Sư tiếp nhận phân tâm học
Từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, phân tâm học đã được tiếp
nhận vào Việt Nam. Có thể nhận ra dấu vết của nó trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao và cả Thạch Lam. Trương Tửu, Nguyễn Văn Hanh đã vận dụng phân tâm học
vào nghiên cứu, phê bình văn học. Ở miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975, nó tiếp tục
được tiếp nhận ở cả hai lĩnh vực sáng tác và nghiên cứu, phê bình [1]. Nhưng ở miền Bắc, đây là thời kỳ, do nhiều
lý do, nó bị khước từ. Phải đến sau 1986, khi đất nước bước vào công cuộc “đổi
mới” toàn diện, lịch sử tiếp nhận phân tâm học từ lí thuyết Âu - Mỹ mới được nối
lại và ngay lập tức, nó tỏ ra có sức hấp dẫn đặc biệt. Điều này được thể hiện
rõ ở tình hình dịch thuật và quảng bá. Trong một thời gian ngắn, nhiều tác phẩm
quan trọng của các ông tổ phân tâm học, như S. Freud, C. Jung, E. Fromm, được dịch
ra tiếng Việt. Có thể liệt kê một loạt bản dịch tiếng Việt tác phẩm của S.
Freud: Nguồn gốc của Văn hóa và tôn giáo (Vật tổ và cấm kỵ) [2], Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt
đời thường [3], Phân
tâm học nhập môn [4], Phân
tâm học và văn hóa tâm linh [5], Các
bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ - Nhập đề của Hermann Beland [6], Cảm giác bất ổn với văn hóa [7], Phân tích một ca ám sợ ở một
bé trai 5 tuổi (chuyện bé Hans) [8], Cái
tôi và cái nó [9]…
Hoặc tác phẩm của E. Fromm: Ngôn ngữ bị lãng quên [10], Phân
tâm học tình yêu [11], Phân
tâm học và tôn giáo [12].
Các học giả Việt Nam còn sốt sắng dịch nhiều công trình của
tác gia nước ngoài viết về S. Freud, về C. Jung, về E. Fromm, về phân tâm học
nói chung để giúp độc giả tiếp cận dễ dàng hơn lĩnh vực lí thuyết hết sức phức
tạp này. Có thể liệt kê một danh mục rất dài những công trình như vậy, ví
như: Jung đã thực sự nói gì của Edward Amstrong Bennet [13], Bản đồ tâm hồn con người của
Jung của Murray Stein [14], Freud
đã thực sự nói gì của Clark David [15], Nhập
môn Freud của Richard Appignanesi[16], Sigmund
Freud nhà phân tâm học thiên tài của Stephen Wilson [17], Tâm
lý học đám đông cùng Tâm lý đám đông và phân tích cái tôi của S.Freud của
Gustave Lebon [18], Thiền
và phân tâm học của Suzuki, Erich Fromm, R.Demartino [19], Góp
phần kiến giải ý nghĩa biểu tượng của huyền thoại Ơđip của S.S. Averintsev [20], Giải mã các giấc mộng qua ánh sáng
phân tâm học của Pierre Daco [21] (1999)…
Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam tham gia diễn giải phân tâm học.
Xung quanh lĩnh vực này, đã xuất hiện nhiều tiểu luận, chuyên luận, nhiều tuyển
tập công trình có giá trị, ví như: Học thuyết và tâm lý học Sigmund
Freud của Phạm Minh Hạc [22], Freud
và Tâm phân học của Phạm Minh Lăng [23], Triết
học Áo và hai đại diện tiêu biểu của nền triết học này - Brentano và Freud của
Đặng Phùng Quân [24], Phân
tâm học và phân tâm học sau Freud. Sự phê phán của Alfred Adler của Nguyễn
Thị Thanh Thủy [25], Freud
và những luận điểm của ông chung quanh những vấn đề liên quan đến văn
hóacủa Mai Ngọc Diệp [26], Nhân
học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện
đại [27], Địa vị triết học của phân tâm học
Freud của Đỗ Minh Hợp [28], Carl
Gustav Jung và “cái vô thức” của Huyền Giang [29]…
Một thành tựu đáng ghi nhận là trong vòng vài chục năm trở lại
đây, chúng ta thường xuyên bắt gặp nhiều công trình nghiên cứu đã vận dụng hiệu
quả phân tâm học vào việc phân tích sáng tác văn học để đưa ra những kết luận
thú vị. Có thể liệt kê một số trường hợp cụ thể, ví như Tâm phân học vô thức
với việc phân tích cấu trúc tác phẩm văn học của Nguyễn Văn Dân [30], Chí Phèo dưới cái nhìn phân tâm học của
Lê Huy Bắc [31], Hài hước
phồn thực trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 [32], Mỹ
học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật của
Phan Tuấn Anh [33], Phân
tâm học trong tiểu thuyết đô thị miền Nam, trường hợp Thanh Tâm Tuyền của
Nguyễn Thị Bình, Đoàn Ánh Dương [34], Đời
sống văn hóa phồn thực như một cách tiếp cận nghệ thuật thơ Hoàng Cầm của
Lương Minh Chung [35], Học
thuyết S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam [36], Một
số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học của Trần
Thanh Hà [37]…
Ngoài ra, chúng tôi còn có trong tay danh sách 42 luận văn Cao học và luận án
Tiến sĩ đã chọn phân tâm học làm góc độ tiếp cận đề tài như vậy. Theo sự quan
sát của chúng tôi, luận án tiến hành nghiên cứu theo hướng này vừa bảo vệ thành
công gần đây nhất là công trình Sáng tác của Vũ Trọng Phụng - Nhìn từ phê
bình phân tâm học của Vũ Thị Trang [38].
Như đã nói ở trên, phân tâm học được tiếp nhận vào Việt Nam từ
trước 1945. Nhưng theo chúng tôi, phải sau năm 1986, nó mới thực sự tạo được sự
đột phá. Nhà nghiên cứu có công góp phần đưa phân tâm học trong nghiên cứu phê
bình văn học Việt Nam tiến lên một bước mới là Đỗ Lai Thúy. Ở lĩnh vực này, Đỗ
Lai Thúy có hai đóng góp quan trọng. Đóng góp đầu tiên là với bộ sách được biên
soạn công phu, gồm bốn cuốn Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Phân tâm học
và văn hóa tâm linh, Phân tâm học và tình yêu, Phân tâm học và tính cách dân tộc,
ông đã góp phần trang bị cho độc giả một hệ thống tri thức cơ bản về khoa học
phân tâm, đưa họ đến với thế giới vô thức, siêu thức đầy bí ẩn gắn với những vấn
đề phổ quát trong đời sống tinh thần của con người và nhân loại. Đóng góp khác,
lớn hơn và quan trọng hơn mà chúng tôi sẽ phân tích ở đây, là Đỗ Lai Thúy đã
góp phần đưa phân tâm học trở lại với nghiên cứu văn học Việt Nam, và ở những
công trình nghiên cứu theo hướng ấy, ông đã tạo ra nhiều đột phá. Sự đột
phá này được thể hiện ở hai nội dung chính yếu sau đây:
Thứ nhất: Sự phát hiện phân tâm học trong chất liệu văn
học. Đây là điểm khác biệt nổi bật giữa Đỗ Lai Thúy và các bậc tiên khu trong
lĩnh vực phê bình phân tâm học ở Việt Nam. Nếu Đỗ Lai Thúy tìm cách phát hiện
phân tâm học trong chất liệu văn học, thì các bậc tiên khu của ông thường sử dụng
phân tâm học như một thứ công thức để cắt nghĩa văn học. Cho nên, các bậc tiên
khu của Đỗ Lai Thúy biến phân tâm học của S. Freud thành cẩm nang đem áp vào mọi
hiện tượng văn học. Đỗ Lai Thúy tìm cho mỗi hiện tượng văn học một hướng tiếp cận
phân tâm học, không hiện tượng nào giống với hiện tượng nào.
Quả vậy, như những người đi trước, Đỗ Lai Thúy cũng nghiên cứu
Hồ Xuân Hương và khi nghiên cứu Hồ Xuân Hương, ông cũng đặt nhiệm vụ tiếp tục
giải quyết câu chuyện về cái “dâm” và cái “tục” trong sáng tác của nhà thơ này.
Nhưng hãy thử xem, Đỗ Lai Thúy đã giải quyết nhiệm vụ ấy bằng cách nào? Trong
tham luận Trải nghiệm phân tâm học của tôi đọc tại Hội thảo Phân tâm
học với văn học tổ chức tại Trường Đại học Khoa học Huế ngày 18 tháng 10 năm
2014, ông kể: “Sau nhiều trắng đêm tìm đề tài (cho luận án Phó Tiến sĩ, bây giờ
là luận án Tiến sĩ - LN), tôi chợt nhớ đến một đêm trắng ở Bắc Hà, Lào
Cai, sau một tối xòe/ nhòe rượu, đã viết một mạch bài Tín ngưỡng phồn thực,
nhìn từ góc độ văn hóa - lịch sử, trong đó có nhắc đến trường hợp thơ Hồ
Xuân Hương. Một tia chớp xoẹt trong đầu: Sao mình không làm đề tài Lý giải
cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực? Tôi bật dậy
vớ lấy bút. Trong khi viết đề cương, một trực giác khác lại giúp tôi nối được các
biểu tượng phồn thực trong thơ nữ sĩ với thuyết cổ mẫu của C.Jung. Từ đấy tôi
rút ra kinh nghiệm:
1) Hãy tin vào sự mách bảo của trực giác, nhất là trực giác lý thuyết và:
2) Trong phê bình văn học, lý thuyết dù quan trọng đến đâu thì bao giờ cũng là cái đến sau tác phẩm, nhằm soi chiếu, diễn giải tác phẩm, chứ không phải lấy tác phẩm minh họa cho lý thuyết” [39].
1) Hãy tin vào sự mách bảo của trực giác, nhất là trực giác lý thuyết và:
2) Trong phê bình văn học, lý thuyết dù quan trọng đến đâu thì bao giờ cũng là cái đến sau tác phẩm, nhằm soi chiếu, diễn giải tác phẩm, chứ không phải lấy tác phẩm minh họa cho lý thuyết” [39].
Thế là đã rõ. Phải sau khi xác định được giả thuyết khoa học
về đối tượng nghiên cứu mà nội dung phân tâm học sẽ là kết luận cuối cùng, Đỗ
Lai Thúy mới tìm tới lý thuyết phân tâm học, không phải trong sách vở, mà trong
kho tri thức của mình. Việc xác định này thực ra là một sự phát hiện, thoạt đầu
có sự mách bảo của trực giác, về sau kéo theo cả một quá trình phân tích đầy phức
tạp. Quá trình ấy vừa là quá trình phê phán lý thuyết, vừa là quá trình kiến tạo
lý thuyết về đối tượng và cho đối tượng. Đỗ Lai Thúy không tán thành hướng tiếp
cận thơ Hồ Xuân Hương theo quan điểm nhị phân của mỹ học và phê bình văn học
Mác xit, đem cái “tục” đối lập với cái “thanh”. Ông cưỡng lại sức hút của sơ đồ ẩn
ức -> đồn nén -> giải tỏa/ thăng hoa rút ra từ phân tâm học S. Freud.
Ông xây dựng lý thuyết về mối quan hệ ngược của dòng lịch sử từ thơ Hồ
Xuân Hương về với văn hóa dâm tục, tục thờ cúng phồn thực và tín
ngưỡng phồn thực để lý giải nguồn cội của một hiện tượng nghệ thuật. Ông đến
với Carl Gustav Jung, dựa vào hai khái niệm vô thức tập thể và mẫu
gốc để tìm cho mình công cụ làm việc, mở ra con đường dẫn vào thế giới nghệ
thuật của nữ sĩ. Theo con đường ấy, Đỗ Lai Thúy đã rút ra nhiều kết luận mới về
thơ Hồ Xuân Hương, giúp độc giả nhìn thấy ở sáng tác của tác giả này một thế giới
hoàn toàn khác so thế giới mà họ đã biết [40].
Nhìn chung, Đỗ Lai Thúy không vận dụng phân tâm học như một
thứ cẩm nang, mà phát hiện những khía cạnh khác nhau của nó trong chất liệu văn
học. Ông tìm thấy lý thuyết phân thân qua cuộc đối thoại giữa người và bóngtrong Cung
oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều [41].
Ông lý giải hiện tượng cùng lúc viết những bài thơ trái ngược nhau đến khốc liệt
trong sáng tác của Chế Lan Viên bằng sự rối loạn đa nhân cách [42]. Ông chứng minh tình yêu đồng giới là
nguyên nhân tạo ra tính chất lưỡng phân, không triệt để trong thơ tình và toàn
bộ sáng tác của Xuân Diệu [43].
Ông đọc ra bản năng chết qua vẻ đẹp tàn lụi trong sáng tác của Bà Huyện
Thanh Quan [44].
Theo ông, thơ Hoàng Cầm nói chung, những bài thơ của ông nói về “mối tình Chị -
Em” nói riêng, là sự giải tỏa, thăng hoa từ một biến thể khác của mặc cảm Œdipe [45]. Các bài Đi tìm ẩn ngữ thơ
Hoàng Cầm, Đi tìm thực chất thơ Hồ Xuân Hương, Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá là
những áng văn xuất sắc nhất trong phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy.
Thứ hai: Mở ra hướng phê bình thi pháp phân tâm học. Ta
biết, chính S. Freud là người đầu tiên đã đưa phân tâm học vào nghiên cứu văn học.
Trong công trình đồ sộ Giải mộng (1900), S. Freud đã vận dụng phương
pháp phân tâm học do ông đề xướng để phân tích bi kịch Hamlet của W.
Shakespeare. Từ những năm 10 của thế kỷ trước, phê bình phân tâm học phát triển
mạnh mẽ ở các nước Âu - Mỹ, đặc biệt là ở Mỹ với những học giả tiêu biểu như F.
Prescott, A. Tridon, K. Aiken… Đến giữa những thế kỷ XX, đối tượng nghiên cứu
và hệ thống phương pháp luận của phê bình phân tâm học đã được xác lập tương đối
ổn định. Trong Lý luận văn học (1949), R. Wellek và A. Warren viết:
“Có thể hiểu “tâm lý học văn học” là những bộ phận khác nhau, bao gồm: phân
tích nhân cách tâm lý nhà văn như một loại hình và, đồng thời, như một cá nhân
độc đáo; nghiên cứu quá trình sáng tác; nghiên cứu phân loại tâm lý và quy luật
sáng tác các tác phẩm ngôn từ nghệ thuật nào đó; cuối cùng, sự tác động của văn
học tới người đọc (tâm lý học độc giả)” [46]. Bốn bộ phận của tâm lý học văn học mà Wellek và A. Warren đã chỉ ra có thể
gộp thành ba lĩnh vực nghiên cứu: phân tâm học tác giả, phân tâm học văn bản và phân
tâm học tiếp nhận. Các công trình nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy thuộc loại phê
bình phân tâm học văn bản. Đây cũng là điểm khác biệt giữa hướng nghiên cứu của
ông và các nhà phê bình phân tâm học trước 1945. Trước 1945, cả Nguyễn Văn
Hanh, lẫn Trương Tửu đều nghiên cứu bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh xã hội, tiểu sử
nhà văn để lý giải văn bản. Họ cũng phân tích văn bản. Nhưng đối tượng tìm kiếm
của họ trong văn bản là trạng thái tâm lý của nhân vật trữ tình (với ca dao,
thơ Hồ Xuân Hương), hoặc nhân vật truyện kể (Thúy Kiều trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du). Mục đích tìm kiếm của họ là hoàn nguyên hình tượng tâm lý tác giả.
Cho nên, các tác phẩm Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương, Kinh thi Việt Nam,
Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu, Hồ Xuân Hương:
Tác phẩm, thân thế và văn tài của Nguyễn Văn Hanh đều thuộc phạm trù phê
bình phân tâm học tác giả.
Phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy không thể bỏ qua các yếu
tố bối cảnh xã hội và tiểu sử tác giả. Ông không thể bỏ qua những câu chuyện đời
tư trong mối quan hệ giữa Xuân Diệu với Huy Cận và Hoàng Cát khi nói về tình cảm
đồng giới như là nguồn cội của tính chất lưỡng phân, không triệt để trong thơ
tình và toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu. Viết về tập Về Kinh Bắc, Đỗ Lai
Thúy phải nhắc tới cái “vết nứt tâm - địa chấn” trong tâm hồn Hoàng Cầm sau vụ
Nhân văn giai phẩm và “sự gián cách khỏi đời sống xã hội” do ông “chỉ có thể ngồi
ở Hà Nội, trong ngôi nhà thụt sâu 43 Lý Quốc Sư”. Nhưng Đỗ Lai Thúy chỉ sử dụng
các chi tiết tiểu sử để soi sáng văn bản. Mục đích phân tích văn bản của Đỗ Lai
Thúy là cắt nghĩa cái nhìn nghệ thuật của nhà văn. Chỗ dựa để ông cắt nghĩa cái
nhìn nghệ thuật của nhà văn là các phạm trù ngôn ngữ hiểu như là những cấu
trúc biểu nghĩa được sử dụng trong văn bản nghệ thuật. Ông tìm thấy cấu
trúc biểu nghĩa trong thơ Hồ Xuân Hương là mẫu gốc (bao gồm “siêu mẫu”và
“mẫu gốc phái sinh”) và lối nói (“sự lấp lửng hai mặt”). Biểu tượng (“lửa”,
“bóng”, “một mình đối thoại với bóng”) là cấu trúc biểu nghĩa trong Cung
oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Nguyên tắc tạo nghĩa của thơ Chế Lan
Viên là phép đăng đối văn bản. Nền tảng làm nên cấu trúc biểu nghĩa trong
thơ Hoàng Cầm là cú pháp (cú pháp rời rạc) và ẩn dụ. Tất cả các phạm
trù ngôn ngữ làm nên cấu trúc biểu nghĩa thể hiện cái nhìn nghệ thuật của người
sáng tác mà Đỗ Lai Thúy tìm thấy trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Bà
Huyện Thanh Quan, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Cầm đều là những phạm trù thi
pháp học.
Năm 1992, Đỗ Lai Thúy trình làng tập Mắt thơ. Tập tiểu
luận có phụ đề: “Phê bình phong cách Thơ Mới”. Phong cách học và thi pháp
học là lĩnh vực có họ hàng gần gũi với nhau. Hai tiểu luận xuất sắc nhất của tập
phê bình này là hai bài phân tích các phạm trù thi pháp học: thời gian (Xuân
Diệu, nỗi ám ảnh thời gian [47])
và không gian (Huy Cận, sự khắc khoải không gian [48]).
Đỗ Lai Thúy tự xếp mình vào nhóm “phê bình phân tâm học văn bản” [49]. Nhưng xem cách phân tích văn bản, thấy
hóa ra ông vẫn trung thành với thi pháp học. Cho nên, có thể gọi phê bình phân
tâm học của Đỗ Lai Thúy là phê bình thi pháp phân tâm học. Việc ông
dùng nhan đề Bút pháp của ham muốn để đặt tên cho tập phê bình
phân tâm học của mình tự nó đã nói lên điều đó.
Trong khoa học, không có lời nói cuối cùng. Những công trình
khoa học đích thực bao giờ cũng gợi dậy ở người đọc cảm hứng tranh luận. Đây
cũng chính là điểm thành công trong phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy. Đồng
thời, độc giả không thể không nhận ra đóng góp to lớn của Đỗ Lai Thúy cho sự
phát triển của phê bình phân tâm học Việt Nam. Ông đã cống hiến cho cho
giới nghiên cứu nhiều trang viết tài hoa, sắc sảo của một cây bút phê bình giàu
chất trí tuệ và có tư tưởng khoa học.
Chú thích:
[1] Xin xem lại phần trước, chương: “Phân
tâm học: từ lý thuyết Âu Mỹ đến khảo cứu, phê bình và sáng tác văn nghệ ở miền
Nam Việt Nam”.
[2] Sigmund Freud - Nguồn gốc
của Văn hóa và tôn giáo (Vật tổ và cấm kỵ), (Lương Văn Kế dịch), Nxb ĐHQG,
H, 2001.
[3] Sigmund Freud - Bệnh lý học
tinh thần về sinh hoạt đời thường, (Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Nxb Văn hóa
thông tin, H., 2002.
[5] Sigmund Freud - Phân tâm học
và văn hóa tâm linh, (Đỗ Lai Thúy Chủ biên), Nxb Văn hóa thông tin, H.,
2004.
[6] Sigmund Freud - Các bài viết
về giấc mơ và giải thích giấc mơ - Nhập đề của Hermann Beland, (Nguyễn Hữu
Tâm dịch), Nxb Thế giới, H., 2005.
[7] Sigmund Freud - Cảm giác bất
ổn với văn hóa, (Lê Thị Kim Tuyến biên dịch), Nxb Thế giới, H., 2009.
[8] Sigmund Freud - Phân tích
một ca ám sợ ở một bé trai 5 tuổi (chuyện bé Hans), (Lưu Huy
Khánh dịch), Nxb Thế giới, H., 2002.
[11] Erich Fromm - Phân tâm học
tình yêu, (Tuệ Sỹ dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, số 4, 2003, tr.185-237.
[14] Murray Stein - Bản đồ tâm
hồn con người của Jung, (Bùi Lưu Phi Khanh dịch), Nxb Tri thức, TpHCM,
2011.
[15] Clark David S. - Freud đã
thực sự nói gì, (Lê Văn Luyện – Huyền Giang dịch), Nxb Thế giới, H.,
1998.
[16] Richard Appignanesi, Oscar
Zarate - Nhập môn Freud, (Trần Tiễn Cao Đăng dịch), Nxb Trẻ, TpHCM,
2006.
[17] Stephen Wilson - Sigmund
Freud nhà phân tâm học thiên tài, (Hoàng Văn Sơn dịch), Nxb Trẻ, TpHCM,
2001.
[18] Gustave Lebon - Tâm lý học
đám đông cùng Tâm lý đám đông và phân tích cái tôi của S.Freud, (Nguyễn Xuân
Khánh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính), Nxb Tri thức, H., 2014.
[19] Suzuki, Erich Fromm,
R.Demartino - Thiền và phân tâm học, (Nguyễn Kim Dân dịch), Nxb Thời
đại, H., 2011.
[20] S.S. Averintsev - Góp phần
kiến giải ý nghĩa biểu tượng của huyền thoại Ơđip, (Phạm Vĩnh Cư dịch)/ Tạp
chí Văn học, số 11, 2007, tr.7-23.
[21] Pierre Daco - Giải mã các
giấc mộng qua ánh sáng phân tâm học, (Phan Quang Định biên dịch), Nxb Trẻ,
TpHCM, 1999.
[24] Đặng Phùng Quân - Triết học
Áo và hai đại diện tiêu biểu của nền triết học này - Brentano và Freud/ Tạp
chí Triết học, số 5/2013, tr.29-37.
[25] Nguyễn Thị Thanh Thủy - Phân
tâm học và phân tâm học sau Freud. Sự phê phán của Alfred Adler/ Tạp chí Triết
học, số 4/ 2013, tr.50-54.
[26] Mai Ngọc Diệp - Freud
và những luận điểm của ông chung quanh những vấn đề liên quan đến văn
hóa/ Tạp chí Thông tin khoa học, số 18/2005, tr.11-20.
[27] Đỗ Minh Hợp (Chủ biên) - Nhân
học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương tây hiện
đại, Nxb Tôn giáo, H., 2014.
[29] Huyền Giang (tổng thuật)
- Carl Gustav Jung và “cái vô thức”/ Tạp chí Văn học, 1995, số
7, tr.41-44, số 9, tr.48-52.
[30] Nguyễn Văn Dân - Tâm phân
học vô thức với việc phân tích cấu trúc tác phẩm văn học/ Tạp chí Văn học,
số 4/ 2003, tr.26-31.
[31] Lê Huy Bắc - Chí Phèo dưới
cái nhìn phân tâm học/ Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2/2007 tr.123-127.
[32] Phan Tuấn Anh - Hài hước
phồn thực trong văn xuôi Việt Nam sau 1975/ Tạp chí Sông Hương, số
236/2008, tr.7-17.
[33] Phan Tuấn Anh - Mỹ học
tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật/ Tạp
chí Sông Hương, số 236/2012, tr.23-29.
[34] Nguyễn Thị Bình, Đoàn Ánh Dương
- Phân tâm học trong tiểu thuyết đô thị miền Nam, trường hợp Thanh Tâm Tuyền/ Tạp
chí Văn học, số 2/2013, tr.54-75
[35] Lương Minh Chung - Đời sống
văn hóa phồn thực như một cách tiếp cận nghệ thuật thơ Hoàng Cầm/ Tạp chí Nguồn
sáng dân gian, số 2/2009, tr.17-25.
[36] Trần Thanh Hà - Học thuyết
S.Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam, Nxb ĐHQG, H., 2008.
[37] Trần Thanh Hà - Một số tác
phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học/ Tạp chí Văn học nước
ngoài, số 3/2008, tr.158-167.
[39] Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/.
Về việc vận dụng phân tâm học vào nghiên cứu, phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy,
có thể xem: Đỗ Lai Thúy - Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy. Nxb Hội
nhà văn, 2011, tr. 217-240.
[40] Xin đọc: Đỗ Lai Thúy - Hồ
Xuân Hương hoài niệm phồn thực. Nxb Văn hóa thông tin, 2000; Đỗ Lai Thúy
- Bút pháp của ham muốn. Nxb tri thức, H., 2009, tr. 15 - 90.
[47] Xem: Đỗ Lai Thúy - Mắt thơ (Phê
bình phong cách Thơ Mới). In lần thứ 3, Nxb. Hội nhà văn, H., 2012, tr.
51-76
Lã Nguyên
Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét