng côn trùng tỉ tê trong cỏ nóng bỏng mùa hạ.
Rồi chờ chim quyết định hót.
Nếu chim không hót
thế là điềm chẳng lành
dấu hiệu bức tranh vẽ xấu.
Nhưng nếu chim hót thì đó là điềm tốt
dấu hiệu bạn có thể ký tên.
Khi đó bạn nhẹ nhàng rất nhẹ nhàng
nhổ một lông chim
và viết tên bạn trên tranh nơi góc.
Tôi cam đoan với cô Tư, khi nào cô Tư "giận muốn chết",
cô Tư hãy nghĩ đến con chim trong bài thơ, cơn giận sẽ đi qua. Cô Tư nhớ
nghen: vẽ một cái lồng chim với cánh cửa mở; đặt cái lồng giữa thiên
nhiên; con chim là thiên nhiên thì mình cũng phải thiên nhiên như nó; như vậy
thì nó đang là mình và mình đang là nó, cả hai là một; chỉ lúc đó và chỉ lúc đó
mới vẽ; và vẽ là mở cửa lồng ra, làm biến nó mất, như chính mình cũng mất; giữa
thiên nhiên chỉ còn lồng lộng con chim, không biết chim trong tranh hay chim
ngoài trời, tranh vẽ hay chính thiên nhiên tràn trề sức sống đang hót với
chim, nồng với nắng hạ, xanh với lá non, tỉ tê với cỏ... Mình nói chuyện
sống trong sáng tạo nghệ thuật. Người kia nói chuyện chết. Hai chuyện
có ăn nhậu gì với nhau đâu mà giận?.
Chú thích:
1.Về Matisse: "Lettre à André Rouveyre sur le dessin de
l'arbre", Ecrits et propos sur l'art, H. Matisse et
D. Fourcade, Paris, Hermann, 1991. Xem thêm: Cynthia Fleury, La
joie de peindre, http://humanite.fr/journal 2005-04-27/2005-04-27-633266
2.Về Picasso: François Jullien, Nourrir sa vie, Seuil,
2005, trang 164.
Bài đăng lần đầu trên Diễn Đàn và Văn Hoá Phật
Giáo tháng 5/2006
19-4-2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét