Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2021

Liêu trai chí dị 2

Liêu trai chí dị 2

Công Tôn Hạ

Ngô Thế Long dịch

Vùng Bảo Ðịnh có chàng Mỗ, học sinh rường Quốc Học, sắp vào kinh đi lo lót tiền để kiếm chức Huyện Doãn.

Ðang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được.

Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa: Có khách đến.

Mỗ cũng quên cả bệnh, chạy ra đón khách.

Khách ăn mặc sang trọng, thuộc loại người quyền quí.

Mỗ vái chào mấy lượt rồi mời vào nhà, hỏi khách từ đâu tới.

Khách đáp:

- Tôi tên Tôn Công Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe tin ngài chuẩn bị hành trang vào kinh lo chức Huyện Doãn, ngài đã có chí ấy sao không lo ngay chức Thái Thú có hơn không?

Mỗ khiêm tốn từ chối, chỉ nói:

- Tôi tài lực mỏng không dám có ước vọng quá cao.

Khách tình nguyện cố gắng hết sức mình giúp Mỗ, bảo Mỗ hãy chỉ bỏ trước ra nửa số tiền thôi, nếu xong việc, sẽ đến nhậm sở lấy nốt.

Mỗ rất mừng, hỏi kế sách thế nào. Khách trả lời:

Tổng Ðốc, Tuần Phủ đều là bạn rất thân của tôi. Chỉ cần đưa tạm năm nghìn quan là mọi việc xong tất. Trước mắt, ở đất Chân Ðịnh chức Thái Thú đang khuyết, cần phải lo tính ngay.

Mỗ ngại là vị ở ngay tỉnh nhà. Khách cười bảo:

- Ngài khéo lo nghĩ vẩn vơ. Cứ chỉ có tiền là được rồi. Còn ai hỏi đến gỗ tang gỗ tử ấy ở đất Ngô hay đất Việt làm gì.

Mỗ rốt cuộc vẫn trù trừ, ngại rằng việc này hơi trái lẽ thường. Khách bảo:

- Không phải nghi ngờ gì nữa. Tôi xin nói thực với ngài: đây là chức Thành Hoàng ở dưới âm ty bị khuyết. Tuổi thọ của ngài đã hết. Sổ ma đã chấm rồi. Phải thừa dịp này mà xoay xở mới có thể trở thành người quý hiện ở âm phủ được.

Nói rồi lập tức đứng dậy từ biệt. Lại dặn:

- Ngài hãy tự suy tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại.

Sau đó khách ra cổng, lên ngựa mà đi.

Mỗ bỗng mở mắt ra, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền để dành của nhà đi mua một lạng thoi vàng giấy, đến nỗi vét hết mặt hàng đó trong quận, rồi đem chất đống giữa sân lẫn với trâu ngựa giấy, cùng các con nộm bằng rơm, đốt suốt đêm ngày, tro cao như núi.

Ba ngày sau khách đến thật. Mỗ đem tiền ra trao. Khách dẫn Mỗ đến ngay công thự. Thấy một vị quan ngồi ở trên điện, bàn sụp lạy.

Quỉ quan hỏi qua tên họ, đoạn khuyên Mỗ những câu như Thanh liêm, cẩn thận...ý rồi lấy văn bằng ra, gọi chàng tới trước án mà trao.

Mỗ rập đầu, ra khỏi cổng thự. Tự nghĩ: giám sinh vốn là chân thấp hèn, nếu không có xe cộ, quần áo rực rỡ thì không đủ để ra oai với bọn lại thuộc. Do đó, chàng sắm thêm xe, ngựa. Lại sai bọn lính ma đem chiếc xe kết hoa về đón người thiếp yêu của mình.

Cắt đặt vừa xong, thì đoàn nghi trượng từ Chân Ðịnh đã tới. Suốt đoạn đường hơn một dặm, kẻ đón người đưa, ồn ào tấp nập. Chàng thấy đắc ý lắm.

Bỗng toán đi trước ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt. Ðang khi ngơ ngác sợ hãi, thấy những người cưỡi ngựa đều nhảy cả xuống, phủ phục ở bên đường. Người chỉ thấp độ một thước, ngựa nhỏ bằng con hồ ly.

Người đi trước xe sợ hãi nói:

- Quan Ðế đến rồi.

Mỗ sợ quá, xuống xe phủ phục dưới đất. Từ xa trông thấy vị Ðế quân cùng bốn năm kỵ sĩ, lỏng cương từ từ đi tới. Bộ râu ngài tốt trùm cả má, không giống hẳn với hình dáng trong tranh ngưòi ta thường vẽ, nhưng thần thái thì uy nghi dũng mãnh. Mắt dài gần tới mang tai.

Quan Ðế ngồi trên ngựa hỏi:

- Quan nào đây?

Người đi theo đáp:

- Viên Thái Thú Chân Ðịnh.

Ðế quân nói:

- Ru rú một quận con con sao dám phô trương bề thế như vậy?

Mỗ nghe thấy, giật mình, sợ rợn gai ốc, co rúm người lại, tự thấy mình chỉ còn như đứa trẻ lên sáu bảy tuổi.

Ðế quân bảo dậy, đi bộ theo sau chân ngựa. Bên cạnh đường có toà cung điện, đế quân vào đó, ngồi ngoảnh mặt về hướng Nam, sai lấy bút giấy, đưa cho bảo tự ghi họ tên, quê quán vào đó.

Mỗ viết rồi trình lên. Ðế quân xem xong nổi giận nói:

Ðây là đứa bán hàng ở kẻ chợ, sao có thể giao cho trị dân được.

Lại sai xét trong sổ chép công tội. Bên cạnh đó là một người quì tâu, không rõ nói câu gì. Ðế quân lớn tiếng bảo:

- Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, bán chác quan tước mới là tội nặng.

Bỗng thấy vị thần Kim Giáp cầm lấy dây xích ra đi ngay. Về phần Mỗ, có hai người bắt ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi, cặp mông hầu như rụng hết thịt, đoạn tống ra khỏi cổng.

Nhìn khắp bốn phía, xe ngựa đã sạch không. Mỗ đau đớn không thể bước đi được, đành nằm thở trên vạt cỏ. Nhận kỹ chỗ mình nằm thì thấy cách nhà không xa lắm. May sao thân nhẹ bỗng như tàu lá, nên mất một ngày một đêm mới bò về được đến nhà.

Thốt nhiên, chàng bừng dậy như đang mơ chợt tỉnh, rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han. Mỗ chỉ kêu rằng bắp đùi đau lắm. Thì ra chàng bị mê man như chết đã bảy ngày rồi, đến lúc này mới tỉnh lại. Chàng nói:

- Cô Lân đâu, sao không tới?

Ðó là tên tự người vợ bé của Mỗ. Trước đây, cô Lân đang ngồi trò chuyện, bỗng nhiên nói:

- Ông ấy đã làm quan Thái thú quận Chân Ðịnh, sai lính về đây đón ta đấy.

Nói rồi trở vào buồng trang điểm thật đẹp, trang điểm xong thì chết, cũng mới qua một đêm thôi.

Nghe người nhà kể lại sự lạ đó, Mỗ hối hận đấm ngực, bảo để thi hài lại đó, không được chôn, hy vọng cô ta sẽ tỉnh lại. Nhưng qua mấy ngày vẫn không thấy tăm hơi gì, đành phải mai táng.

Bệnh của Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại rất nguy kịch, nửa năm mới dậy được. Chàng thường tự bảo:

- Tiền của để lo chức quan đã hao phí hết, lại chịu hình phạt tai ác dưới âm ty. Những thiệt thòi đó còn có thể chịu được, duy người thiếp yêu không biết đem đi đâu mất, thì những lúc canh khuya, chịu sao cho nổi.

Phòng Văn Thục

Ngô Thế Long dịch

Ðặng Thành Ðức người phủ Khai Phong du học đến đất Duyện trọ trong một ngôi chùa hư nát, chép thuê cho người làm sổ đinh trong vùng.

Cuối năm, đám nha dịch ai về nhà nấy, riêng Ðặng ở lại, thổi cơm ăn trong chùa.

Tờ mờ sáng, một thiếu phụ nhan sắc tuyệt đẹp gõ cửa đi vào, đến trước bàn thờ Phật đốt hương, lễ bái rồi ra.

Hôm sau, lại cũng làm như vậy.

Ðang giữa đêm, Ðặng dậy khêu đèn, vì có việc cần làm, thì nàng đã đến từ sớm. Ðặng hỏi:

- Sao đến sớm thế?

Nàng đáp:

- Chờ sáng tỏ thì người tới lộn xộn, không bằng lúc đêm hôm. Ðến sớm quá, lại sợ quấy rầy giấc ngủ ngon lành của anh. Vừa trông thấy đèn sáng, biết anh đã dậy, nên tôi đến thôi.

Chàng nói đùa:

- Chùa không có người, ở lại mà nghỉ cho đỡ đi lại vất vả.

Thiếu phụ cười, bảo:

- Chùa không có người, thì dễ anh là ma chăng?

Ðặng xem chừng có thể sàm sỡ được, đợi lễ bái xong, kéo nàng ngồi lại, đòi giao hoan. Nàng nói:

- Trước bàn thờ Phật, làm thế sao được? Tấm thân đã chẳng có chốn nương náu lại còn mơ tưởng vẩn vơ.

Ðặng cứ nài nỉ mãi không thôi. Nàng nói:

- Tại một làng kia, cách đây ba mươi dặm, có sáu bảy trẻ em, mời thầy dạy học mãi chưa được. Chàng hãy tới đó, hỏi thăm nhà ông Lý Tiền Xuyên, có thể được đấy. Hãy nói dối là có mang vợ đi theo, nhờ họ thu xếp cho một gian nhà. Thiếp sẽ thổi cơm nấu nước cho chàng. Ấy mới là kế lâu dài.

Ðặng sợ việc bại lộ sẽ mang tội. Nàng bảo:

- Không ngại, thiếp họ Phòng, tên là Văn Thục, tịnh không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, có ai biết đâu.

Ðặng sau khi từ giã nàng, liền tới ngay làng nọ, yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên bàn tính xong xuôi, hẹn sẽ mang gia quyến đến ngay sau Tết.

Chàng quay về chùa báo tin cho thiếu phụ biết. Nàng hẹn sẽ đứng chờ ở giữa đường. Ðặng bèn từ biệt bạn bè, thuê ngựa mà đi. Quả nhiên đến nửa đường thì gặp nàng, bèn xuống ngựa, trao dây cương cho nàng cầm, dắt ngựa cùng đi. Tới phòng học, cùng sống chung rất vui vẻ, tương đắc.

Ở với nhau sáu bảy năm, rõ ràng cầm sắc hoà hợp, cũng không có ai theo dõi bắt bớ gì.

Nàng bỗng sinh được một đứa con trai.

Ðặng vì vợ ở nhà không sinh để, nay có con thì mừng quá, đặt tên là Duyên Sinh. Thiếu phụ bảo:

- Tự kết đôi, chung quy cũng khó thành chuyện thật. Thiếp sắp từ giã chàng ra đi, lại sinh ra cái của nợ này, chẳng biết tính sao đây!

Ðặng bảo:

- Ðang tính nếu số mình khấm khá, giành dụm được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê. Sao lại thốt ra như vậy?

Nàng đáp:

- Cảm ơn! Cảm ơn! Tôi không thể so vai rụt cổ cười lấy lòng để mong chị cả bao dung được. Làm vú em cho người, trẻ nó khóc oe oe khó mà chịu nổi.

Ðặng thanh minh rằng vợ mình không ghen. Thiếu phụ cũng chả nói gì.

Hơn một tháng sau, Ðặng giải tán lớp học, bàn với con trai Lý Tiền Xuyên cùng xuất lực đi buôn. Chàng nói với nàng:

- Tôi nghĩ làm thầy giáo mở lớp dạy học chắc không bao giờ giàu có được. Nay tập đi buôn còn mong sẽ có ngày khá giả về quê.

Nàng cũng không trả lời.

Ðến tối, bỗng thiếu phụ bế con dậy. Ðặng hỏi:

- Làm gì thế?

- Thiếp muốn đi.

Ðặng vội trở dậy, chạy theo để hỏi. Nhưng cửa vẫn chưa mở, mà thiếu phụ đã biến mất. Ðặng sợ hãi hết sức, mới biết rằng cô ta không phải là người. Vì hình tích của nàng cũng đáng nghi nên Ðặng không dám nói với ai, chỉ thác cớ là vợ mình về thăm bố mẹ.

Trước đây, lúc Ðặng rời nhà ra đi, có hẹn với người vợ họ Lâu rằng cuối năm sẽ về. Thế rồi mấy năm không có tin tức gì, lại nghe đồn chàng đã chết. Người anh vợ nghĩ rằng em mình không có con, muốn cho em gái tái giá. Lâu thị hẹn đợi ba năm nữa. Hàng ngày nàng chỉ vò võ phòng không, làm nghề kéo sợi để sinh nhai. Một hôm, trời đã nhá nhem, nàng ra đóng cổng ngoài, thì gặp một thiếu phụ xộc vào, trong lòng ẵm một đứa bé đang nằm trong tã, nói rằng:

- Tôi từ nhà mẹ đẻ trở về, đến đây vừa tối. Ðược biết chị ở một mình, nên xin nghỉ nhờ một đêm.

Lâu Thị mời vào. Ðến nhà trong, nhìn kỹ mới biết là một người đẹp, tuổi trạc ngoài hai mươi làm mừng, để nằm chung giường và đùa với em bé. Thấy đứa bé trắng như hòn bột, bèn than rằng:

- Mụ goá này lại không có được một mụn con như vậy.

Cô gái bảo:

- Tôi đang hiềm vì nỗi nuôi nó phiền hà quá. Muốn cho quách chị làm con nuôi để nối dõi về sau, chị thấy thế nào?

Lâu Thị đáp:

- Chẳng nói gì đến chuyện cô không nỡ lòng dứt tình máu mủ với cháu, dù có thế thật, tôi cũng không có sữa đâu mà nuôi cháu.

Cô gái nói:

- Có khó gì đâu. Ngày sinh cháu, tôi cũng lo mất sữa, chỉ uống nửa liều thuốc là công hiệu ngay. Nay vẫn còn một nửa liều ở đây, xin để biếu chị.

Bèn lấy ra một gói đặt trước cửa sổ.

Lâu thị cũng ừ ào cho qua, chưa nghĩ ngay được có điều gì khác lạ đã ngủ mất. Khi tỉnh giấc, gọi lên, thì đứa trẻ vẫn còn đó, mà cô gái đã bỏ đi rồi. Nàng sợ quá. Ðến nửa buổi, đứa bé đói kêu khóc. Lâu thị bất đắc dĩ phải uống thử tễ thuốc kia. Chốc lát, có sữa xuống cho đứa bé bú.

Hơn một năm sau, đứa bé dần dần bụ bẫm, học nói bi bô. Nàng yêu mến chẳng khác gì con mình đẻ ra. Do đó, định cải giá mới thôi hẳn. Chỉ khốn nỗi từ sáng sớm đã trở dậy bế con, không làm ăn được gì, nên ngày càng túng quẫn.

Một hôm, cô gái bỗng lại tìm đến. Sợ cô ta đòi lại con. Lâu thị trước hết trách ngay cái tội ra đi không nói với mình, rồi mới kể đến nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa bé. Cô gái cười:

- Chị kêu ca khó nhọc để tôi không đòi con nữa chứ gì?

Bàn vẫy gọi đứa bé. Nó khóc, sà vào lòng Lâu thị.

Cô gái nói:

- Con nghé con không chịu nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu có trăm lạng vàng cũng không thể đổi được. Hãy đem tiền ra đây ta sẽ làm khoán ước hẳn hoi.

Lâu thị tưởng nói thật mặt đỏ bừng. Cô gái cười:

- Chị chớ lo. Em lại đây chính vì cháu đấy! Sau khi ra đi, lo chị không có gì nuôi cháu, nên tìm đủ mọi cách dành dụm được hơn mười đồng vàng đem tới đây.

Bèn trao vàng cho Lâu. Lâu thị sợ rằng nàng giao tiền xong thì sẽ có cớ để bắt con lại, nên nhất quyết từ chối. Cô gái đặt số vàng giữa giường, ra cửa đi thẳng.

Nàng bế con theo ra, thì đi đã xa, gọi cũng không ngoái lại. Ngờ rằng có ác , nhưng được số vàng đem buôn bán kiếm lời, cả nhà cũng no đủ.

Ba năm sau, Ðặng buôn bán dư dật, sắm sửa hành trang trở về nhà. Ðang truyện trò an ủi vợ, Ðặng thấy có đứa bé, hỏi con ai, vợ kể lại duyên do. Hỏi:

- Tên là gì?

- Mẹ nó gọi là Duyên Sinh, thiếp vẫn giữ y tên như thế.

Chàng sửng sốt bảo:

- Thế thì chính nó là con ta đấy.

Lâu hỏi ngày giờ nàng ra đi thì đúng vào đêm thiếu phụ bế con đến nhà. Ðặng bà lần lượt kể lại những chuyện giữa mình với Phòng Văn Thục. Vợ chồng càng thêm khuây khoả, vui mừng. Còn mong cô gái có dịp trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm.

Thanh Phượng

Ðỗ Ngọc Toại dịch

Họ Cảnh ở Thái Nguyên, vốn trước là thế gia, cửa nhà rộng rãi bề thế. Về sau sa sút, lầu viên san sát bỏ hoang đến quá nửa. Nhân đó, sinh ra nhiều điều quái dị. Cửa vào nhà lớn cứ tự dưng mở đóng, thường khi giữa đêm hôm, người nhà hốt hoảng xôn xao. Cảnh đâm lo, phải dời đến một cơ ngơi khác ở, chỉ để một ông lão ở lại canh cửa mà thôi.

Từ đấy, cảnh hoang tàn đổ nát càng tệ hơn. Có người còn nghe cả tiếng nói cười đàn hát trong đó nữa.

Cảnh có người cháu ruột tên là Khứ Bệnh, tính cuồng phóng, không gì câu thúc nổi, dặn ông lão hễ nghe thấy gì lạ chạy đi báo cho mình ngay. Ðêm đó, thấy trên lầu có ánh đèn lúc sáng lúc tắt, ông lão vội đến báo với chàng.

Chàng muốn vào tận nơi xem cho biết sự lạ, ai ngăn cũng không được.

Cửa ngõ trong nhà vốn đã thuộc hết, chàng bàn rẽ cỏ rậm, lần đường quanh co đi vào. Trèo lên lầu rồi, vẫn chưa thấy có gì khác lạ. Băng qua lầu đi quá vào trong nữa, thì nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm. Lén nhòm xem, thấy hai ngọn đèn lớn thắp song song, sáng trưng như ban ngày. Một ông già khăn áo nhà nho, ngồi quay mặt hướng Nam; đối diện là một bà già, cả hai đều khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Ngoảnh Về hướng Ðông là một chàng trai tuổi chừng hai mươi; bên phía tay mặt lại là một cô gái, tuổi mới cập kê. Ai nấy đang cùng ngồi vây quanh một bàn đầy rượu thịt, vui cười trò chuyện.

Chàng đột ngột bước vào, cười, nói to lên rằng:

- Có một người khách không mời mà đến đây!

Cả đám cùng kinh hoảng chạy trốn, riêng ông già bước ra, quát hỏi:

- Ai mà lại dám xông vào buồng riêng nhà người ta thế?

Chàng đáp:

- Ðây là buồng nhà tôi, ông chiếm lấy. Có rượu ngon tự mình uống với nhau, không mời qua chủ nhà một câu, chẳng phải là bủn xỉn lắm sao?

Ông già ngắm kỹ một lượt rồi nói:

- Không phải là chủ nhân mà.

Chàng nói:

- Tôi là đồ ngông, tên là Cảnh Khứ Bệnh, cháu ruột của chủ nhân đây.

Ông già vội kính cẩn đáp:

- Lâu nay vẫn ngưỡng mộ danh tiếng Thái Sơn, Bắc Ðẩu!

Bèn đưa tay vái, mời chàng vào. Rồi gọi người nhà thay mâm cỗ.

Chàng ngăn lại. Ông liền rót rượu mời khách. Chàng nói:

- Chúng ta hai nhà như một, khách khứa cùng ngồi với nhau cần gì phải lánh mặt, xin mời cả ra cùng uống cho vui. Ông già gọi 'Hiếu Nhi' , giây lát chàng trai từ ngoài bước vào. Ông nói:

- Ðây là thằng con tôi.

Vái chào rồi ngồi xuống. Hỏi thăm qua về gia thế, ông già tự nói mình tên là Nghĩa Quân, họ Hồ.

Chàng vốn tính hào hoa, nói năng bàn luận như gió. Hiếu Nhi cũng là người phóng khoáng, chuyện trò qua lại, đã thấy mến nhau ngay. Chàng hai mươi mốt tuổi, hơn Hiếu Nhi hai tuổi, bàn gọi cậu ta là em. Ông già bảo:

- Nghe nói cụ tổ ngài khi xưa có sọan cuốn 'Ðồ Sơn ngoại truyện' ngài có biết chăng?

Chàng đáp:

- Thưa có biết.

Ông già nói tiếp:

- Chúng tôi là giòng dõi họ Ðồ Sơn đây. Từ đời Ðường trở về sau, gia phả còn nhớ được, còn từ Ngũ Ðại trở về trước thì thất truyền. Dám xin công tử làm ơn chỉ giáo cho.

Chàng kể qua công trạng của cô gái họ Ðồ giúp vua Vũ thuở xưa, thêm thật nhiều lời, lưu loát trôi chảy.

Ông lão cả mừng, bảo con trai rằng:

- Hôm này may mắn được nghe những điều chưa từng được nghe bao giờ. Công tử đây cũng chẳng phải ai xa lạ, hãy vào mời mẹ và Thanh Phượng ra cùng nghe, để cho biết công đức của tổ tiên mình một thể.

Hiếu Nhi bước vào sau bức màn. Chốc lát, bà cụ cùng cô gái bước ra. Nhìn kỹ, thấy dáng liễu yêu kiều, làn thu ba lóng lánh, trên đời dễ không ai đẹp bằng. Ông già trỏ vào bà cụ nói:

- Ðây là bà lão nhà tôi.

Lại trỏ sang cô gái nói tiếp:

- Còn đây là Thanh Phượng, cháu gọi tôi bằng chú. Cũng có phần sáng dạ, hễ nghe được điều gì nhớ không quên. Cho nên gọi ra cho nghe cùng.

Chàng nói chuyện xong bàn uống rượu, nhìn cô gái trân trân không chớp mắt. Cô gái biết , bèn cúi đầu xuống. Chàng ngầm đặt chân lên mũi giầy của nàng. Nàng vội thu chân lại, nhưng cũng không có ý giận dữ. Bấy giờ tâm thần, chí của chàng đều bay bổng, không thể tự chế được nữa, liền vỗ bàn mà nói:

- Ðược người vợ như thế này, dẫu đổi cho làm vua cũng không màng.

Bà cụ thấy chàng đã có vẻ say, càng thêm ngông, bàn cùng cô gái đứng dậy, vén bức màn, bước vào. Chàng mất hết hứng thú, cũng từ biệt ông già về. Nhưng tơ lòng vấn vương, không sao quên được tình cảm của mình đối với Thanh Phượng.

Ðến đêm, lại lần sang, thì hương còn thơm nức, mà chờ đợi đến hết đêm, tịnh không còn nghe một tiếng động nhỏ. Trở Về bàn với vợ, muốn đem cả nhà sang ở hẳn bên đó, hầu mong lại có lúc được hội ngộ chăng. Vợ không nghe. Chàng cứ một mình dọn sang, học hành dưới lầu. Ban đêm đang ngồi tựa ghế, thì một con quỷ xoã tóc bước vào, mặt đen như sơn, trừng mắt ngó chàng. Chàng cười, nhúng ngón tay trỏ vào nghiên mực rồi tự bôi lên mặt, giương mắt thao láo nhìn lại. Con ma thẹn mà bỏ đi. Ðêm hôm sau, canh đã khuya, vừa tắt đèn định nằm, nghe phía sau lầu có tiếng mở then, rồi tiếng kẹt cửa. Chàng vội trở dậy nhìn xem thì thấy cánh cửa hé mở. Giây lát, nghe có tiếng giầy nhỏ nhẹ, lại có ánh đèn từ phòng trong đi ra. Nhìn sang, thì chính là Thanh Phượng. Bất chợt thấy chàng, nàng hoảng hốt trở lui vào, vội vã đóng hai cánh cửa lại. Chàng quỳ dài xuống, nói vọng vào:

- Tiểu sinh không nề hà khó khăn, nguy hiểm, thực cũng chỉ vì nàng. May gặp lúc không có ai, xin được cầm tay cười một tiếng, thì chết cũng không dám ân hận.

Cô gái từ trong nói ra:

- Thâm tình khăng khít, sao thiếp lại không hay, nhưng lời giáo huấn của chú về phận gái chốn khuê môn rất nghiêm, nên không dám vâng mệnh.

Chàng cố van nài:

- Cũng chẳng dám mong được kề da áp thịt, chỉ xin trông thấy nhan sắc cũng đủ lắm rồi.

Cô gái dường như có ý bằng lòng, mở then cửa bước ra, nắm lấy cánh tay chàng kéo dậy. Chàng mừng cuống lên, đem nhau xuống dưới lầu, ôm ghì lấy và đỡ lên ngồi trên đầu gối mình.

Nàng bảo:

- Cũng may có chút túc duyên, nhưng chỉ hết đêm nay thôi, sau dầu có nhớ nhau cũng không làm gì được nữa.

Chàng hỏi:

- Vì sao vậy?

Nàng đáp:

- Chú thiếp sợ chàng ngông, nên giả dạng làm quỷ dữ để dọa chàng, mà chàng vẫn không nao núng; hôm nay tính dọn nhà đi nơi khác. Cả nhà đều đã mang đồ đạc đến nơi ở mới, chỉ còn mình thiếp ở lại đây coi giữ, ngay mai cũng ra đi.

Nói xong định lui gót, bảo rằng:

- Sợ chú Về.

Chàng gắng giữ lại, muốn cùng nàng giao hoan. Ðương lúc còn giằng co, đối đáp, thì ông già ập vào. Cô gái vừa thẹn, vừa sợ, không biết làm thế nào, chỉ cúi đầu đứng tựa thành giường, mân mê giải áo, không nói gì cả.

Ông già giận dữ mắng:

- Con tiện tì này, làm nhơ nhuốc danh giá nhà tao! Không đi ngay, roi vọt quất vào lưng bây giờ!

Nàng cúi đầu vội vã bước ra. Ông già cũng ra theo. Chàng từ phía sau lắng nghe, tiếng chửi mắng vang lên không ngớt, rồi tiếng Thanh Phượng khóc rưng rức. Lòng đau như cắt, chàng cất tiếng nói to lên:

- Tội lỗi ở cả tiểu sinh đây, chứ Thanh Phượng có dự gì vào đấy? Hãy tha lỗi cho Phượng, bao gươm đao rìu búa, một mình tiểu sinh xin chịu tất.

Một lúc thấy yên ắng, chàng bàn trở về giường ngủ.

Từ đấy, trong nhà tuyệt không còn nghe thấy tăm hơi gì nữa. Chú chàng được tin lấy làm lạ, vui lòng bán rẻ cơ ngơi cho chàng. Chàng mừng, đem cả gia quyến dọn sang. ở được hơn một năm, vừa lắm, song vẫn chưa một lúc nào quên được Thanh Phượng.

Gặp tiết thanh minh, chàng đi tảo mộ, lúc trở về thấy hai con chồn nhỏ đang bị chó đuổi riết. Một con nhảy vào bụi rậm chốn thoát, còn một con chạy cuống qut ở trên đường, từ xa trông thấy chàng, quẩn lại bên cạnh, kêu thương, cụp tai cúi đầu, dường như có cầu cứu. Chàng bỗng thấy thương, mở vạt áo bọc vào, đem về. Ðến nhà, đóng cửa, đặt lên giường, thì ra là Thanh Phượng. Mừng quá đỗi, bèn an ủi và thăm hỏi. Nàng đáp:

- Vừa rồi, đang cùng con hầu đùa giỡn thì gặp phải nạn lớn. Nếu không có chàng, ắt đã táng mạng vào bụng chó. Mong không vì khác loaì mà ghét bỏ nhau.

Chàng đáp:

- Ngày đêm tưởng nhớ, hồn mộng vấn vương. Nay gặp nàng như bắt được của báu, có đâu lại nói đến ghét bỏ!

Nàng nói:

- Ấy cũng là số trời. Nếu không vì gặp chuyện thì đâu còn được theo nhau? Nhưng thế cũng lại là may, con hầu hẳn cho thiếp đã chết, thì có thể cùng chàng đính ước bền lâu được.

Chàng mừng dọn một căn nhà riêng làm chỗ ở cho nàng.

Cứ thế được hơn hai năm, một đêm, chàng đang đọc sách, chợt Hiếu Nhi ở đâu bước vào. Chàng ngừng đọc, ngạc nhiên hỏi đến có việc gì. Hiếu Nhi sụp xuống đất, cất tiếng buồn thảm nói:

- Phụ thân tôi gặp nạn bất kỳ, phi anh ra không ai cứu nổi. Lẽ ra phải thân đến khẩn cầu, nhưng sợ không được tiếp, nên cho tôi đi thay.

Hỏi có việc gì thì Hiếu Nhi đáp:

- Công tử có quen biết cậu Ba nhà họ Mạc không.

Chàng đáp:

- Người ấy là con nhà đồng niên với tôi.

Hiếu Nhi nói:

- Ngày mai cậu ta đi qua đây, Nếu có đem theo một con chồn săn được, mong anh giữ lại cho.

Chàng đáp:

- Câu chuyện xấu hổ dưới lầu hồi nào, vẫn canh cánh mãi trong dạ, nên những việc gì khác, không dám tự biết đến. Như muốn tôi đem hết sức hèn ra giúp, trừ phi Thanh Phượng đến đây, không xong.

Hiếu Nhi rơi lệ đáp rằng:

- Em Phượng đã chết ngoài đồng từ ba năm nay rồi!

Chàng bèn giũ áo nói:

- Ðã thế thì mối hận lại càng sâu nặng hơn thôi.

Rồi chàng cầm sách cao giọng ngâm nga, tuyệt không đoái nhìn đến gì nữa. Hiếu Nhi đứng dậy, khóc lạc cả giọng, che mặt mà bước ra.

Chàng liền đến buồng Thanh Phượng, kể cho nghe duyên cớ. Nàng thất sắc hỏi:

- Thế có cứu thật không?

Chàng đáp:

- Cứu thì vẫn cứu, nhưng vừa rồi mà không nhận lời ngay là cũng để trả miếng chuyện ngang ngược hồi trước cái đã.

Nàng mới mừng rỡ nói:

- Thiếp mồ côi từ bé, nhờ chú nuôi nấng mới trưởng thành. Ngày ấy, dẫu có mang lỗi với chàng, nhưng cũng do phép tắc trong nhà mà phải thế.

Chàng nói:

- Ðành thế, nhưng cũng không khỏi phải làm người ta ấm ức trong lòng. Nàng mà chết thật, thì nhất định là không cứu đâu.

Nàng cười mà đáp:

- Nhẫn tâm nhỉ!

Ngày hôm sau quả nhiên có chàng Ba họ Mạc đến, túi cung da hổ, đai ngựa chạm vàng, đầy tớ theo hầu rất hách. Chàng ra cửa đón tiếp, trông thấy các giống cầm thú săn được rất nhiều, trong đó có một con chồn đen, máu ướt đẫm cả da và lông. Vỗ vỗ xem, da thịt hãy còn ấm. Bèn thác cớ áo cừu bị rách, hỏi xin để dùng vá áo. Mạc khảng khái cởi dây ra tặng chàng. Chàng liền giao ngay cho Thanh Phượng, rồi ra yến ẩm với khách. Khi khách đi về rồi, cô gái ôm con hồ vào lòng, ba ngày sau thì sống lại. Quay trở một lát, lại hóa thành ông già. Ngước mắt nhìn thấy Phượng, ngỡ mình không còn ở dưới cõi trần. Nàng lần lượt kể hết thực tình. Ông già bàn sụp xuống lạy, thẹn thùng xin tạ lỗi xưa. Rồi mừng rỡ nhìn nàng nói:

- Ta vẫn cho là mày không chết, nay quả thế thật.

Cô gái nói với chàng:

- Như chàng có lòng nghĩ đến thiếp, thì xin cho mượn chỗ nhà lầu, để thiếp được trả nghĩa chú về công ơn nuôi nấng.

Chàng nhận lời. Ông già bẽn lẽn, giã biệt mà đi. Ðến tối, quả mang cả nhà lại. Từ đó, như cha con trong một nhà, không còn điều gì nghi kỵ.

Chàng ở riêng chỗ nhà học. Hiếu Nhi thỉnh thoảng đến cùng chuyện trò. Con trai người vợ cả của chàng dần dần lớn lên, bèn nhờ Hiếu Nhi dậy dỗ, vì tính nết ôn tồn, chỉ vẽ khéo léo, thật có tư cách mô phạm của ông thầy.

Tiểu Thu

Ðỗ Ngọc Toại dịch

Quan Thái Thường họ Vương, người đất Việt, lúc còn trái đào, ban ngày nằm ngủ trên sập. Bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, một vật gì to hơn con mèo đến nằm phục bên cạnh mình, quanh quẩn mãi không rời. Một lúc trời quang tạnh, con vật liền bỏ đi. Nhìn xem, không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở buồng bên, anh nghe thấy, mừng nói:

- Em tất sẽ hiển quý to. Ðấy là giống hồ đến tránh sấm sét đó.

Sau quả nhiên tuổi trẻ đỗ tiến sĩ, rồi từ huyện lệnh vào kinh là thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong, rất mực ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết thế nào là đực cái, vì thế mà người quanh vùng không ai gả con cho. Vương lo lắm.

Chợt có người đàn bà đưa một cô gái đến nhà, tự xin gả cho Nguyên Phong. Trông người con gái, thấy nhoẻn cười tươi xinh thật là phẩm tiên. Vương mừng, hỏi họ tên. Tự nói là họ Ngu, con gái tên Tiểu Thu, tuổi vừa đôi tám. Bèn đến tiền sính lễ, nói:

- Trước đây, nó ở với tôi, rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân chốn nhà cao cửa rộng có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa mà tôi cũng thỏa nguyện, có phải bán rau đâu mà nói giá!

Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu. Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn rằng:

- Ðây là bố chồng, mẹ chồng của mày, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm, phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại.

Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về. Người đàn bà nói:

- Làng tôi không xa, không dám phiền bày vẽ.

Bèn ra cửa đi.

Tiểu Thu cũng không có vẻ buồn bã quyến luyến, liền mở hòm lấy đồ trang sức ra.

Phu nhân cũng yêu thích cô gái lắm.

Mấy hôm sau, người đàn bà không đến. Hỏi quê quán, cô gái cũng ngớ ngẩn, không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt cho một căn nhà riêng, cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe thấy Vương vơ quàng con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười. Khi trông thấy cô gái thì đều kinh ngạc, những lời bàn tán từ đó mới thôi.

Cô gái lại rất thông minh, biết dò đón ý tứ mừng giận của bố mẹ chồng. Vợ chồng Vương yêu quý con dâu quá thói thường, lại lo ngay ngáy chỉ sợ vợ nó chê con trai mình ngây; thế mà cô gái vẫn một mực vui cười, không lấy thế làm điều. Chỉ có cái hay đùa; lấy vải khâu làm quả cầu, đá chơi; đi đôi hài da nhỏ, đá quả cầu xa đến vài chục bước rồi đánh lừa công tử chạy ra nhặt; công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi chạy theo.

Một hôm, Vương tình cờ đi qua, quả cầu bỗng bay vụt đến, trúng ngay vào mặt. Cô gái và thị tỳ chạy mất, còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận, lấy đá ném, chàng mới lăn ra mà khóc.

Vương đem chuyện về kể với phu nhân, phu nhân sang mắng cô gái, cô gái cúi mặt cười tủm, lấy tay xoa mép giường. Phu nhân về rồi, lại đùa nghịch như trước, lấy phấn trát vào mặt công tử loang lổ như quỷ.

Phu nhân trông thấy, giận lắm, gọi đến mắng thậm tệ.

Cô gái dựa vào ghế, mâm mê giải lưng, không sợ, cũng không nói năng gì.

Phu nhân không làm thế nào được, nhân lấy roi đánh cậu con.

Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc, quỳ xuống xin tha.

Phu nhân nguôi ngay cơn giận, vứt roi trở về.

Cô gái vừa cười, vừa lôi công tử vào nhà, rũ bụi ở quần áo, lau nước mắt, xoa những vết roi đòn, lấy quả táo và hạt dẻ cho ăn. Công tử bèn thôi khóc, lại vui ngay. Cô gái đóng cánh cửa thông ra sân, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương, làm người sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, rồi súng sính múa điệu 'Dưới Trướng' . Hoặc có khi lấy lông đuôi chim trĩ, cài vào mái tóc, gẩy đàn tỳ bà, tiếng tình tang réo rắt mãi; cười vang cả nhà; lâu ngày coi là thường.

Vương thấy con mình ngây, không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua.

Cùng ngõ, có một viên quan cấp gián họ Vương, ở cách nhau hơn mười nhà, nhưng vốn không ưa nhau. Bấy giờ, gặp lúc triều đình ba năm xét công các quan lại. Cấp gián ghen Vương được giữ ấn đạo Hà Nam, định bụng làm hại. Vương biết mưu hắn, lo nghĩ mà không có kế gì. Một tối đi nằm sớm. Cô gái đội mũ đeo đai đóng giả làm Tể Tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại cho hai người thị tỳ ăn mặc giả làm quan hầu, rồi ngầm lấy ngựa mà cưỡi, nói đùa rằng đến thăm Vương tiên sinh.

Ruổi ngựa đến cổng nhà Cấp gián tức thì lại lấy roi đánh người theo hầu, nói rằng:

- Ta đến thăm Thị ngự họ Vương chớ đâu có đến thăm Cấp gián họ Vương!

Quay ngựa mà về. Ðến cổng nhà, người canh cổng ngỡ là thật, chạy vào báo Vương.

Vương vội dậy ra nghênh tiếp, mới biết là con dâu đùa. Giận lắm, bảo với phu nhân:

- Người ta đương rình từng kẽ hở của mình, mà mình lại đem cái xấu xa trong phòng khuê đến tận cổng nhà người ta mà tâu thì tai họa đến nơi rồi!

Phu nhân giận, chạy sang nhà cô gái mắng thậm tệ, cô gái chỉ ngớ ngẩn cười, chẳng cãi lại câu nào. Ðánh không nỡ mà đuổi thì không cửa không nhà, hai vợ chồng buồn bực suốt đêm không ngủ.

Thời bấy giờ, quan Tể Tướng đương triều rất hách, nghi vệ, phong thái, xiêm áo, quan hầu so với những kẻ giả trang của cô gái thì không khác chút gì.

Vương cấp gián cũng nhầm, tưởng là thật; Mấy lần sai người đến tận cửa nhà Vương dò, mãi đến nửa đêm mà chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể Tướng với Vương mưu tính chuyện cơ mật.

Hôm sau vào chầu sớm, gặp mặt hỏi rằng:

- Ðêm qua Tướng công đến nhà ngài đấy ư?

Vương ngỡ là hắn diễu mình, chỉ đỏ mặt dạ, không nói thêm nữa. Cấp gián càng nghi, không dám mưu hại nữa, mà từ đó càng cố kết giao lấy lòng với Vương, Vương dò biết sự tình, mừng thầm, nhưng vẫn dặn ngầm phu nhân khuyên cô gái sửa đổi những việc làm trước. Cô gái cười xin vâng.

Hơn một năm sau, Tể Tướng bị bãi. Nhân có người viết thư riêng cho Vương, lại gửi nhầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián mừng lắm. Trước hãy nhờ người quen biết Vương đến hỏi mượn một vạn lạng vàng. Vương từ chối. Cấp gián thân hành đến nhà, Vương tìm khăn áo, mãi cũng không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận Vương xược với mình, bực tức định quay ra. Bỗng thấy công tử, áo cổn mũ miện, có người con gái từ trong cửa đẩy ra. Cấp gián hãi quá, đoạn rồi lại cười và vỗ về công tử, lột lấy áo mão của chàng cuốn laị mang đi.

Vương vội ra, thì khách đã đi xa; nghe kể duyên do, sợ mặt nhợt như đất thó, khóc oà lên mà rằng:

- Ðây là họa nàng dâu đây. Bất nhật sẽ giết cả họ nhà ta thôi!

Liền cùng phu nhân vác gậy chạy sang. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa, tha hồ cho chửi mắng.

Vương giận, lấy búa phá cửa. Cô gái ở trong nhà mỉm cười nói:

- Thầy chớ giận. Có con dâu ở đây, đao kiếm búa rìu con dâu cũng xin chịu, quyết không để phiền luỵ đến thầy mẹ. Thầy làm thế là muốn giết dâu để bịt miệng nhân chứng ư?

Vương bàn thôi.

Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, đem mũ miện áo cổn ra làm bằng. Chúa thượng giật mình, xét nghiệm ra thì tua mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, cây bố, áo bào khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng.

Vua giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thì thấy dáng điệu ngây ngô lộ rõ, mới phì cười nói:

- Thế này mà cũng làm vua được ư?

Bàn giao việc cho Pháp tì xét. Cấp gián lại kiện nhà Vương có yêu quái. Pháp tì tra hỏi nô bộc trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và anh con trai ngây, suốt ngày cười đùa. Hàng xóm láng giềng cũng không khai gì khác. Bấy giờ án mới định; cấp gián bị xung làm lính ở Vân Nam.

Vương từ đấy mới biết cô gái là kỳ dị, lại thấy mẹ nàng lâu không đến, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân dò, nàng chỉ cười không nói. Hỏi gạn mãi thì bưng miệng đáp:

- Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết ư?

Không bao lâu, Vương được thăng chức Kinh Khanh. Ngoài năm mươi tuổi vẫn lo không có cháu. Cô gái ăn ở đã ba năm mà đêm đêm vẫn nằm riêng, hình như chưa có sự chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng sập đi, dặn công tử nằm chung với vợ. Ðược vài hôm, công tử nói với mẹ:

- Mượn sập của con mang đi, sao ngang bướng không mang trả? Tiểu Thu cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở chả được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!

Con hầu, vú ở , không ai nhịn được cười; phu nhân nạt, phát cho mấy cái, bảo đi.

Một hôm cô gái tắm ở trong buồng, công tử trông thấy đòi tắm chung, cô gái bật cười ngăn lại, dỗ bảo đợi một lúc. Ra rồi nàng mới thay nước nóng đổ vào vại, cởi quần áo của chàng ra, cùng thị tỳ đỡ vào. Công tử cảm thấy hơi nóng ngột ngạt hét to lên đòi ra; cô gái không nghe, lấy chăn chùm lên. Một lát, không thấy kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở. Nàng vẫn cười nói thản nhiên, không sợ, kéo ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho.

Phu nhân nghe thấy, vừa khóc vừa chạy vào mắng:

- Con điên kia, sao giết con tao?

Cô gái nhoẻn cười đáp:

- Con ngây như thế chẳng thà không có.

Phu nhân càng giận, lấy đầu húc cô gái, bọn thị tỳ xô vào kéo ra khuyên can. Ðương lúc ồn ào, một con thị tỳ chạy đến bảo:

- Công tử rên được rồi!

Phu nhân thôi khóc, sờ vào mình con thì thấy hơi thở nhỏ nhẹ mà mồ hôi ra như tắm, ướt cả chăn chiếu. Một lát, mồ hôi không chảy nữa, bỗng mở mắt trông bốn bên, nhìn khắp gia nhân như không quen ai cả, nói:

- Bây giờ nhớ lại những việc trước, cứ như nằm mộng! Sao vậy nhỉ?

Phu nhân nghe câu nói không có vẻ ngây, lấy làm lạ lắm, dắt về thăm bố. Hỏi thử mấy lần, quả không ngây. Mừng rỡ như bắt được của báu. Ðến tối sai khiêng trả sập về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.

Công tử vào buồng, đuổi hắt thị tỳ đi. Sáng ra, ngó xem thì sập vẫn bỏ không. Từ đấy, không thấy ngây và điên nữa, mà sắc cầm hoà hợp quấn quít như hình với bóng.

Hơn một năm. Vương lại bị bè đảng của Cấp gián đàn hặc, đòi bãi chức, nên quan trên cũng khiển trách. Trước kia quan Trung Thừa Quảng Tây có tặng Vương một bình ngọc, giá đáng nghìn vàng, bấy giờ định đem ra đút lót để gỡ tội. Cô gái cũng thích, cầm xem chơi, bỗng tuột tay rơi vỡ, xấu hổ, chạy đến tự thú. Vợ chồng Vương đang buồn nghe về nỗi bị người dèm báng đòi cách quan, nghe thế giận lắm, cùng nhiếc mắng thậm tệ.

Nàng trỗi dậy đi ra, nói với công tử:

- Tôi ở nhà anh, những cái bảo toàn được không phải chỉ một cái bình, sao không nể mặt nhau một chút? Nói thực với anh: tôi không phải là người. Vì mẹ tôi gặp nạn sấm sét, ơn sâu được thầy che chở, lại vì đôi ta có duyên phận năm năm với nhau, cho nên tôi đến đây để đền ơn, và cũng để cùng anh trọn nguyền đấy thôi. Thân tôi bị nhiếc mắng đã nhiều, nhổ tóc mà đếm cũng không xuể, sỡ dĩ không đi ngay là vì cái duyên năm năm chưa trọn. Bây giờ thì làm sao còn nán lại được nữa.

Ðọan hầm hầm bước ra. Ðuổi theo thì đã biến mất. Vương ngẩn người ra, hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào trong nhà, nhìn phấn thừa, thoa cũ, khóc lóc muốn chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng gầy mòn héo hắt. Vương lo lắm, vội toan cưới vợ khác cho con để giải phiền, mà công tử thì không vui, chỉ tìm thợ vẽ giỏi họa tranh Tiểu Thu, ngày đêm thếp hương khấn vái.

Gần hai năm sau, tình cờ có việc từ làng khác về. Trăng sáng vằng vặc. Ngoài thôn vốn có một khu vườn cảnh của nhà Vương; công tử vừa cưỡi ngựa đi qua bên ngoài tường, bỗng nghe có tiếng cười, liền dừng cương, sai đầy tớ nắm hàm thiếc rồi đứng lên trên yên trông vào, thì thấy hai người con gái đang chơi đùa trong đó. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không trông rõ lắm. Chỉ nghe một cô áo xanh nói:

- Con ranh này, phải đuổi ra ngoài cổng mới được!

Một cô áo đỏ nói:

- Mày đang ở ngay trong sân viện nhà tao, lại còn định đuổi ai?

Cô áo xanh nói:

- Con ranh, không biết thẹn. Làm vợ không đắt, bị người ta tống về, lại còn nhận vơ sản nghiệp của người ư?

Cô áo đỏ nói:

- Chẳng hơn cái đứa đến già vẫn không ai thèm ngó đến!

Nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thu, công tử vội cất tiếng gọi to. Cô áo xanh bước đi, nói:

- Tao không cãi vã với mày nữa, đức ông chồng nhà mày đã đến kia kìa.

Ðọan rồi cô áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thu. Công tử mừng lắm. Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói:

- Hai năm không thấy mặt mà xương gầy còn một nắm rồi!

Công tử cầm tay khóc, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói:

- Thiếp cũng biết thế, nhưng không còn mặt nào trông thấy người nhà được nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, nào ngờ lại gặp nhau ở đây, mới biết duyên lứa trước không thể tránh được.

Mời cùng về, nàng không nghe; xin nàng ở lại trong vườn thì bằng lòng. Công tử bèn sai đầy tớ chạy về thưa với phu nhân. Phu nhân giật mình ngồi kiệu đến, mở khóa vào. Cô gái chạy đến, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm lấy cánh tay nâng dậy, chảy nước mắt nhận hết lỗi xưa, hồ như không thể dung thứ cho mình nói:

- Nếu con không chấp nhận chuyện cũ thì xin hãy cùng về cho mẹ vui tuổi già.

Nàng đáp rằng không được, lời lẽ quả quyết. Phu nhân lo ngôi đình Tể hoang vắng, định cho nhìêu người đến hầu hạ. Cô gái cười nói:

- Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ ngày trước, sớm tối theo con, không thể không quyến luyến chúng. Ngoài ra chỉ xin một người lão bộc trông coi cổng, còn thì không cần gì nữa.

Phu nhân thảy theo như lời nàng; lại nói thác đi rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, rồi hàng ngày mang thức ăn vật dụng ra mà thôi.

Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe; hơn một năm sau, sắc mặt, tiếng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức vẽ ra, rõ ràng là hai người. Lấy làm lạ. Cô gái nói:

- Trông thiếp bây giờ có đẹp như ngày xưa nữa không?

Công tử đáp:

- Bây giờ thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng!

Cô gái nói:

- Nghĩa là thiếp đã già rồi!

Công tử nói:

- Người ngoài hai mươi, làm gì lại già ngay được!

Cô gái cười, đốt bức vẽ đi, giật lại thì đã cháy thành tro. Một hôm nàng nói với công tử:

- Ngày trước khi còn ở nhà, mẹ chàng thường bảo thiếp đến chết cũng không làm kén được. Bây giờ thì thầy mẹ đã già, chàng lại là con một, thiếp thực không sinh nở được, sợ nhỡ việc nối dõi của chàng! Xin lấy vợ về nhà, sớm tối hầu hạ thầy mẹ, chàng đi lại cả hai nơi, cũng không có gì là không tiện.

Công tử bằng lòng, nạp sính lễ ở nhà quan Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, nàng tự khâu áo giày cho cô dâu, rồi đưa về chỗ phu nhân.

Ðến khi cô dâu vào cổng thì tiếng nói, nét mặt, cử chỉ không khác gì Tiểu Thu chút nào. Chàng lấy làm lạ lắm. Trở lại khu vườn cảnh thì cô gái đã đi đâu không biết. Hỏi thị tỳ, thị tỳ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói:

- Nương tử tạm về thăm bên ngọai, để lại vật này cho công tử.

Mở khăn, thấy có buộc cái quyết bằng ngọc , bụng đã biết nàng không trở lại nữa, bàn đem cả thị tỳ cùng về. Tuy giây lát không quên được Tiểu Thu nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như trông thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cái duyên với cô gái họ Chung, Tiểu Thu đã dự biết, nên thay đổi dáng mặt của nàng trước, để khuây khoả nỗi nhớ của chàng ngày sau.

Cừu Ðại Nương

Cao Xuân Huy dịch

Cừu Trọng, người đất Tấn, không còn nhớ ở quận huyện nào Gặp cơn đặi loạn, bị giặc bắt đem đi .

Hai con Phúc và Lộc đang còn thơ ấu . Vợ lẽ họ Thiệu, nuôi đôi trẻ mồ côi, sản nghiệp để lại may ra cũng được ấm no, nhưng đói kém mấy năm liền, lại bị cường hào lấn áp, đến nỗi miếng ăn thức uống hàng ngày không còn duy trì được.

Người chú của Trọng và Thượng Liêm, nhìn thấy mối lợi trong việc cải giá của cháu dâu, thường khuyên nhủ Thiệu thị lấy chồng, nhưng nàng thề giữ chí, không chịu nao núng. Liêm ngầm mưu khoán cháu cho một nhà đâi tộc định lấy thế cưỡng ép bắt nàng đi .

Hai bên ước định đâu đấy cả rồi, mà người ngoài vẫn chưa ai biết.

Trong làng có tên Nguỵ là đứa rất giảo quyệt, đểu cáng, vốn có hiềm khích lâu ngày với nhà Trọng; gặp việc gì cũng nghĩ cách để ngầm hãm hại . Nhân thấy Thiệu thị ở goá, bèn phao ra tiếng nọ điều kia để bêu xấu .

Nhà đại tộc kia nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức, bèn thôi .

Lâu ngày, mưu mô của Liêm và tiếng đồn bên ngoài cũng dần dần đến tai Thiệu thị . Nàng mang nỗi oan ức trong lòng, sớm chiều rơi luỵ, rồi đến tay chân tê bại, nằm liệt trên giường.

Phúc đã được mười sáu tuổi, nhân trong nhà không có người may vá, bèn hỏi gấp vợ cho con. Vợ Phúc là con gái ông tú tài Khương Dĩ Chiêm, cũng là người làm ăn khá giỏi giang, xắp đặt mọi việc có ngăn nắp, nhờ đó ăn tiêu cũng tạm đầy đủ, nên mới cho Lộc đi học.

Nguỵ thấy thế thì đem lòng ghen ghét, nhưng ngoài mặt lại làm ra vẻ thân thiện. Nhiều lần, Nguỵ mời Phúc đi uống rượu Phúc bằng vào đấy, xem Nguỵ như một người bạn tâm phúc. Nguỵ thừa dịp nói rằng:

- Mẫu thân cậu còn nằm trên giường bệnh, không trông nom được việc nhà; cậu em thì chưa biết làm gì, chỉ ngồi ăn không. Hai vợ chồng nhà cậu tốt thế, mà sao làm trâu ngựa cho người ta . Khi nào cậu em cưới vợ thì còn tốn tiền bạc rất nhiều . Tôi nghĩ hộ cậu một kế, chi bằng cậu nên sớm ở riêng ra, có thế thì nghèo về em mà giàu sẽ về anh.

Phúc về nhà, bàn với vợ, bị vợ mắng cho .

Nhưng ngày một ngày hai, Nguỵ nói ra nói vào, dần dần thấm thía, Phúc bị mê hoặc, bèn quyết đem việc ấy nói thẳng với mẹ .

Mẹ giận, mắng chửi thậm tệ . Phúc càng tức tối, cho rằng đã thế thì không cần gì nữa, thóc tiền cũng chẳng qua như của người khác, cho nên mặc kệ, không đoái hoài gì đến.

Nguỵ thừa cơ, rủ Phúc đi đánh bạc,thóc trong kho ngày càng vơi, vợ biết mà chưa giám nói . Mãi đến lúc hết thóc ăn, mẹ kinh hãi, hỏi vì sao, vợ mới nói thật. Mẹ giận lắm, nhưng cũng không biết làm sao, bèn cho ra ở riêng.

Ðược cái may, cô gái họ Khương là người hiền đức, mỗi ngày hai buổi, thổi cơm hộ mẹ, và qua lại hầu hạ chẳng khác gì trước.

Phúc đã ở riêng, không còn kiêng nể gì nữa, tha hồ đắm mình vào cuộc đỏ đen. Chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng nương để trả nợ chơi bời, mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi đã hết kiệt vốn liếng. Phúc không còn nghĩ được kế gì hơn, bàn đem vợ gán cho người ta để vay tiền, nhưng khốn nỗi không ai chịu nhận.

Trong huyện có tên Triệu Diêm La, nguyên là một tên trộm cừ khôi sổng lưới pháp luật, ngang ngược vũ đoán nhất vùng. Nó vốn biết Phúc không dám nuốt lời, bàn khảng khái cho vay .

Phúc cầm tiền đi, được vài ngày đã hết nhẵn. Còn trù trừ rấp tâm bội ước, thì Triệu đã quắc mắt dòm ngang.

Phúc sợ hãi, phỉnh vợ đến nhà Triệu .

Nguỵ nghe được, mừng thầm, chạy sang ngay mách với ông tú họ Khương, nghĩ chuyến này thì họ Cừu tất phải đổ xiêu nghiêng ngửa .

Họ Khương giận lắm, phát đơn đi kiện.

Phúc hoảng quá liền bỏ trốn.

Nàng Khương đến nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc nức nở, chỉ muốn chết ngay.

Lúc đầu Triệu còn dỗ ngon dỗ ngọt, nhưng nàng không nghe, Triệu ra oai nạt nộ thì nàng lại càng mắng chửi Triệu giận quá, lấy roi đánh đập, nàng cũng không phục, rút trâm tự đâm vào cổ .

Người nhà vội đến giật ra thì đã vào đến thực quản, máu phụt rồi .

Triệu vội vàng xé lụa quấn xung quanh cổ, chắc mẩm rằng cứ để thong thả rồi thế nào cũng khuất phục được.

Ngày hôm sau đã có trát đòi, Triệu vẫn dửng dưng, không lấy làm điều .

Ra huyện, quan khám thấy vết thương của Khương thị rất nặng, truyền nọc Triệu ra để đánh đòn. Lính lệ dòm nhau, không dám ra tay .

Quan vốn nghe tiếng Triệu ngang ngược đã lâu, thấy thế càng tin, bèn nổi giận, gọi người nhà ra đánh, đánh Triệu chết tươi .

Nhà họ Khương bàn khiêng con gái về .

Mãi đến khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết con mình khốn nạn như thế nào, hét lên một tiếng, cơ hồ đứt hơi, rồi mê man ốm nặng.

Bấy giờ Lộc đã mười lăm tuổi, vò võ một mình không dựa vào đâu được.

Nguyên Trọng còn có một người con gái đời vợ trước nữa tên là Ðại Nương, gả chồng ở quận xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm, cho quà cáp không vừa , thì ngỗ ngược với cha mẹ, nhiều khi giận dữ bỏ về, do đó Trọng giận và ghét; lại vì đường xa cho nên có khi vài năm mà không có một lần thăm hỏi .

Khi biết bà Thiệu bệnh nguy, tên Nguỵ bàn lập mưu gọi Ðại Nương về để gây cuộc tranh giành của cải trong nhà họ Cừu .

Vừa gặp một người lái buôn. ở cùng làng với Ðại Nương, Nguỵ thác cớ nhắn tin cho Ðại Nương, lại sách động Ðại Nương rằng có thể nhân cơ hội này thâu tóm hết nhà cửa được.

Ðược vài ngày quả nhiên Ðại Nương đến, đem theo một đứa con nhỏ . Vào cửa, thấy em nhỏ đang trông nom mẹ, cảnh tượng thật thảm đạm, nàng bất giác mủi lòng. Hỏi em Phúc ở đâu, Lộc kể hết đầu đuôi Ðại Nương nghe giận đến nghẹn cả cổ, nói rằng:

- Nhà không có người lớn, để cho người ta giày xéo đến thế! Ruộng nương nhà ta sao quân ăn cướp kia dám phỉnh gạt bán hết!

Nói xong bèn đi xuống bắp, nhen lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, rồi gọi em và con cùng ăn. Ăn xong nàng hằm hằm ra đi, đến huyện nộp đơn kiện bọn đánh bạc. Chúng sợ, góp tiền để đút lót Ðại Nương... Nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện. Huyện cho bắt tên Giáp, tên ất v.v... đánh đòn quở trách, nhưng không xử việc điền sản.

Ðại Nương vẫn căm, đem con đi thẳng lên quận. Quận thú là người rất ghét cờ bạc. Ðại nương hết sức bày tỏ mọi nỗi cô khổ, cùng tình trạng bị bọn gian lừa đảo, lời lẽ thống thiết, làm cho quận thú động lòng, truyền cho huyện phải truy thu ruộng vườn mà cấp lại cho chủ cũ, và phải trừng phạt Cừu Phúc để làm gương cho những đứa hư hoang.

Sau khi trở về, viên quan huyện nhận được lệnh trên, ráo riết thi hành, nhờ đó điền sản thu về được hết.

Bấy giờ, Ðại Nương goá chồng đã lâu, bèn cho đứa con nhỏ trở về nhà, bảo phải theo anh học làm ăn, đừng trở ngại nữa . Ðại Nương thì ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em xắp đặt trong ngoài có ngăn nắp cả .

Mẹ rất hài lòng, bệnh dần dần khỏi, việc nhà thảy đều giao cho Ðại Nương.

Bọn cường hào trong làng có lấn áp điều gì thì nàng vác dao đến tận cửa, cứng cỏi đấu lý, là cho chúng phải chịu khuất.

Ðược hơn một năm, ruộng vường ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc, bánh, thức ngon vật lạ gửi cho cô gái họ Khương.

Lại thấy Lộc ngày càng trưởng thành, nàng bèn nhiều lần cậy mối lái tìm nơi cưới hỏi .

Nguỵ nói với mọi người rằng:

- Sản nghiệp nhà họ Cừu đều ở trong tay Ðại Nương cả, e rằng sau này không thu về được.

Mọi người đều tin y, vì vậy không ai muốn nói chuyện hôn hân với họ Cừu .

Có một công tử họ Phạm, tên là Tử Văn, nhà có một khu vườn nổi tiếng bậc nhất ở Tấn. Trong vườn, các loại hoa quý trồng hai bên đường chạy thẳng đến nội thất.

Người nào không biết, đi nhầm vào đấy, gặp lúc công tử đang yến tiệc, thì ông nổi giận, cho là kẻ trộm, bắt đi trói lại đánh đập, gần chết mới thôi .

Nhân gặp tiết thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Nguỵ bèn rủ đi chơi, lân la đến khu vường của công tử. Người giữ vườn có quen biết với Ngụy, cho vào xem, ghé thăm các nơi đình tạ .

Bỗng đến một chỗ nước khe chảy xiết trên có cầu vẽ, một hàng lan can đỏ, dẫn đến một cái cổng sơn đen, trông vào thấy hoa rậm như nấm. Ðó là thư trai bên trong của công tử, Nguỵ phỉnh rằng:

- Cậu cứ vào trước, tôi phải đi giải một tý .

Lộc tin là thật, lững thững đi qua cầu vào cửa, đến một toà lâu viện thì nghe tiếng con gái nô cười . Vừa mới dừng bước, thấy một con sen đi ra, dòm thấy chàng bèn quay gót trở vào ngay .

Lộc bấy giờ mới thất kinh bỏ chạy . Giây lát sau, công tử bước ra, goi người nhà lấy dây thừng đuổi bắt. Lộc quẫn quá, nhảy luôn vào giữa khe nước. Công tử liền đổi giận ra cười bảo người hầu xuống dắt Lộc lên. Thấy dung nhan và y phục của Lộc đều có vẻ phong nhã, ông bảo đem áo và giày ra cho thay . Rồi lại dắt Lộc vào một cái đình, gạn hỏi tên họ, dịu dàng nét mặt, êm đềm lời nói, có vẻ hết sức thân mật, xuề xòa . Một lát, công tử đi nhanh vào nhà trong, rồi trở ra ngay, cười cầm tay Lộc dắt qua cầu, dần dần đến chỗ ban nãy Lộc không hiểu ra sao, dùng dằng không dám đi vào . Công tử cố kéo vào, thì thấy trong giậu hoa thấp thoáng có bóng mỹ nhân đang dòm ngó . Khi đã an toạ, thị tỳ dọn rượu rồi Lộc từ tạ, nói rằng:

- Cháu còn trẻ người non dạ không biết gì, đi nhầm vào chốn khuê môn, được ngài khoan hồng xá lỗi cho, như thế là ngoài mộng tưởng. Bây giờ chỉ mong được thả cho về sớm thì đội ơn vô cùng.

Công tử không chịu . Chốc lát, nem chả bày ra la liệt.

Lộc lại đứng dậy, từ tạ là đã quá no say rồi .

Công tử kéo ngồi xuống, cười nói rằng:

- Lão có mấy chữ nho tên đặt cho phách nhạc, Nếu cậu đối xử được thì xin để cậu đi ngay .

Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói:

- Phách đặt tên: Chẳng giống tí nào .

Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối rằng:

- Bạc thành nén: biết làm sao được

Công tử cười to lên mà rằng:

- Thật là Thạch Sùng đấy!

Lộc không hiểu ông nói gì . Nguyên công tử có một cô con gái tên là Huệ Nương, xinh đẹp lại có học thức, đang kén chồng, đêm chiêm bao thấy có người bảo với mình sẽ lấy Thạch Sùng, hỏi ở đâu, thì nói rằng ngày mai sẽ rơi xuống nước. Sáng dậy, nàng nói chuyện lại với cha mẹ; mọi người đều lấy làm lạ . Việc Lộc đến vừa rồi rất hợp với giấc mộng, cho nên công tử mời chàng vào nhà trong để phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt.

Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói rằng:

- Tên Phách nhạc là do con gái bé của lão đặt ra, cứ nghĩ mãi mà không đối được; bây giờ mới được câu đối hay, cũng là duyên trời . Lão có thể để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho cậu; cả chỗ tệ xá đây cũng còn nhiều viện, nhiều phòng, không dám phiền cậu rước dâu về bên nhà .

Lộc luống cuống, khiêm nhường từ tạ, viện lẽ rằng mẹ đang còn ốm, không ở gửi rể được.

Công tử bảo hãy cứ về nhà bàn tính đã, rồi sai người giữ ngựa thắng ngựa mang quần áo ướt và đưa Lộc về .

Về đến nhà, Lộc kể chuyện lại với mẹ, bà mẹ sợ hãi cho là chuyện bất thường; từ đó mới biết Nguỵ là kẻ hiểm độc. Nhưng vì dữ mà lại hoá lành, nên cũng mặc, không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên cắt đứt với y mà thôi .

Qua vài ngày, công tử lại cho người đến ngỏ với bà mẹ; bà mẹ chung quy vẫn không dám nhận.

Ðại Nương bèn đứng ra nhận lời rồi mướn hai bà mối đi nạp thái .

Chả bao lâu, Lộc đến ở gửi rể nhà công tử, được hơn một năm thì vào học nhà phán, lừng lẫy tài danh.

Em vợ dần dần trưởng thành, không kiêng nể anh rể như trước, Lộc giận, đem vợ về ở nhà mình.

Mẹ cũng đã chống gậy đi lại được; nhà có Ðại Nương trông nom mấy năm liền, nhà cửa cũng được hoàn hảo . Nay cô dâu mới đã về, trong nhà đầy tớ con hầu tấp nập, rõ ràng có phong thái đại gia .

Tên Nguỵ bị xa lánh lại càng ghen ghét, giận không tìm ra chút tỳ vết nào để hãm hại .Y bàn lôi kéo bọn lính đào ngũ vu cáo Lộc gửi tiền cho chúng.

Thuở quốc sơ việc lập pháp rất nghiêm; theo lệnh trên, Lộc bị xử đi đày ra ngoài cửa ải .

Phạm công tử đút lót gửi gắm từ trên xuống dưới, mà kết quả chỉ được miễn việc đi đày cho Huệ Nương.

Ðiền sản đều bị sung công.

May sao Ðại Nương cầm tờ giấy chia gia tài, dấn thân ra trước cửa quan cãi lý, có bao nhiêu thửa ruộng mới mua đều ghi tên Phúc cả, do đó mẹ con mới được ở yên.

Lộc nghĩ mình đi không trở về bàn viết tờ ly hôn, gửi cho ông nhạc, rồi vò võ lên đường.

Ði được mấy ngày, đến phía Bắc kinh đô, vào ăn trong quán, thấy ngoài cửa có đứa ăn mày đứng thập thò, mặt mũi rất giống anh mình.

Ra gạn hỏi thì quả anh thật. Lộc kể lại chuyện mình, anh em đều buồn thảm.

Lộc mở áo lót, chia cho Phúc một ít tiền, bảo trở về nhà . Phúc rơi luỵ từ biệt. Khi đến cửa ải, Lộc sung làm lính hầu trong phủ một vị tướng quân. Vì Lộc là con nhà học trò, chân mềm tay yếu, nên được giữ việc biên chép, viết lách, cùng ăn ở với những phục dịch khác. Khi họ hỏi đến gia thế, thì Lộc kể hết đầu đuôi; trong bọn, có một người kinh ngạc nói rằng:

- Chính là con tôi đây!

Nguyên trước kia bọn cướp bắt Cừu Trọng đi chăn ngựa cho chúng, sau đó cả bọn bỏ trốn, rồi bán Trọng vào làm lính. Trọng bàn theo chủ ra đồn thú ngoài cửa ải .

Trọng thuật lại cho Lộc rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau, bèn ôm lấy nhau mà khóc.

Mọi người đều thấy chạnh lòng.

Rồi Trọng lại phẫn uất kêu lên:

- Chả biết đứa nào bỏ chạy sang miền Ðông mà lại đổ thừa cho con ta!

Nhân đó kêu khóc với tướng quân. Tướng quân bèn giao cho Lộc viết một lá thư gửi đến vị thân vương trong triều, cho Trọng cầm về kinh đô .

Trọng đến kinh, rình khi xa giá thân vương đi ra liền đến dâng thư tỏ lòng bày oan khuất. Vị thân vương vì ông mà tâu xin lên vua, nên Lộc được minh oan; vua sắc chỉ cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất giao về cho họ Cừu .

Khi Trọng quay về, hai cha con người nào cũng vui mừng. Rồi Lộc hỏi kỹ số nhân khẩu trong nhà, để tính tiền chuộc cho bố, mới biết từ khi vào làm lính hầu Trọng đã hai lần lấy vợ mà không sinh đẻ, bấy giờ lại đang ở góa .

Lộc bèn sắm sửa hành trang mà trở về quê quán.

Lại nói đến Phúc, sau khi từ giã em, về đến nhà, sụp lạy xin chịu tội .

Ðại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, tự mình cầm hèo, hỏi Phúc rằng:

- Mày có tự nguyện chịu đòn, thì mới có thể tạm cho ở lại còn như không muốn, thì ruộng vườn của mày đã hết sạch, đây không phải là chỗ mày đến tọng cơm được nữa, mời tếch ngay!

Phúc khóc lóc, phục xuống đất, xin chịu đòn. Ðại Nương vứt cái hèo đi, nói rằng:

- Con người đã bán vợ, thì cũng chẳng trừng phạt làm gì nữa; nhưng án cũ chưa xoá, Nếu tái phạm thì báo ngay!

Nói xong, nàng cho người sang báo tin bên họ Khương. Cô gái họ Khương dằn giọng nói rằng:

- Tôi có là người gì của họ Cừu nữa đâu mà phải báo tin!

Ðại Nương nhiều lần nhắc lại câu nói ấy để bêu xấu Phúc; Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.

Nửa năm trôi qua Ðại Nương tuy cho Phúc đủ ăn đủ mặc, nhưng bắt làm việc nặng như đứa ở .

Phúc cũng làm lụng mà không oán trách gì, có giao cho tiền bạc, cũng không dám cẩu thả .

Ðại Nương xét thấy Phúc không có gì khác, bèn thưa với mẹ cho mời nàng Khương trở về .

Mẹ nghĩ rằng không có cách gì làm cho cô ấy nghĩ lại được nữa .

Ðại Nương nói:

- Không phải thế . Nếu người ta có lòng nào thờ hai chồng thì đã chả tự chuốc lấy đòn gông khổ sở . Chẳng qua ai mà lại không có cái giận như vậy!

Rồi nàng thân hành đem em trai sang chịu tội bên nhà vợ. Ông nhạc, bà nhạc trách mắng đủ điều .

Ðại Nương nạt Phúc, bảo phải quỳ xuống rồi mới xin mời vợ ra gặp. Mời đến ba bốn lần, nàng vẫn khăng khăng tránh mặt không chịu ra .

Ðại Nương vào nhà tìm, kéo ra, thì nàng chỉ vào mặt Phúc mà mắng nhiếc tàn tệ .

Phúc thẹn toát mồ hôi, không còn cách gì dung thứ được cho mình.

Bà cụ họ Khương mới kéo Phúc, bảo đứng dậy .

Ðại Nương xin cho biết ngày nào thì vợ Phúc sẽ trở về . Nàng nói:

- Từ trước đến nay chịu ơn của chị đã nhiều, nay chị dạy như thế, đâu dám trái lời, nhưng chỉ sợ không giữ được cho em khỏi bị bán lần nữa . Vả chăng ân nghĩa đã dứt hẳn rồi, còn mặt mũi nào mà ăn ở với cái đứa vô lại, lòng đen như mực ấy . Muốn xin với chị dọn riêng cho một cái nhà, cho em sang đấy để phụng dưỡng mẹ già, còn hơn cạo đầu đi tu, thế là đủ rồi!

Ðại Nương bày tỏ lòng hối hận của Phúc và ước hẹn ngày mai đến rước, rồi từ biệt.

Sáng hôm sau, nàng cho xe sang đón em dâu về . Bà mẹ ra tận cửa quỳ lạy, nàng Khương cũng sụp lạy mà khóc to lên .

Ðại Nương khuyên can, rồi dọn tiệc rượu để ăn mừng, cho Phúc ngồi bên cạnh bàn. Ðoạn nàng nâng cốc nói rằng:

- Sở dĩ tôi phải tranh giành khổ sở, không phải là cốt mưu lợi cho mình. Nay em đã biết hối cải, vợ hiền đã trở về, vậy tôi xin đem sổ sách giao lại . Tôi đến tay không, bây giờ lại trở về tay không.

Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy nghiêm nét mặt, sụp lạy mà khóc. Ðại Nương bèn thôi .

Chưa được bao lâu thì cái lệnh rửa oan đã về đến nơi . Chỉ trong vòng vài ngày ruộng vườn lại trở về chủ cũ hết.

Tên Nguỵ kinh hãi, không hiểu ra sao, chỉ biết tự giận mình không còn kế gì để mà thi thố .

Chợt nhà láng giềng phía Tây phát hoả, Nguỵ lấy cớ chữa cháy chạy sang, rồi ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc; gió lại thổi mạnh, cháy lan gần hết, chỉ trừ hai ba căn nhà của Phúc. Cả nhà phải dời sang ở chung. ít lâu sau đấy thì Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi .

Trước kia, Công tử họ Phạm nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc lóc, xé thư vứt xuống đất . Cha nàng cũng chiều lòng, không ép nữa . Khi Lộc về, biết nàng chưa cải giá mừng lắm, đến ngay nhà ông nhạc. Công tử biết nhà Lộc mới bị hoả hoạn, muốn giữ ở lại , Lộc không chịu, cáo từ ra về .

May Ðại Nương có vàng riêng, bỏ ra sửa chữa nhà cháy , Phúc vác cuốc thuổng đi đào đất đắp nền, tìm thấy một hố tiền chôn.

Ðến đêm, cùng với em ra đào hố lên: một cái bệ xây bằng đá dài vừa một trượng, toàn đựng tiền đồng. Nhờ đó khởi công làm nhà mới, dựng lên toà ngang dãy dọc, tráng lệ không kém đại gia .

Lộc cảm phục ơn nghĩa của tướng quân, để sẵn ngàn vàng để đi chuộc cha . Phúc xin đi . Nhà cho một đầy tớ trai lực lưỡng theo hầu .

Lộc bèn đón Huệ Nương trở về .

Chẳng mấy chốc, cha nàng và anh cùng về, một nhà vui vẻ tưng bừng. Ðại Nương từ khi về ở nhà mẹ, thì cấm con đến thăm, để tránh tiếng, nay cha đã về, liền quyết xin đi .

Anh em không nỡ để chị đi . Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần, con gái một.

Ðại Nương tạ từ không chịu nhận. Phúc và Lộc ứa nước mắt mà bảo:

- Hai em không có chị thì làm gì được có ngày nay!

Ðại Nương mới bằng lòng, cho người đi gọi con, dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Ðại Nương rằng:

- Chị em khác mẹ, sao mà gắn bó như vậy .

Ðại Nương nói:

- Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có giống cầm thú mới thế thôi! Ðã là người, lẽ nào lại bắt chước giống vật!

Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi khoán thợ làm nhà cho Ðại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình.

Tên Nguỵ nghĩ bụng rằng: trong hơn mười năm, mình tìm cách gây hoạ cho người mà hoá ra lại càng gây phúc cho người, lòng khôn xiết hổ thẹn và áy náy . Thấy họ Cừu giàu có, Nguỵ lại sinh lòng ngưỡng mộ, muốn làm thân, bèn lấy cớ Trọng mới về, sắm lễ vật sang mừng, Phúc muốn khước đi, nhưng Trọng không nỡ phật nên nhận lĩnh gà và rượu Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, lũ tiểu đồng, con hầu nhìn thấy nhưng cũng không đi . Một chốc, củi bốc cháy căn nhà, mọi người hoảng sợ, may nhà đông người nhiều tay, dập tắt được, nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy hết. Anh em đều bảo con người đó là không lành. Sau đó, gặp lễ thọ của cha, Nguỵ lại dắt một con dê đến biếu . Từ chối không được, phải buộc dê vào một gốc cây ngoài sân. Ðến đêm, một đứa tiểu đồng bị tên người nhà đánh đập, tức giận chạy đến gốc cây mở dây buộc dê thắt cổ mà chết.

Anh em than rằng:

- Nó làm phúc cho mình chẳng bằng nó gây hoạ cho mình!

Từ đấy, tuy Nguỵ vẫn ân cần, nhưng bên nhà Trọng cũng không dám nhận đến một cây kim sợi chỉ, chỉ hậu đáp cho y mà thôi .

Sau Ngụy về già, nghèo đến nỗi phải đi ăn mày .

Trọng lấy ân giả oán, thường đem vải vóc và thóc chu cấp cho.

Ngũ Thu Nguyệt

Ðỗ Ngọc Toại dịch

Vương Ðỉnh, quê ở Tần Bưu, tự là Tiên Hồ, người khảng khái, có sức khoẻ, giao du rộng. Năm mười tám tuổi, vợ vừa cưới đã chết. Chàng thường đi chơi xa, hàng năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất mực thương yêu em. Thường khuyên em không nên đi xa, muốn kén vợ cho. Chàng không nghe, thuê thuyền đến Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán khách để trọ. Nước sông gợn sóng, núi Kim Sơn ở ngay trước mặt, bụng lấy làm thích lắm. Hôm sau người bạn đến, mời chàng dọn về nhà mình ở, chàng từ chối không đi.

Ở già nửa tháng, đêm nằm mộng thấy một cô gái tuổi chừng mười bốn mười lăm, thuỳ mị tình tứ, lên giường giao hợp với mình. Tỉnh dậy thì thấy mình di tinh. Chàng hơi lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên. Ðến đêm lại nằm mộng thấy như thế, luôn ba bốn đêm, bụng rất kinh dị, không dám tắt đèn. Thân tuy nằm im trên giường mà bụng vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt, đã mộng thấy người con gái lạ đến. Ðang ôm ấp bỗng giật mình tỉnh dậy. Vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái như tiên vẫn đang trong vòng tay mình. Nàng thấy chàng đã tỉnh, hơi có ý thẹn, sợ. Chàng tuy biết không phải là người, nhưng bụng lại rất thích, nên không căn vặn gì, lại cùng nàng vần vũ cật lực.

Cô gái hình như không chịu nổi nói:

- Cuồng bạo như thế chả trách người ta không dám gặp thẳng ở ngoài giấc mộng.

Chàng bấy giờ mới hỏi kỹ.

Cô gái đáp:

- Thiếp họ Ngũ, tên Thu Nguỵệt. Thân phụ là danh nho, tinh thông dịch số, rất thương yêu thiếp, nhưng nói mệnh thiếp không thọ, nên không hứa gả cho ai cả. Sau đến năm mười lăm tuổi, quả nhiên chết yểu, liền đào huyệt ở phía Ðông gian gác này mà chôn bằng, không đắp nấm cũng không có mộ chí, duy chỉ đặt ở bên ngoài quan tài một phiến đá, đề rằng: Gái Thu Nguyệt, chết không mồ, 30 năm sau gả về Vương Ðỉnh. Ðến nay đã 30 năm, chàng đến vừa đúng. Trong bụng rất mừng, muốn tự hiến cho chàng, nhưng tấc lòng còn e thẹn, nên phải mượn chiêm bao đấy thôi!

Vương cũng rất mừng, lại đòi hành sự tiếp.

Nàng nói:

- Thiếp chỉ cần một ít dương khí để mong sống lại. Thực không ngại gì chuyện gió mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, thì cứ gì phải đêm nay.

Bèn đứng dậy mà đi.

Ðêm sau lại đến. Ngồi đối nhau, cười đùa vui vẻ như bạn bình sinh. Tắt đèn lên giường không khác gì người sống. Có điều khi nàng đã dậy thì tinh rây dầm dề, thấm đẫm cả chăn đệm.

Một đêm, trăng sáng vằng vặc, cùng lững thững dạo bước trong sân. Ðỉnh hỏi cô gái:

- Cõi âm cũng có thành quách chứ?

Cô gái đáp:

- Cũng như ở cõi dương thôi. Thành phủ cõi âm không ở chốn này mà cách đây ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày.

Vương hỏi:

- Người sống có thể trông thấy không?

Cô gái đáp:

- Có thể.

Chàng xin đi xem, nàng bằng lòng.

Nhân lúc đêm trăng cùng đi. Cô gái nhẹ nhàng lướt đi như gió. Vương cố sức đuổi theo. Chẳng mấy chốc đến một nơi kia, nàng bảo:

- Không xa nữa.

Vương cố giương mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì cả. Cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mí mắt chàng, mở ra thì thấy mắt sáng gấp bội lúc bình thường, trông ban đêm không khác gì ban ngày. Chợt thấy một bức tường thành ẩn hiện trong đám sương mù xa xa, người đi trên đường tấp nập như đi chợ.

Một lát, thấy hai tên lính trói ba bốn người giải đi qua, người đi cuối lạ thay sao giống hệt như anh mình vậy. Ðến gần, quả là anh thật, Vương kinh ngạc hỏi:

- Sao anh lại đến chốn này?

Người anh trông thấy chàng thì ứa nước mắt, nói:

- Anh cũng không biết việc gì mà bị bắt trói như tù.

Vương tức giận nói:

- Anh ta là người quân tử, biết giữ lễ nghĩa, sao đến phải xiềng trói như vậy?

Liền xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không nghe, lại ngạo mạn, trừng mắt nhìn. Chàng phẫn uất, toan giằng nhau với chúng, người anh ngăn:

- Ðấy là lệnh quan, ta cũng phải giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ vòi của đút, khổ lắm. Em về, nên lo toan cho.

Chàng nắm lấy cánh tay anh, khóc thất thanh. Lính tức giận kéo mạnh cái tròng cổ, người anh liền ngã sấp xuống. Chàng trông thấy, lửa giận đầy ức, không thể nén được, liền rút thanh đao đeo bên mình, phạt đứt đầu một tên. Tên kia kêu thét lên, chàng lại giết nốt.

Cô gái kinh sợ nói:

- Giết sai nha nhà quan, tội không thể tha được. Nếu chậm, hoạ sẽ đến. Xin lập tức tìm thuyền về Bắc. Về nhà, chớ hạ lá phướn xuống, phải đóng cửa không cho ai vào nhà. Quá bảy ngày sẽ không lo gì nữa.

Vương liền dắt anh đi, ngay đêm ấy thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vã về Bắc. Về thấy khách khứa đến viếng ở cửa, mới biết là anh đã chết thật. Chàng liền đóng cổng khoá lại, rồi đi vào, anh đã mất hút; vào nhà thì người chết đã tỉnh lại, gọi: Ðói chết mất! Mang mì nước lại đây!

Lúc đó, anh chết đã hai ngày; người nhà thảy đều kinh hãi. Chàng liền kể lại duyên do. Bảy ngày sau, mở cửa, bỏ lá phướn đi, người ta mới biết ông anh sống lại.

Bè bạn thân thuộc xúm đến hỏi thăm, Vương chỉ trả lời chống chế.

Lại trạnh nghĩ đến Thu Nguyệt, tưởng nhớ thêm rầu. Bèn lại quay xuống Nam, đến gian gác cũ, đốt đèn lên ngồi đợi rất lâu, cô gái vẫn không lại. Chập chờn toan ngủ, thấy một người đàn bà bước vào nói:

- Cô Thu Nguyệt nhờ nói lại với anh là hôm nọ hai tên công sai bị giết, hung phạm chạy mất, chúng bắt cô ấy đi. Hiện đang ở trong ngục. Bọn ngục tốt đối đãi tàn ngược. Ngày ngày trông chờ anh, anh nên nghĩ cách cứu giúp.

Vương buồn rầu phẫn uất,liền theo người đàn bà đi. Ðến một toà thành, vào cửa Tây, người đàn bà chỉ vào một cái cổng nói:

- Cô em bị giam ở gian này.

Chàng bước vào, thấy nhà này buồng nọ cũng nhiều, tù phạm bị nhốt thậm đông mà chẳng thấy Thu Nguyệt đâu. Lại vào một cửa nhỏ, thì thấy trong căn phòng hẹp có đèn lửa. Chàng ghé lại gần cửa sổ để nhòm vào, thấy Thu Nguyệt ngồi trên giường, lấy ống tay áo che mặt mà khóc. Bên cạnh có hai tên ngục tốt đang sờ cằm vuốt chân nàng, để đùa ghẹo. Nàng khóc càng cuống quít. Một tên ngục tốt bá lấy cổ nàng nói:

- Ðã là kẻ có tội còn giữ trinh tiết ư?

Chàng tức giận không nói không rằng, rút dao xông vào, chém mỗi đứa một nhát như người ta phạt gai, rồi đoạt lấy cô gái mà chạy ra, may không ai biết.

Vừa đến quán trọ bỗng giật mình tỉnh giấc. Còn đương lạ vì giấc mộng dữ, đã thấy Thu Nguyệt nước mắt dàn dụa đứng ở đó. Chàng kinh hoảng trỗi dậy, kéo nàng ngồi xuống, kể lại giấc mộng. Cô gái nói:

- Thật đấy, không phải mộng đâu.

Chàng hốt hoảng hỏi:

- Thế thì làm thế nào?

Nàng thở dài đáp:

- Ðấy cũng là số đã định. Thiếp vốn đợi ngày nguyệt tận mới là kỳ hạn sống lại. Bây giờ đã gấp thế này thì đợi sao được nữa. Xin chàng mau mau đào chỗ chôn thiếp lên, đưa thiếp cùng về, mỗi ngày gọi tên thiếp nhiều lần. Qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng vì chưa đủ ngày, xương mềm, chân yếu, không thể lo việc gạo nước trong nhà giúp chàng được.

Nói xong, gấp gáp toan đi. Bỗng quay lại nói:

- Thiếp suýt quên. Nếu âm ty sai đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống, cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói rằng ba mươi năm sau có thể hai vợ chồng cùng đeo!

Liền lấy bút vẽ hai đạo bùa và nói:

- Một đạo chàng đeo, còn một đạo xin dán vào lưng thiếp.

Chàng đưa nàng ra. Ðến chỗ nàng biến thì đánh dấu lấy. Ðào độ hơn một thước thấy quan tài, gỗ đã mục nát, bên cạnh có một tấm bia nhỏ, quả đúng như lời nàng nói. Mở quan tài ra xem, nhan sắc vẫn như sống. Ôm vào buồng, quần áo theo gió tan hết. Dán bùa xong lấy chăn bọc lại, cõng đến bên sông, gọi một chiếc thuyền đỗ bên bờ, nói thác rằng con gái ốm nặng, muốn đưa về nhà. May được gió Nam thổi manh, trời vừa sáng đã về đến cổng. Bế vào đặt nàng yên ổn rồi mới nói với anh chị. Cả nhà kinh ngạc nhìn nhau, cũng không dám nói thẳng là điều huyền hoặc.

Chàng mở chăn, gọi to Thu Nguyệt. Ban đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng mỗi ngày mỗi ấm dần, ba ngày thì sống lại. Bảy ngày sau đã có thể đi lại được. Bèn thay quần áo ra chào chị dâu, phất phới chẳng khác nào thần tiên cả. Nhưng ngoài mười bước lại phải có người đỡ mới đi được, nếu không thì xiêu theo chiều gió, chỉ chực nghiêng ngả. Những người trông thấy đều cho rằng nàng có bệnh đó lại càng tăng thêm vẻ đẹp.

Nàng thường khuyên chàng:

- Tội nghiệt của chàng quá dày, phải tích đức, tụng kinh sám hối đi. Nếu không e rằng không sống lâu.

Chàng vốn không tin Phật, bây giờ cũng thành tâm quy y. Về sau không việc gì cả.

Xảo Nương

Nguyễn Huệ Chi dịch

Miền Quảng Ðông có thân hào họ Phố, tuổi ngoại sáu mươi, sinh một trai tên là Liêm, rất thông tuệ, nhưng chẳng may bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ nhỏ như con tằm. Xa gần biết chuyện, không một nhà con gái nào dám hứa gả. Tự nghĩ phận mình dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng không biết làm thế nào.

Liêm theo thầy học tập, một hôm nhân thầy đi vắng, ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, bèn bỏ học đi xem. Ðến chừng đoán thầy sắp về đắn nơi, sợ hãi, bỏ trốn luôn. Rời nhà được mấy dặm, trông thấy một nàng áo trắng dắt một con hầu nhỏ đang đi ở phía trước. Một lần cô gái quay đầu lại, thì ra khuôn mặt diễm lệ ít ai sánh được. Gót sen bước có vẻ chậm rãi, Liêm vội đi vượt lên. Cô gái quay sang nói với con hầu:

- Thử hỏi chàng xem có phải định đến kẻ Quỳnh không?

Con hầu bàn gọi chàng hỏi. Liêm hỏi lại rằng có việc gì. Cô gái đáp:

- Ví thử có đi Quỳnh thì có phong thư, phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà hộ. Mẹ già tôi ở nhà cũng là người hiếu khách.

Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu. Nghĩ rằng lênh đênh hồ hải một chuên cũng hay, bàn nhận lời. Cô gái liền rút lá thư đưa con hầu, con hầu trao lại cho chàng. Hỏi họ tên quê quán người nhận thì nàng đáêáêáêá
šên

- Họ Hoa, ở làng gái Tần, cách thành Bắc chừng ba bốn dặm.

Chàng bàn đáp thuyền mà đi. Ðến được thành Bắc đất Quỳnh Châu vào lúc trời đã chiều tối. Hỏi thăm thôn gái họ Tần thì chẳng một ai biết cả. Ðành nhắm hướng Bắc mà đi, được chừng bốn năm dặm thì trăng sao đã hiện lên nhấp nháy, cỏ dại thơm lừng trải dài mờ cả mắt, chốn đồng không chẳng có lấy một quán trọ nào; tình cảnh thật khốn quẫn. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, nghĩ muốn nằm nghỉ quách bên ngôi mộ đó, nhưng lại khiếp sợ hổ lang. Bèn ôm cây trèo lên, ngồi chồm chỗm trên ngọn cao. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỷ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận như thiêu như đốt. Thốt nhiên nghe bên dưới có tiếng người. Cúi đầu nhòm xuống, thì rành rành đã là một nơi sân viện; một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai con hầu vấn tóc châm đuốc hoa đứng hầu hai bên. Người đẹp quay đầu sang bên trái bảo:

- Ðêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống thưởng thức đêm thanh được đấy.

Chàng nghĩ đây hẳn là ma quỷ, trong mình sởn cả gai ốc, nín hơi không dám thở. Chợt một con hầu nhìn lên nói:

- Trên cây có người.

Cô hãi kinh hãi đứng bật dậy kêu lên:

- Trẻ ranh lớn mật ở đâu dám mò đến đây nhòm trộm người khác!

Chàng cả sợ, không còn chỗ nào để trốn nữa, đành ôm cây tụt xuống, phục xuống đất xin tha thứ. Cô gái đến gần, đưa mắt nhìn qua một lượt, chợt đổi giận làm vui, kéo chàng dậy cùnng ngồi. Chàng liếc mắt ngó nàng, thì tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một. Nghe giọng nói cũng tiếng vùng này, nàng hỏi:

- Chàng đi đâu đây?

Ðáp rằng:

- Có người nhờ đưa giúp lá thư.

Nàng nói:

- Ðồng hoang khối khách ăn đêm, ngủ giữa trời sương rất đáng ngại. Nắu chẳng hiềm nhà tranh vách đất, xin mời vào nghỉ tạm.

Nói rồi đưa chàng vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên đấy. Chàng tự thẹn thân hình khiếm khuyết, xin nằm ở dưới đất. Nàng cười đáp:

- Khách quý đến nhà, con gái đâu dám thất lễ, đòi nằm cao hơn khách

Chàng không biết tính sao đành phải nằm chung một giường, nhưng trong lòng hoang mang lo lắng, không dám tự tiện co duỗi. Chẳng bao lâu, cô gái luồn bàn tay nhỏ nhắn qua lớp chăn, cấu nhẹ vào đùi chàng. Chàng vờ ngủ, như không biết gì. Lại một chốc nữa, nàng mở chăn ra chui hẳn sang, lay chàng, chàng vẫn nằm im không động. Nàng thuận tay lần xuống thám thính chỗ kín, bỗng ngừng ngay lại, dáng buồn thiu, rồi thiểu não lật chăn trở dậy; giây lát nghe có tiếng khóc. Chàng bàng hoàng cả người, không biết chui vào đâu cho hết thẹn, lại giận trời kia sao nỡ bắt người ta phải khuyết tật. Cô gái gọi con hầu thắp đèn lên. Nhìn thấy mặt nàng còn ngấn lệ, con hầu kinh ngạc có điều gì buồn. Nàng lắc đầu đáp:

- Ta tự thương phận mình bạc thôi!

Con hầu đứng trước giường, nhìn chằm chằm xuống mặt chàng. Nàng bảo:

- Hãy gọi anh ta dậy rồi bảo xéo đi!

Nghe mấy lời ấy chàng bội phần xấu hổ. Lại thêm lo đang giữa đêm hôm, tối tăm mù mịt chẳng biết đâu mà đi. Giữa lúc còn dùng dằng chưa quyết đi một người đàn bà đẩy cửa bước vào. Con hầu thưa:

- Cô Hoa đã về.

Chàng hé mắt nhìn trộm thì thấy bà này tuổi đã ngoại năm mươi, nhưng còn giữ được phong vận. Thấy cô gái chưa ngủ, bà liền hỏi duyên cớ. Nàng chưa kịp đáp thì lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi:

- Nằm cùng giường là ai đấy?

Con hầu trả lời thay:

- Lúc tối có một chàng trai trẻ đến đây xin ngủ nhờ.

Bà liền cười:

- Biết đâu Xảo Nương hôm nay vui vầy đuốc hoa cơ chứ!

Chợt thấy cô gái ngấn lệ chưa khô, bà kinh ngạc hỏi:

- Ðêm hợp cẩn mà lại buồn bã khóc lóc không phải cách; chẳng lẽ chàng rạ thô bạo lắm sao?

Nàng không đáp, mặt càng thêm âu sầu. Bà ta định kéo vạt áo để nhìn rõ chàng, vừa động đến áo thì phong thư rơi xuống giường. Nhặt lên xem bà bỗng sợ hãi nói:

- Chừng nét chữ của con gái tôi đây mà-

Mở ra đọc, bà than lên một tiếng chua xót. Cô gái hỏi nguồn cơn thì bà đáp:

- Ðây là thư của con Ba báo tin nhà, nói rằng chàng Ngô chồng nó đã mất, nó nay trơ trọi không nơi nương tựa. Chưa biết tính thế nào.

Cô gái tiếp:

- Ban nãy anh ta nói là chuyển giúp lá thư cho ai đó, may mà tôi chưa đuổi đi.

Bà già gọi chàng dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư. Chàng kể tình đầu. Bà bảo:

- Xa xôi làm phiền lặn lội đưa thư, nay biết lấy gì báo đáp!

Lại ngắm kỹ chàng rồi cười, hỏi:

- Vì sao lại làm trái Xảo Nươi

Chàng đáp:

- Chẳng biết mình có tội gì.

Bà quay sang hỏi cô gái. Nàng than rằng:

- Chỉ thương cho thân mình, sống đã vớ phải anh chồng lại cái, chết cũng lại nhà đứa bị thiến mà ăn nằm. Vì thế mà tủi thôi.

Bà già quay lại nhìn chàng nói:

- Thông minh linh lợi thế này, vốn là trống mà hoá ra lại là mái ư? Thôi thì khách nhà tôi, không thể làm phiền người khác mãi thế được.

Nói rồi dẫn chàng sang chái nhà phía Ðông, đưa tay sờ xuống khố mà khám nghiệm, rồi vừa cười vừa nói:

- Chẳng trách nào Xảo Nương khóc hết nước mắt cũng phải. Nhưng may vẫn còn chút cuống rễ. Còn có thể cố sức được.

Bèn khêu đèn, lục hết hòm rương, lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho chàng, bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động. Rồi đi ra.

Còn lại một mình chàng nằm nghĩ ngợi, không biết thuốc chữa chứng bệnh gì. Chừng khoảng canh năm tỉnh dậy, cảm thấy dưới rốn một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lùng như có vật gì treo ở khoảng dưới háng. Ðưa tay sờ thử, thì ra mình đã thành một gã đàn ông hẳn hoi. Trong lòng mừng đến thảng thốt, giống như vị thượng quan thình lình được trao chín vật báu.

Khi hừng đông lờ mờ ở chấn song thì bà già trở lại, đem bánh mới hấp vào buồng cho chàng, lại dặn hãy cứ ngồi yên, rồi khoá trái cửa lại, ra ngoài nói với Xảo Nương rằng:

- Anh chàng vất vả mang thư đến đây, hãy giữ lại đấy, gọi con Ba về, cho nó kết nghĩa chị em. Với lại, cũng phải đóng cửa để khỏi người ta buồn chán.

Nói rồi ra cửa mà đi.

Chàng quẩn quanh mãi đâm buồn, thỉnh thoảng lại đến gần khe cửa, y như con chim ngó trộm qua nan lồng. Trông xa thấy Xảo Nương cũng muốn gọi lại báo rõ sự tình, nhưng e thẹn ngập ngừng nên lại thôi. Mãi đến tối mịt bà già mới dẫn con gái trở về. Vừa đẩy cửa đã lên tiếng:

- Ðể sầu muộn giết mất lang quân rồi! Con Ba hãy vào mà bái tạ đi!

Cô gái gặp trên đường mấy bữa trước rụt rè bước vào, ngước nhìn chàng, e ấp vái chào. Bà mẹ bảo họ gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười:

- Gọi là chị em gái cũng được.

Rồi cùng kéo nhau ra gian giữa, ngồi quay quẩn quanh mâm rượu. Uống được vài chén, Xảo Nương hỏi đùa:

- Người hoạn thấy sắc cũng động lòng chứ?

Chàng đáp:

- Thì chân què vẫn nhớ đến giày; Mắt loà vẫn cứ loay hoay muốn nhìn mà!

Ai nấy cùng cười rộ. Xảo Nương lấy cớ Tam Nương vừa đi đường mệt nhọc, ép cô phải đi nghỉ. Bà mẹ quay sang Tam Nương, bảo cùng nằm chung với chàng. Tam Nương xấu hổ mặt đỏ bừng, không chịu đi. Bà mẹ bảo:

- Ðây là trượng phu mà cũng là cân quắc, còn có gì mà sợ?

Rồi giục hai người vào buồng, lại dặn riêng chàng:

- Trong thì làm rễ ngoài cứ vờ làm con ta cũng được.

Chàng mừng rỡ, nắm cánh tay nàng dắt lên giường. Như dao sắc mới mài lần đầu đem thử, khoái trá thế nào cũng có thể biết rõ. Trong lúc đầu gối tay ấp, hỏi nàng:

- Xảo Nương là người như thế nào?

Ðáp:

- Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số phận lại thường gập ghềnh trắc trở. Lấy phải cậu út nhà họ Mao, bị bệnh liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng nên hồn. Vì thề ẩn ức không vơi được, ôm hận mà chết.

Chàng thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói:

- Nói thật với chàng, thiếp chẳng phải ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi không có đôi mà mẹ con thiếp lại không có nhà, nên mượn tạm căn nhà này ở nhờ.

Chàng rất ngạc nhiên. Nàng nói:

- Ðừng ngại. Tuy là ma là hồ, nhưng không gây hoạ cho nhau đâu.

Từ đấy, hàng ngày họ thường cùng nhau chuyện trò, yến ẩm. Dẫu biết Xảo Nương chẳng phải là người mà lòng chàng vẫn quyắn luyến nhan sắc. Chỉ hận một nỗi muốn được hiến cho nàng mà không có dịp. Chàng vốn là người hoà nhã, lại giỏi yêu chiều pha trò, nên dần được Xảo Nương rất thươu

Một hôm, mẹ con họ Hoa có việc đi vắng, lại đóng cửa nhốt chàng ở trong buồng. Chàng tức bực, loanh quanh trong nhà mãi rồi đứng cách lần cửa gọi Xảo Nương. Xảo Nương bảo con hầu đem chìa khoá ra thử, mấy lượt thì cửa mở. Chàng ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo con hầu đi chỗ khác, chàng liền kéo nàng lên giường và nằm áp lại. Nàng đùa cợt, đưa tay sờ phía xuống dưới rốn mà bảo:

- Ðến là tiếc! Chỗ này lại khuyắt mất rồi!

Nói chưa dứt lời thì tay đã chạm phải vật gì, tày một nắm, hoảng hốt kêu lên:

- Sao trước lờ mờ có thấy gì đâu mà nay đã lớn vổng lên nhanh thế?

Chàng cười đáp:

- Trước xấu hổ vì phải sắm vai khách nên nó rụt lại. Nay bị phỉ báng quá không chịu nổi, nên nó làm con ếch giận dữ đấy thôi!

Bèn cùng nhau giao hoan. Xong xuôi nàng mới chợt nghĩ ra, tức tối nói:

- Thì ra nay mới biết đóng cửa là có duyên cớ. Hồi trước cả hai mẹ con lênh đênh không nơi nương náu, đã nhường nhà cho mà ở. Rồi Tam Nương theo học thêu thùa, cũng lại hết lòng bày vẽ, không giấu giếm tí gì. Thế mà nay lại sinh lòng đố kỵ thế đ giấu

Chàng phải lựa lời khuyên giải, lại lấy tình thực mà nói, nhưng Xảo Như vẫn hậm hực mãi. Chàng bảo:

- Giữ kín đấy nhé! Cô Hoa dặn tôi nghiêm lắm.

Nói chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào. Hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi:

- Ai mở cửa?

Xảo Nương cười chặn lời, tự nhận mình mở cửa. Hoa Cô càng giận, quát mắng mãi không thôi. Xảo Nương vẫn cười mỉa, đáp:

- Mẹ này mới thật nực cười chứ! Ðã là trượng phu mà cũng cân quắc thì còn làm được gì nữa?

Tam Nương thấy mẹ mình và Xảo Nương ra sức khích bác lẫn nhau, trong lòng không yên, bàn đứng ra can ngăn, cả hai mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt, nhưng xem từ đấy đã muốn nhún mình thờ Tam Nương làm chị. Chỉ hiềm Hoa Cô ngày đêm canh phòng ráo riết, nên đôi tình nhân không thể tự do thổ lộ, chỉ biết đầu mày cuối mắt đưa tình mà thô xem

Một hôm Hoa Cô bảo chàng rằng:

- Cả hai chị em chúng nó đều đã hầu hạ anh. Nhưng nghĩ lại, sống ở đây không phải là kế lâu dài. Vậy anh nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện đính ước trăm năm thì hơn.

Liền đấy, bà sắm sửa hành trang, giục chàng lên đường. Hai cô gái nhìn chàng, mặt mày ủ rũ, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, lệ ròng ròng như châu sa, không lúc nào dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi dẫn chàng ra đi. Vừa ra khỏi cửa thì lầu viện đã biến đâu mất, chỉ còn thấy một ngôi mộ hoang.

Hoa Cô tiễn chàng lên tận thuyền, nói:

- Sau khi anh đi, già này cũng sẽ dắt hai con gái đến trú ngụ ở quý ấp. Nếu không quên ước cũ thì xin đợi nhau trong đám vườn hoang nhà họ Lý để làm lễ nghênh hô ngụ

Chàng bàn trở về quê.

Bấy giờ, ông già họ Phó đã tìm kiếm con trai hết cách. Ðang giữa lúc lòng lo như lửa đốt thì bỗng thấy con về, mừng rỡ ngoài tưởng tượng. Chàng kể lại vắn tắt đầu đuôi, nhân nói cả việc đính ước của họ Hoa. Cha bảo:

- Lời nói của yêu quái sao đủ để tin. Mày sở dĩ còn toàn mạng trở về cũng chỉ vì bị tật nguyền chứ không thì đã chết rồi.

Chàng đáp:

- Ðám đó tuy khác loài nhưng tình cũng như người; huống nữa, lại thông minh, xinh đẹp, có lấy làm vợ cũng chẳng sợ họ hàng làng xóm chê cười.

Cha không nói gì, chỉ cười nhạt. Chàng bèn lui ra. Nhưng rồi vì ngứa nghề, không đành phận, bèn tư thông với con hầu. Dần dần giữa ban ngày cũng công khai giở trò dâm dật, có muốn làm cho câu chuyện kinh động đến tai cha mẹ. Một hôm, con hầu nhỏ lén nhìn thấy, chạy đi báo với bà cụ. Bà cụ không tin, đến gần xem, bấy giờ mới đâm hoảng. Cho gọi con hầu đến hỏi, liền biết rõ sự thật. Mừng quá sức, gặp ai cũng nói toạc ra, để chứng tỏ con mình không có tật; rắp tính chuyện hôn nhân với nhà thế gia. Chàng nói riê muốn là

- Không phải nhà họ Hoa thì không lấy đâu.

Mẹ nói:

- Trên đời thiếu gì gái đẹp, hà tất phải là quỷ với yêu.

Chàng đáp:

- Con ví không có Hoa Cô thì đâu biết mùi đời. Bội bạc người ta chẳng phải là điều hay.

Ông lão họ Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già đến nơi xem xét. Ra khỏi thành Ðông chừng bốn năm dặm thì tìm được thửa vườn hoang nhà họ Lý. Nhác thấy một làn khói bốc lên nghi ngút giữa một khóm trúc bên bức tường thấp đã đổ nát, bà vú bàn xuống xe, rảo thẳng đến cửa, thì bắt gặp mẹ con đang lau ghế cọ nhà, như có chờ đợi. Bà vú vái chào, thưa rõ lời chủ dặn. Nhìn thấy Tam Nương, bà họ L. Nhá họ

- Ðây chính là vợ của tiểu chủ tôi sao? Tôi vừa thấy đã phải thương, không trách công tử cứ mê mẩn như người mất hồn.

Rồi hỏi luôn đến cô chị. Hoa Cô than thở mà rằng:

- Ðó là con gái nuôi của tôi. Ba hôm trước cháu bỗng bị bạo bệnh, tạ thế mất rồi.

Nhân đó, đem rượu thịt ra thết đãi bà vú và người tớ trai. Bà vú trở về thuật rõ dung mạo, cử chỉ của Tam Nương. Cả ông bà đều vui mừng. Sau cùng mới nói đến tin Xảo Nương mất. Chàng nghe đau đớn muốn trào nước mắt. Ðến đêm nghênh hôn, gặp mặt Hoa Cô, tự mình hỏi lại. Hoa Cô đáp:

- Ðã đầu thai ở đất Bắc rồi.

Chàng than thở giây lâu. Ðón Tam Nương về rồi mà rốt cuộc vẫn không dứt tình được với Xảo Nương. Hễ nghe có người nào ở kẻ Quỳnh mới đắn đếu cho gọi đến hỏi chuyện. Có người cho biết dưới mộ cô gái họ Tần đêm đêm vẫn nghe tiếng quỷ khóc. Chàng ngờ có sự lạ, vào bảo với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm một lúc lâu rồi khóc mà nói:

- Em phụ chị rồi!

Gạn hỏi lại thì đáp rằng:

- Thú thực lúc mẹ con thiếp ra đi, không nói cho chị ấy biết. Tiếng gào oán đó chẳng phải của chị ấy thì còn ai nữa? Trước đã định bảo thật cho nhau, nhưng lại sợ phơi bày tội lỗi của mẹ.

Chàng nghe đoạn đổi buồn thành vui, lập tức cho sắm sửa xe cộ, ngày đêm vượt đường đi gấp; ruổi đến trước mộ nàng, gõ vào tấm mộc chủ cắm ở mộ mà gọi to lên:

- Xảo Nương! Xảo Nương! Anh ở đây!

Giây lát thấy cô gái ẵm một đứa trẻ từ trong mồ chui ra, đau đớn ngước đầu lên, mắt nhìn ai oán không dứt. Chàng cũng ngậm ngùi rơi lệ. Sờ vào đứa bé trong lòng hỏi con ai. Xảo Nương đáp:

- Ðây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại. Sinh được ba tháng rồi.

Chàng nói:

- Trót nhầm nghe lời Cô Hoa khiến mẹ con phải chôn chặt mối hờn ở dưới lòng đất. Tội thật không tha thứ được.

Rồi cùng nhau dắt díu lên xe, băng vời vượt biển mà về. Ôm con vào trình mẹ. Mẹ nhìn thấy đứa bé mặt mũi khôi ngô, thân thể khoẻ manh, không giống với loài yêu ma, càng thêm mừng rỡ. Hai cô gái sống hoà thuận, thờ bố mẹ chồng rất có hiếu. Về sau, ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc đến, Xảo Nương bảo:

- Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác.

Nàng đôn đốc sắm đồ tang liệm, xong đâu đấy thì ông mất.



Ðứa bé lớn lên giống cha, phần thông tuệ còn trội hơn. Mười bốn tuổi đã vào học nhà phán.



Ông già cở Cao Bưu, hiệu Tử Hà, từng làm khách đất Quảng,nghe được chuyện này.Chỉ có tên làng xóm thì nhớ không chính xác, và chung cục câu chuyện ra sao cũng không được rõ.

Bộ Da Vẽ

Ngọc Toại dịch

Thư sinh họ Vương, quê ở Thái Nguyên,một hôm đi sớm, gặp một người con gái ôm bọc quần áo, bôn ba một mình, chân bước ra dáng khó nhọc Vương vội đi vượt lên, nhìn kỹ thì ra một cô gái tuổi chừng đôi tám, nhan sắc tuyệt vời. Bụng yêu thích lắm, liền hỏi:

- Sao mới sớm hôm mà đã đi lẻ loi một mình thế?

Cô gái đáp:

- Là khách qua đường, hiểu sao được nỗi lo buồn của người khác. Hỏi nhau làm gì cho mệt?

Chàng hỏi lại:

- Nàng có nỗi buồn lo gì vậy? Nắu có thể gắng giúp được, tôi sẽ không từ.

Cô gái ủ dột đáp:

- Bố mẹ tham tiền, bán thiếp cho một nhà giàu sang. Người vợ cả rất hay ghen, sớm chiều đánh mắng nhục nhã, không thể chịu nổi nên phải trốn đi.

Hỏi:

- Ði đâu bây giờ?

Ðáp:

- Người đã đi trốn, lại có nơi nào định trước được?

Chàng nói:

- Tệ xá không xa, xin mời nàng quá bước lại đó.

Cô gái mừng lắm, theo chàng. Chàng mang hộ bọc quần áo, đưa nàng về cùng.

Cô gái thấy nhà không có người bèn hỏi:

- Tại sao chàng không có người nhà?

Chàng đáp:

- Ðây chỉ là thư trai thôi.

Cô gái nói:

- Nơi này tốt lắm. Chàng như có bụng thương mà cứu sống thiếp thì xin bí mật, chớ để lọt ra ngoài.

Chàng bằng lòng. Liền cùng nàng chung chạ. Dấu diếm trong buồng kín, qua mấy ngày cũng không ai hay.

Chàng nói hé với vợ. Vợ họ Trần, ngờ rằng đó là nàng hầu vợ bé của nhà đại gia nào, khuyên chồng để cho cô ta đi. Chàng không nghe. Tình cờ một hôm đi qua chợ, gặp một đạo sĩ, nhìn chàng kinh ngạc, hỏi có gặp ai lạ không.

Chàng đáp:

- Không.

Ðạo sĩ nói:

- Người anh đầy tà khí, sao lại nói là không?

Chàng lại cố chối. Ðạo sĩ liền bỏ đi và nói:

- Mê muội thay! Ðời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà còn chưa tỉnh!

Chàng thấy lời nói lạ nên cũng hơi ngờ người con gái, nhưng lại nghĩ cô gái đẹp sờ sờ ra đấy, sao đến nỗi là yêu quái được; cho đạo sĩ là kẻ mượn tiếng yểm tà để lấy miếng ăợc;

Một lát sau về đến nhà học. Cổng trong đóng chặt, không thể vào được, trong bụng đã ngờ có sự gì, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào, thì cửa buồng cũng đóng. Chàng rón rén đến trước cửa số nhìn, thấy một con quỷ nanh ác, mặt xanh lét, răng chơm chởm như răng cưa, đang giãi một tấm da người lên trên giường, lấy bút màu vẽ lên trên. Vẽ xong, ném bút, nhấc tấm da như thể nâng tấm áo, khoát lên người, lập tức hoá ra một cô gái.

Trông thấy tình trạng đó, chàng sợ quá, bò rạp trên mặt đất mà lẻn ra. Vội đi tìm đạo sĩ thì đã không biết là đi đâu. Tìm kiếm khắp nơi, mới gặp ngoài đồng, liền quỳ xuống xin cứu mạng. Ðạo sĩ nói:

- Sẽ xin trừ giúp. Con quỷ đó cũng khốn khổ lắm mới tìm được người thay nó, ta cũng không nỡ hại tính mạng nó.

Liền lấy chiếc phất trần đưa cho chàng, dặn treo ỏ cửa buồng ngủ. Lúc sắp đi, hẹn gặp lại ở miễu Thanh Ðế.

Chàng trở về không dám tới nhà học, đành ngủ ở buồng vợ, treo phất trần lên. Vào khoảng canh một, nghe ngoài cửa có tiếng lách cách, tự mình không dám dậy nhòm, phải bảo vợ nhòm xem. Chỉ thấy cô gái đi đến, nhìn lên phất trần không dám bước nữa; đứng đó mà nghiến răng, một lúc lâu mới đi. Lát sau lại đến mắng rằng:

- Ðạo sĩ chỉ doạ ta nhưng đâu có được! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra sao?

Liền lấy phất trần bẻ nát, rồi phá cửa buồng ngủ bước vào, nhảy lên giường của chàng, xé bụng chàng, moi lấy quả tim rồi đi.

Vợ chàng kêu thét lên. Con hầu vào soi đèn thì chàng đã chết, trên khoang bụng máu me bê bết. Trần thị rất sợ, chỉ khóc, không dám kêu. Hôm sau nàng cho em chồng là chàng Hai chạy đi nói với đạo sĩ. Ðạo sĩ tức giận nói:

- Ta đã thương tình, ngờ đâu con quái này lại dám to gan đến thế!

Lập tức theo người em chàng về thì cô gái đã biến mất.

Bàn ngẩng đầu, nhìn bốn phía nói:

- May nó trốn chưa xa.

Lại hỏi:

- Phía Nam là nhà ai?

Chàng Hai đáp:

- Ðó là nhà của tiểu sinh.

Ðạo sĩ nói:

- Hiện nó ở nhà anh.

Chàng Hai ngạc nhiên, cho rằng không có. Ðạo sĩ hỏi:

- Có người lạ nào mới đến không?

Chàng Hai đáp:

- Tôi đến miễu Thanh Ðế, quả thực không biết, để về nhà hỏi xem.

Ði một lát, trở về nói:

- Quả có thật, sáng nay có một mụ già đến, xin làm mướn cho nhà tôi, vợ tôi giữ lại, mụ vẫn còn đó.

Ðạo sĩ nói:

- Chính là nó đấy.

Liền cùng đi sang, cầm kiếm gỗ đứng ở giữa sân thét:

- Yêu nghiệt, đền ta phất trần đạy!.

Mụ già ở trong nhà hốt hoảng, tái mặt, ra cửa toan chạy. Ðạo sĩ đuổi theo đâm mụ, mụ ta ngã xuống, tấm da người tuột ra, hoá thành một con quỷ dữ, nằm kêu rống lên như lợn. Ðạo sĩ lấy kiếm gỗ chém, bêu đầu lên; thân nó biến thành đám khói dày đặc, xoáy tròn trên mặt đất, thành một đám dày. Ðạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút để vào giữa đám khói, kêu vù vù như mồm hút hơi, một lát khói hết, đạo sĩ nút hồ lô lại, bỏ vào đãy. Mọi người nhìn tấm da, lông mày, con mắt, chân tay không thiếu gì cả. Ðạo sĩ cuộn lại, tiếng kêu như cuộn trục tranh, cũng bỏ vào trong đãy, rồi từ biệt toan đi. Trần thị đón vái trước cửa, khóc xin làm phép hồi sinh cho chồng. Ðạo sĩ từ chối, không thể làm được. Trần thị càng thảm thiết, quỳ rạp trên đất không dậy. Ðạo sĩ nghĩ ngợi rồi nói:

- Phép thuật của ta còn nông cạn, thực không thể làm ngươi chết sống lại được. Ta trỏ giúp một người, may ra có thể làm điều đó. Ðến cầu xin tất là có kết quả.

Hỏi người nào? Ðáp:

- Trong chợ có một người điên, thường nằm trên đống phân, thử đến mà kêu xin với ông ta xem. Nhưng dù có buông tuồng làm nhục phu nhân, phu nhân cũng chớ có tức giận.

Chàng Hai cũng đã biết người điên đó, bèn từ biệt đạo sĩ, rồi cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày rồi dại ca hát trên đường, mũi dãi lòng thòng, bẩn thỉu quá không thể gần được. Trần thị lết đầu gối đến trước mặt. Người ăn mày cười, nói:

- Người đẹp yêu ta chăng?

Trần thị kể nguyên do, thì lại cười lớn, nói:

- Ai cũng là chồng được cả, làm sống lại làm gì?

Trần thị cố kêu van. Bàn nói:

- Kỳ thay, người chết mà lại nhờ ta làm sống lại được; ta là Diêm Vương hay sao?

Tức giận lấy gậy đánh Trần thị. Trần thị nhẫn nhục cố chịu đau. Người trong chợ dần dần đổ đến xem chật như bức tường. Người ăn mày khạc đờm ra đầy bàn tay, đưa tới trước Trần thị nói: Ăn đi! Trần thị đỏ bừng mặt, có vẻ ái ngại. Lại nghĩ đến lời đạo sĩ dặn liền cố liều nuốt.

Thấy bãi đờm trong cổ họng, cứng như túm lông, cố nuốt thì nghèn nghẹn mà trôi xuống, rồi dừng lại ở quãng ngực. Người hành khất cười lớn nói:

- Người đẹp quả yêu ta thay!

Liền đứng dậy đi, chẳng ngoảnh lại nữa. Bước theo sau, thấy vào trong miễu. Cố đuổi kịp để kêu nài nữa, thì không biết đã đi đâu mất. Tìm trước, tìm sau không thấy tăm hơi đâu cả, vừa thẹn vừa giận mà trở về. Ðã thương chồng chết thảm, lại hối vì nỗi nhục ăn bãi đờm, nàng ôm mặt ngồi khóc, chỉ muốn chết ngay. Ðương toan gạt máu liệm thây chồng, người nhà cứ đứng nhìn, không ai dám đến gần; Trần thị ôm lấy thây chồng, nhặt mớ ruột, vừa xếp lại vừa khóc. Khóc đắn lúc khản cả tiếng, bỗng buồn nôn, thấy cái vật kết trong ngực trôi tuột ra, chưa kịp quay đầu lại, nó đã rơi vào trong ngực người chết.

Kinh hãi nhìn kỹ thì ra đó là quả tim người, vẫn đang nhảy thon thót trong ngực, hơi nóng bốc lên như khói. Lấy làm lạ, vội đưa hai tay khép bụng chồng lại, hết sức giữ chặt lấy, hơi nới tay thì khí nóng từ khoang bụng lại toả ra; mới xé lụa vội buộc chặt lại. Sờ tay vào thây chồng, dần dần ấm lại, bàn lấy chăn đắp lên. Nửa đêm mở ra xem, thấy mũi có hơi thở. Ðến sáng thì sống lại hẳn. Chồng kể lại: Hoảng hốt như nằm mơ, chỉ thấy bụng còn đau lâm râm. Xem chỗ bị xé rách, thấy đóng vẩy to bằng đồng tiền, sau dần dần khỏi.

Bành Hải Thu

Phạm Tú Châu dịch

>Nho sinh ở Lai Châu, là Bành Hiếu Cồ, học ở cơ ngơi khác cách nhà khá xa. Trung thu không về kịp, một mình hiu quạnh, nghĩ trong thôn chẳng có ai trò chuyện được. Chỉ có chàng thư sinh họ Khâu là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tật kín, Bành thường khinh bỉ.

Trăng lên, càng thấy buồn tênh, cực chẳng đã đành viết thiếp mời Khâu. Rượu nửa chừng, có một người gõ cửa lạch cạch, tiểu đồng chạy ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành đứng lên cung kính mời khách vào. Vái chào xong, cùng ngồi quanh chiếu rượu, hỏi họ hàng quê quán, khách đáp:

- Tiểu sinh người Quảng Lăng, cùng họ với ngài, tên chữ là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng buồn khổ. Nghe tiếng ngài là bậc cao nhã, bàn đường đột yết kiến.

Nhìn xem, người ấy áo vải mà sạch sẽ chỉnh tề, nói cười phong lưu. Bành mừng lắm nói:

- Vậy ra là người đồng tông với tôi. Ðêm nay là cái đêm gì mà gặp được khách quý thế nàch

Liền sai rót rượu, khoản đãi như bạn thân từ trước. Xem , khách dường như cũng rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện, thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu, bàn đánh lảng câu chuyện, xin hát trước một khúc dân ca cho vui. Rồi ngửa mặt dặng hắng lần nữa, hát khúc Hào Sĩ Phù Phong, cùng nhau vui cước.

Khách nói:

- Tiểu sinh không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc dương xuân của ngài. Xin nhờ người hát thay được chăng?

Bành đáp:

- Xin vâng.

Khách hỏi:

- Ở thành Lai Châu này có danh kỹ nào không?

Bành trả lời:

- Không có.

Khách nín lặng hồi lâu rồi bảo tiểu đồng:

- Ta vừa gọi một người đến ở ngoài cửa, hãy ra dẫn vào đây!

Tiểu đồng đi ra, quả thấy một cô gái đang loanh quanh ngoài cửa. Nàng khoảng đôi tám, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. Cô gái mặc áo màu lá liễu, choàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn bên.

Khách an ủi:

- Lặn lội ngàn dặm tới đây, thật phiền nàng quá!

Cô gái mỉm cười vâng dạ. Bành lấy làm lạ, gạn hỏi, khách đáp:

- Quê quán khổ nỗi không có giai nhân, tiểu nhân vừa phải gọi cô này trên thuyền ở Tây Hồ đến đâ-

Ðoạn bảo nàng:

- Khúc Chàng Bạc Tình cô vừa hát ở trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa.

Cô gái hát rằng:





Chàng bạc tình,

Tắm ngựa ao xuân nọ,

Tiếng người xa,

Tiếng ngựa bỏ.

Trời sông cao,

Trăng núi nhỏ,

Ngoảnh đầu đi không về,

Trong sân trời rạng tỏ.

Chẳng oán xa nhau nhiều,

Sầu hội vui ít có,

Ngủ nơi nao?

Ðừng như bông theo gió.

Cho dù chẳng phong hầu,

Chớ về Lâm Cùng đó!



Khách lấy cây sáo ngọc dắt trong tất ra hoà theo tiếng hát, hết khúc thì sáo cũng dừng.



Bành sửng sốt khen mãi không thôi, rồi hỏi:

- Từ Tây Hồ đến đây đâu chỉ ngàn dặm? Thế mà trong phút chốc vời đến được, chẳng là tiên hay sao?

Khách đáp:

- Ðâu dám nói đến tiên, nhưng có thể coi muôn dặm gần như ngoài cửa. Ðêm nay trăng gió trên Tây Hồ đẹp hơn mọi khi nhiều, không lẽ không đến xem một chuyến? Ngài theo chơi được chăng?

Bành đang để tâm xem sự lạ liền nhận lời đáp:

- Rất hân hạnh.

Khách hỏi:

- Ngài đi thuyền hay cưỡi ngựa?

Bành nghĩ ngồi thuyền nhàn nhã hơn bàn nói:

- Xin cho đi thuyền.

Khách bảo:

- Nơi đây gọi thuyền hơi xa, trên sông Ngân hẳn có người chở đò.

Bàn giơ tay vẫy lên không, gọi:

- Thuyền ơi! thuyền xuống đây! Bọn tôi muốn đến Tây Hồ, không sẳn tiền thưởng đâu.

Lát sau, một chiếc thuyền hoa từ trên không lướt xuống, khói mây quấn quýt. Họ cùng lên thuyền. Thấy một người cầm bơi chèo ngắn, đoạn cuối gài kín lông chim dài, hình dáng như cái quạt lông, phẩy một cái là gió mất vi vu. Thuyền dần dần lên tít mây xanh, nhằm hướng Nam lướt tới, vùn vụt như têy

Khoảnh khắc thuyền đã hạ xuống nước. Chỉ nghe sáo đàn rộn rã, chiêng trống vang lừng. Ra khỏi khoang nhìn, trăng in khói sóng, thuyền chơi họp chợ, người lái buông chèo, mặc thuyền tự trôi. Nhìn kỹ, quả là Tây Hồ thật.

Khách lấy ra từ sau khoang món nhắm lạ và rượu ngon, vui vẻ đối ẩm. Lát sau, một chiếc thuyền lầu tới gần rồi đi sát ngay bên cạnh. Nhòm qua song cửa thấy trong thuyền có hai người đang cười rộ bên bàn cờ.

Khách đưa chén rượu mời cô gái, nói:

- Cạn chén, rồi đưa cô về.

Trong lúc cô gái nâng chén, Bành bịn rịn bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bàn lấy chân bấm khẽ. Nàng đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.

Cô gái nói:

- Nếu chàng có lòng thương, cứ hỏi tên Quyên Nương là ai cũng biết.

Khách lấy ngay khăn lụa của bành trao cho nàng, bảo:

- Tôi thay ông ấy đính ước lời hẹn ba năm sau.

Ðoạn khách đứng lên, đặt cô gái trên lòng bàn tay nói:

- Tiên chăng! tiên chăng!

Rồi kéo cửa sổ thuyền bên, bỏ cô gái sang. Mắt cửa chỉ bằng cái đĩa nàng ép mình trườn vào, không cảm thấy bị chật hẹp chút nào. Lát sau nghe thuyền bên có tiếng nói:

- Quyên Nương tỉnh rồi!

Tức thì thuyền ấy chèo đi ngay. Xa trông thuyền nọ đã ghé bến, người dưới thuyền kéo cả lên bờ, Bành bỗng mất hứng chơi, bèn nói với khách muốn lên bờ cùng xem qua đây đó. Vừa mới thương lượng, thuyền đã tự cập bờ, nhân đó bỏ thuyền lên bộ dạo quanh chừng hơn một dặm. Khách đến sau, dắt một con ngựa, bảo Bành giữ lấy. Rồi khách lại đi ngay, dặn rằng:

- Ðợi tôi mượn thêm hai con ngựa nữa.

Mãi không thấy khách đến, đường đã vắng người, ngìng trông trăng đã xế về Tây, trời đã sắp rạng. Khâu cũng không biết đi đường nào. Bành dắt con ngựa tới lui, không biết nên đi hay ở. Khi giong cương cho ngựa tới nơi đậu thuyền thì cả người lẫn thuyền đều chẳng thấy đâu. Bành nghĩ lưng túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời đã sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một túi nhỏ, thò tay xem, được ba bốn lạng bạc, bàn mua thức ăn rồi cứ đợi, bất giác gần trưa. Bành tính chi bằng hỏi thăm Quyên Nương dần dà sẽ hỏi được tin Khâu nhưng khi hỏi đến tên Quyên Nương thì chẳng một ai biết cả. Bành cụt hứng buồn tênh, hôm sau lên đường. Ngựa chạy tốt, may không liệt nhược, nửa tháng về tới nhà.

Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, tiểu đồng về báo:

- Ông chủ đã lên tiên rồi!

Cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng không về nữa. Bành về tới nhà, buộc ngựa bước vào, người nhà sửng sốt mừng rỡ, xúm lại hỏi han, bấy giờ Bành mới kể hết những sự lạ. Nhân nghĩ chỉ một mình về quê quán, e bên nhà Khâu nghe tin sẽ đến gạn hỏi, bàn răn người nhà chớ nói rộng ra. Trong lúc chuyện trò, Bành kể đến lai lịch con ngựa. Mọi người nghe nói của tiên cho bàn kéo cả ra chuồng xem. Tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy chàng Khâu bị buộc cạnh chuồng ngựa bằng giây cương cỏ. Ai nấy kinh hãi quá sức, gọi Bành đến xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt mày xám ngắt, hỏi không nói, duy hai mắt lúc nhắm lúc mở mà thôi. Bành thấy bất nhẫn quá,sai người cởi giây cương vực lên giường.

Khâu như người mất hồn, đổ nước cháo nóng cho, nuốt được chút ít, giữa đêm hơi tỉnh vội đòi ra nhà tiêu. Xốc nách nách đưa đi. Khâu xón ra được mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống tí chút, bấy giờ mới nói được, Bành đến bên giường hỏi han, Khâu kể:

- Sau khi rời thuyền, hắn dẫn tôi đi nói chuyện phiếm. Ðến chỗ vắng, hắn vỗ đùa vào gáy, tôi liền mê mẩn ngã lăn ra. Nằm phục giây lát, nhìn lại thấy mình đã hoá ngựa. Tâm trí vẫn tỉnh táo nhưng không nói được. Thật là chuyện vô cùng nhục nhã, không sao nói với vợ con được. Xin bác chớ tiết lộ.

Bành nhận lời, sai người hầu thắng ngựa đưa Khâu về.

Từ đấy Bành không sao quyên được Quyên Nương. Ba năm sau, vì có người anh rể làm chức quan Phán ở Dương Châu, Bành nhân đến thăm. Châu này có Lương công tử là chỗ thân quen với Bành, mở tiệc mời chàng đến uống rượu. Trong tiệc có mấy đào hát đều đến vái chào. Công tử hỏi đến Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm.



Công tử giận dữ nói:

- Con tiện tỳ cao ngạo thanh giá, hãy mang thừng trói đem đến đây!

Bành nghe đến tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai. Công tử đáp:

- Nó là con hát số một ở Quảng Lăng. Cậy có chút tiếng tăm mới dám kiêu căng vô lễ.

Bành ngờ tên họ ngẫu nhiên trùng nhau, nhưng lòng vẫn xúc động hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Lát sau, Quyên Nương đến, công tử hầm hầm kể tội.



Bành nhìn kỹ, quả là người đã gặp trong tiết trung thu, bèn thưa với công tử:

- Cô này là chỗ tôi quen biết cũ, mong ông tha thứ

Quyên Nương đưa mắt ngắm Bành, dường như cũng ngạc nhiên.



Công tử chưa vội hỏi kỹ đã sai người mời rượu. Bành hỏi:

- Khúc Chàng Bạc Tình nàng còn nhớ chăng?

Quyên Nương càng kinh hãi, chăm chú nhìn Bành rồi mới hát khúc xưa. Lắng nghe, đúng là tiếng hát đêm trung thu năm ấy.

Rượu tàn, công tử sai nàng chăn gối hầu khách. Bành nắm lấy tay nàng hỏi:

- Lời hẹn ba năm hôm nay mới thực hiện được chăng?

Quyên Nương đáp:

- Năm xưa theo người đi chơi thuyền Tây Hồ, em uống chưa được mấy chén đã như say. Trong lúc choáng váng bị một người nhấc đem đến một thôn nọ. Một tiểu đồng dẫn em vào nhà trên chiếu rượu có ba người, chàng là một trong số đó. Sau lại đi thuyền đến Tây Hồ , người ta mới đưa em về thuyền cũ qua mắt cửa sổ. Mỗi khi nhớ lại lúc cầm tay ân cần, cứ bảo là mộng ảo. Nhưng khăn lụa còn đây, em vẫn gói kỹ cất đi.

Bành kể nguyên do rồi cùng nhau than thở. Quyên Nương ngả mình vào lòng Bành, nức nở nói:

- Tiên đã làm mối, xin chàng đừng cho em là kẻ phong trần đáng vứt bỏ mà thôi không nghĩ đến người đang ở trong bể khổ này.

Bành đáp:

- Lời hẹn trên thuyền chưa ngày nào tôi lãng quên. Nếu nàng có đó, dù có phải dốc túi bán ngựa, tôi cũng khô
š

Sáng hôm sau, thưa chuyện với công tử, lại vay mượn quan Biệt giá ngàn vàng, xoá sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ đến cơ ngơi nọ, nàng vẫn nhận ra nơi uống rượu năm nào.

Hồng Ngọc

Ðỗ Ngọc Toại dịch

Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.

Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:

- Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.

Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:

- Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.

Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:

- Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:

- Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.

Chàng nói:

- Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.

Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:

- Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.

Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:

- Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.

Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:

- Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.

Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.

Chàng bàn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng.

Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết , bàn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:

- Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi

Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:

- Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.

Ông cụ cũng mừng.

Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.

Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.

Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:

- Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?

Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:

- Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.

Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:

- Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà làm chàng Chữ Cu được chăng?

Khách nói:

- Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.

Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:

- Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.

Rồi đi liền.

Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn.

Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:

- Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?

Quan lệnh nói:

- Không giết người sao lại đào tẩu?

Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

- Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?

Quan lệnh nói:

- Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?

Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cung không xưng nhận điều gì.

Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bàn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.

Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo,một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, sut nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bàn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:

- Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?

Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:

- Mày quên bố mày rồi ư?

Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:

- Sao con lại về đây được?

Cô gái nói:

- Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.

Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:

- Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.

Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:

- Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?

Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:
- Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.
Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.
Một hôm chàng nói:
- Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?
Hỏi là việc gì, chàng đáp:
- Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?
Cô gái cười nói:
- Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?
Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.
 Bồ Tùng Linh
Cao Xuân Huy dịch
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tưởng chừng như

Tưởng chừng như (Nói với Gaston,  15.Dec.2013-15.Dec.2020) Đập cổ kính ra tìm lấy bóng Xếp tàn y lại để dành hơi (Khóc Bằng Phi, Vua Tự Đứ...