Liêu trai chí dị 3
Không đề
Cao Xuân Huy dịch
Tôn Tử Sở người Việt Tây là một danh sĩ, sinh ra có một ngón
tay chẽ, lại có tính vẩn vơ, lẩn thẩn, ai nói dối điều gì cũng tin là thật, hoặc
khi gặp đám tiệc mà có ca nhi kỹ nữ thì từ xa nhác thấy đã bỏ chay. Có người thấy
vậy, dụ chàng đến nhà, cho kỹ nữ đến ôm ấp để bỡn chàng chơi thì mặt đỏ đến tận
cổ, mồ hôi chảy xuống thành giọt. Họ nhân đó cười với nhau, rồi xa gần chuyền
nhau vẽ vời cái trạng mạo ngây ngô của chàng để làm một trò cười, lại đặt cho
chàng cái tên Tôn khờ.
Trong huyện có ông nọ là nhà buôn lớn, giàu lướt cả vương hầu, thông gia họ mạc
đều là dòng dõi quý phái. Ông cụ có một con gái tên là A Bảo, là người tuyệt sắc.
Ðến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm,
nhưng không ai vừa ông cả. Chàng Tôn bấy giờ vừa goá vợ, có người đùa nên cậy mối
đến hỏi. Chàng không biết phận, quả nhiên nghe theo lời khuyên. Ông cụ vốn biết
tiếng chàng nhưng chê nghèo. Khi mụ mối vừa ở chỗ ông đi ra thì gặp A Bảo, hỏi
đi đâu, mụ nói thật. Cô gái nói bỡn rằng:
- Nếu chàng ta bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay.
Mụ về kể lại với chàng. Chàng nói:
- Cái đó thì khó gì.
Mụ đi rồi, chàng lấy búa chặt ngón tay chẽ, đau thấu ruột, máu phụt ra chảy
lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, sang nhà mụ mối chìa tay xem.
Mụ thất kinh, chạy sang nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng lại nói bỡn
rằng còn phải bỏ cái ngây đi nữa. Mụ về nói lại, chàng cãi ầm lên, bảo nào tôi
có ngây đâu! Nhưng cũng không có cớ gì gặp mặt để tự giãi bày. Dần dà bàn chuyện
, nghĩ rằng cô nàng Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên sao dám tự đánh giá mình quá
cao như vậy? Từ đó lòng chàng nguội hết mộng tưởng trước.
Vừa gặp tiết Thanh Minh, lệ thường cứ đến ngày ấy phụ nữ đi chơi, những thiều
niên khinh bạc cũng kết thành từng đội đi theo, tha hồ bình phẩm. Mấy người bạn
làng văn đến rủ chàng, bắt đi cho được. Có người lại nói đùa rằng:
- Lại không muốn xem mặt người mình ưng hay sao?
Chàng cũng biết hắn nói bỡn mình, nhưng vì đã bị cô gái hợm hĩnh đùa cợt nhiều
phen, nên cũng muốn nhìn mặt một lần xem sao, bèn vui vẻ nhập bọn đi tìm.
Thấy đằng xa có một cô gái đang nghỉ dưới gốc cây, những cậu trai mất nết vây
quanh như bức tường. Cả bọn nói:
- Chắc là cô nàng Bảo đấy rồi.
Chàng rảo bước đến xem thì quả là Bảo. Nhìn kỹ, thì thấy vẻ xinh đẹp yểu điệu
có một không hai. Một lát, người xem lại càng xúm đông. Cô gái vội đứng dậy bỏ
đi. Mọi người đều nhộn nhạo bàn tán, kẻ khen cái đầu, người tán cái chân, nhao
nhao cả lên như một lũ điên. Chỉ riêng chàng là đứng lặng lẽ. Ðến lúc cả bọn đã
tản đi nơi khác, ngoái lại, vẫn trông thấy chàng vẫn đứng ngây ra ở chỗ cũ, gọi
chẳng thưa, chẳng rằng. Họ bàn kéo nhau đi, nói:
- Hồn theo A Bảo rồi ư?
Cũng không đáp. Biết tính chàng vốn lẩn thẩn, nên họ cũng không thấy làm lạ,
người thì đẩy, người thì kéo, dẫn về.
Ðến nhà thì lên ngay giường nằm, suốt ngày không dậy, li bì như người say rượu,
gọi mấy cũng không tỉnh. Người nhà nghi là mất hồn, đi gọi hồn ở ngoài đồng,
nhưng cũng vô hiệu. Lay người thật mạnh để hỏi thì ú ớ nói rằng: Tôi ở góc nhà
cô Bảo.
Hỏi kỹ lại thì lại làm thinh không nói nữa. Người nhà hoang mang không biết ra
sao.
Nguyên hôm ấy, khi chàng thấy cô gái đứng dậy, bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, bỗng
cảm thấy mình đã bén gót đi theo rồi; dần dần đi sát vào cạnh tà áo, đai lưng,
cũng không ai la mắng gì cả. Cứ như thế, theo mãi cô ta về nhà, khi ngồi khi nằm
đều tựa kề một bên, đêm lại thì cùng ân ái, rất lấy làm thích; nhưng thấy trong
bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Còn nàng thì mỗi lần chiêm
bao thấy mình giao hợp với một người nào đó,hỏi tên nói là Tôn Tử Sở, lòng lấy
làm lạ, nhưng không thể nói với ai được.
Ở bên nhà, chàng đã nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Người nhà hoảng
lên, cho lấy lời mềm mỏng đến nói với ông cụ xin tới nhà để chiêu hồn cho
chàng. Ông cụ cười rằng:
- Bình nhật không từng vãng lai thăm hỏi gì cả, làm sao mất hồn ở nhà tôi được?
Người nhà năn nỉ van lơn mãi, ông mới chịu. Thầy pháp cầm áo cũ và đồ cúng bằng
rơm sang nhà, cô gái bắt gặp, hỏi biết lý do, mặt thất sắc, không cho đi tìm chỗ
khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, để cho mặc y kêu gọi xong rồi ra. Thầy pháp vừa
về đến cửa thì ở trên giường chàng đã rên lên một tiếng. Tỉnh rồi, phòng nàng
có bao nhiêu tráp hương, hộp phấn, bao nhiêu đồ đạc, sắc gì, tên gì, kể ra vanh
vách không sai. Nàng nghe tin lại càng kinh hãi và thầm cảm cái thâm tình của
chàng. Chàng đã dậy khỏi giường được rồi thì khi đứng khi ngồi, trầm ngâm nghĩ
ngợi chợt nhớ chợt quên. Thường thăm dò tin tức cô Bảo, chỉ mong tìm được cơ hội
để gặp lại.
Ðến ngày tắm Phật nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyên, chàng dậy thật
sớm, đến đứng ở một bên đường chờ nàng đi qua. Trông ngóng đến hoa cả mắt, mãi
khi mặt trời đứng ngọ, nàng mới đến, ngồi trong xe dòm ra thấy chàng, lấy bàn
tay xinh nhỏ vén màn, mắt nhìn đăm đắm không chuyện. Chàng càng xao xuyến, đi
theo xe luôn. Nàng bỗng sai thị nữ đến hỏi họ tên. Chàng ân cần kể lại. Hồn vía
rung chuyển, xe đi đã xa rồi mới quay về. Ðến nhà thì ốm trở lại, mê man không
ăn uống, trong giấc mơ thường gọi tên Bảo, những giận hồn mình sao không thiêng
như trước nữa. Trong nhà nguyên có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa bé cầm
chơi ở trên giường. Chàng nghĩ nếu thân được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay
đến phòng nàng. Còn đang chú tâm mơ tưởng thì mình đã là con vẹt nhẹ nhàng phơi
phới bay vụt lên, thẳng sang nhà A Bảo. Cô gái thấy vẹt bay xuống mừng quá, chộp
bắt, xích chân lại, lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to lên rằng:
- Cô đừng xích! Tôi là Tôn Tử Sở đây mà!
Nàng kinh hoảng, mở dây buộc, vẹt cũng không bay. Nàng khấn rằng:
- Tình thâm đã khắc tận đáy lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao
nhân duyên còn vuông tròn được!
Vẹt nói:
- Ðược gần vóc thơm là mãn nguyện lắm rồi!
Người khác cho mồi thì không ăn, nàng cho mới ăn. Nàng ngồi thì đâu trên về, nằm
thì đứng mé giường. Như thế ba ngày, cô gái rất lấy làm thương, cho người sang
nhà chàng thăm dò, thì biết chàng thiếp đi, nằm sóng sượt tắt thở đã ba ngày,
chỉ còn một chút trên tim chưa lạnh.
Nàng lại khấn rằng:
- Nếu chàng trở lại làm người, thì xin thề chết cũng theo nhau.
Vẹt nói:
- Lừa tôi đấy!
Nàng bèn thề thốt. Vẹt nghiêng mắt, ra dáng nghĩ ngợi. Một lát, nàng bó chân, cởi
giày để dưới gầm giường. Vẹt nhảy vụt xuống, ngậm giày bay đi, nàng kíp gọi lại
thì đã bay xa rồi. Nàng cho mụ ở sang dò thăm thì thấy chàng đã tỉnh. Người nhà
thấy con vẹt ngậm chiếc giày bay về, ngã xuống đất mà chết, đang cùng lấy làm lạ
thì chàng vừa hồi sinh, hỏi ngay đến chiếc giày. Không ai hiểu ra sao cả. Vừa lúc
ấy thì mụ ở bên nhà kia đến, vào thăm chàng, hỏi chiếc giày ở đâu. Chàng nói rằng:
- Ðó là vật làm tin của cô Bảo. Xin gửi lời về nhắn hộ, rằng tiểu sinh không
dám quên lời vàng đá.
Mụ ở về bẩm, nàng lại càng lấy làm lạ, cố bảo thị tỳ tiết lộ sự tình cho mẹ biết.
Mẹ xét thấy đích xác, bảo rằng:
- Anh chàng ấy tài danh cũng chả vừa, chỉ hiềm nghèo như Tương Như. Kén chọn mấy
năm được rạ như thế, sợ các nhà quý hiển người ta cười cho.
Cô gái vin cớ chiếc giày, thề không lấy người khác.Ông bà cũng phải theo vậy,
cho người kíp báo với chàng. Chàng mừng, bệnh khỏi ngay. Ông muốn cho chàng ở gửi
rể, nàng thưa rằng:
- Con rạ không nên ở nhà cha vợ lâu, huống chàng lại nghèo, ở lâu càng bị coi rẻ.
Con đã về tay người, thì ở nhà gianh, nhà lá cũng cam, ăn rau lê rau hoắc cũng
không dám oán trách.
Chàng bàn làm lễ rước dâu; hai người gặp nhau như có cái vui cách thế. Từ đó,
nhà chàng nhờ có của hồi môn của nàng cũng khá hơn trước, mua sắm thêm của cải.
Chỉ phải cái chàng mê sách, không biết chăm lo việc sinh kế trong nhà. Nhưng
nàng khéo chắt lót, những việc trong nhà không phải phiền đến chàng.
Ðược ba năm, nhà thêm giàu, bỗng chàng mắc bệnh tiêu khát mà chết. Nàng khóc
lóc thảm thiết, nước mắt không lúc nào ráo, bỏ cả ăn ngủ, ai khuyên giải cũng
chẳng được. Thừa lúc đêm khuya, bèn thắt cổ, may có con ở biết được, vội cứu sống
lại, nhưng cũng không chịu ăn. Ðược ba ngày, mời họ hàng đến để liệm chàng, bỗng
nghe trong quan tài có tiếng rên và tiếng thở nhẹ. Mở ra, chàng đã sống lại. Tự
nói rằng:
- Khi ra mắt Diêm vương, ngài bảo: Người này bình sinh thành thực, chất phác,
cho làm chức Bộ Tào . Bỗng có người đến thưa rằng: Vợ của Bộ Tào họ Tôn sắp tới
. Ngài tra sổ ma rồi bảo: Người ấy chưa đáng chết . Lại tâu rằng: Không ăn đã
ba ngày rồi Diêm vương ngoảnh lại nói rằng: Ta cảm vợ ngươi tiết nghĩa, cho
ngươi sống lại , bàn sai lính thắng ngựa đưa tôi về.
Từ đó bình phục dần.
Gặp năm có kỳ thi Hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên muốn bày trò trêu
chàng, bèn cùng đặt ra bảy đầu đề rất hiểm hóc rồi kéo chàng ra chỗ vắng nói
riêng rằng:
- Ðây là nhờ thế lực của đại gia mới có, xin bí mật trao tay nhau.
Chàng tin là thật, đêm ngày mài miệt, làm cả bảy bài. Chúng cười thầm.
Không ngờ năm ấy, viên chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ
sao chép văn cũ, bàn cố sức thay đổi cho thật mới lạ. Giấy đầu bài đưa xuống
thì cả bảy bài chàng làm đều phù hợp. Nhờ đó, chàng đỗ thủ khoa. Năm sau đỗ tiến
sĩ, được chọn vào viện Hàn lâm. Vua nghe thấy chuyện lạ, triệu vào hỏi, chàng
khải tấu lên, vua hết lòng ngợi khen, liền cho gọi A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng
rất nhiều.
Anh Ninh
Nguyễn Huệ Chi dịch
Vương Tử Phục, người La Ðiếm, huyện Cử. Sớm mồ côi cha, thông
tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Mẹ hết đỗi cưng yêu, bình thường
không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Ðã hỏi con gái họ Tiêu, chưa cưới thì
nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.
Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Ngô đến rủ đi chơi. Vừa
ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Ngô về. Chàng thấy con gái đi
chơi lũ lượt như mây, hứng lên cũng một mình ngao du.
Có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời,
nụ cười xinh tưởng có thể vốc được. Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ.
Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang nón cả giữ
- Người đâu mà mắt chòng chọc như giặc.
Rồi bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi. Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn
phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.
Ðến nhà đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn. Mẹ đâm
lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thịt gầy tóp. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt
cho thang phát tán, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi
nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.
Vừa lúc đó chàng Ngô đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi dò riêng xem sao. Ngô vào trước
giường; vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. Ngô ghé sát bên giường an ủi,
lân la gặng hỏi. Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. Ngô cười đáp:
- Anh cũng lại ngố rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! Ðể đấy tôi hỏi dùm
cho. Cuốc bộ ở giữa đồng, thì hẳn không phải là con nhà thế gia. Nếu chưa có
đám nào thì việc xong là cái chắc. Bằng không, cứ liều vứt nhiều tiền ra thì
toan tính gì cũng phải thành. Chỉ cần anh thuyên giảm, xong việc là ở tôi.
Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười. Ngô trở ra bảo với bà mẹ rồi để dò tìm làng
ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. Mẹ lo lắm, chẳng
biết tính thế nào. Nhưng từ sau khi Ngô về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh,
ăn uống đã có phần khá hơn .
Mấy hôm sau, Ngô trở lại. Chàng hỏi đã lo giúp đến đâu. Ngô vờ vịt nói:
- Xong rồi! Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em
con nhà dì với anh đấy. Hiện vẫn còn đợi gả chồng. Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết
thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không
xuôi.
Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Ngô:
- Thế ở làng nào?
Ngô thác rằng:
- ở trong núi, về phía Tây Nam cách đây ngoài ba mươi dặm.
Chàng lại dặn dò nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. Ngô cũng sốt sắng tự xin đảm nhận,
rồi lui gót. Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục.
Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. Mải mê cầm ngắm, tưởng
như còn thấy được người.
Mãi sau lấy làm lạ sao Ngô không đến, bàn viết giấy mời, thì Ngô kiếm cớ chối từ
không chịu đến. Chàng tức giận, buồn bã không vui. Mẹ lo bệnh con lại tái phát,
vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ
ngày ngày ngóng đợi chàng Ngô. Cuối cùng tin tức về Ngô cũng bặt, chàng càng
thêm ức. Rồi bỗng vụt nghĩ rằng ba mươi dặm cũng chằng lấy gì làm xa, hà tất phải
ỷ lại vào người khác. Bàn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà
người nhà chẳng một ai hay.
Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Nam
đi tới. Ðược chừng hơn ba mươi dặm, thấy núi mọc ngổn ngang, lô nhô chồng chất;
xanh rợp tầng không, mát rợi da thịt; vắng vẻ tịch mịch không một bóng người,
chỉ có đường chim bay. Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm
chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. Xuống núi, vào
trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất
thanh nhã. Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông đẳu tơ liễu, trong tường đào
hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu
lách chách ở trong. Chàng cho là nơi vườn cảnh của ai, không dám đường đột bước
vào. Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch
sẽ, bàn ngồi lên đó tạm nghỉ. Giây lát nghe phía trong tường có tiắng một người
con gái dài giọng gọi: Tiểu Vinh , tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. Ðang chăm chú lắng
nghe, thấy một cô gái từ phía Ðông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi
đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm
cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường
đi chơi tiết Thượng Nguyên. Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ nghĩ không lấy cớ gì
mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi
lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng
Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi
đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. Thỉnh thoảng thấy cô gái
hé nửa mặt ra nhòm, tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi. Bỗng có một bà
già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:
- Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ. giả
cần gì? Không đóy giờ.
Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:
- Ðịnh tìm thăm người bà con.
Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. Bèn hỏi:
- Vậy chứ quý vị thân thích họ gì ?
Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:
- Kỳ chưa! Ðến họ tên còn không biết thì biết bà con như thắ nào mà tìm thăm?
Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi. Chi bằng hãy theo tôi vào
đây, lót lòng lưng cơm hẩm; nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng được. Ðợi
sáng mai vế hỏi lại cho biết họ gì, rồi đắn tìm thăm cũng chưa muộn.
Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gụi người đẹp, thì
mừng quá, bèn theo bà già đi vào. Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng,
hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thẳm. Quanh co đi về phía
Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên đậu giàn hoa lan đầy giữa sân. Cung kính
dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như lồng kính; ngoài song, những cành hoa
hải đường thò vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không
bóng lộn, sạch sẽ.
Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhòm trộm. Bà
cụ gọi:
- Tiểu Vinh! Khá làm cơm mau!
Bên ngoài có tiắng dạ to của con hầu.
Ngồi đâu đấy rồi bàn bảy tỏ dòng dõi. Bà già hỏi:
- Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?
Ðáp:
- Thưa phải.
Bà cụ kinh ngạc nói:
- Thắ thì cậu là cháu của ta. Mẹ cậu là em gái ta. Mấy năm nay vì gia cảnh bần
hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để đến thưa bẵng đi.
Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.
Chàng đáp:
- Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất
cả họ.
Bà cụ đáp:
- Già đây lấy về họ Trần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái,
cũng là con dì hai nó sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. Kể
cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết
buồn lo gì cả. Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.
Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ đang độ béo. Bà cụ ngồi tiếp
chàng; cơm xong rồi con hầu lại đến dọn đi. Bà bảo:
- Gọi cô Ninh ra đây!
Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiắng cười, bà cụ lại gọi:
- Anh Ninh! Có người anh con dì mày ở đây đấy!
Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn
còn che miệng cười không nín được. Bà già chừng mắt bảo:
- Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế?
Cô gái nhịn cười đứng yên. Chàng vái chào. Bà cụ nói:
- Ðây là cậu Vương, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau,
thế mới đáng cười chứ!
Chàng hỏi:
- Em đây năm nay bao nhiêu tuổi?
Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại. Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu
lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:
- Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn
ngây dại như trẻ con.
Chàng đáp:
- Thua cháu một tuổi.
Bà nói:
- Cháu đã mười bảy rồi, thắ chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?
Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:
- Thế vợ cháu là ai?
Ðáp rằng:
- Vẫn ở không ạ!
Bà bảo:
- Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa
hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.
Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Anh Ninh, không còn rời đi đâu một chớp.
Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:
- Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cấm không có thay đổi.
Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:
- Ta đi xem bích đào nở chưa đi!
Rồi vụt đứng ngay dậy, láy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi
cửa rồi tiếng cười mới phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu
để xắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:
- Cháu một lần đắn không phải dễ, hẵng ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn
mày về. Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm
nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.
Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ mịn như rải
thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn
chung quanh. Ðang luôn trong hoa nhích từng bước, chợt nghe trên ngọn cây có tiếng
khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên đó, thấy chàng đến cười
rũ lên muốn ngã. Chàng vội kêu:
- Ðừng thế, ngã đấy!
Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. Gần đến đất, tuột tay ngã, tiếng
cười mới tắt. Chàng đỡ dậy, ngầm chạm vào cổ tay, lại rũ ra cười, phải dựa vào
thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. Chờ cho ngớt cơn cười,
chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:
- Khô rồi, còn giữ làm gì?
Vương đáp:
- Ðây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.
Anh Ninh hỏi:
- Giữ thế là có ý gì
Vương đáp:
- Ðể tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được
gặp, cứ tơ tưởng đến thành bệnh. Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ
lại còn được thấy mặt. Xin hãy rủ lòng thương xót.
Cô gái đáp:
- Ðấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. Ðợi hôm nào anh đi, các
thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.
Chàng nói:
- Em ngây đấy ư?
- Thế nào là ngây?
Vương đáp:
- Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.
Nàng nói:
- Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?
Chàng đáp:
- Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu
vợ chồng kia.
Cô gái nói:
- Có gì khác nhau sao?
Vương đáp:
- Ðêm thì cùng chung chăn gối.
Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi giây lâu, nói:
- Em không quen ngủ với người lạ
Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi. Lát
sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò
chuyện.
Bà cụ hỏi:
- Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?
Nàng đáp:
- Anh cả muốn cùng con ngủ chung.
Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng
ngay lại. May bà già không nghe rõ, còn phải lẵng nhẵng hỏi lại. Chàng vội đem
chuyện khác lấp liếm đi. Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. Cô gái hỏi:
- Thế chuyện ấy không nên nói à?
Chàng đáp:
- Ðó là chuyện phải giấu người khác.
Nàng bảo:
- Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường,
việc gì phải kiêng không nói.
Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.
Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. Số là, bà mẹ đợi lâu
không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng
không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Ngô. Ngô nhớ ra lời mình nói trước đây,
liền bảo đến xóm núi Tây Nam mà tìm. Ði lần qua hết mấy hôm mới đến được đây.
Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô
gái về cùng. Bà cụ mừng nói:
- Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. Nay
được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá
Bàn gọi Anh Ninh., Ninh cười, bước ra. Bà nói:
- Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? Giá không cười thì cũng được là người
toàn vẹn rồi đấy.
Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:
- Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!
Lại dọn cơm rượu thắt đãi người giai nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:
- Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. Ðến đấy hãy khoan về, cố
học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm
cho mày một tấm chồng xứng đáng.
Hai người bàn khởi hành. Ðến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ
tựa cửa trông về hướng Bắc.
Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai. Chàng đáp là con
bà dì. Mẹ nói:
- Những điều anh Ngô nói với con dạo trước là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, sao
lại có cháu con dì được?
Hỏi cô gái, nàng đáp:
- Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã,
nên không thể nhớ được gì.
Bà mẹ nói:
- Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn
được?
Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.
Lại ngờ ngợ mà nói:
- Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?
Giữa lúc đang ngẫm nghĩ nghi hoặc thì chàng Ngô đến, cô gái lánh vào nhà trong.
Ngô hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:
- Cô gái này có phải tên là An Ninh không?
Chàng bảo phải. Ngô vội nói ngay là chuyện lạ lùng. Hỏi vì sao mà biết. Ngô
đáp:
- Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. Hồ
sinh một gái tên là An Ninh, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả.
Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau xin bùa của thiền sư dán lên vách,
hồ mới ôm con gái bỏ đi. Chẳng lẽ lại là đấy chăng?
Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìêu còn nghi ngờ. Chỉ nghe buồng
trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của An Ninh. Bà mẹ bảo:
- Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!
Ngô xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại. Mẹ
giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới
ra được. Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười
to. Ðàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.
Ngô xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều
chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi. Ngô nhớ lại nơi chôn bà cô,
phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đẫ bị lấp mất, chẳng còn nhận ra
được, đành thở than mà quay về.
Bà mẹ ngờ cô gái là ma. Vào buồng thuật lại những lời Ngô vừa nói, nàng không mảy
may tỏ sợ hãi. Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu,
cứ rúc rích cười hoài mà thôi. Mọi người không mảy may tỏ
Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công,
tinh xảo không ai bì. Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song
nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy
cũng vui thích. Ðàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.
Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc
nàng đứng dưới bóng mặt trời nhòm xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. Ðến
ngày đã định, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. Cô gái cười quá,
không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi.
Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ
ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.
Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết.
Ðầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đắn nói chuyện với
mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha. Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn
tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi,
để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn
hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.
Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn
thường vin cây trào lên, hái hoa cài đầu chơi. Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng,
mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy,
ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. Cô gái không tránh mặt mà lại cười. Con trai
nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. Nàng chỉ tay vào
chân tường, rồi cười mà trèo xuống. Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi
hò hẹn, sướng quá đỗi. Ðến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. Sáng đêm hành
dâm, thì chỗ kín như bị mũi dùi đâm, đau buốt đắn tận tim, kêu rú lên mà ngã vật
ra. Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường,
chỗ mình chọc vào là một cái hốc rịn nước. Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con
kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. Vợ đến, mới chịu nói thực. Ðốt
đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. Ông bố bổ
cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì rằng
Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn
ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh,
cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. Chàng xin cho, mới được
phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:
- Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. May được quan huyện
sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn
đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy
họ hàng làng xóm nữa?
Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ nay không cười nữa. Mẹ bảo:
- Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.
Thế mà từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười,
nhưng suốt ngày chưa hề lúc nào có vẻ mặt đăm chiêu.
Một đêm, nàng nhìn chàng ứa nước mắt. Chàng lấy làm lạ, thì nàng nghẹn ngào
nói:
- Trước đây, vì gần gũi chưa lâu, nói ra sợ cho là quái gở mà đâm hoảng. Nay
xét ra, mẹ và chàng đều quá yêu, không có bụng gì khác, đành xin thưa thực, may
không hại gì chăng? Thiếp vốn do hồ sinh ra. Lúc mẹ thiếp sắp bỏ đi, đem thiếp
gửi lại cho bà mẹ ma, nương nhờ nhau đã hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại
không có anh em, chỉ trông cậy vào một mình chàng. Mẹ già nằm cô quạnh nơi góc
núi, không ai thương xót mà hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu
chàng không tiếc chút phí tổn, khiến cho người nằm dưới đất tiêu tan được khối
hận đó, thì ngõ hầu những kẻ nuôi con gái vế sau không còn nỡ đem con dìm nước
bỏ đi nữa.
Chàng nhận lời, nhưng lo phần mộ đã bị lẫn, giữa cỏ rậm. Cô gái nói rằng không
lo. Bèn định ngày, vợ chồng xe quan tài đem đi. Giữa đám mây khói hoang vu, gai
góc chằng chịt, cô gái chỉ đúng phần mộ,quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn
còn. Nàng ôm lấy khóc thảm thiết. Rồi cùng đưa về, tìm mộ người chồng họ Tần mà
hợp táng.
Ðêm hôm đó chàng nằm mơ thấy bà già trở về tạ ơn. Tỉnh dậy thuật lại với nàng.
Nàng đáp:
- Hồi đêm thiếp có trông thấy, chỉ dặn đừng làm chàng kinh động mà thôi.
Chàng ân hận không giữ bà cụ lại chơi. Nàng đáp:
- Ðấy là ma, nơi có người sống nhiều, khí dương thịnh, ở lâu sao được?
Chàng hỏi đến Tiểu Vinh. Nàng đáp:
- Nó cũng là hồ, rất linh lợi, mẹ hồ thiếp giữ lại để trông nom thiếp, thường vẫn
đút bánh cho thiếp ăn, nên nhớ ơn nó không bao giờ quên. Ðêm qua hỏi mẹ, thì
nói đã gả chồng cho nói rồi.
Từ đó hàng năm, gặp ngày hàn thực vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần khấn vái
quét dọn, không năm nào bỏ sót. Ðược hơn một năm, cô gái sinh được một con
trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười, hệt như phong
thái của mẹ.
Vương Thành
Cao Xuân Huy dịch
Vương Thành, con nhà thế tộc lâu đời ở Bình Nguyên, tính lười
biếng, sinh nhai ngày càng sa sút, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng đêm nằm đắp
mảnh vải bố, nhiếc móc nhau đũ điều. Bấy giờ là tiết đại thử, khí trời nung nấu.
Trong làng có cái vườn cũ của họ Chu, tường vách đã đổ nát, chỉ còn một cái
đình, người làng vẫn đến đấy ngủ nhờ, Vương cũng thế. Một hôm trời sáng , mọi
người đi cả rồi, mặt trời đã lên cao ba con sào, Vương mới dậy, quanh quẩn muốn
về, chợt thấy trong đám cỏ có chiếc thoa vàng, nhặt lên xem thấy có khắc mấy chữ
nhỏ 'Phủ Nghi Tân chế tạo' .
Ông nội của Vương là Nghi Tân trong phủ Hành. Những vật cũ trong nhà phần nhiều
đều có dấu hiệu ấy, nên chàng nhân cầm chiếc thoa có dáng chần chừ.
Bỗng có một bà cụ đến tìm thoa. Vương tuy nghèo nhưng tính vốn liêm khiết , liền
đưa trả lại.
Bà cụ mừng lắm, hết sức khen ngợi tấm lòng cao thượng, bà nói rằng:
- Chiếc thoa có đáng giá trị là bao, nhưng là chút kỷ vật của ông nhà tôi ngày
xưa để lại.
Vương hỏi:
- Cụ nhà xưa là ai?
Ðáp rằng:
- Ðó là quan Nghi Tân, họ Vương tên Giản Chi đã quá cố.
Vương kinh ngạc, nói rằng:
- Ông nội tôi đấy! Sao mà gặp nhau với bà được?
Bà cụ cũng kinh ngạc nói:
- Anh là cháu cụ Vương Giản Chi đó sao? Ta là hồ tiên một trăm năm trước đây có
trao duyên gắn bó với cụ cố nhà anh. Cụ cố mất đi, già này tu ẩn, đi qua đây
đánh rơi chiếc thoa lại vào tay anh, đó chẳng phải là số trời hay sao?
Vương cũng đã nghe nói ông nội mình có vợ hồ, cho nên tin lời bà cụ, bèn mời bà
hạ cố đến nhà. Bà cụ theo về, Vương gọi vợ ra chào; áo rách bù đầu, sắc mặt đói
ăn tối sầm.
Bà cụ than rằng:
- Ôi! Con cháu Vương Giản Chi mà nghèo khổ đến thế này sao?
Lại nhìn về phía cái bếp lạnh tanh không có khói lửa mà nói:
- Gia thế như thế này thì lấy gì mà sống?
Người vợ bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào sướt mượt.
Bà cụ đưa chiếc thoa cho chị vợ, bảo hãy cầm cho người ta lấy tiền để đong gạo,
rồi ba ngày nữa bà sẽ đến thăm. Vương cố giữ lại, bà nói:
- Anh có một vợ mà nuôi không nổi; ta ở lại đây thì chỉ ngồi mà ngắm xà nhà chứ
có ích gì?
Nói xong đi liền. Vương kể lại đầu đuôi, người vợ sợ quá.
Vương ngợi khen tấm lòng ân nghĩa của cụ và bảo vợ phải thờ bà như mẹ. Người vợ
xin vâng.
Qua ba ngày, quả nhiên bà già lại đến, đưa ra mấy đồng vàng để đong lúa và mạch,
mỗi thứ một thạch.
Tối đến, bà cụ và người vợ nằm chung một cái giường bé. Chị vợ lúc đầu còn sợ,
nhưng xét thấy tình rất mực ân cần, nên cũng không ngờ nữa.
Ngày hôm sau, bà cụ bảo Vương rằng:
- Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm, chứ ngồi không mà ăn thì lâu thế
nào được?
Vương nói mình không có vốn liếng gì cả. Bà đáp:
- Khi ông nội nhà anh đang còn, thì vàng lụa tha hồ mà lấy, vì ta không phải là
người trần, không dùng đến những thứ ấy, nên cũng không lấy nhiều, chỉ dành giữ
món tiền phấn sáp được bốn mươi lạng vàng, đến nay vẫn còn, tàng trữ cũng chẳng
làm gì. Anh hãy đem đi mà mua vải cát cho hết, rồi mang gấp vào kinh thành, có
thể có chút lãi.
Vương theo lời, đi mua hơn năm mươi tấm mang về.
Bà cụ giục thu xếp hành trang, tính rằng sáu, bảy ngày có thể đến Yên Kinh. Dặn
rằng:
- Chớ lười, nên siêng! Chớ hoãn nên kíp! Chậm trễ một ngày ăn năn chẳng kịp.
Vương xin kính vâng, xắp hàng vào bao tải rồi lên đường.
Giữa đường đi gặp mưa, áo giày ướt sũng. Suốt đời Vương chưa từng dầu dãi gió dầm
sương. Vì vậy mệt rũ, chịu không thấu bèn vào nhà trọ tạm nghỉ.
Ngờ đâu mưa cứ tầm tã mãi đến chiều hôm, nước trên rèm chảy xuống như thừng.
Qua một đêm, đường càng lầy lội, người đi ngập đến cổ chân.
Vương trong lòng nản lắm. Chờ mãi đến giờ ngọ, đường mới hơi khô, nhưng mây đen
lại kéo lên, rồi trời lại mưa to. Phải ngủ đến hai đêm ở nhà trọ mới đi được.
Gần đến kinh, nghe đồn giá vải lên cao vọt, trong lòng mừng thầm. Vào kinh nghỉ
ở quán trọ.
Chủ quán lấy làm tiếc là Vương đến chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam
vừa mới được mở, vải cất đến rất ít, các nhà buôn lớn ở kinh đô mua khá nhiều,
giá cao gấp ba so với thường ngày, nhưng một ngày trước thì hàng vải ùn đến giá
bỗng xuống rất thấp, những người đến sau thất vọng.
Chủ quán nói rõ đầu đuôi cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày
qua, vải cát đến càng nhiều, giá càng xuống. Vương cho là không có lãi, không
chịu bán. Nấn ná đến hơn mười ngày, tiền cơm chưa tính ra đã tốn nhiều, nghĩ
càng thêm lo buồn.
Chủ quán khuyên Vương nên bán rẻ đi, để xoay cách khác.
Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vốn mười lượng. Sáng dậy, soạn sửa ra về, mở đẫy
ra xem thì bạc đã mất rồi. Hoảng loạn lên báo với chủ quán. Chủ quán không biết
làm thế nào. Có kẻ bảo Vương lên kêu quan, bắt chủ quán bồi thường, Vương than
rằng:
- Ấy là cái số của ta, chứ chủ quán có lỗi gì?
Chủ quán nghe vậy, rất mến tấm lòng trung hậu của Vương, tặng năm lạng vàng, kiếm
lời an ủi, khuyên về.
Vương nghĩ bụng, không còn mặt mũi nào gặp lại bà tổ mẫu, loanh quanh hết ra lại
vào, tiến thoái đều khó. Chợt thấy có người chọi chim Thuần, mỗi lần chọi đặt
cuộc đến mấy ngàn, mua mỗi con chim Thuần nhiều khi hơn một trăm đồng tiền.
Chàng bỗng nảy ra một , tính nhẩm tiền còn trong đáy, may ra chỉ đủ buôn chim
Thuần, bèn đem cái này bàn với chủ quán. Chủ quán khuyến khích tận tình, lại hứa
cho ở nhờ nhà trọ, ăn uống không phải trả tiền, Vương mừng lắm, bèn ra đi, mua
đầy một gánh chim Thuần đem về trong thành. Chủ quán cũng mừng, chúc cho bán được
nhanh. Ðến đêm, mưa to mãi đến mờ sáng. Khi trời đã sáng hẳn, nước trên đường
cái như sông, mà trời vẫn rả rích mưa. Ngồi chờ tạnh liên miên mấy ngày, mưa
không ngớt hột. Dậy nhìn chim Thuần trong lồng thì đã chết mất nhiều. Vương sợ lắm,
không biết làm thế nào. Sang ngày sau, chết càng nhiều, chỉ còn được mấy con,
đem bỏ chung vào một lồng để nuôi. Qua đêm, lại ra thăm thì vẻn vẹn còn được một
con, bèn chạy vào nói với chủ quán, bất giác ứa nước mắt, chủ quán cũng thương
cảm. Vương tự liệu, tiền hết không về được, chỉ muốn tìm đường chết. Chủ quán
khuyên giải an ủi, rồi cùng nhau ra xem con chim còn lại, ngắm nghía rất kỹ,
nói rằng:
- Ðây hình như là một con chim quí ! Những con kia mà chết biết đâu không phải
là bị con này chọi chết? Anh bây giờ cũng rỗi không có việc gì, hãy chăm chút tập
tành cho nó. Nếu quả là con chim hay, thì mang nó đi đánh cũng mưu sinh được.
Vương nghe theo. Khi con chim đã thuần thục, chủ quán bảo đem ra đường phố,
đánh cuộc lấy rượu thịt. Chim khoẻ lắm, luôn luôn thắng. Chủ quán mừng, đưa tiền
cho Vương, bảo đem ra quyết ăn thua với đám con em trong làng chơi chim Thuần ở
kẻ chợ. Ba lần chọi ba lần đều thắng. Chừng nửa năm, góp nhóp được hai mươi lạng
vàng, trong lòng cũng được an ủi, xem con chim như tính mệnh của mình.
Thuở đó có một vị Thân Vương rất thích chim Thuần; mỗi năm gặp tiết thượng
nguyên, thách dân gian ai có nuôi chim Thuần thì đem đến phủ đệ để chọi. Chủ
quán bảo Vương rằng:
- Giờ đây, cái cơ đại phú đã có thể đến ngay rồi đấy. Chỉ có điều không biết vận
may của anh như thế nào thôi!
Bèn nói rõ sự tình và đem Vương cùng đi, dặn rằng:
- Ví thử có thua thì nín hơi mà đi ra thôi! Còn như vạn nhất con Thuần mình đấu
thắng thì Thân Vương thế nào cũng hỏi mua, anh đừng nhận bán; nếu gạn hỏi thì cứ
nhìn vào cái đầu của tôi, chờ khi nào đầu tôi gật thì hẵng ngả giá!
Vương nói:
- Ðược!
Vào đến phủ thì thấy những người chọi chim sát vai nhau đứng cả ở dưới thềm. Chốc
lát Thân Vương ngự ra trên điện, tả hữu truyền rằng có ai muốn chọi thì cho
lên. Liền có một người xách lồng bước bậc mà lên trên điện. Thân Vương sai thả
chim Thuần ra. Khách cũng thả. Mới nhảy đá qua loa, con chim của khách đã thua
chạy. Thân Vương cả cười. Chỉ một lúc, người đến chọi mà thua đã có đến mấy vị.
Chủ quán nói:
- Ðến lúc rồi!
Bèn cùng nhau bước tới bậc mà lên. Thân Vương xem tướng con chim của Vương mà
nói:
- Tròng mắt có vằn máu giận dữ,cũng là một cánh hùng kiện đây! không nên khinh
địch.
Bèn truyền lệnh cho đem con Mỏ Sắt ra nghênh chiến. Mới nhảy vọt đấu đá vài lần
mà con chim của Thân Vương đã sả cánh. Lại chọn một con chim giỏi hơn đem ra,
hai lần đổi, hai lần thua. Thân Vương cấp tốc truyền lệnh vào lấy con Ngọc Thuần
của nội cung. Một lát mới thấy đem ra, lông trắng như cò, thần khí hùng dũng
khác thường.
Vương Thành thấy thế, trong lòng nao núng, bèn quỳ xuống xin thôi, nói rằng:
- Con chim của Ðiện Hạ là chim thần, sợ đánh giết mất chim tôi thì tôi sạt nghiệp
mất!
Thân Vương cười rằng:
- Cứ thả ra cho nó chọi, chẳng may nó chết thì ta sẽ đền bù cho thật hậu.
Thành bèn thả chim mình ra. Con Ngọc Thuần xông thẳng đến. Nhưng khi Ngọc Thuần
đang chạy tới thì con Thuần của Vương nằm phục xuống như con gà dữ để đợi. Con
Ngọc Thuần mổ vào nó thật mạnh, nó liền nhảy phắt lên như con hạc bay liệng để
đánh lại. Khi tiến, khi lui, khi trên, khi dưới, cầm cự với nhau áng chừng một
khắc, thì con Ngọc Thuần lơi dần, mà con Thuần của chàng giận càng sôi, đánh đá
càng gấp. Chẳng mấy chốc bộ lông tuyết của Ngọc Thuần rụng xơ ra, rồi sã hai
cánh chạy trốn. Cả ngàn người đứng xem, không ai là không tấm tắc khen ngợi. Vị
Thân Vương bèn bảo bắt nó lên, thân hành cầm lấy xem xét một lượt từ đầu mỏ đến
móng chân, rồi hỏi Thành rằng:
- Con chim này anh có bán không?
Thành đáp:
- Tiện nhân nghèo khó, phải nương nhờ vào nó mà sống, không dám bán.
Thân Vương nói:
- Ta trả giá cao, anh sẽ có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?
Thành cúi đầu suy nghĩ giây lâu mới nói:
- Thật quả không muốn để lại, nhưng nay Ðiện Hạ đã yêu thích nó; nếu khiến cho
tiện dân được có ăn mặc, thì còn đòi gì hơn.
Thân Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lạng vàng. Thân Vương cười rằng:
- Cái anh ngốc này, nào có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng?
Vương nói:
- Ðiện hạ không cho nó làm báu, nhưng với hạ thần thì ngọc bích liên thành cũng
chẳng bằng!
Thân Vương hỏi:
- Thế nào?
Thành đáp:
- Tiện dân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng, đổi thưng đấu gạo, một nhà mười
miệng ăn, nhờ đó mà không đến nỗi đói rét, còn của báu nào bằng?
Thân Vương nói:
- Tôi không để anh thiệt đâu, thôi trả anh hai trăm đồng.
Thành lắc đầu; lại trả thêm một trăm. Thành đưa mắt nhìn chủ quán. Chủ quán
không động đậy. Thành bèn nói:
- Thưa mệnh Ðiện Hạ, xin bớt một trăm.
Thân Vương nói:
- Thế thì thôi vậy, ai đời lại đem chín trăm lạng đổi lấy một con chim Thuần
bao giờ?
Thành xách lồng chim lên định đi thì Thân Vương gọi:
- Này anh chọi chim, lại đây! Lại đây! Tôi dứt khoát trả anh sáu trăm đồng. Bằng
lòng thì để, không bằng lòng thì thôi vậy!
Thành lại đưa mắt về phía chủ quán. Chủ quán vẫn điềm nhiên. Ý nguyện của Thành
đã hoàn toàn thoả mãn, chỉ sợ nhỡ mất thời cơ, bèn nói:
- Với cái giá của Ðiện Hạ, thật không hài lòng, nhưng đã y ước với nhau mà lại
không xong, sợ mắc lỗi thất kính càng lớn cực chẳng đã, xin y theo mệnh lệnh của
Ðiện Hạ.
Thân Vương mừng rỡ, cho người cân vàng đưa ngay, Thành nhận vàng, lạy tạ mà đi
ra. Chủ quán giận, trách rằng:
- Tôi bảo anh thế nào mà đã vội vã bán đi như thế ? Nếu kéo thêm một chút nữa
thì đã có tám trăm cầm tay rồi!
Thành về nhà trọ, đặt vàng lên án mời chủ quán tự lấy. Chủ quán không chịu,
Thành ép mãi mới đem bàn tính ra, tính toán đủ tiền phí tổn ăn uống mà nhận.
Thành xắp đặt hành lý ra về.
Ðến nhà, thuật lại những việc đã làm, bỏ vàng ra cùng mừng với nhau.
Bà cụ bảo tậu ba trăm mẫu ruộng tốt, dựng nhà cửa, sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là
một thế gia.
Bà cụ dậy sớm, đôn đốc cho Thành trông nom việc cày bừa, vợ trông nom việc canh
cửi, hơi lơ là thì quát tháo, mà vợ chồng vẫn không hề oán thán.
Qua ba năm, nhà càng giàu, bà cụ ngỏ ý muốn đi, vợ chồng cố giữ lại, đến chảy
nước mắt. Bà bèn ở lại.
Sáng ngày vào hầu, thì đã mất hút.
Thụy Vân
Cao Xuân Huy dịch
Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu . Nhan sắc tài nghệ có
một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.
Thụy Vân thưa rằng:
- Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua
loa cẩu thả . Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.
Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.
Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh,
lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.
Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày
nối gót nhau vào.
Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư
chỉ vào bậc trung. Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng
uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm
mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ
sĩ bần rách như mình.
Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. Ngồi nói
chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình . Lại tặng chàng bài thơ :
Việc gì kẻ xin nước
Cầu lam phải nệm sương?
Có lòng tìm chày ngọc,
Ngay giữa chốn người thường
Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo
khách đến, bèn vội vàng từ biệt. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ
lòng vương vít.
Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.
Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà
rằng:
- Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?
Chàng rằng:
- Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được
cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn
nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.
Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.
Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về
đi. Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc
một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng
ấy chịu làm sao nổi. Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.
Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.
Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng
đáng. Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay.
Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát
liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: "Ðáng tiếc, đáng tiếc"
rồi bỏ đi.
Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu
tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.
Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến
cả mũi nữa. Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất
hẳn.
Mụ dầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. Thụy Vân vốn ẻo lả
không đưng nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.
Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu
thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.
Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ.
Mụ bằng lòng.
Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. Ðến nhà, nàng kéo
áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận
làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này.
Hạ nói:
- Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi,
lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?
Rồi không chịu cưới ai nữa. Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng
thì mối tình càng thêm nồng thắm.
Ðược hơn một năm. Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hoà, cùng trọ
một chỗ.
Bỗng dưng Hoà hỏi rằng:
- Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?
Hạ đáp:
- Ðã lấy chồng rồi.
Hoà lại hỏi:
- Lấy ai đấy?
Ðáp:
- Người đó cũng đại loại như tôi.
Hoà nói:
- Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?
Hạ nói:
- Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể
mua được người đẹp.
Hoà lại hỏi:
- Người đó quả thật có được như anh không?
Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.
Hoà cười mà đáp rằng:
- Thực ra không giấu nhau nữa. Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một
lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa,
cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để
dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.
Hạ vội hỏi:
- Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?
Hoà cười mà rằng:
- Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.
Hạ đứng dậy vái mà rằng:
- Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!
Hoà mừng quá, nói:
- Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp
mà thay đổi ý nghĩ. Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.
Bèn cùng nhau về. Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:
- Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!
Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:
- Rửa đi thì khỏi ngay! Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!
Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến
đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.
Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất
hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.
Có lẽ là tiên chăng?
Ðạo Sĩ Núi Lao
Nguyễn Ðức Lân dịch
Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố
gia, tuổi trẻ mộ đạo.
Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.
Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.
Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để
người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận
cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.
Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thấy.
Ðạo Sĩ nói:
- Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.
Vương hứa là: "Ðược"
Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.
Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.
Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái
củi.
Vương kính cẩn vâng lời.
Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi,
Vương đã ngầm có bụng muốn về.
Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.
Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.
Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.
Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.
Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.
Một người khách nói:
- Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.
Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.
Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?
Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ
hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm
lấy làm lạ.
Giây lát, một vị khách nói:
- Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không
gọi Hằng Nga xuống chơi?
Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ
trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao
lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.
Rồi ca rằng:
Tiên tiên nào!
Về đây nao!
Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!
Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn
lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại
thành chiếc đũa.
Ba người cùng cười lớn.
Lại một vị khách nói:
- Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên
cung nguyệt được chăng?
Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng.
Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều
trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.
Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ
còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.
Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn
như tấm gương mà thôi.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Mọi người đã uống đủ cả chưa?
Các học trò cùng thưa:
- Ðủ cả.
- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.
Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra.
Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.
Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy
cho một phép nào.
Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:
- Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học
được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm
lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở
về.
Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.
Ðạo Sĩ cười bảo:
- Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho
anh về:
Vương nói:
- Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công
lao đệ tử lặn tới tới đây.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Muốn học thuật gì?
Vương đáp:
- Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.
Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần
chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không
dám vào.
Ðạo sĩ lại nói:
- Cứ vào thử đi!
Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:
- Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!
Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy
trống không có vật gì cả.
Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi.
Vương mừng quá, vào lạy tạ.
Ðạo Sĩ bảo:
- Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.
Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.
Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được
mình.
Vợ không tin.
Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu
đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.
Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.
Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.
Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.
Thư Sinh Họ Diệp
Cao Xuân Huy dịch
Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và
tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long
đong khốn khổ mãi trong trường công danh.
Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn
chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.
Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy
đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.
Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi
đó chàng đỗ đầu hàng xứ.
Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy
văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt.
Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.
Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ,
thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.
Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.
Chàng rơi lụy dầm dề.
Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng
cùng đi.
Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.
Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống
đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến
quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng:
"Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn
chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi
hành..."
Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói
là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.
Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.
Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà
hỏi han.
Chàng nói:
- Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy
không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.
Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi.
Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền
bên cạnh.
Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn
chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì
không quên nữa. ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của
ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện.
Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công
tử học.
Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.
Một hôm ông bảo chàng rằng:
- Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh,
nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?
Chàng nói:
- Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho
văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém
tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết,
đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?
Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về
thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến
kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ
sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.
Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân.
Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:
- Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường
mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.
Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường.
Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về.
Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào
sân.
Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy.
Chàng rẫu rĩ mà nói:
- Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như
không quen biết nhau vậy?
Người vợ đứng xa mà bảo rằng:
- Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?
Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng
cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm
gở để quấy người sống.
Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh
cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.
Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng
mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc
ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.
Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới
biết rõ đầu đuôi.
Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên
xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu
liêm.
Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ,
hơn một năm sau được vào nhà học phán.
Hồ Gã Con
Nguyễn Huệ Chi dịch
Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà
nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu,
lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.
Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.
Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:
- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.
Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:
- Khó gì việc ấy:
Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:
- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.
Ân cười đáp lại:
- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng
Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như
gai.
Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.
Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.
Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm
trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho
là thiên hạ đồn hão.
Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.
Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.
Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt
nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:
- Có người lạ trên này.
Người bên dưới hỏi:
- Ai vậy?
- Cô gái đáp rằng:
- Không biết.
Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:
- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn
là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.
Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi
người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.
Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.
Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:
- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy;
không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.
Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:
- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để
mừng tặng.
Ông già đáp:
- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được
phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào
Ân cũng mừng, nhận lời.
Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.
Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:
- Ðây là tiện nội.
Ông vái chào lại.
Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên
thưa:
- Ðến rồi!
Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.
Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.
Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.
Ông già bảo hãy chào quan khách trước.
Chàng trai đưa mắt nhìn ông.
Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là
bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.
Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc,
bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.
Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.
Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.
Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.
Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.
Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.
Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.
Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.
Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu,
dung nhan tuyệt đẹp.
Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.
Ân nghĩ:
-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ
say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.
Mọi người đều nói:
- Ông lớn say rồi!
Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.
Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.
Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp
không thấy.
Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.
Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.
Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.
Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn
đầy cả bốn quanh tường.
Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái
chén vàng vẫn còn.
Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới
trở vào.
Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.
Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng
thể nào có, mới tin là chuyện thực.
Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.
Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy
người hầu mang ra.
Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có
vẻ tức giận.
Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.
Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo
nào.
Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:
- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh,
kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì
được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.
Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng
hiểu sao nữa.
Ân cười bảo:
- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất.
Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.
Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.
Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén
từ đâu mà có.
Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ
làm của mình.
Bức Họa Trên Tường
Nguyễn Huệ Chi dịch
Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là
khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải
vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì
trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây.
Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật
thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở
trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi
môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.
Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi
thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức
tường.
Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết
pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.
Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo,
quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập
tức trở gót bước theo.
Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám
tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi,
chàng liền bước theo vào.
Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự
gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.
Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.
Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền
trêu trọc nàng rằng:
- Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm
gái còn son ư?
Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.
Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:
- Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.
Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên,
vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng
xinh đẹp gấp bội.
Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.
Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất
dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ
huyên náo.
Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy
một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy,
đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.
Sứ giả nói:
- Ðã đủ chưa?
Có tiếng đáp:
- Ðủ cả rồi.
Sứ giả lại nói:
- Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ
để phải hối về sau.
Cả bọn đồng thanh đáp:
- Không có đâu!
Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.
Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:
- Mau trốn xuống gầm giường.
Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.
Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.
Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.
Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng
người qua lại bàn bạc.
Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt
nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng
về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.
Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu,
ngờ vực hỏi Nhà Sư.
Vị sư cười đáp:
- Ði nghe thuyết pháp rồi.
Mạnh Long Ðàm hỏi:
- Ở đâu?
Nhà Sư đáp:
- Không xa.
Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:
- Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?
Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai,
chừng như nghe ngóng.
Nhà Sư lại gọi tiếp:
- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.
Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ
như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.
Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.
Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội
chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.
Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên,
không còn xõa tóc nữa.
Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.
Nhà Sư cười đáp:
- Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!
Chu ỉu xìu mất cả khí thế.
Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.
Thư Sinh Họ Ðổng
Nguyễn Ðức Lân dịch
Thư sinh họ Ðổng, tên tự là Hà Tư, người ở ấp Tây đất Thanh
Châu.
Vào tháng đông, trời gần tối, trải chăn ra giường và đốt mẻ than dưới gầm.
Ðang định thắp đèn lồng thì vừa có người bạn mời đi uống rượu, bèn đóng cửa mà
đi.
Ðến chỗ bạn, thấy trong bàn tiệc có một thầy lang sành xem mạch thái tố, chẩn mạch
cho khắp mọi người.
Sau cùng, nhìn đến thư sinh Vương Cửu Tư và chàng Ðổng, ông thầy nói:
- Tôi xem cho người đã nhiều, chưa thấy ai có mạch lạ như hai ông; mạch thì
sang mà có điểm hàn, mạch thọ mà có điểm yếu. Thật bỉ nhân chẳng dám hiểu ra
sao nữa.
Mà riêng ông Ðổng lại càng lạ lắm.
Mọi người cùng kinh ngạc nhao lên hỏi.
Ông lang đáp:
- Thuật của tôi chỉ biết đến đấy là cùng rồi, không dám đoán liều nữa. Chỉ xin
hai ông tự mình cẩn trọng mà thôi.
Hai người mới nghe sợ lắm, sau rồi cùng nghĩ là câu nói nước đôi mơ hồ, nên bỏ
qua chẳng để tâm nữa.
Nửa đêm, Ðổng ra về, thấy cửa nhà học khép hờ, ngờ quá.
Trong cơn say, cố nhớ lại, tất là khi đi vội vã, quên khoá cửa.
Vào phòng, chưa kịp đốt đàn lên, hãy đưa tay sờ vào trong chăn trước xem có ấm
hay không.
Vừa mới thọc tay vào, đụng ngay da thịt mịn màng của ai đang nằm sẵn, kinh ngạc
hết sức, vội rụt tay lại.
Ðốt gấp đèn lên, thì ra một cô em tuyệt mỹ, mặt sáng sủa, tuổi còn non, không
khác gì thần tiên.
Mừng cuống cuồng, đùa bỡn, đưa tay xuống phần dưới cơ thể, thì xù xì một nắm
lông đuôi.
Hốt hoảng quá định chạy, thì cô gái đã tỉnh dậy, đưa tay ra nắm lấy cánh tay hỏi:
- Chàng định đi đâu?
Ðổng càng sợ, người run lên, năn nỉ xin người tiên tha cho.
Cô gái cười, nói:
- Thấy cái gì mà cho người ta là tiên?
Ðổng đáp:
- Tôi chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi.
Cô gái lại cười bảo:
- Ðuôi đâu mà đuôi? Anh lầm rồi.
Ðoạn cầm tay Ðổng kéo vào cho sờ lại, thì thịt ở đùi mềm mại như mỡ, chỗ xương
cụt nhẵn thín.
Cô gái cười nói:
- Thế nào? Rượu say mê mẩn, chẳng biết thấy gì đâu đâu mà lại vu cho người ta
như vậy?
Ðổng vốn thấy người đẹp đã thích rồi, nay hết sợ lại càng mê mẩn, nghĩ lại tự
trách mình là lầm.
Nhưng vẫn còn điều nghi ngờ, không hiểu nàng vì sao mà đến.
Nàng đáp:
- Anh không nhớ cô bé tóc vàng nhà hàng xóm phía Ðông sao?
Bấm đốt ngón tay, từ lúc dời đi nơi khác, đến nay đã được mười năm rồi.
Lúc ấy tôi chưa cài trâm, mà anh cũng còn để tóc trái đào cơ đấy.
Ðổng chợt nhớ ra, hỏi:
- Thế em là cô Toả nhà họ Chu đấy ư?
Nàng đáp:
- Phải đấy.
Ðổng nói:
- Bây giờ em nói, anh mới mang máng nhớ lại. Mười năm không gặp, thế mà đã
thành người yểu điệu thế này rồi đấy! Nhưng sao mà lại đến được đây?
Cô gái nói:
- Thiếp lấy phải thằng chồng đần, được đâu bốn, năm năm, cha mẹ chồng theo nhau
qua đời, lại chẳng may chồng cũng vừa mới mất, còn lại một mình thiếp, bơ vơ
không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ còn có mình chàng,
nên cố gượng tìm đến gặp. Vừa tới cổng thì trời tối, xảy lại có người đến mời
chàng đi uống rượu, bèn lén nấp để đợi chàng về.
Ðợi đã lâu, chân lạnh cóng, nổi cả da gà lên, nên phải nhờ cái chăn cho ấm người
lên một chút, xin chớ ngờ nhau.
Ðổng mừng, cởi áo cùng ngủ, lấy làm đắc ý
Ðược hơn một tháng, người gầy rộc hẳn đi.
Người nhà lấy làm lạ, thì nói là cũng không biết tại sao.
Càng lâu mặt mũi càng gầy võ.
Mới đâm hoảng, vội đi tìm ông thầy chẩn mạch giỏi hồi trước, nhờ chẩn cho.
Thầy lang đáp:
- Ðây là mạch bị yêu quái ám rồi. Cái điềm chết ngày trước, nay quả đã nghiệm.
Bệnh không thể làm gì được nữa.
Ðổng khóc hu hu không chịu đi.
Thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn, rồi đem thuốc
tặng cho, dặn rằng:
- Nếu có gặp ai đấy thì phải gắng mà dứt đi.
Ðổng cũng tự biết nguy hiểm. Về đến thư trai, cô gái cười cợt đứng đón.
Chàng tức mình nói:
- Ðừng dan díu với nhau nữa.
Tôi sắp chết rồi đây.
Nói rồi bước đi không ngoái lại.
Cô gái xấu hổ quá, cũng tức lên mà nói:
- Mày còn muốn sống nữa ư?
Ðến đêm, Ðổng uống thuốc rồi ngủ một mình.
Vừa mới chợp mắt, đã thấy giao hợp cùng cô gái, tỉnh dậy thì tinh đã xuất ra rồi.
Càng sợ, bèn dời giường vào nhà trong, vợ con đốt đèn canh giữ.
Nhưng vẫn mơ thấy như cũ.
Lén nhòm cô gái thì không thấy đâu nữa.
Ðược mấy hôm, Ðổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.
Vương Cửu Tư đang ở trong phòng học, thấy một cô gái tìm đến, mê thích vì sắc đẹp
nên ăn nằm cùng nàng.
Hỏi ở đâu đến thì đáp:
- Thiếp là láng giềng nhà Hà Tư.
Anh ấy trước thân thiắt với thiếp lắm, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết.
Cái giống yêu quái ấy thật đáng sợ. Phàm người đã đọc đến sách vở, phải nên cẩn
thận đề phòng.
Vương càng phục, bèn ân ái vui vầy với nhau.
Ðược vài hôm, đâm mê hoảng, gầy ốm.
Chợt mộng thấy Ðổng về bảo:
- Kẻ đang cùng anh mặn nồng là hồ đấy. Giết hại tôi rồi, nó lại còn muốn giết hại
cả bạn tôi nữa. Tôi đã kiện nó ở dưới Âm ty, để rửa mối hờn. Trong vòng bảy
hôm, cứ đêm đêm anh nên thắp hương ở bên ngoài phòng ngủ nhà mình đừng có quên.
Tỉnh dậy, lấy làm lạ, nói với cô gái:
- Tôi ốm lắm, e sắp bỏ thân nơi ngòi rãnh đến nơi, có người khuyên nên kiêng
chuyện chung chạ.
Cô gái đáp:
- Mệnh đáng thọ, dẫu gần đàn bà vẫn sống, mệnh không thọ thì không gần đàn bà vẫn
chết.
Lại ngồi kề bên mà cười đùa.
Vương kìm lòng không đậu lại cùng nàng mây mưa.
Xong rồi thì hối, nhưng vẫn không sao dứt hẳn được.
Ðến tối, cắm hương ở trên cửa.
Cô gái đến, nhổ vứt đi.
Ðêm lại mộng thấy Ðổng về, trách sao làm trái lời dặn.
Ðêm hôm sau, ngầm dặn người nhà chờ lúc mình với ả ngủ rồi hãy lén đốt hương
lên.
Cô gái đang ở trên giường bỗng hoảng hốt nói:
- Lại đốt hương nữa đấy à?
Vương đáp:
- Không biết.
Nàng vội trở dậy tìm thấy hương bẻ dụi tắt đi, rồi trở vào nói:
- Ai xúi anh làm như vậy?
Vương đáp:
- Có thể là đàn bà con gái trong nhà lo tôi đau ốm, tin lời thầy bói, thắp
hương để trừ tà đấy thôi.
Cô gái bối rối không vui. Người nhà lén dòm thấy hương tắt, lại đốt nén khác.
Cô gái chợt thở dài, bảo:
- Phúc trạch nhà anh còn dầy thật. Tôi đã lầm lỡ giết Hà Tư rồi lại chạy đến với
anh, thật đúng là lỗi của tôi.
Tôi sắp phải cùng anh ta đến đối chất trước toà án Âm ty.
Nếu anh không quên chút tình cũ, xin chớ làm hỏng mất cái túi da của tôi.
Nói xong, rụt rè bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết.
Ðốt lửa soi, đã thành một con chồn.
Còn sợ nó sống lại, vội gọi người nhà lột da, treo lên.
Bệnh Vương rất nặng, thấy hồ hiện về nói:
- Tôi đã kêu oan ở pháp toà. Pháp toà bảo chàng Ðổng thấy gái mà mê, chết là
đáng tội.
Nhưng cũng buộc tội tôi mê hoặc người không đúng, thu mất viên kim đan, rồi lại
cho sống lại.
Vậy bộ da của tôi ở đâu ?
Ðáp:
- Người nhà không biết đã đem lột mất rồi.
Hồ thảm đạm nói rằng:
- Ta giết người đã nhiều, nay chết kể cũng đã muộn. Nhưng anh thật nhẫn tâm
thay!
Hờn giận mà bỏ đi
Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.
Nhan thị
Nguyễn Ðức Lân dịch
Thuận Thiên Mỗ Sinh , nhà nghèo , gặp phải năm đói kém theo
cha đi đất Lạc kiếm ăn . Tánh chàng rất độn , mãi 17 tuổi mới viết chữ thành
hàng lối , nhhưng được bộ mặt lịch sự trai , khéo pha trò , tài nghề viết thư từ
, cho nên ai cũng tưởng là chàng học giỏi lắm , nhhưng không dè bên trong rỗng
tuếch .
Không bao lâu , cha mẹ kế tiếp qua đời , chàng trơ trọi một mình , phải làm nghề
gõ đầu trẻ ỡ Lạc , để kiếm ăn độ nhựt .
Lúc đó trong xóm có người con gái mồ côi , họ Nhan , dòng dõi một nhà học giỏi
. Khi người cha còn , thường dạy nàng học , chỉ đọc qua một lượt là nhớ nằm
lòng . Ngoài mười tuổi , học làm thơ , người cha nói :
- Nhà ta có nữ học sĩ , tiếc không được đội mũ thôi .
Vì thế ông rất mực yêu quí , chỉ mong kén được một người chồng quý hiển cho con
. Sau lúc ông qua đời , bà mẹ nàng vẫn ôm cái chí lớn đó . Nhưng đeo đuổi ba
năm cũng chẳng toại nguyện , kế bà ấy cũng mất . Có người khuyên nàng lấy chồng
học trò , nàng cũng đồng ý , nhưng cũng chưa kén được ai .
Vừa lúc mụ hàng xóm leo tường qua , nói chuyện với nàng , trong tay cầm một giấy
viết chữ gói chỉ thêu , nàng mỡ ra xem , thì là chữ của Mỗ Sinh viết gởi bạn ở
lối xóm . Nàng xem đi xem lại , khen ngợi chữ tốt . Mụ nọ dòm biết ý tứ , nói
nhỏ :
- Ấy là một chàng đẹp trai , cũng mồ côi như cô , tuổi ngang như cô, nếu cô bằng
lòng thì tôi mách chàng cậy mối đến là xong .
Nàng lẳng lặng không nói chi .
Mụ nọ về ngỏ ý với chồng . Người bạn lối xóm vốn chơi thân với chàng , đem chuyện
ấy nói , chàng bằng lòng lắm , nhân có chiếc vòng vàng của mẹ để lại , bèn cậy
người đem đến làm lễ vấn danh và xin cưới liền .
Vợ chồng như cá nước duyên ưa , hết sức vui vẽ . Ðến bửa được thấy văn bài chồng
làm , nàng phì cười và nói :
- Văn với minh dường như hai người , thế này biết đời kiếp nào thi đổ ?
Từ đó sớm hôm khuyên đốc chàng học , nghiêm khắc như thầy đối với học trò . Tối
đến , nàng chăm đèn ngồi , tự cất tiếng học ê a , học trước để làm gương cho chồng
; học mãi đến canh ba mới nghĩ .
Như vậy được hơn một năm , văn chương thi cử của chàng đã hơi thông , nhưng đi
thi khoa nào cũng rớt . Thân danh lận đận , sinh sống lại nghèo , tự nghĩ tình
cảnh buồn tênh , bất giác hu hu khóc lóc .
Nàng phát cáu , mắng nhiếc to tiếng :
- Trời để cho mình làm đàn ông thật uổng . Nếu để cho tôi bỏ khăn yếm , thay đổi
làm con trai , thì tôi coi sự thi đổ dễ như trò chơi vậy .
Chàng đang buồn rầu héo gan héo ruột , nghe vợ nói khoác như vậy , quắc mắt giận
nói :
- Mình là đàn bà , chưa được bước chân đến chổ thi cử bao giờ , mới tưởng công
danh phú quí như chuyện xuống bếp múc nước hay nấu cháo vậy . Nếu cho mình được
làm đàn ông thì rồi cũng lận đận rớt lên rớt xuống như ai , chứ tài giỏi gì ?
Nàng cười :
- Mình đừng nên giận , tôi nói thiệt đó . Ðến khoa thi này , tôi sẽ cải trang
mà đội tên mình vô trường thi , nếu quả thật tôi cũng lận đận rớt lên rớt xuống
như mình thì xin khoét mắt không dám coi rẻ thiên hạ nữa .
Chàng cũng cười và nói :
- Khanh chưa biết nổi cay đắng bên trong ra sao , nên muốn nếm thử . Ðã muốn vậy
thì cứ làm , nhưng tôi chỉ sợ chân tướng lộ ra bị làng xóm cười chê mà thôi.
Nàng trả lời:
- Tôi nhất định làm thiệt không phải giả bộ đâu. Còn nhớ thường ngày mình nói
tổ tiên có nếp nhà cũ ở đất Yên, vậy tôi xin cải trang làm con trai đi theo
mình về ở đó, giả làm em mình, làng xóm biết đấy là đâu.
Chàng nghe theo. Nàng liền vô buồng bịt khăn mặc áo nam tử đi ra hỏi chồng:
- Mình xem tôi có làm con trai được không nào?
Chàng nhìn vợ quả thật là một thiếu niên đẹp trai, trong lòng mừng rỡ, lập tức
đi chào lới xóm để về cố hương. Những người chơi thân đều có quà tặng, mua một
con ngựa đở chân, cùng vợ lên đường.
Người anh con nhà bác của chàng còn sống thấy hai em về, cùng trẻ đẹp, hết sức
vui mừng sớm hôm chăm nom giúp đỡ. Lại thấy hai em thức khuya dậy sớm chăm chỉ
học hành, lòng thêm yêu quý, thuê một thằng bé để hầu hạ riêng. Nhưng buổi tối, chàng đuổi thằng bé về.
Mỗi khi trong làng có đám cưới đám giỗ gì mời thĩnh, duy có anh (anh đây tức
là chàng) ra mặt, còn em chỉ ngồi học trong buồng, đến nổi về làng đã nữa năm
mà ít người được trông thấy mặt.
Có người nào ân cần xin cho giáp mặt thì anh từ chối hộ. Người ta xem văn bài
của em hay quá, lấy làm kinh hải. Có kẻ xông vào tận nơi thì em chỉ cái chào
qua loa, rồi ẩn mặt ngay.
Những người được thấy dung nhan, đều hâm mộ tán dương, vì thế tiếng tăm vang
dậy, mấy nhà quyền quý tranh nhau, muốn gã con gái cho. Người anh con bác
đem chuyện ấy bàn tính, em chỉ nhoẻn cười, cố nài ép thì nói:
- Thề lập chí trèo lên mây xanh, không thi đậu thì không lấy vợ.
Gặp kỳ thi hạch tại tĩnh, anh em cùng đi thi. Anh lại rớt. Em đậu số một, rồi
thi Hương đậu Cử nhơn thứ tư, qua năm sau đậu luôn tấn sĩ.
Trào đình bổ đi tri huyện Ðồng thành, việc cai trị giỏi dang, lần lần thăng
Chưởng Ấn Ngự Sữ ở Hà Nam, giàu có ngang bậc vương hầu. Rồi viện cớ bệnh tật
xin về quê quán hưu dưỡng. Quan khách đến thăm đầy ngỏ, đều từ tạ không tiếp.
Từ lúc học trò cho tới khi quý hiển, không hề nói tới sự cưới vợ, khiến ai
cũng lấy làm lạ. Sau khi về hưu, dần dà có nuôi thị nữ hầu hạ. Người ta nghi
chắc có sự tòn ten với mấy ả này, nhưng người chị dâu để ý dò xét, tuyệt
nhiên không có sự gì ám muội.
Minh trào mất ngôi, trong nước đại loạn, bấy giờ mới tự thú với chị dâu:
- Thú thiệt với chị, em không phải là đàn ông, mà chính là vợ của Tiểu lang
đó. Vì thấy chồng học lôi thôi thi mãi chẳng đậu, em phát cáu tự làm cho biết
tay. Bấy lâu giấu diếm hồi hộp, chỉ lo đở bể ra, bị nhà vua triệu vô tra hỏi
thì thiên hạ cười chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét