Cõi người ta 2
Tôi đã nói rất nhiều về Sa mạc cho anh nghe, nên trước khi tiếp
tục nói thêm về nó nữa, tôi muốn tả một màu xanh ốc đảo, một khóm ô-a-xi...
Khóm tôi nhớ lại đây, không nằm sâu trong sa mạc Sahara. Một phép màu nhiệm nữa
của phi cơ là đưa thẳng ta vào ở giữa lòng của huyền bí. Phía sau vành tròn cửa
kính con tàu, anh làm nhà sinh vật học nghiên cứu về đám người chen chúc trần
gian, anh nhìn bằng con mắt vô tư, lòng không mảy may rung động, những phố thị
kia nằm giữa đồng bằng, nơi trung tâm những đường ngang lối dọc xòe ra chia về
chân trời bốn ngã. Và giống như những đường mạch máu nuôi thân, mang tụ mật hoa
đất đồng về nuôi phố thị. Nhưng một mũi kim quay chợt rung động trên máy đo sức
ép, và cụm cây xanh ấy, dưới kia, đã biến thành một vũ trụ. Anh làm tên tù, hãm
thân trong một bãi cỏ giữa một khu vườn đang ôm mộng ngủ yên.
Cách trở không ước lượng độ xa xôi. Xa xôi không hẳn là cách
biệt. Bức tường ngăn một khu vườn xứ nhà vẫn có thể khép bọc nhiều bí mật hơn
trường thành vạn lý Trung Hoa, và linh hồn một cô gái nhỏ vẫn có thể được che
giữ bằng sự im lặng, còn kín đáo hơn cả giữa giãi cát dày dằng dặc che giấu những
Oasis trong Sahara.
Tôi kể lại đây cái lần ghé lại chốn kia một buổi. Chốn ấy ở gần
Concordia, xứ Argentine, nhưng cũng có thể là một nơi nào bất cứ: bí mật tràn
lan là như vậy, ai biết chắc chắn là hẳn riêng chỗ nào.
Tôi hạ cánh trên một khoảng đồng, không hề biết là mình sắp
được sống một chuyện thần tiên. Chiếc xe Ford cũ kỹ chở tôi không có gì đặc biệt,
và cũng không đặc biệt gì cặp vợ chồng hiền hòa yên tĩnh đón tôi.
- Chúng tôi mời ông nghỉ lại nhà tối nay...
Nhưng qua một khúc quanh, một chòm cây xuất hiện dưới trăng
vàng, và sau chòm cây là ngôi nhà ấy. Một ngôi nhà kỳ lạ. Thấp, nặng, to, gần
như một cung thành. Cung điện của huyền hoặc hoang đường, ta vừa bước qua ngõ rộng,
liền được đưa vào một cõi trú yên tĩnh, chắc chắn, được bảo đảm bền vững như
trong một nhà tu.
Rồi hiện ra hai thiếu nữ. Gái trang nghiêm nhìn tôi sòng sọc,
như hai vị quan tòa giữ cửa một cấm cung: cô nhỏ tuổi bĩu môi trề ra một cái, cầm
chiếc đũa gỗ lục gõ nhè nhẹ lên mặt đất, rồi lúc giới thiệu xong, hai cô chìa
tay cho tôi bắt, không nói nửa lời, với một kẻ thách đố lạ lùng, và biến mất.
Tôi vừa vui vừa thích thú. Sự việc sao đơn sơ, lặng lẽ và lén
chùng như cái tiếng đầu tiên của một niềm bí ẩn.
- Hừ! Hừ! Chúng nó man rợ lắm. Người cha thản nhiên nói.
Chúng tôi vào nhà.
Ở Paraguay, tôi từng đã yêu một thứ cỏ ngạo đời cắc cớ, cứ lò
đầu trong kẹt đá lót đường ở thủ đô, một loại cỏ của rừng thẳm nào vô hình mà
hiện diện, cứ mò vào thành phố coi chừng thử con người còn ở đấy hay thôi, coi
chừng thử xem đã tới giờ cần nên xô những lớp đá sỏi kia cho nhào chơi tí chút.
Tôi yêu thích cái dáng dấp tàn phế rụng rơi kia, nó biểu hiện một giàu sang quá
lớn. Nhưng tại nơi đây, tôi đã bàng hoàng thán phục.
Bởi vì tất cả tại đây cùng thi đua nhau mà tàn phế, và tàn phế
một cách đáng yêu, đáng yêu say đắm, tàn phế theo điệu một cây cổ thụ đầy rêu
trên mình, và vỏ da nứt rạn vì thời gian, tàn phế theo lối chiếc ghế gỗ dài nằm
im để cho người hai thế hệ uyên ương tới ngồi tình tự. Tại đây, ghế, bàn, tủ
cái, tủ con, đều mòn rã, những cánh cửa rạc rời, những ghế dựa long chân. Tuy
nhiên, đồ đạc hư, không được chữa, mà chùi rửa thì lại được chùi rửa với tất cả
nhiệt tình. Tất cả đều sạch sẽ, bóng nhoáng, sáng trưng.
Phòng khách vì thế có một bộ mặt nồng nã dị thường, như khuôn
mặt một bà lão nhăn nheo. Vách rạn, tường hư, trần nứt, tôi đăm chiêu yêu dấu,
và si mê nhiều nhứt là cái sàn nhà loang lổ, sập chỗ này, xiêu chỗ nọ, như chiếc
thang tàu thủy lay lắt phiêu bồng, nhưng nhất thiết luôn luôn được lau chùi
bóng lộn. Ôi ngôi nhà kỳ ảo, không gợi gì là cẩu thả lai rai, chỉ xui lòng
không cùng kính thán. Mỗi năm qua, càng gia tăng mùi hương cho dáng điệu, thêm
một chút nồng cho khuôn mặt phức tạp đa duyên, thêm một chút đượm lừng cho đựng
tụ mối nhiệt thành trong bầu không khí giao loan, cũng như thêm một chút hiểm
nguy cho cuộc hành trình phải đi trên con đường từ phòng khách tới phòng ăn.
- Coi chừng!
Một lỗ hổng. Người ta nhắc cho tôi nhớ rằng với một cái lỗ hổng
như thế, tôi để lọt chân vào, là có thể gãy giò cẳng như chơi. Cái lỗ kia, đâu
có tại người oái oăm mà có. Không ai chịu trách nhiệm cả. Đó là sự vụ thời
gian. Công trình của ngày tháng. Người ta ngang nhiên không xin lỗi nhau, đó là
cách điệu huy hoàng của vương chúa. Người ta không bảo tôi: "Chúng tôi
cũng có thể trám cái lỗ kia lại, chúng tôi có tiền, tuy nhiên... " Người
ta cũng chả bảo tôi - tuy nhiên là chuyện thật - "Chúng tôi thuê cái đó tại
nhà chủ ở thành phố, thời hạn ba mươi năm. Thành phố phải liệu tu bổ lấy. Bên
nào cũng nằng nặc... " Người ta coi thường, không giải thích, và tôi phải
thán phục cái phong độ đĩnh đạc kia. Nhiều lắm là người ta nhắc tôi:
- Hừ! Hừ! Hư hỏng chút ít đó...
Nhưng với cái giọng thật nhẹ nhàng, nên tôi ngờ là các bạn
tôi đây chả lấy đó làm điều chi cho ráo. Tôi đâu dám tưởng ra một đoàn thợ nề,
thợ mộc, thợ trần nhà, lũ lượt tới giữa một bầu quá khứ thơ ngây dịu ngọt như
thế; mà đem bầy ra một mớ những đồ nghề sắc tục hỗn mang, và trong tám ngày liền,
loay hoay làm lại cho ta một ngôi nhà khác, xa lạ hoàn toàn, ta chưa hề biết,
tư tưởng tới viếng thăm? Một ngôi nhà không quá khứ mông lung, không niềm riêng
man mác, không ẩn mật gốc tròn, không kín bưng hầm méo, không xó hóc hang xiêu
- một thứ sa lông nơi tòa nhị sảnh?
Trong ngôi nhà có lắm ngõ ngách oái oăm này, hai cô gái có biến
mất cũng là chuyện tự nhiên. Cái vựa chứa lúa trong nhà này thật sự nó ra làm
sao, khi mà căn phòng khách cũng đã chứa một kho tàng của vựa thóc! Khi người
ta đoán chắc rằng bất cứ một ngăn tủ nhỏ nào mở hé ra cũng sẽ thấy đổ ào xuống
nào những xấp thư vàng xạm, những giấy tờ, những thư chứng, khế ước của cụ cố
ngày xưa, và vô số những chiếc chìa khóa, nhiều gấp mấy lần số ổ khóa trong
nhà, và cố nhiên không chìa nào ăn nhập ổ nào cả! Những chìa khóa tuyệt vời vô
dụng, ngẫm mà xem thì lý trí chỉ xin chịu lơ láo đầu hàng, chúng xui ta mơ màng
nghĩ tới những kho hầm dưới đất; những đống tiền vàng.
- Xin hạ cố sang phòng ăn.
Chúng tôi ngồi vào bàn. Phảng phất khắp nơi một mùi thư viện
cũ từ phòng này sang phòng khác, vẫn man mác hương trầm, thơm tho hơn tất cả những
mùi hương trong thiên hạ. Và tôi thích nhất cái cảnh tượng dời các ngọn đèn. Những
cây đèn thật sự, to và nặng, người ta phải mang dời từ phòng này sang phòng
khác, như cái thời xa thăm thẳm trong tuổi thơ tôi, dời đèn đi thì bao nhiêu
hình bóng huyền ảo chập chờn di động nhảy múa trên những bức tường. Rồi, một
khi những ngọn đèn nằm yên đâu vào đó, thì những dãi ánh sáng tỏa từng vùng
cũng nằm im, bất động, và những khoảng tối lớn rộng xung quanh cũng không xê dịch
nữa, chỉ còn nghe tiếng gỗ kêu răng rắc ở trong đó mà thôi.
Hai cô con gái lại hiện ra, cũng huyền bí, cũng im lìm như
lúc biến mất trước đây. Họ trang trọng ngồi bàn. Chắc là vừa rồi họ đã mang thức
ăn cho chó, cho chim chóc họ nuôi, họ đã mở cửa sổ cho đêm xanh trăng tỏ đi
vào, và đã hít vào trong hai lồng ngực mênh mông những mùi hương ân tình của
hoa cỏ trong cơn gió đêm lẽo đẽo bay về. Giờ đây, hai cô mở tấm khăn ăn, kín
đáo nhìn tôi, thận trọng dò xét, tự hỏi không biết có nên sắp đặt tôi vào nằm
trong số những thú vật thân thuộc họ nuôi. Bởi vì hai cô cũng đã có một con kỳ
đà, một con cầy hôi, một con chồn, một con khỉ và một bầy ong. Mọi thứ đó sống
chung lộn lạo, ăn ý hợp tình nhau lắm, họp thành một thiên đường mới mẻ ở trên
đất trần gian. Hai cô trị vì trên mọi thú vật ở thế gian, vuốt ve chúng với những
bàn tay nhỏ ngón thon thon, cho chúng ăn, cho chúng uống, kể cho chúng nghe những
câu chuyện mà từ con cầy hôi tới bầy ong đông đảo, thảy đều chăm chú lắng tai.
Và tôi dám nghĩ rằng hai cô gái linh hoạt đến thế, ắt phải
đem tất cả óc xét đoán tế nhị của mình ra để mà nhận định về cái gã đàn ông ngồi
đối diện, nhận định nhanh, kín đáo và đúng vô cùng. Hồi tôi còn nhỏ, các chị
tôi cũng thường "cho điểm" những người khách lần đầu tiên tới dự tiệc
trong nhà. Và mỗi khi câu chuyện tàn bỗng nhiên nghe giữa lặng lẽ vang lên một
tiếng:
- Mười một!
Mà ngoài các chị tôi và tôi, không ai hiểu được ý nghĩa cợt
đùa thích thú trong đó.
Tôi đã từng biết trò chơi đó nên bây giờ thấy ngài ngại chút
ít. Và càng ngượng ngùng bối rối hơn, vì cảm thấy hai vị quan tòa quá am tường
ngành ngọn. Những vị phán quan đã quen phân biệt những con vật giảo hoạt với những
con vật thơ ngây, biết xem bước chân chồn đi mà nhận ra khi nó lành, khi nó dữ,
lúc nào nó cho phép lại bên gùn ghè, lúc nào nó phát cáu cự tuyệt. Hỡi ôi! Những
vị quan tòa tài ba như thế, gieo làn khía cạnh mà thấu suốt những đợt động triều,
tận đáy thẳm tâm linh.
Tôi yêu mến những cặp mắt tinh ranh và những tâm hồn ngay thẳng
đó, nhưng thật cũng rất mong họ thay đổi cách chơi. Tôi đớn hèn, tôi sợ cái điểm
"mười một", nên vồn vã chuyền muối cho hai cô, rót rượu cho hai cô,
những lúc ngẩng lên nhìn vẫn thấy trở lại trong đôi mắt hai cô vẫn nguyên vẻ
trang trọng dịu dàng của những vị quan tòa không ai lung lạc được.
Nịnh họ có lẽ cũng vô ích: họ không hề biết khoe khoang phù
phiếm. Không khoe khoang phù phiếm, nhưng rất có lộng lẫy tự kiêu, và không cần
nhớ tới tôi, họ cũng tự gán cho mình nhiều thứ tốt tươi mà chắc tôi không dám
nói. Tôi cũng không mong đem nghề nghiệp mình mà lòe ai được, vì chắc gì lái
phi cơ đã táo gan bằng việc leo lên chót vót ngọn dương ngô đồng mà thăm chơi một
cái tổ chim, coi chừng xem cái tổ chim non mới nở đã mọc cánh tốt tươi chưa, và
chào qua các bạn tí hon cho tốt tươi một tiếng.
Hai nàng tiên lặng lẽ vẫn dò chừng cẩn thận bữa ăn của tôi,
tôi bắt gặp mãi cái nhìn kín đáo của họ, cho đến nỗi tôi nao lòng không còn biết
nói chi. Bỗng dưng mà im lặng, và trong cơn im lặng đó, bỗng dưng nghe như có
cái gì thổ, "xít, xít" dưới sàn nhà, sè sè lướt dưới bàn ăn rồi nín bặt.
Tôi ngạc nhiên, ngước mắt tò mò. Cô em nhỏ tuổi, bây giờ như chừng đã hài lòng
trong sự nhận xét của mình nhưng còn muốn thử thêm cú chót cho thật chắc vàng
thau, cô gặm sâu vào mẩu bánh mỳ với hàm răng non man rợ, cô mới vắn tắt cắt
nghĩa cho tôi nghe bằng một dáng dấp thơ ngây băng tuyết, cô muốn làm cho cái
gã mọi rợ trước mắt mình phải sửng sốt một trận mà chơi, nếu thật tình gã ta
đúng là thằng mọi rợ:
- Mấy con rắn lục đó.
Và ngậm môi, nín lặng, hài lòng, như tuồng lời giải thích chất
hằng phỉ phong kia hẳn là phải đủ đầy lắm lắm đối với kẻ nào không quá tối dạ lần
khần. Cô chị liếc nhìn tôi một cái thật nhanh để xem thử cái cơn đầu tôi phản ứng
ra sao, và cả hai cùng một lần cúi gầm xuống dĩa ăn một khuôn mặt kiều diễm dịu
dàng thơ ngây nhất ở trong cõi trăm năm.
- À! Té ra là rắn lục...
Hồn hồn ngạc ngạc, những lời đó rúc từ môi miệng của tôi ra.
Ha! Những thứ của lạ đa đoan kia đã bò lòn vào trong ống chân tôi, nghe có tiếng
nhột nhột cho cái trái chân, và đó là té ra mấy con rắn lục...
May làm sao là tôi mỉm cười. Và không có chiều gượng gạo. Hẳn
hay cô nàng đã cảm thấy chứ ru! Tôi mỉm cười vì tôi sung sướng, tôi mỉm cười vì
mỗi phút cứ mỗi cảm thấy cái căn nhà càng khả ái thêm ra; tôi mỉm cười cùng vì
sao với ước mong biết thêm những cơn phiêu bồng hồn rắn lục. Thì cô chị nhoẻn nụ
cười dìu dặt giúp tôi:
- Chúng làm tổ trong cái hang ở dưới gầm bàn đấy.
Cô em nói lời theo.
- Khoảng mười giờ tối chúng mò về. Ban ngày, chúng săn mồi.
Tới lượt tôi bây giờ lén nhìn trộm hai cô một cái. Họ tế nhị
thông minh, họ âm thầm cười nụ ở phía sau hai khuôn mặt điềm tĩnh phiêu bồng.
Thật khôn xiết uy quyền nữ chúa...
Ngày nay tôi mộng lại. Những cái gì đó đã xa xôi. Mất cả rồi?
Hai nàng tiên ấy bây giờ ra sao? Đã lấy chồng? Thế ra là thay đổi? Từ cõi miền
thiếu nữ bước sang bờ thiếu phụ, tình trạng đó có trầm trọng? Có lâm ly? Hai
nàng làm gì trong căn nhà mới? Những mối giây ban đầu chấm dứt? Những tơ cỏ rối
bời và những con rắn lục đã đi đâu? Các nàng đã từng hòa thân trong cái gì của
càn khôn lớn rộng. Nhưng một ngày về, đã đánh thức hồn thiếu phụ trong tấm linh
hồn tuyết bạch gái thơ ngây. Người ta mơ tao phùng để ban cho ai một điểm mười
chín. Mười chín điểm! Con số đó trĩu nặng ở đáy lòng. Thì bỗng dưng một gã đần,
lai rai xuất hiện. Bỗng làm viễn khách tới trình diện nhị cô nương. Lần đầu
tiên, con mắt lịch duyệt tinh ranh của cô nương bỗng nhầm lẫn. Cô đem màu lộng
lẫy mà trang điểm gã lai rai. Chàng bê bối đọc thơ cho cô nghe, cô vội tưởng chàng
ta chính danh thi sĩ. Bé cái nhầm là rứa đó, hỡi người ta. Người ta tưởng gã
lai rai không phải người ngốc nghếch. Người ta tưởng gã lĩnh hội thông suốt những
diễm kiều trong lỗ hổng nhà người ta. Người ta tưởng gã cũng yêu cầy hôi, chồn
hám. Người ta tưởng hắn hài lòng vì rắn lục tin yêu, lay lắt bò leo trong ống
chân, gặm bàn bên dưới. Người ta đem trái tim mình ban cho gã, một trái tim
tròn trịa chất chứa mộng vườn hoang. Mà gã ta chỉ thích cái khu vườn vun vén.
Câu khư thất khiếu lên đường, gã lai rai đã mang nường tiên đi...
VI
TRONG SA MẠC
1
Những êm dịu thế kia chúng tôi không được phép hưởng thụ. Hằng
tuần, hằng tháng, hằng năm, làm thân phi công trên độ đường Sahara, chúng tôi
hãm thân mình trong cát, di chuyển từ lũy này sang lũy kia, không về. Sa mạc
này tuyệt nhiên không có những bóng xanh tương tự: vườn cây, thiếu nữ là chuyện
hoang đường. Cố nhiên, phương trời xa, nơi chúng tôi sẽ quay về ngày sau, lúc
xong phận sự, có hàng ngàn thiếu nữ chờ đón chúng tôi. Cố nhiên, nơi xa ấy,
ngày ngày nô giỡn với chồn hôi hoặc đọc sách, những thiếu nữ đó đương kiên nhẫn
sửa sang linh hồn cho dịu ngọt. Lẽ cố nhiên, họ lộng lẫy thêm ra...
Nhưng tôi biết cảnh cô đơn. Ba năm lăn lộn trong sa mạc, té
ra tôi đã quen mùi. Ở đây, ta không lo sợ tuổi xuân tàn tạ trong sa thành khô
khan. Ở đây ta lại thấy rằng, ở xa ta, chính trần gian đương già cỗi. Cây cối
đã đâm hoa kết trái, đất đai đã nảy nở lúa vàng, phụ nữ đã tới kỳ kiềm diễm.
Nhưng mùa chuyển nhanh, phải gắng về vội vã... Nhưng mùa chuyển gấp, mà ta còn
bận bịu nơi xa... Và những của quý trần gian cứ lọt qua kẽ tay như cát mịn cồn
gò.
Thời gian trôi, trôi mãi, nhưng con người thường không lưu
tâm nhận thấy. Họ sống trong yên bình tạm bợ. Nhưng bỗng nhiên chúng tôi nhận
thấy điều đó một lần hạ cánh xuống trạm nghỉ, gặp trận gió Tây liên miên thổi tới.
Chúng tôi giống như người đi tàu lửa tốc hành, tai nghe ầm ầm tiếng bánh sắt
nghiến trong đêm tăm, mắt nhìn những ánh đèn loáng thoáng vung vải bên kia miếng
kính cửa tàu nối đuôi nhau chạy giật lùi, mà hình dung những cánh đồng lai
láng, những thôn xóm êm đềm, những cõi miền huyền ảo, mà mình chẳng cầm giữ được
chút gì, vì còn bận chuyến đi. Chúng tôi cũng vậy, lòng còn bận rộn, tai còn ù
vì tiếng động cơ lúc đang bay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy mình đang xê dịch trên
dặm đường, mặc dù hiện đang đứng yên bình nơi trạm nghỉ. Chúng tôi cảm thấy
mình cũng đương bị cuốn hút về một cõi tương lai vô định, xuyên qua ý gió, bởi
nhịp động của máu tim.
Mỗi bất hòa ở vùng phiến loạn càng xui sa mạc heo hút thêm.
Những đêm dài tại Cap Juby, cứ mười lăm phút lại nghe tiếng hú của bọn lính gác
gọi nhau vọng từ điếm canh này sang điếm canh khác, khẩu hiệu cầm canh gióng giả
từng hồi như chuông đồng hồ điểm. Pháo đài Tây Ban Nha ở Cap Juby nằm sâu trong
vùng phiến loạn, họ cần phải làm thế để phòng ngừa những hăm dọa vô hình, những
hiểm nguy không phô khuôn mặt. Và chúng tôi, những du khách trên chuyến tàu mù
tăm ấy, chúng tôi lắng nghe tiếng hú từ xa lại, lớn dần, lớn mãi, và vây bọc
chúng tôi như đường vòng bay của hải điểu.
Tuy thế mặc dù, chúng tôi đã yêu sa mạc.
Nếu bạn sợ sa mạc chỉ là trống không và vắng lặng, ấy bởi vì
nó không chịu hiến thân cho cuộc trăng gió một ngày. Một thôn làng đơn sơ ở xứ
mình cũng đã ngại ngùng nép mặt. Nếu ta không vì nó mà từ bỏ những thứ khác bên
ngoài, nếu ta không chịu vào trong thói nhà phỉ phong truyền thống nó, không chịu
theo tập tục của nó, không chịu chia xẻ những cạnh tranh, những kháng cự dữ
dàng theo thói của nó, chúng ta sẽ hoàn toàn chẳng biết chút gì về cái cõi quê
hương mà thôn làng đó lập riêng cho một vài người. Phải thế chăng? Cách ta vài
bước, một kẻ sống ẩn thân trong tu viện, sống theo những quy tắc, lề lối xa lạ
với ta, kẻ đó quả thật cách biệt ta hơn mười vạn hoang vắng quan san, trong một
cõi xa xôi không phi cơ nào bay tới được. Ta tìm viếng thăm chi trong hang của
họ. Nó trống rỗng. Vũ trụ con người ta là vũ trụ nội tại. Sa mạc cũng vậy, sa mạc
không phải chỉ là cát, chỉ là dân Touareg hoặc người Maure, cho dẫu Maure có
súng, cho dẫu Touareg có ca-nông.
Nhưng chính bữa nay, chúng tôi vừa trải qua một trận khát. Và
cái giếng chúng tôi đã từng biết từ lâu, chính bữa nay, riêng bữa nay thôi,
chúng tôi mới thật khám phá thấy nó rạng tỏa mênh mông. Một người đàn bà vô
hình cũng có thể gây man mác đầm ấm cho khắp một căn nhà. Một cái giếng cũng
vang xa rào rạt, như tình yêu vậy.
Cát ban sơ vốn là hoang vắng. Rồi một ngày lo sợ một trận giặc
cướp tới gần, chúng ta đọc trên cát những nếp gấp của tấm áo bao la mà hiểm họa
đã tự phủ lên thân mình. Giặc cướp đã biến dạng cát.
Chúng tôi chấp thuận luật tắc của cuộc chơi. Cuộc chơi rèn
luyện chúng tôi theo hình ảnh nó. Sa mạc, chính tại lòng ta là nơi nó biểu hiện.
Ghé bờ sa mạc là gì? Không phải là vào viếng thăm ốc đảo. Ghé bờ sa mạc là:
sùng mộ nguồn nước giếng như một tôn giáo thiêng liêng.
2
Ngay chuyến bay đầu tiên, tôi đã bén mùi sa mạc. Chúng tôi ba
người, hai bạn Riguelle, Guillaumet và tôi, rơi sát cạnh đồn binh Nouatchott.
Cái đồn nhỏ này ở Mauritaine, thủa đó cô lập như một đảo nhỏ đơn sơ đơn chiếc lạc
hồn trong dặm biển. Một người đội già sống biệt lập nơi đây với mười lăm bác da
đen Sénégalais. Họ tiếp chúng tôi như tiếp sứ giả nhà Trời.
- A! Được nói chuyện với các anh, thật đáng nên cái đời một
cách! Cảm kích lắm. Cảm động lắm.
Viên đội cảm động thật, ông ta khóc:
- Ròng rã sáu tháng nay, các anh là những người thứ nhất tới
đây. Sáu tháng một lần, người ta tải lương thực tới cho tôi. Khi thì trung úy,
khi thì đại úy. Lần sau cùng, chính là đại úy...
Chúng tôi thì còn đang bàng hoàng. Dakar còn cách hai giờ đường,
bữa ăn trưa chờ chúng tôi tại đó, một cái trục long đi, và con người ta cũng đổi
luôn định mệnh. Chúng tôi trở thành những thiên thần hiện xuống bên viên đội
già đang khóc như mưa giông.
- Này! Các anh uống đi chứ! Mời rượu các anh, lòng tôi vui
quá. Các anh nghĩ xem! Lần đại úy tới, tôi chẳng có một giọt rượu nào để mời
ngài xơi cả đó.
Tôi ghi chuyện này vào trong một cuốn sách nhưng là chuyện thực,
chớ không phải chuyện tiểu thuyết. Viên đội già bảo chúng tôi:
- Lần đó tôi không nâng ly chạm cốc được... Tôi xấu hổ quá nên
phải xin đổi đi nơi khác.
Chạm cốc! Chạm mạnh một cốc với một người kia từ trên lưng
con lạc đà phóng xuống, nhễ nhại mồ hôi. Suốt sáu tháng tròn, sống là cốt đón
chờ cái phút đó. Từ một tháng nay, người ta lau chùi võ khí, quét dọn sạch sẽ
lũy hào. Và từ mấy hôm nay, bén mùi đánh hơi, biết là ngày vui sắp lại, người
ta leo lên tầng cao để trông chừng về cái phía chân trời, liên miên nhìn không
biết mỏi, ngóng chờ xuất hiện cái đám bụi tung lên và cuộn tròn trong đó đội
quân di động từ Atar phi về...
Nhưng rượu hết rồi. Hết rượu rồi thì người ta không thể đón mừng
ngày hội. Người ta không chạm cốc. Người ta thấy mình mất hết thanh danh. Đời
mà đến thế thời thôi. Giờ mong đợi cũng là giờ bỏ đi...
- Tôi nóng lòng chờ đại úy trở lại: Tôi nóng lòng chờ...
- Ông ta hiện đang ở đâu, thầy đội?
Viên đội đưa tay chỉ vào trong cát rộng:
- Làm sao mà biết. Đại úy thì ở khắp nơi.
Đêm hôm ấy cũng là đêm thật, cái đêm chúng tôi nằm khoèo trên
chóp lũy mà bàn chuyện ngàn sao. Không còn trông vời đám bụi nữa. Ngàn sao ở
đó, đầy đủ sa số hằng hà, như lúc lái phi cơ, nhưng bây giờ đứng im mà vằng vặc.
Ngồi trên phi cơ những đêm trời đẹp quá, người ta lơ đãng bỏ
rơi tay lái, và chiếc phi cơ nghiêng dần về phía tả. Tưởng nó vẫn ngay ngắn như
thường lệ bay đi, bỗng nhiên người ta chợt ngó thấy một khu làng khang tịnh,
khinh khiêu ở dưới cánh phi cơ phía tay phải. Nhưng trong sa mạc không có khu
làng. Ắt phải là khu vực của đoàn tàu đánh cá dặm khơi. Dặm khơi nào? Vây bọc
Sahara, không có khu vực đoàn tàu dặm khơi chài cá. Vậy thì? Vậy thì người ta
đành mỉm cười chuyện nhầm lẫn lộn xộn. Và dịu dàng, xin sửa lại đường bay. Và
khu làng ban sơ lại trở về đúng nguyên vị trí. Hồng nhan được trả lại gốc phần.
Ta giao lại cho nền trời, chòm sao ta vừa để cho rụng xuống.
Khu làng ư? Vâng. Khu làng thanh tịnh ạ. Khu làng thanh tú,
xóm tịnh ngàn sao. Nhưng trên chóp đồn nhỏ, trông lên chỉ còn như một sa mạc
giá băng như tê cóng, như những đợt sóng cát im lìm. Những chòm sao gắn chặt ở
vòm trời. Viên đội già bảo:
- Này nhé! Tôi thạo phương hướng lắm. Nhắm thẳng theo vì sao
này, là thẳng tiến tới Tunis.
- Thầy quê ở Tunis chắc?
- Không. Cô em họ tôi ở đấy.
Im lặng kéo dài rất lâu. Nhưng viên đội không dám giấu chúng
tôi một điều gì cả:
- Rồi thế nào cũng có ngày tôi đi Tunis.
Vâng, đi Tunis bằng một con đường khác, chứ không phải nhắm
thẳng lên vì sao kia. Trừ phi, trong một cuộc hành trình nào đó, một nguồn giếng
cạn không bất ngờ xô ông vào cõi mộng bấn loạn của tình điên. Tới lúc đó, thì cả
ngôi sao, và cô em họ, và phố Tunis sẽ hòa chung một trận. Tới khi đó là khởi đầu
cuộc viễn du lai láng thần và tiên, mà người phàm vốn tưởng là đau xót.
- Đã có lần tôi xin Đại úy cho phép về Tunis thăm người em
gái họ. Nhưng đại úy trả lời rằng...
- Trả lời rằng sao?
- Trả lời rằng: "Trong thế gian này chứa đầy xiết bao là
cô em họ gái". Rồi vì muốn chỉ vẽ lối gần, đại úy cho tôi đi Dakar.
- Cô ấy đẹp chứ, cô em họ thầy?
- Cô em họ ở Tunis? Quyết nhiên là đẹp. Cô ta tóc vàng lơ.
- Cô ở Dakar? Hẳn là chịu sút?
Thầy đội ơi, tôi chỉ muốn ôm hôn thầy vì câu trả lời nửa sầu
nửa hận:
- Cô ấy vốn người da đen... chiêm bao bờ cỏ...
Sa mạc của thầy rồi? Phải thế ru? Hay chính một Thần Linh
thiên thu về gọi? Hay cũng là nguồn dịu ngọt trong suối tóc hồng vàng, và đìu
hiu thân thể của cô em họ xa vời, dặm nghìn nước thẳm ở cách thầy năm nghìn cây
số sa mạc bên kia?
Còn sa mạc chúng tôi? Là những gì nảy nở ở trong tôi. Những
gì chúng tôi hiểu biết về chính chúng tôi. Trong đêm ấy bọn chúng tôi cũng tha
thiết yêu thầm một người em gái họ và một vị quan ba.
3
Ở sát bờ những vùng phiến loạn, Port-Étienne không phải là một
thành phố. Một cái lũy, một căn nhà chứa phi cơ, và một cái trạm bằng ván gỗ
làm nơi tạm trú cho bọn phi công chúng tôi. Sa mạc ở xung quanh trùng trùng điệp
điệp, vì vậy cho nên sa mạc dù Port-Étienne không dồi dào quân khí, nó vẫn là một
địa điểm rất khó tranh cường mà thủ thắng. Muốn tấn công nó, phải vượt qua một
dãi cát và lửa bát ngát, cho nên bọn loạn quân tiến vào tới nơi thì đã kiệt lực,
sau khi đã cạn sạch hết bao nhiêu lương thực và nước súc trữ. Tuy nhiên từ các
vùng phương Bắc lại, thường vẫn có một đội loạn quân tiến về phía Port-Étienne.
Mỗi lần vị đại úy toàn quyền tới thăm chúng tôi và uống một tuần trà, ông mở địa
đồ ra và vạch cho chúng tôi nhìn xem con đường tiến tới của bọn loạn quân, như
kể cho chúng tôi nghe chuyện một công chúa nào xưa trong cổ tích. Nhưng đám loạn
quân không bao giờ tới đích, họ bị cát ăn mòn hút cạn như hút nước một dòng
sông, và chúng tôi gọi họ là loạn quân ma. Mớ đạn nhà cầm quyền cho chúng tôi mỗi
đêm, vẫn nằm yên ổn ở dưới chân giường, trong thùng chứa. Và chúng tôi chẳng có
địch thủ nào để đấu chọi, ngoài sự chiến đấu với vắng vẻ, chúng tôi chẳng có gì
che chở ngoài sự che chở bảo đảm nhất, là nỗi cùng khốn của mình. Và Lucas, chỉ
huy sân bay, chỉ biết có ngày đêm liên miên vặn máy hát, và ở xa vắng quá đối với
cuộc đời, máy hát phát những âm thanh nghe chừng như ngôn ngữ lạ, và gây một mối
sầu vô cớ, sao lại giống lạ lùng mối u sầu những khi khát nước dưới trời xanh.
Tối hôm đó, chúng tôi dùng bữa trong lũy, vị đại úy toàn quyền
mời chúng tôi thưởng ngoạn thửa vườn ông. Ông đã nhận được từ Pháp gửi sang, ba
thùng đất đã vượt bốn nghìn cây số để tới đây. Trên đám đất ấy bây giờ đã mọc
ba chiếc lá xanh, chúng tôi đưa ngón tay mân mê như mân mê những hòn ngọc. Nói
tới đó, vị đại úy bảo: "Thửa vườn của tôi đó". Và mỗi khi gió cát thổi
qua, thổi cháy hết vạn vật, thì người ta mang thửa vườn đi giấu kỹ ở dưới hầm.
Chúng tôi ở cách pháo đài một cây số, lúc ăn xong, chúng tôi
quay trở về, đi dưới bóng trăng. Dưới bóng trăng, cát điểm màu hồng. Chúng tôi
cảm thấy mình xác xơ, nhưng cát điểm màu hồng. Nhưng một tiếng gọi của lính
canh bỗng xô bi thống vào giữa cõi miền. Đó là toàn bãi Sahara đang rùng mình
nhìn thấy bóng chúng tôi, và lên tiếng hỏi, vì một đám loạn quân cũng đương tiến
về.
Trong tiếng kêu của người lính canh, tất cả mọi âm thanh của
sa mạc vang dội về một lúc. Sa mạc không còn là một ngôi nhà vắng: một đoàn người
Maure truyền từ khí cho đêm trường.
Chúng tôi có thể tưởng mình được yên lành. Thế nhưng! Bệnh tật,
tai nạn, loạn quân, bao nhiêu hăm dọa đương lò dò bước tới! Con người là cái
đích trên mặt đất để cho những cung tên ẩn kín bắn tới. Và người lính canh da
đen vừa nhắc lại điều đó, như một tiên tri.
Chúng tôi đáp: "Chúng tôi là người Pháp!" và bước
qua trước các vị thiên thần đen. Và hô hấp dễ chịu hơn. Mối hăm dọa kia đem lại
cho chúng tôi một niềm cao nhã. Ô còn xa lắm lắm, chẳng cấp bách gì, còn bị
ngăn chặn hòa hoãn bởi cát bãi mênh mông: nhưng thế giới không còn như trước.
Sa mạc đã trở thành lộng lẫy xiết bao. Một đội loạn quân cất bước đi đâu đó, dẫu
không bao giờ tới được tại đây, đã đem về cho sa mạc một thần tính thiêng
liêng.
Bây giờ đã mười một giờ đêm. Lucas từ máy vô tuyến đến cho
tôi hay là phi cơ Dakar sẽ tới lúc nửa đêm. Trên tàu vô sự. Mười hai giờ mười,
thư từ trên tàu đó sẽ chuyển sang xong xuôi tại tàu tôi, và tôi sẽ cất cánh về
phương Bắc. Trước tấm gương sứt mẻ, tôi chăm chú cạo râu. Thỉnh thoảng giữ
nguyên khăn choàng cổ, tôi bước lại bên cửa nhìn ra mặt cát bên ngoài. Trời tốt,
nhưng gió đã ngừng thổi. Tôi trở lại bên tấm gương. Tôi suy nghĩ mông lung. Một
thứ gió thổi, thổi cho hàng tháng, nếu bỗng dưng mà ngừng, ắt phải làm rộn cả
thinh không. Bây giờ, tôi đeo vào người: các thứ đèn cấp cứu đeo vào nịt lưng,
máy đo độ cao, bút chì. Tôi đi tìm Néri, anh bạn vô tuyến tối nay trên tàu. Anh
cũng đương cạo râu. Tôi hỏi: "Không sao?". Lúc này, vâng, mọi sự
không sao. Công việc soạn sửa này là công việc ít khó nhọc nhất của chuyến bay.
Nhưng tôi nghe một tiếng sè sè, một con chuồn chuồn sa mạnh vào chiếc đèn bấm ở
nịt lưng. Không hiểu sao, nó làm tôi nao dạ.
Tôi ra ngoài nhìn: cảnh vật trong suốt. Một mô đất bọc sân
bay nổi bật trên nền trời, như giữa ban ngày vậy. Trên sa mạc, bầu không khí vắng
vẻ yên tịnh bao trùm. Nhưng khi đó, hai con chuồn chuồn và một con bướm lục chạm
đầu vào đèn bấm của tôi. Một lần nữa, tôi cảm thấy nao lòng, một nỗi gì khó hiểu,
có lẽ là niềm vui, có lẽ là lo sợ, từ đáy thẳm trỗi dậy, còn rất mơ hồ, nhưng
khe khẽ báo hiệu. Kẻ nào từ xa xăm đang nói gì với tôi. Phải là linh tính
chăng? Tôi lại bước ra: gió đã ngừng hẳn. Trời vẫn mát dịu. Nhưng tôi đã đón nhận
lời khuyến cáo. Tôi đoán chừng, tôi tưởng đoán ra điều tôi chờ đợi: đúng chăng?
Cả bầu trời, cả mặt cát cũng không cho tôi dấu hiệu gì, nhưng hai con chuồn chuồn
đã lên lời, và một con bướm lục.
Tôi trèo lên đụn cát, và ngồi hướng mắt về phía Đông. Nếu tôi
đoán không lầm, thì "cái đó" chẳng còn chậm mấy đâu. Hai con chuồn
chuồn kia tới đây tìm gì? Từ những cụm cây xanh giữa sa mạc, vượt hàng trăm cây
số, tới đây tìm gì?
Những mảnh nhỏ dạt dào bờ biển, báo cho biết rằng bão tố
đương nổi cơn cuồng nộ, ngoài khơi. Thì mấy con côn trùng này cũng nói cho tôi
biết rằng một trận bão cát đương lên đường; một trận bão cát dậy từ phương
Đông, đã xô đuổi ra khỏi những bãi kè bao nhiêu đời bướm lục. Bọt bèo của giông
bão đã bay tới chạm vào tôi. Và trầm trọng vô cùng vì đó là một bằng chứng, và
trầm trọng vô cùng vì đó là hăm dọa lớn lao, và trầm trọng vô cùng vì nó chứa
trong mình một cơn bão tố, gió Đông đang dậy đây rồi. Cơn gió xa xôi, tôi ở đây
đón chút hơi thở nhẹ. Sóng động nghìn trùng, tôi ở đây là điểm tận đợt sóng
trào qua. Hai mươi thước phía sau tôi, không một sợi tơ nào run rẩy. Hơi nồng
trận gió quyện lấy tôi một lần, một lần thôi, thoáng qua như chừng đã tắt.
Nhưng tôi biết rằng những phút giây sắp tới, Sahara sẽ dậy cơn lần nữa, và thở
đợt thứ hai. Không tới ba phút nữa thì con diều gió trên nóc nhà chứa sẽ động
mình phe phẩy. Và mười phút nữa, cát bãi sẽ tung trời. Chốc nữa tôi sẽ cất cánh
trong biển lửa này, lửa sa mạc sắp trở về thiêu nướng.
Nhưng đó không phải là điều kích động tôi. Điều xui tôi hứng
thú tràn trào trong niềm vui man dại, ấy là đã thấu hiểu một ngôn ngữ bí mật
qua một vài tiếng ngập ngừng, ấy là đã đánh hơi theo đuổi được một dấu vết,
không khác chi con người thái cổ chỉ nghe qua những tiếng động âm thầm, cũng
đoán được cả tương lai đương báo hiệu, ấy là tôi đã đọc được cơn thịnh nộ của
trời đất trong đôi cánh đập của một con chuồn chuồn.
4
Ở đó, chúng tôi đã từng liên lạc với những người Maure nghịch
loạn. Từ những miền sâu cấm địa, họ mò ra những miền chúng tôi đã vượt qua bằng
phi cơ; họ lần mò men tới tận lũy Juby hoặc Cisneros để mua bánh mì, đường hoặc
chè uống, rồi quay trở về chìm trong bí mật của mình. Những lúc gặp họ, chúng
tôi có thử gắng cảm hóa một vài người.
Nếu là thủ lĩnh có ảnh hưởng quan hệ, đôi lúc chúng tôi chở họ
lên phi cơ để chỉ cho họ xem cảnh tượng thế giới. Cũng là để đánh chìm lòng
kiêu ngạo của họ. Bởi vì chúng tôi biết sở dĩ họ giết hại tù nhân, ấy không phải
vì căm hờn, mà do lòng khinh bỉ. Gặp chúng tôi ở quanh quẩn đồn lũy, họ cũng chả
thèm chửi rủa. Họ chỉ quay mặt đi, và khạc nhổ. Lòng kiêu hãnh đó chính do ảo
tưởng mình mạnh mà ra. Bao nhiêu người trong bọn họ, từng tổ chức được những đội
quân ba trăm tay súng, đã nhiều lần bảo chúng tôi: "Nước Pháp các anh tốt
phúc lắm vì ở xa chúng tôi hơn một trăm ngày đường".
Chúng tôi chở họ đi ngoạn cảnh, và thế là lần hồi đã có ba
người sang viếng nước Pháp xa xôi. Họ thuộc dòng giống những kẻ một lần theo
tôi sang Sénégal, đã khóc ầm như mưa lúc được nhìn cây cối lần đầu tiên trong đời.
Lúc gặp lại họ trong những căn lều vải, họ ca tụng mãi những
rạp ca vũ với những đàn bà khỏa thân nhảy múa giữa hoa tươi. Đó là những người
chưa bao giờ từng nhìn thấy một gốc cây, một cái lá cỏ, một mạch nước giếng, một
đóa hồng. Họ chỉ biết, qua kinh thánh Coran, là có những khu vườn và khe suối
chảy, đó là tên họ gọi cảnh Thiên Đường. Thiên Đường ấy và những nàng Tiên diễm
lệ trong đó, sẽ mở cửa đón mời người ta, người ta sẽ nhận phần thưởng đó bằng
cái chết xót xa trên cát quạnh, do phát đạn của người ngoại đạo, sau ba mươi
năm gian khổ khốn cùng. Nhưng Thượng Đế phỉnh phờ bọn họ, vì Thượng Đế cho người
Pháp hưởng mọi hoan lạc kia mà chẳng đòi hỏi gì hết; không cần phải trả bằng
đói khát, không cần phải trả chủ bằng cái chết điêu linh. Thế nên bây giờ họ mơ
tưởng, họ mơ tưởng mãi, những tù trưởng già... Thế nên chi bây giờ nhìn ra bốn
xung quanh căn lều cho tới mãn đời mình, dãi Sahara chỉ hứa hẹn những lạc thú
quá mong manh, họ ngậm ngùi thả cái linh hồn buông ra câu tâm sự.
- Này này... Thượng Đế của người Pháp... Thượng Đế của người
Pháp rộng rãi với người Pháp hơn là Thượng Đế của người Maure đối với người
Maure!
Vài tuần trước đấy, họ đã được đưa đi viếng vùng Savoie. Người
dẫn đường đưa họ tới trước một thác nước mạnh, đổ xuống xoáy tít ì ầm.
Người ta bảo họ:
- Các ông uống thử đi.
Và thấy là nước ngọt. Nước! Tại quê hương họ, muốn tìm tới một
cái giếng gần nhất, phải tốn bao nhiêu ngày đường. Và nếu tìm ra, còn phải mất
bao nhiêu thì giờ đào cho xong lớp cát lấp ngang miệng giếng, mới bắt gặp mớ
bùn lầy pha lẫn nước tiểu của lạc đà! Nước! Ở Cap Juby, ở Cisneros, ở Port-Étienne,
bọn trẻ con người Maure không xin tiền bạc, chúng chìa một hộp thiếc ra để xin
chút nước:
- Cho xin chút nước, cho xin...
- Nếu mày ngoan.
Nước quý hơn vàng, mỗi giọt tí hon cũng đủ làm nảy lên tia
lóe xanh lục của ngọn cỏ giữa bãi cát khô khan. Mỗi khi có trận mưa đâu đó, người
ta đổ xô nhau tìm tới. Sa mạc rộn ràng. Từng bộ lạc kéo nhau đi tìm ngọn cỏ sẽ
mọc nơi nào, cách chừng ba trăm cây số xa kia... Thứ nước đó, hiếm hoi là thế,
hẹp lượng vô cùng, từ mười năm nay chưa rơi một giọt xuống Port-Étienne, thứ nước
đó bỗng ì ầm tuôn trào tại xứ xa kia, nghe như chừng bao nhiêu kho nước quý của
trần gian bỗng tuôn ra từ một cái thùng nước vỡ.
- Ta đi xem nơi khác! Người dẫn đường bảo.
Nhưng họ không nhúc nhích.
- Cho chúng tôi nán lại chút nữa...
Họ yên lặng, đăm chiêu, không lời, không tiếng, trước cảnh bí
mật trang nghiêm đang phơi bày cuồn cuộn. Cái thứ của lạ này, từ trong lòng núi
ồ ạt đổ ra, đó là sự sống, đó là máu huyết con người. Chảy một giây thôi, cũng
đủ cứu sống hàng bao nhiêu đoàn người đi trong sa mạc, khát nước như điên cuồng,
liên miên đi mãi, lao mình vào giữa vô tận của những hồ nước muối và những chập
chờn ảo tưởng mà thôi. Tại nơi đây, Thượng Đế hiển hiện: không lẽ gì ta đành
quay lưng đi cho được. Thượng Đế mở rộng các bờ đập của ngài và tỏ rõ quyền uy
cho thiên hạ thấy: ba người Maure đờ đẫn đứng im lìm.
- Các ông còn muốn xem chi nữa? Đi thôi...
- Phải chờ đã.
- Chờ gì?
- Chờ xong.
Họ muốn chờ cái lúc Thượng Đế mỏi, không còn hoang phí nữa.
Thượng Đế vốn người hà tiện, Ngài mau ân hận lắm.
- Nhưng thác nước này chảy tự nghìn năm!...
Thế nên tối nay họ không muốn bàn bạc nhiều về thác nước. Vì
có những phép lạ, mình nên tránh nói tới là hơn. Cũng nên tránh suy nghĩ tới
quá nhiều, nếu suy nghĩ nhiều thì chẳng còn biết hiểu ra cái gì làm sao nữa nữa.
Suy nghĩ nhiều, e phải hoài nghi Thượng Đế mất thôi...
- Thượng Đế của người Pháp, anh thấy đó...
Nhưng tôi hiểu họ vô cùng, những bạn man di kia. Họ ngồi đấy,
bàng hoàng trong niềm tin dao động, họ bối rối ngổn ngang, và từ đây nao núng sắp
chịu quy phục rồi. Họ ước mơ được quân lương bộ Pháp tiếp tế lúa mạch cho, và
được quân đội Pháp ở Sahara bảo đảm an ninh cho. Và một phen chịu quy thuận rồi,
thế nào họ cũng sẽ được hưởng nhiều quyền lợi vật chất.
Nhưng cả ba người đều thuộc dòng dõi El Mammoun, tù trưởng bọn
Trarza. (Tôi e mình nhầm lẫn tên ông).
Tôi có biết ông này thủa ông còn thần phục chúng ta. Ông được
đặc biệt trọng đãi vì những công trạng lập nên, ông trở nên giàu có vì được các
vị thống đốc nâng đỡ, các bộ lạc kính nể ông, những của cải thế gian dường như
ông không thiếu một thứ nào cả. Nhưng một đêm kia, không ai ngờ được, không một
dấu hiệu gì báo trước, bỗng nhiên ông tàn sát các sĩ quan cùng đi với ông vào
sa mạc, cướp hết lạc đà, súng ống, rồi chạy về tái hội với những bộ lạc chưa
quy hàng.
Người ta gọi những sự nổi loạn thình lình như vậy là phản trắc
- những cuộc đào vong vừa oanh liệt vừa tuyệt vọng của một người tù trưởng từ
nay chịu lưu đày trong sa mạc; người ta gọi là phản trắc, chút vinh quang ngắn
ngủi kia, nó sắp chìm tắt mất rồi như một đốm lửa tàn, lúc chạm phải đội quân
di động từ Atar về. Và người ta ngạc nhiên trước những hành động điên rồ nọ.
Tuy nhiên câu chuyện của El Mammoun cũng là câu chuyện của
nhiều người Ẳ rập khác. Mỗi ngày mỗi già thêm. Và khi trở về già, người ta suy
gẫm. Rồi một đêm u buồn, chợt thấy mình đã phản bội chúa Hồi giáo, chợt thấy
mình đã làm chuyện đê hèn, đã làm hoen ố bàn tay mình trong bàn tay người Thiên
chúa giáo, lúc đưa tay kí kết bản đính ước một cuộc đổi trao, trong đó mình chịu
thiệt thòi toàn diện.
Và gẫm ra cho kỹ, lúa mì và hòa bình đối với ông nào có nghĩa
lý gì... Chiến sĩ sa cơ biến thành mục phu lây lất, chợt não nùng hồi tưởng lại
và nhớ ra xưa kia đã từng sống trong một dải Sahara bát ngát, mà mỗi một nếp
cát mỗi chứa chan những hăm dọa ẩn dấu trong mình, mỗi một đồn quân đóng trại
trong đêm sâu mỗi rình rập quân nhạc, lẩn khuất những chòi canh với lính gác tuần
phòng, nơi chốn của những tin đi, tin lại, tin về cấp báo những điều động của địch
quân, nơi chốn của những quả tim nhảy phập phồng chung nhịp, quanh những ngọn lửa
hồng đỏ rạng ban đêm. Đó là cái hương vị trùng khơi biển rộng, làm sao ai quên
được, nếu một lần đã có nếm qua.
Chợt ngó lại bây giờ tấm thân lơ láo lạc loài, bước quẩn
quanh trong một vùng yên định không còn một chút uy phong. Chính bây giờ, chỉ
bây giờ thôi, dải Sahara mới thật sự là sa mạc.
Nhưng sĩ quan mà ông sẽ giết, có lẽ ông vẫn tôn sùng. Nhưng
tình thương Allah trên hết.
- Chúc ông ngon giấc El Mammoun.
- Thượng Đế phù hộ cho ngài.
Những sĩ quan cuộn tròn trong chăn nệm, duỗi dài thân trên
cát như một chiếc bè, ngửa mặt lên trời sao. Ngàn sao chầm chậm quay tròn, một
vòm trời đương điểm giờ trên đó... Đây vừng nguyệt chênh vênh trên bãi cát, được
dìu về hư không do Chân Như dẫn dắt. Những người Thiên Chúa giáo sắp ngủ say rồi.
Vài phút nữa thôi, trên vòm kia chỉ còn lại ngàn sao lấp lánh. Thì lúc đó, muốn
cho các bộ lạc suy đồi được thiết lập trở lại trong vòng lộng lẫy ban sơ; thì
lúc đó, muốn cho những cuộc chạy thi gan rượt đuổi cùng một lúc dấy lên cho
tưng bừng cát bãi, thôi chỉ cần một chút xíu đưa tay, thôi chỉ cần cái tiếng
kêu yếu ớt của những người Thiên chúa giáo bị bóp nghẹt hơi thở, bị nhận chìm hồn
phách trong giấc ngủ của họ mê man... Chỉ vài giây nữa thôi, và từ sự vụ bất khả
vãn hồi kia, một vũ trụ tân kỳ sẽ xuất hiện.
Và từ đó, những sỹ quan lộng lẫy ngủ ngon kia bị sát hại
5
Hôm nay tại Juby, hai anh em Kemal và Mouyane mời tôi một tuần
trà trong căn lều của họ. Mouyane lặng lẽ nhìn tôi; tấm mạng xanh kéo trùm kín
miệng, Mouyane giữ một thái độ dè dặt man di. Chỉ Kemal ân cần tiếp chuyện,
chén tác chén thù:
- Lều vải, lạc đà, cả vợ tôi và các nữ tỳ của tôi, đều là của
ông cả đấy.
Mouyane mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi, nghiêng mình về phía anh hắn,
ghé môi thì thầm vài tiếng, rồi nín lặng.
- Anh ấy nói gì thế?
- Hắn bảo: "Bonafous đã cướp mất một nghìn con lạc đà của
bọn R'Gueibat".
Đại úy Bonafous, sĩ quan lạc đà binh trong đội quân đóng tại
Atar, tôi không quen biết ông ấy. Nhưng được biết tiếng tăm lỗi lạc của ông chấn
động trong đám người Maure. Người Maure nói về ông với một niềm phẫn nộ, nhưng
lại xem ông như một loại thần linh. Sự hiện diện của ông làm cho cát sa mạc trở
thành "có hạng". Hôm nay ông lại vừa xuất hiện lần nữa, chẳng ai rõ bằng
cách nào, mà lại đánh tập hậu bọn loạn quân đang tiến về phía Nam, và cướp mất
hàng trăm con lạc đà của họ, buộc họ phải quay lưng chống trả, hầu có giải cứu
những kho tàng từng được phòng giữ rất nghiêm, tưởng không lọt vào tay ai được.
Và bây giờ, khi đã giải cứu Atar bằng cách đột ngột xuất hiện của thiên thần
thượng đẳng, khi đã đóng yên quân trên một gò đá vôi cao rộng, ông ngang nhiên
đứng lầm lì trên đó, như khiêu khích thiên hạ bốn bề có giỏi thì tới ăn thua
chơi, và hào quang ông chiếu tỏa tới độ nào mà các bộ lạc đua nhau kéo tới rùng
rùng chịu chơi trước ngọn đoản kiếm của ông.
Mouyane nhìn tôi khắc nghiệt hơn và nói nữa.
- Anh ấy nói gì?
Hắn bảo: "Chúng tôi sáng mai sẽ đi đánh Bonafous. Ba
trăm cây súng"...
Tôi đã đoán chừng ắt phải có chuyện chi đây. Từ ba hôm nay,
những lạc đà được dắt tới giếng, những bàn tán gần xa, dằng dai chuyện vãn, những
phấn khích nhiệt tình... Như sửa soạn sắp đặt lèo lái cho một chiếc thuyền vô
hình nào đương rục rịch ra khơi. Và gió biển đã lên, đã rì rào bốn ngả, cơn gió
nồng sắp dìu dập thổi căng buồm xô thuyền rẽ sóng ra đi. Chính bởi có Bonnafous
mà mỗi bước tiến về Nam là mỗi bước lừng vang oanh liệt. Và tôi không còn biết
biện biệt thế nào là yêu đương hay thù hận chất chứa trong những cuộc lên đường
chinh phạt nhau kia.
Có một kẻ thù lộng lẫy dường ấy ở giữa trần gian để mà sát hại
- còn gì tráng lệ cho bằng. Nơi nào y xuất hiện đột ngột, là nơi đó các bộ lạc
gần gũi vội vã tháo lều xếp gió, tập trung lạc đà phăng phăng chạy trốn, để
tránh cuộc đối diện không lành, nhưng những bộ lạc ở xa thì lại choáng váng ngất
ngây như ngất ngây trong cơn tình ái vậy. Người ta giũ áo lên đường, lìa bỏ đời
sống yên vui trong lều vải, từ khước lạc thú ôm ấp vợ, nồng da mịn lá, từ bỏ giấc
ngủ tê mê, vì người ta chợt thấy: không có gì ở trần gian đáng giá cho bằng cái
việc: sau hai tháng trời liên miên đi mãi, đi kiệt sức về Nam, chịu đói, chịu
khát, chịu dừng chân thu hình lăn lóc chờ mong giữa gió cát lên cơn, rồi bất
thình lình một sớm tinh sương được chạm trán với đội quân di động Atar, và tại
đó, nếu Trời Phật giúp cho, sẽ lấy đầu tên Đại úy Bonnafous một mẻ.
- Bonnafous mạnh tợn. Kemal thú thật với tôi.
Bây giờ tôi biết niềm riêng bí ẩn của họ rồi. Những gã đàn
ông ao ước đàn bà, một kiều diễm phụ nữ, thôi thì liên miên mơ tưởng tới gót ngọc
hờ hững dạ du, rồi thuê hoa dệt bướm, canh trường thao thức trằn qua trở lại,
đau đớn xót xa, máu tim cháy bỏng từng cơn, nhịp theo gót chân đi hờ hững, và hỡi
ôi! gót về hờ hững dội mãi vào cơn mộng mà tiếp tục đi mãi gót dạ du... Thì
theo lối đó, bước chân xa xôi của Bonnafous cũng đang dày vò tâm linh nọ. Đi bọc
hậu những toán kiêu binh tới tấn công mình, cái vị chỉ huy theo Thiên chúa giáo
kia, ăn mặc theo lối người Maure cầm đầu hai trăm tên cướp người Maure, đã vào
sâu trong nội địa của loạn quân, nơi mà tên thuộc hạ hạng tồi nhất của ông cũng
rất có thể động cơn dấy loạn, trút bỏ nghiệp tôi đòi, mà không tội lỗi gì cả,
vì đã thoát mọi ràng buộc của luật tắc người Pháp, nơi mà bọn bộ hạ rất có thể
lén cắm vào lưng ông một nhát dao, hy sinh ông để tế Thần Linh của mình trước
bàn thờ bằng đá vàng ở chính nơi đó, chỉ riêng uy phong của ông là kiềm chế họ,
và ngay cả nhược điểm của ông của xui họ kinh hoàng. Và đêm nay, đi giữa giấc
ngủ bọn họ với những ngáy khò, ông vẫn hừng hờ bước qua bước lại, và tiếng chân
ông vang dội vào tới tận giữa lòng sa mạc hoang liêu.
Mouyane ngẫm nghĩ, trầm ngâm ở cuối căn lều, im lìm như một
pho tượng bằng đá lục hoa cương. Chỉ hai con mắt là long lanh sòng sọc, và mũi
dao bạc không còn là một thứ đồ chơi. Anh đã thay đổi xiết bao, kể từ ngày gia
nhập kiêu binh! Chưa bao giờ anh cảm thấy sự cao cả của mình như bữa hôm nay,
anh nhìn tôi như muốn ép giập tôi dưới làn nhãn quan chứa đầy khinh bỉ; bởi vì
anh sắp tìm tới Bonnafous để đọ tài, bình minh hôm sau anh sẽ lên đường, thôi
thúc bởi mối căm hờn mang đủ đầu những dấu hiệu yêu thương.
Một lần nữa, anh ghé vào tai người anh thì thầm, và đưa mắt
ngó tôi.
- Anh ấy nói gì?
- Nó bảo nó sẽ bắn ông một phát, nếu gặp ông ở xa đồn lũy.
- Vì sao vậy?
- Nó bảo: "Ông có phi cơ, ông có vô tuyến, ông có
Bonnafous, nhưng ông không có chân lý".
Mouyane im lìm trong mớ khăn xanh trùm phủ, không nhúc nhích
giữa những nếp gấp bất động như những lằn xếp trên xiêm áo tượng đá, Mouyane đã
phán xét tội trạng tôi:
- Hắn bảo: "Ông ăn rau hau háu giống như dê cái ăn rau,
ông ăn thịt heo ngốn ngấu như heo nái ăn thịt heo. Đàn bà xứ ông không biết xấu
hổ, sẵn sàng phơi cái mặt mo ra", hắn có gặp cái loại đàn bà đó. Hắn bảo:
"Ông không cầu nguyện bao giờ". Hắn bảo: "Phi cơ của ông, vô tuyến
của ông, Bonnafous của ông, có giúp ông nên cái tích sự gì, nếu ông không có
cái chân lý?"
Và tôi phải chinh phục anh chàng Maure này, anh không bảo vệ
tự do anh, vì trong sa mạc bao giờ người ta cũng tự do, anh không bảo vệ những
của cải, những kho tàng hữu hình nào cả, bởi vì sa mạc nó trống không, anh chỉ
bảo vệ một sơn hà bí ẩn. Trong cõi tịch liêu sóng cát, Bonnafous đang điều động
đội quân mình như một tên hải tặc lịch duyệt, và nhờ gã đó mà chốn dừng chân
đóng trại tại Cap Juby này bỗng dưng không còn là cõi cư trú cho bọn chăn nuôi
nhàn rỗi. Giông bão Bonnafous xô về, đè nặng một bên hông, vì Bonnafous mà người
ta phải thu hẹp lều vải mỗi đêm hôm. Vắng lặng cõi trời Nam, ôi não lòng làm
sao là cơn vắng lặng: vắng lặng Bonnafous, do linh hồn Bonnafous thao túng! Và
liệp hộ Mouyane, thiệp liệp giang hồ, đương im lìm lắng nghe Bonnafous dấn gót
chân dội vào lòng gió.
Ngày sau Bonnafous sẽ trở về đất Pháp, thì quân thù của ông sẽ
chẳng lấy thế làm mừng. Họ sẽ khóc. Ông bỏ đi đâu, ông đi rồi, thì sa mạc mất
đi một từ-cực hấp dẫn, cuộc tồn sinh kẻ ở lại sẽ mất đi một sắc uy phong. Họ sẽ
bảo tôi:
- Chớ bảo mần răng mà Bonnafous lại bỏ mà đi như rứa?
- Tôi đâu có biết đâu nào...
Ông đã đem cuộc tử sinh của mình ra liều giữa trận tiền tử
sinh của họ, đằng đẵng bao năm. Đem luật tắc sinh tồn của họ làm luật tắc sinh
tồn cho mình. Ông đã nằm ngủ nơi đây, gối đầu mình trên đá khô đất họ. Trong cuộc
triền miên đuổi bắt nhau dìu dặt, ông cũng như họ, đã từng biết đến những đêm
trường Kinh Thánh gồm toàn cát với gió với sao. Thế mà bỗng dưng ông dứt áo ra
đi, như bảo chúng tôi biết rằng từ bấy tới nay ông không chơi một cuộc chơi cốt
yếu. Ông ngất ngưởng rời bàn, vươn vai bỏ cuộc. Và những người Maure ở lại u buồn,
cô đơn trong cuộc chơi dang dở, mất lòng tin ở một lẽ sống không còn đòi hỏi
con người phải dấn thân tới kiệt tận máu xương mình. Nhưng họ vẫn muốn còn hoài
vọng:
- Lão Bonnafous của ông, lão sẽ còn trở lại.
- Tôi đâu có biết.
Lão sẽ còn trở lại, người Maure tin như thế. Những trò chơi của
Âu Châu làm sao mà làm vừa lòng lão được. Những trò chơi của Âu Châu, những cuộc
đánh bài lây lất, những quan giai lần lần, những đàn bà vỏ hến... không,
không... những thứ đó không thể cầm chân lão ta mãi. Lão sẽ còn trở lại đây, cuộc
sống hiên ngang vùng vẫy mất đi sẽ còn ám ảnh lão, nơi đây, mà mỗi bước chân đi
là mỗi khua động linh hồn, giục buồng tim nhảy, mỗi bước chân đi trên cát là mỗi
bước chân về xứ sở yêu đương. Lão ta tưởng nơi đây chỉ sống điệu lai rai phiêu
bạt trăng gió vật vờ, lão ta tưởng về lại xứ kia mới là cõi bờ cốt yếu, nhưng
lão sẽ ngao ngán nhận thấy rằng những của quý chân chính, riêng chốn này là chỗ
đã cung cấp hết cho lão ta, riêng sa mạc này là nơi lão ta đã sở hữu những kho
tàng vô giá: cát bãi oai hùng, trời đêm hoang vắng, quê hương của gió, tổ quốc
của ngàn sao. Và nếu Bonnafous sẽ trở lại một ngày nào, thì tin tức kia, ngay
đêm đầu tiên, sẽ tràn đi khắp nơi suốt vùng phiến loạn. Người Maure khắp nơi sẽ
kháo với nhau rằng lão ta hiện đường nằm ngủ ngon giữa hai trăm tên cướp thuộc
hạ, ở một nơi nào đâu đó trong bãi Sahara. Lão ta đương ngủ... Tức thời thiên hạ
sẽ khởi sự lặng thinh dắt lạc đà lại giếng. Thiên hạ sẽ soạn sửa lương thực.
Thiên hạ sẽ xem xét cẩn thận họng súng. Thôi thúc bởi cuồng nộ căm hờn kia, hoặc
thiết tha ân tình nọ.
6
- Hãy lén chở tôi lên một chiếc phi cơ đi Marrakech...
Hằng đêm tại Juby tên nô lệ người Maure kia vẫn nhắc nhở tôi
lời khẩn cầu nọ. Sau đó, khi đã cố hết sức mình để được sống, lão ngồi xuống xếp
bằng tròn và pha trà cho tôi. Thế là kể từ đó, lão thanh thản được trong một
ngày, vì theo lão nghĩ: mình đã phó thác mình cho vị thầy thuốc duy nhất có thể
chữa lành mình, mình đã khẩn cầu vị thần linh duy nhất có thể giải cứu mình. Từ
đó nghiêng thân trên ấm nước, lão nghiền ngẫm lại những hình ảnh đơn giản của đời
mình, những đồng đất đen miền Marrakech, những ngôi nhà hồng tươi, những của cải
giản đơn mà lão đã bị người ta tước đoạt mất.
Tôi im lặng, lão không lấy thế làm phiền, lão không oán hận
tôi sao lại trễ tràng không ban ngay đời sống cho gã; lão nghĩ rằng tôi không
phải một người giống lão, mà ấy là một sức mạnh để thúc giục lên đường, để lịch
sử tiến tới, một cái gì đó giống như một trận gió lành, sẽ thổi dậy một ngày,
hiền hòa đưa đẩy định mệnh của lão đi xuôi thuận.
Nhưng tôi, một phi công trơn trụi, tạm thời vài tháng làm chỉ
huy sân bay tại Cap Juby, tất cả tài sản chỉ thu gọn trong một căn lều lơ láo tựa
lưng vào thành lũy Tây Ban Nha, với một cái thau, một bình nước mặn, một cái
giường quá hẹp bề dài, quá ngắn bề ngang, thì tôi lại không có chút ảo tưởng
nào về quyền hành của mình mấy tí:
- Lão Bark ơi, việc ấy, rồi sẽ bàn tới sau.
Một người nô lệ cùng mang tên Bark; vậy lão cũng tên là Bark.
Nhưng mặc dù bị bắt đã bốn năm rồi, lão vẫn chưa đành chấp thuận: lão nhớ rằng
xưa kia mình đã từng là chúa.
- Hồi ở Marrakech lão làm chi?
Ở Marrakech, chắc vợ con lão bây giờ còn sống, lão đã từng làm
cái nghề thật huy hoàng:
- Tôi chăm súc vật từng bầy, và tên tôi là Mohammed.
Các quan tổng trấn tại đó vẫn thường cho lính vời lão tới:
- Ta có một bầy bò muốn bán, Mohammed ạ, lão vào trong núi
lùa chúng ra đây.
Hoặc:
- Ta có một nghìn con cừu ở ngoài cánh đồng kia đó, lão còn mạnh
giò thì đưa chúng lên đồi cao gặm cỏ.
Hoặc:
- Ta có một trăm con dê cái. Lão hãy đi tìm hộ con dê đực hoa
cà về mà thả vào chuồng nọ cho ta.
Hoặc:
- Bầy cừu của ta hôm nay u buồn quá đỗi. Như tuồng chúng
nhung nhớ non thẳm rừng sâu. Lão liệu lùa chúng lên dãy Nga My một chuyến. Luôn
tiện lão cũng gặp dịp đổi gió một phen.
Bà Bark, tay cầm một nhánh ô liêu như quân quyền vương trượng,
uy nghiêm lên đường, thung dung điều khiển đàn súc vật, như một đấng anh tài có
toàn quyền tiện nghi bát tiểu, việc ngoài đổng nhung... một mình đảm đương trọng
trách việc cai quản cả trăm họ cừu xinh, sao cho chỉnh tề hàng ngũ, gò bớt bước
chân con nào đi nhanh quá trớn làm nhọc bạn đồng hành phái yếu đương mang nặng
và sắp đẻ đau, hoặc thôi thúc bước chân những con nào biếng nhác... Lão bước đi
giữa trăm ngàn nhịp động của trăm ngàn quả tim súc vật tòng phục tin yêu. Một
mình lão định đoạt hành trình: một mình lão biết sẽ hướng về "đất hứa"
nơi nào; một mình, lão đoán ra bước đi trên dặm đường lúc đăm chiêu đọc hồng
vàng tinh tú, thông trải ngọn ngành một khoa học tế vi, đâu có truyền thụ ra
cho con cừu thiền quyên nào được; một mình, lão quyết định lúc dừng chân, giờ
nghỉ ngơi, khu giải khát, thể theo niềm duyệt lịch của mình. Và đêm về, một
mình đứng nguy nga giữa đàn cừu yên ngủ, lão âu yếm nhìn, động lòng nhân ái trước
bao nỗi khờ khạo yếu đuối thơ ngây, lão im lìm, lông len ngập tới đầu gối, lão
biến thành vị thầy thuốc thời đại bách khoa, tiên tri hiển thánh, vương chúa uy
quyền, đương nguyện cầu cho trăm họ cừu ngủ ngon.
Một hôm, gặp bọn người Ẳ Rập tới bảo:
- Theo chúng ta đi tìm súc vật phương Nam.
Người ta dắt lão đi thật lâu, và sau ba ngày, mò vào sâu
trong một con đường núi hẻm ở sát cánh vùng phiến loạn, người ta đơn sơ đưa bàn
tay ra nắm lấy vai lão, đổi tên lão ra Bark, và bán đứng lão đi.
Tôi cũng quen biết nhiều người nô lệ khác. Hằng ngày tôi tới
uống trà trong những căn lều. Chân trần, nằm duỗi dọc thân ra, trên một tấm thảm
bằng len thượng hạng, đó là món xa xỉ của người du mục lưu ly, nằm trên đó vài
giờ cũng gọi là thiết lập cõi nhà cư lưu một buổi, nằm trên đó tôi lặng nghe
ngày trời chuyển dịch. Trong sa mạc, ta nhận ra cái dặt dìu trôi chảy của thời
gian. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, người ta cũng nghe mình đương bước tới
chiều hôm, bước tới cõi gió xanh sẽ thổi, sẽ tắm gội hình hài và gột rửa mồ
hôi. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, thú vật và người ta, cùng rủ nhau một
nhịp tiến về cái hồ giải khát lớn rộng đó của hóa công, tiến về đó chắc chắn vững
bền như tiến về cõi chết. Và như vậy, sự nhàn rỗi không bao giờ là nhàn rỗi uổng
công. Nhàn rỗi là tỉ mỉ êm đềm bước đi bên ngày đẹp, và bất cứ ngày nào lại chả
đẹp, như những con đường kiều diễm đưa tới bối rối trùng dương.
Tôi quen biết họ, những người nô lệ ấy. Họ bước vào căn lều
lúc thấy chủ mang từ trong hòm của cải ra nào lò, nào ấm, nào ly cốc... từ
trong cái hòm nặng nề chứa đầy những đồ vật lai rai một cách! Những ổ khóa vắng
chìa, những chậu hoa, mà hoa nào đâu thấy bóng, những tấm gương ba xu, những
binh khí cũ kỹ, những thứ gì gì lạc lõng tới đây lửng lơ nhìn cát, kể thật cũng
như dường những thứ của phá gia, chút oan gia bọt bèo thuyền đắm trôi dạt cập bờ.
Người nô lệ lặng yên cho củi khô cành héo vào lò, đổ nước vào
ấm, phồng má thổi vào lửa nhún nhen, chịu chơi một cách! Đem sức voi hùm di sơn
dịch hải, để làm cái công việc của một gái choai choai. Đem gân cốt đại bàng lướt
gió mà vin cành thùy liễu gợn tiểu khê. Chàng vẫn giữ cơn yên vui tịch mịch.
Chàng ta đâm ra bị cuốn hút trong làn du khoái cuộc chơi: pha trà, chăm sóc lạc
đà, ăn cơm vào trong miệng. Dưới cơn thiêu nướng của mặt trời, cứ đều đặn bước
đi về chiều tối; và dưới cơn băng giá của ngàn sao trơn trụi, cứ mơ màng hoài vọng
cái trận nướng của mặt trời thiêu. Hỡi những xứ miền phương Bắc! Các ngươi sướng
vô ngần lắm đó, các ngươi biết chăng ru. Trời của các người là trời vần xoay tiết
điệu, với nhịp mùa tuần tự kết liên mà tác thành cho ngày hè một hoang đường
chiêm bao tuyết bạch, mà tác tựu cho đêm tàn đông lạnh một rạng rỡ mộng trời
xanh! Mà tẻ sao là nhiệt đới! Nằm trong lò hấp ngột chẳng thay qua, đổi lại chi
nhiều. Mà sướng thay là vẫn dải Sahara này với ngày đêm không ngớt, với đêm
ngày cứ liên tục đơn sơ mà đánh nhịp dập dìu cho hồn ai trở cơn lên xuống, tự
hoài vọng nọ tới ước mong kia.
Đôi phen người nô lệ da đen, ngồi khoanh chân tròn khoeo trước
cửa, phơi linh hồn phiểu diểu trong làn gió hây hẩy. Hoàng hôn êm ái như ru. Lặng
nghe dễ khiến thân tù tội mê. Nặng sao vòng hãm tư bề. Làn xanh kỷ niệm không về
bãi hoang. Chỉ nghe hiu hắt đôi hàng. Phút giây giờ cũ pha càn đòn đau. Kêu
xin, nài nỉ nơi nào. Bàn tay ai đẩy tôi vào chốn nay. Từ đó tới nay? Kể từ những
cú đấm túi bụi vào mình, quật mình nhào lăn vào trong đêm âm u hiện tại, kể từ
giờ phút đó tới nay, anh chàng chìm thân trong giấc ngủ dị thường, mê sảng mơn
man như mù mắt, đâu còn nhìn ra hình bóng những sông dài chậm chảy xứ Sénégal,
đâu còn nhìn thấy màu trắng xóa những phố thị Maroc phương Nam, mê sảng triền
miên như tai ù, tai điếc, đâu còn nghe nữa những giọng nói quen thân. Anh bạn
da đen, anh không đau khổ khốn đốn, anh chỉ như tật nguyền. Một ngày lọt vào
vòng tồn sinh động hoạt của người du mục, kết chặt chẽ thân mình vào trong những
cuộc xê dịch lưu ly, suốt đời cột da xương mình vào bàn chân vạch ngang, vẽ dọc,
xoay tròn của bọn người kia hoạch định trên mặt cát. Anh còn giữ được chi nữa
những liên lạc từ nay với quá khứ, với gia đình, với một cô vợ và mấy đứa con,
đối với anh giờ đây mọi thứ kia đã chết không khác chi những người đã chết.
Có những kẻ lâu ngày đã sống tình yêu lớn rộng, rồi chợt mất
đi, bỗng đôi lúc chán chường niềm cô đơn cao nhã. Họ lai rai ghé lại bên đời,
kiếm một tình yêu tầm thường, đem cọ vào làm hạnh phúc. Họ cảm thấy khoan khoái
trong đầu hàng, quân vương xin thoái vị nhường ngôi, làm thân ty tiện, man mác
làm sao là cái phận phiêu bồng bèo bọt, cơn gió vàng đưa đẩy cái mặn mà cát lũy
vào trong vòng tĩnh mịch cỏ nội hoa hèn. Nô lệ hãnh kiêu bằng giàu sang của chủ.
Hồn thục nữ bốc hơi nồng bên lượng cả bao dong, dẫu bao là bất thình lình thuận
buồm thong dong về một Châu Thai buôn bán.
- Này, này, uống đi, cho mày đấy. Thỉnh thoảng chủ bảo tớ như
thế.
Đó là cái giờ chủ ân cần với tớ, nhân vì sự nhọc mệt đã qua
cơn, nhân vì trận nóng nướng thiêu đã tan dịu, nhân vì tớ thầy cùng sát cánh
bên nhau bước vào cõi trời chiều mát gió. Và chủ ban cho tớ một ngụm trà trong
tách đẹp tay nâng. Và kẻ tội đồ đón lấy ly trà lưu ly từng giọt, lệ lưng tròng
vì thâm tạ tri ân trĩu nặng, sẽ quỳ xuống mà hôn vào đầu gối hai chân của chủ.
Kẻ nô lệ chẳng bao giờ bị đọa đầy trong xiềng xích. Cần chi thế chứ! Hắn trung
thành một cách! Hắn ngoan ngoãn cái cõi lòng hớn hở khước bỏ trong thân phận
mình một ông vua da đen mất ngôi là thế: hắn hài lòng vô hạn với cái phận bây
giờ là một tên nô lệ lờ lững vui sướng xiết bao.
Tuy nhiên một ngày kia người ta sẽ phóng thích hắn. Ấy là lúc
hắn đã quá già, sức mấy mà xứng áo xứng cơm, thôi thì thôi cũng chiều lòng, cho
mày vô hạn một vòng bước ra. Một chân trời bát ngát tự do! Suốt ba năm ròng, hắn
lần mò từ lều này qua lều nọ, luống cuống van xin được gửi thân tôi đòi, mỗi
ngày mỗi yếu thêm đi, cho đến cuối ngày thứ ba sức kiệt, lực cùng, nhưng luôn
luôn vẫn là ngoan ngoãn, hắn nằm duỗi dài trên mặt cát, hai mắt mở to. Tôi có
thấy những người như thế tại Juby, nằm chết trần truồng. Người Maure đi bên cạnh
trong giờ họ hấp hối, hấp hối kéo dài. Người Maure chạm vào họ nhưng không tàn
nhẫn chi, và bọn trẻ con người Maure nô giỡn bên cạnh tấm thân tàn u ám, và mỗi
bình minh chạy tới thăm chơi, coi chừng có còn cựa quậy, nhưng không cười cợt kẻ
tớ già. Đó là chuyện tự nhiên, lẽ thường. Không chi lạ. Cũng như bảo: "Anh
đã làm việc giỏi, anh đáng được ngủ rồi, thôi thì hãy ngủ đi". Lão vẫn nằm
dài, cảm thấy đói, cái đói gây cơn choáng váng, nhưng không cảm thấy nỗi bất
công tàn ác nào đày đọa mình. Lão hòa thân dần dần vào với đất. Mặt trời thiêu
đốt, cõi đất đón vào lòng. Ba mươi năm vất vả, rồi cái quyền được ngủ yên, cái
quyền về với đất.
Người nô lệ đầu tiên gặp tôi, tôi không nghe than vãn gì: ấy
bởi rằng không có ai để trách. Tôi đoán nghe trong hồn gã chút niềm gì như chấp
thuận phiêu diêu, mơ hồ man mác, đó nỗi lòng như của một sơn nhân lạc rừng, kiệt
lực, nằm duỗi thân trên tuyết, cho phiêu bồng tuyết phủ, cho mộng tưởng về vây.
Cái xui tôi bứt rứt, không phải là sự đau khổ của y. Tôi không tin điều đó.
Nhưng trong cái chết một con người, một vũ trụ xa lạ chết theo, và tôi tự hỏi
những hình ảnh nào đã chìm theo thân họ. Những đồn điền, những cây lá nào của xứ
Sénégal, những thành phố trắng vôi, bạc vách nào của miền Nam Maroc đã lần hồi
tắt ngấm trong lãng quên. Tôi không biết, không thể nào biết được, trong khối
hình hài đen đủi nọ, có lẽ nào chỉ tắt lịm là những khốn cùng khổ nhọc thôi
sao; những tầm thường lo lắng trà pha, súc vật lùa tới giếng... tôi không biết...
chỉ một linh hồn nô lệ ngủ thôi, hay ấy một con người, chợt hồi sinh trong triều
dâng kỷ niệm, đã huy hoàng vĩnh biệt cõi đời, trong viễn tượng nguy nga. Mảnh
xương sọ cứng, tôi thấy giống cái rương cũ chứa những kho tàng. Kho tàng gì?
Tôi không rõ những gấm vóc nào sặc sỡ, những hình ảnh nào tưng bừng yến tiệc,
những dấu tích nào quá cổ hủ giữa khung cảnh nơi này, quá vô ích, quá hão huyền
giữa sa mạc này, vẫn còn nguyên trong đó, thoát khỏi vòng chìm đắm điêu linh.
Tôi không biết, không biết gì hết cả. Cái hòm rương vẫn còn nằm tại đó, khóa
kín, nặng nề. Tôi không biết cái phần nào của cuộc thế đương tàn rã trong con
người suốt giấc ngủ khổng lồ của những ngày chung cục đã tàn rụng trong mảnh
tâm linh và thể xác nọ đương lần hồi biến thể để trở thành đêm tối và rễ cây.
- Xưa tôi là kẻ mục tử lùa dắt dê cừu, xưa tên tôi là
Mohammed...
Bark là người nô lệ da đen đầu tiên tôi gặp đã cưỡng kháng,
không chịu buông xuôi. Cái việc bị người Maure tước đoạt tự do, xâm phạm quyền
lợi, làm cho lão hoàn toàn trơn trụi trên mặt đất, việc đó chẳng hề gì. Có những
bão tố Thượng Đế gây ra, tàn phá trong một giờ bao nhiêu mùa màng công khó của
người ta. Nhưng người Maure còn gây điêu linh cho lão một cách trầm trọng hơn
nhiều: sâu xa hơn cái việc xâm phạm quyền lợi, tự do, của cải, người Maure đã
làm tổn thương tới chính cái con người của lão, người Maure hăm dọa lão ngay
trong trung tâm nhân vật lão ta. Và Bark quyết định không chịu đầu hàng, trong
khi bao nhiêu nô lệ khác đã không bận lòng thắc mắc, cứ để yên cho chết hẳn
trong thân mình cái hình hài một gã chăn cừu lao khổ quanh năm kiếm cơm nuôi sống.
Bark không nằm yên ổn trong vòng nô lệ như người ta nằm yên
trong một hạnh phúc tầm thường sau khi đã mỏi mòn chờ đợi. Lão không muốn lấy
những thi ân độ lượng của chủ nô lệ làm nên hạnh phúc yên vui của đời nô lệ
mình. Lão giữ nguyên cho gã Mohammed vắng biệt, cái ngôi nhà xưa cũ mà y từng
đã ở, ngay trong lồng phổi mình. Cái ngôi nhà quạnh hiu vì vắng chủ, nhưng
không một kẻ nào khác được phép bước vào. Bark giống như một người đầy tớ canh
gác một ngôi nhà, tới ngày bạc tóc, nằm giữa cỏ cây vây bọc những lối đi nẻo về,
giữa quạnh quẽ ngậm ngùi, đành chết đi trong niềm chung thủy.
Lão không nói: "Tôi là Mohammed ben Lhaoussin" mà bảo:
"Xưa kia tôi tên là Mohammed" vì mơ màng tới một ngày nào đó, nhân vật
bị lãng quên kia sẽ hồi sinh, và riêng với cuộc hồi sinh nọ, sẽ xua đuổi xa lìa
dáng dấp nô lệ ngày nay. Đôi lần, giữa vắng lặng đêm tăm, bao nhiêu kỷ niệm bỗng
ùa về một lúc, dào dạt tràn đầy như một điệu hát tuổi thơ.
Viên thông ngôn người Maure kể lại với chúng tôi rằng:
"Nửa đêm, giữa canh khuya, lão nhắc tới thành Marrakech rồi lão
khóc". Ai tránh được những ngậm ngùi hồi tưởng đó, lúc cô đơn! Con người
cũ bỗng trở giấc ở trong mình, không báo trước cho hay. Con người cũ thức dậy,
vươn vai, duỗi dài tay chân trong tứ chi của lão, mò mẫm tìm cái vú con vợ nằm ở
bên hông, giữa sa mạc này không bao giờ có đàn bà bén mảng; Bark lắng nghe tiếng
suối chảy ở nơi này là chốn không bao giờ có suối trôi. Và Bark mắt nhắm nghiền,
tưởng mình ở một ngôi nhà trắng xóa, đêm đêm ngồi dưới một ngôi sao quen thuộc,
chính bây giờ đương ở chỗ thiên hạ cư trú trong những căn lều vải len thô và đuổi
theo hồn gió. Mang nặng trong lòng những ân tình thân ái đó, những niềm yêu dấu
cũ càng đương bí mật rạt rào lên tiếng như gần gũi đâu đây, Bark tới tìm tôi,
Bark muốn bảo với tôi rằng lão đã sẵn sàng, rằng những niềm thân ái của lão
cũng đã sẵn sàng, và lão chỉ còn có đi trở về tới quê, là đem ra phân phát. Chỉ
cần một dấu hiệu của tôi là đủ. Rồi Bark mỉm cười, vẽ cho tôi cái trước, hẳn là
tôi chưa có nghĩ ra:
- Mai sẽ có tàu... Ông giấu tôi trong máy bay đi Agdir...
- Tội nghiệp lão quá!
Vì chúng tôi đương sống trong vùng phiến loạn lộn xộn vô
cùng, làm sao giúp lão trốn cho êm? Người Maure ngày sau, sẽ rửa hận như thế
nào, có trời mà biết rõ. Cướp bóc và làm nhục nhau như thế, thì chỉ còn có cái
nước phải chịu tàn sát kinh hồn. Tôi đã cố tìm cách chuộc lão, nhờ sự môi giới
của anh em thợ máy ở đây, Laubergue, Marchal, Abgrall, nhưng người Maure vốn ít
khi gặp người da trắng đi tìm mua nô lệ da đen, họ nhân cơ hội hiếm hoi này mà
đòi hỏi quá đáng.
- Đủ hai vạn quan tiền mới được.
- Anh đùa chơi đó chớ?
- Coi này, những cánh tay lực lưỡng của lão ta, coi này...
Coi này, những bàn chân chữ bát bước đi vạm vỡ, coi này...
Và hàng tháng dài dây dưa thế đó.
Cuối cùng người Maure cũng bớt treo cái giá cao quá, tay với
không vừa, và cũng nhờ các bạn hữu ở Pháp giúp vào (nhân tôi có biên thư về kể
đầu đuôi sự vụ) và thế là cuối cùng tôi cũng đủ sức chuộc Bark ra.
Cuộc thương lượng cũng dàng dinh rậm đám thật. Kéo dài tám
ngày. Tám ngày tròn ngồi vòng quanh trên cát cò kè thêm bớt, mười lăm người
Maure với tôi, hỏi lại, đáp qua... Một người bạn của chủ nô lệ và cũng là bạn của
tôi, anh Zin Ould Rhattari tay tổ trong làng cướp, đã bí mật giúp tôi. Theo lời
dặn dò của tôi từ trước, anh ta nắn nót thật hay:
- Bán đi, bán hắn đi cho rồi, không bán thì rồi cũng tới ngày
mất toi cả mà thôi. Hắn bịnh tật lắm. Con bịnh chưa lò đầu ra, nhưng nằm âm ỷ
trong tỳ vị hắn. Đột ngột một ngày, nó nổ bùng một cái, là đi đời của cải nhà
ma. Bán đi, bán hắn cho người Pháp mang đi cho rồi.
Tôi cũng có hứa thưởng một tên cướp khác nữa, Raggi, nếu anh
ta giúp vào cho nên chuyện, và Raggi tìm cách lung lạc người chủ:
- Bán đi mà lấy tiền về mua lạc đà, mua súng, mua đạn, cho
nhiều nữa càng tốt chớ sao. Rồi mà rục rịch đem quân đánh Pháp chơi một trận.
Đuổi nhau tới Atar, rồi tha hồ mà bắt lấy ba hoặc bốn tên nô lệ mới toanh mà
mang về. Trút quách cái của nợ này đi. Nó già như một thằng thi sĩ cỗi.
Và người ta bán Bark cho tôi. Tôi đưa lão về khóa kín lại
trong lều luôn sáu ngày, bởi vì nếu thả lão lang thang ra ngoài trước ngày tàu
đến, thì người Maure ắt sẽ bắt lão trở lại và bán lão một lần nữa, ở một nơi
xa.
Giam thì giam, nhưng tôi cởi lốt nô lệ cho lão. Đó cũng là một
cuộc lễ long trọng. Vị giáo thánh tới, người chủ cũ tới, viên tổng trấn tại
Juby là Ibrahim cũng tới. Ba tay tổ bợm này, nếu gặp lại lão Bark ở cách đồn
lũy hai mươi thước, ắt là dám cắt đầu lão ta như bỡn, dù chỉ là để chơi khăm
tôi một vố cho bõ ghét mà thôi, thế mà lại bước tới tưng tiu lão Bark, lũ lượt
ôm lấy mà hôn thật nồng nàn, và cầm bút ký tên vào tờ khế ước.
- Bây giờ mày là con ta.
Cũng là còn của tôi nữa, theo luật Pháp.
Và Bark hôn tất cả các người cha.
Lão sống trong căn lều một cuộc dịu dàng giam hãm cho tới
ngày lên đường. Lão bảo tôi tả mãi cho lão nghe, hai mươi bận mỗi ngày, cuộc
hành trình dễ dàng sắp tới: lão sẽ bước xuống phi cơ tại Agadir, và tại đó, người
ta sẽ trao cho lão một cái vé Ô-tô-ca đi Marrakech. Bark đóng vai tuồng người tự
do, như trẻ con chơi trò thám hiểm: cái bước đi hướng về cuộc sống, cái chuyến
ô-tô-ca, những đám người đông đúc, những phố phường lão sắp nhìn trở lại...
Laubergue thay mặt Marchal và Abgrall tới tìm tôi. Không nên
để cho Bark xuống phi cơ rồi chết đói. Bọn họ gửi cho Bark một nghìn quan, nhờ
tôi đưa lại; như vậy Bark có thể sống mà tìm công ăn việc làm.
Và tôi nghĩ tới những bà già trong những hội phước thiện, mỗi
khi làm phước bố thí hai mươi quan thì đòi hỏi lòng tri ân đầy đủ. Các anh thợ
máy phi cơ Laubergue, Marchal và Abgrall, đem cho một nghìn quan, không theo lối
bố thí làm phước, lại càng không có ý đòi hỏi cám ơn. Họ cũng không vì lòng
thương hại, như những bà kia cho của và mong phúc lộc về sau. Họ chỉ muốn một
điều giản dị: trả lại phẩm cách con người cho một con người. Cũng như tôi, họ
quá hiểu rằng, sau cái cơn đê mê được về quê cũ, người bạn đầu tiên trung thành
sẽ bước tới chào đón Bark là cô nàng tên gọi là túng quẫn, và trong vòng ba
tháng tới đây, lão sẽ phải lao khổ hì hục trên những đường hỏa xa mà ì ạch bứng
gốc đường rầy. Lão sẽ vất vả hơn lúc còn ở sa mạc bên chúng tôi. Nhưng về giữa
bà con thân thích mình, lão phải có được quyền sống-thật-sự là mình chính mình
vậy.
- Thôi nhé, lão đi đi, và sống cho ra người nhé.
Chiếc phi cơ rung chuyển sắp khởi hành. Bark nghiêng mình
nhìn lần chót cảnh hoang liêu bát ngát Cap Juby. Quanh phi cơ, hai trăm người
Maure tụ họp để xem cho rõ gương mặt một người nô lệ nó ra như thế nào trước
ngưỡng cửa tự do. Và họ sẽ tóm lão trở lại nếu phi cơ có hỏng máy một nơi nào
đó quanh quất bao xa.
Chúng tôi vẫy tay từ biệt, vĩnh biệt đứa con sơ sinh năm mươi
tuổi đầu, lòng hơi hoang mang giao nó lưu ly vào cuộc thế.
- Vĩnh biệt Bark nhé!
- Không.
- Sao, không?
- Không. Tôi là Mohammed ben Lhaoussin.
Lần cuối cùng chúng tôi được tin tức Bark là nhờ Abdallah,
người Ẳ Rập chúng tôi đã cậy trông chừng Bark tại Agadir.
Chuyến ô-tô-ca chỉ khởi hành vào chiều tối, nên Bark ở đấy cả
ngày. Ban đầu, lão lang thang thật lâu trong thành phố nhỏ ấy, không nói một lời
nào, Abdallah đoán là lão đương e ngại sự gì. Động lòng mới hỏi:
- Gì thế?
- Không...
Bark choáng váng trong cơn sổ lồng đột ngột, chưa kịp nhận thấy
rõ cuộc hồi sinh. Lão có cảm thấy một thứ hạnh phúc hoang mang, nhưng ngoài niềm
vui đó ra, lão chưa thấy có gì khác biệt giữa Bark hôm qua và gã Bark hôm nay.
Tuy nhiên, từ nay lão bình đẳng chia sẻ với kẻ khác ánh nắng mặt trời này, và
có quyền ngồi đây, tại quán cà phê Ẳ Rập. Lão ngồi vào. Lão gọi trà cho lão và
cho Abdallah. Đây là cử chỉ vương giả đầu tiên của lão; oai quyền kia đáng lẽ
phải biến dạng con người lão. Nhưng tên bồi bàn lại chẳng nhìn ra gì ráo, cứ thản
nhiên rót trà cho lão, không biết gì về cái cử chỉ vương chúa kia. Lúc rót trà
nọ, hắn không ngờ, hắn chẳng biết rằng mình đương chúc tụng cái hiển hách của một
con người tự do.
- Ta đi nơi khác. Bark nói.
Họ kéo nhau về phía chợ, nơi đó bao quát được phong cảnh khắp
vùng Agadir.
Những nàng thi ca nhi vũ người Berbère xinh xắn lân la tìm tới
bên hai người. Các cô có dáng điệu nhu thuận dịu dàng thật là êm ái dễ thương.
Bark lúc bấy giờ mới chợt cảm thấy rằng mình sắp được sống lại: chính các cô em
này là những kẻ sắp đón mừng lão đương trở lại với đời, dẫu rằng các cô em vô
tình nào có biết có hay. Họ cầm tay lão, nâng trà mời lão, rất ân cần ngoan
ngoãn, nhưng cũng một cách như vậy với bất cứ kẻ nào. Bark muốn kể chuyện mình
hồi sinh. Họ dịu dàng cười. Như hồn nhiên đôi hàng thùy liễu. Họ rất hài lòng
cho lão, như tơ liễu hài lòng vì thấy suối hân hoan. Bởi chưng lão hài lòng thì
chị em chúng cháu cũng xin hả dạ vậy. Lão nói thêm vài lời cho các cháu tưng bừng
thỏa thích nghen? - "Ta tên là Mohammed ben Lhaoussin". Nhưng họ hài
lòng mà chẳng lấy làm ngạc nhiên chi cả. Tất cả mọi người cũng mang mỗi kẻ một
cái tên, và biết bao người cũng đã đến đây từ xa xôi lắm lắm...
Lão lôi Abdallah vào thành phố. Lão lang thang trước những cửa
hàng người Do Thái, ngó nhìn ra biển, nghĩ rằng mình muốn bước đi đâu mặc ý, bước
theo hướng nào mặc lòng, vì mình tự do. Nhưng cái tự do kia dường như chua
chát: nhất là nó cho lão thấy, giữa lão với đời, còn thiếu rất nhiều liên lạc.
Một đứa bé đi qua, Bark vuốt nhẹ vào má nó. Đứa bé mỉm cười.
Đó không phải một đứa con của chủ giàu mà ta tới nịnh. Đó là một đứa bé nghèo yếu,
được Bark ban cho chút yêu mến. Và nó mỉm cười. Và đứa bé thức tỉnh Bark, Bark
cảm thấy mình có quan hệ nhiều hơn một chút trên mặt đất, nhờ một đứa bé yếu đuối
đã vì lão mà mỉm cười. Lão bắt đầu nhận ra một cái gì đó, và bây giờ lão bước mạnh
và mau hơn.
Abdallah hỏi:
- Lão tìm chi thế?
- Có chi đâu, Bark đáp.
Nhưng lúc lão vướng phải một đám trẻ con đang nô rỡn ở một đoạn
đường quanh, lão dừng lại. Chính là đây. Lão lặng lẽ nhìn chúng. Rồi quay lại
những cửa hàng Do Thái, lân la một lúc trở về với những món quà mang đầy nặng
hai tay, Abdallah tức bực:
- Ngốc quá ta, giữ tiền mà tiêu chớ.
Nhưng Bark chẳng nghe gì nữa hết. Trịnh trọng một cách, lão
ra dấu cho từng đứa một lại gần. Và những bàn tay tí hon chìa ra đón lấy những
đồ chơi, những vòng xuyến, những chiếc hài thêu kim tuyến long lanh. Và bọn trẻ
con từng đứa nắm chặt phần mình rồi, liền chạy mất, thật man di.
Trẻ con khác trong thành hay tin, xô nhau ù chạy tới tìm.
Bark đem hài thêu kim tuyến ra xỏ vào bàn chân chúng. Rồi trẻ con ở các vùng
quanh quất Agadir tới lượt bén tin nao nức cũng reo hò đổ tới, không ngớt kêu
la tới bên đấng Chí Tôn Thần Linh da đen mà bám, bu vào nát cả y phục nô lệ xác
xơ, mà đòi phần sẻ chia thích đáng. Bark tan tành sự nghiệp. Hỡi ôi!
Abdallah cho là lão ta "điên vì vui quá". Nhưng tôi
nghĩ rằng sự vụ không phải thế, không phải rằng Bark vì ngập tràn vui sướng mà
san sẻ chia ra.
Nhân vì được tự do, lão nắm đủ trong tay những của cải cốt
thiết: cái quyền được kêu gọi yêu mến về, cái quyền được bước đi tùy hứng, ngoảnh
về Bắc hoặc ngó về Nam, cái quyền kiếm cơm ăn bằng mồ hôi hay nước mắt. Thì cần
chi nữa cái số bạc lửng lơ này... Trong khi tâm thần thể phách cùng hoài cảm
thiết tha (như thiết tha thèm ăn lúc đói) cái nhu cầu được làm một con người giữa
hàng vạn con người, được cùng mọi con người kết liền một khối. Những vũ nữ tại
Agadir đã tỏ ra dịu dàng với lão, nhưng lão giã từ họ mà chẳng bận bịu lòng, lờ
lững lúc đi như lờ lững lúc đến; họ có cần gì tình quyến luyến của lão đâu. Chú
bồi bàn trong quán Ẳ Rập nọ, kẻ qua lại bên đường kia, thảy thảy cùng tôn trọng
con người tự do ở nơi lão, cùng lão bình đẳng chia sẻ ánh mặt trời, nhưng không
một kẻ nào đã tỏ ra cần lão. Lão tự do, nhưng tự do vô biên vô hạn, tự do tới
cùng cực thì cũng thấy không còn chút ràng buộc nào giúp hình hài đè nặng trên
đất yêu. Lão thiếu mất cái khối nặng của tương thân giao thiệp, cái khối ân
tình cản lối chân đi, những giọt lệ vàng, những lời vĩnh biệt, những hờn dỗi
trách nhau, những niềm vui kia, những nỗi sầu nọ, tất cả những gì con người mơn
trớn, hoặc xé rách ra đôi, mỗi lần chớm đưa tay làm một cử chỉ nhỏ, những ngàn
ngàn tơ nhựa gắn bó keo sơn, làm cho con người nó nặng cân trong cuộc. Tuy
nhiên, ngàn hy vọng cũng đã bắt đầu trĩu xuống cõi lòng kia.
Và thịnh triều của lão Bark đã khởi đầu trong lộng lẫy bóng
tà dương, đã mở màn lúc ráng chiều nhuộm màu vàng trên Agadir cựu phố, trong bầu
không khí mát mẻ hoàng hôn, bao phen đối với lão ta đã từng là niềm dịu dàng để
chờ mong duy nhất, chỗ nương náu duy nhất tháng ngày. Và lúc giờ lên đường sắp
tới gần, gần thêm mãi, Bark đã tiến bước lên, tắm thân mình trong ngọn triều trẻ
nhỏ, như xuân kia từng đã ngập linh hồn trong đàn cừu non dại, Bark bắt đầu vạch
cái đường cày đầu tiên trong cõi đời, theo mộng xuân đầu gieo hột hàng hàng
trong tình yêu thứ nhất. Chàng sẽ bước trở vào trong vòng cùng khốn của thân
thích bốn bề, mai đây chàng sẽ... đảm nhận những đời sống muôn vàn, nhiều, nhiều
hơn hai cánh tay già đủ sức chở, đủ sức nuôi, nhưng dù sao, tại nơi đây, chàng
đã dè thân trên phù du trong cõi, với đủ đầy sức nặng thật của thân. Sao ôi,
sao mà thanh thản thế, như thiên thần thượng đẳng quá thanh thoát giữa thương
khung, không thể nào dấn thân sống ngửa ngang đống gò cõi tục, nên đã đành lếu
láo một cơn gian, là len lén lận hột chì trong đai nịt, để sè sè đi tới giữa trần
gian đúng theo phong độ người trần gian sành điệu bước gập ghềnh cho hì hục hợp
nhau, lão Bark của chúng ta cũng bước đi như khó khăn chập chững, bị lôi kéo
khòm lưng về mặt đất bởi ngàn ngàn trẻ nhỏ bám quanh thân, trẻ nhỏ ôi, các em
sao mà yêu những đôi hài vàng thêu đến thế.
7
Sa mạc là thế đó. Một kinh Coran của Hồi Giáo, đáo cùng cũng
chẳng khác mấy một luật tắc của cuộc chơi, biến cát sa mạc thành một phiêu bồng
Đế Quốc. Sâu hút trong một Sahara đứng lỳ ra rỗng không là thế đó, lại có diễn
một tấn tuồng bí mật, làm náo động những nhiệt tình say đắm của nhân gian. Cuộc
sống thật sự của sa mạc, không chỉ được dựng nên bởi những cuộc thiên di tẩy
chuyển của những bộ lạc đi tìm một tấc cỏ để mục súc gặm nhai, nhưng thật quả
được làm nên là bằng cái cuộc chơi đang còn diễn ra tại đó. Ôi, khác biệt một vực
một trời, là thể chất giữa cát bãi đã chịu tòng phục và cái thứ cát kia chưa.
Và đối với mọi con người thế gian, sự vụ há chẳng hệt là y như rứa? Đối diện
cái sa mạc đã biến dạng dị thường kia, tôi bỗng nhớ lại những trò chơi tuổi nhỏ,
tôi nhớ lại cái khu vườn âm u mà vàng gieo lộng lẫy, mà thủa nhỏ chúng tôi từng
đã mang về đầy đủ những chư thần, chư thánh, ôi chư tiên kiều diễm dắt tay nhau
vào lá xanh dìu dặt. Tôi nhớ lại cái vương quốc bao la của chúng tôi lôi ra từ
một cây số vuông vườn đất, chẳng bao giờ hiểu trọn được, chẳng bao giờ lục soát
xong, chẳng bao giờ mò mẫm đủ, chẳng bao giờ giao phó hết ẩn ngữ mình cho tâm
thức đọc ra. Chúng tôi cấu tạo nên một nền văn minh kín bưng biệt lập, trong đó
từng bước chân có riêng một hương vị, từng gót ngọc có riêng một âm vang, từng
mỗi một vật thể nhỏ hay to, tròn xinh hay méo xẹp, thảy thảy đều mang một nghĩa
riêng tây, ngoài cõi đó ra, không bao giờ một miền khác có. Không có quyền, và
không được phép. Nhưng còn chi nữa của vũ trụ kia, một phen chúng tôi trở nên
người lớn, sống theo những luật tắc phong tư khác, còn gì đâu nữa của khu vườn
liễu in dòng rụng, thu đầy tuổi thơ, hào hoa huyễn ảo bao giờ, vừa băng giá lại
vừa sờ sợ thiêu - cái khu vườn mà ngày nay, lúc ta về viếng lại, ta ngậm ngùi
như tuyệt vọng bước vòng theo ở bên ngoài, men bờ tường lè tè đá xám, xót xa
kinh ngạc nhận thấy mọi hương màu sao khép ngột trong cái vòng em eo hẹp làm
sao, mọi hương màu của một quận châu đã từng là vô hạn của bao la, và biên bờ
cõi, và sực hiểu rằng không bao giờ ta sẽ còn có thể bước trở vào trong cõi rộng
xưa kia, bởi vì chưng nếu phải vào trong, ấy không phải trong khu vườn, mà vào
trong là ấy trong trò chơi giữa cuộc...
Nhưng phong cảnh phiến loạn không còn, thì cuộc chơi chấm dứt.
Cap Juby, Cisneros, Puerto-Cansado, la Saguet-El-Hamra, Dora, Smarra, chẳng nơi
nào còn chút chi bí mật. Những chân trời rộng mở ta đã từng đăm đắm đuổi theo,
đã lần lượt chìm tan đâu mất cả, như những côn trùng sặc sỡ chợt sa vào bàn tay
tóm bắt, chợt tan tành những lộng lẫy sắc hương. Nhưng cái kẻ đăm đăm đuổi
theo, dẫu có xiêu hồn lạc phách, cũng không hẳn là ngốc nghếch chịu làm thứ đồ
chơi cho ảo tưởng dồi tung. Chúng tôi không u mê nhầm lẫn, lúc lao đầu vào khai
phá cỏ chân mây. Vị Hoàng Đế kia trong truyện Nghìn Lẻ Một Đêm cũng vậy, ông
theo đuổi một thể chất quá khinh khiêu phiêu bồng phong nhị, cho đến nỗi những
kiều diễm thiên hương bốc hơi là thế, mà vẫn phải cứ lần lượt từng cánh sa rụng
giữa bình minh, trong vòng tay ông còn ngẩn ngơ ghì siết, ấy cũng vì chớm chạm
vào thì cánh vàng băng tuyết bỗng đứt mạch nguyên truyền mà ngất lịm trôi xa.
Chúng tôi từng nuôi dưỡng mình bằng ảo mộng hoàng sa, những kẻ khác mai sau sẽ
về đây có lẽ, sẽ đào sâu những con giếng dầu hôi, sẽ làm giàu với những hàng
hóa nọ. Nhưng họ sẽ về, là về quá muộn mà thôi. Bởi chưng những bãi kè, cụm dứa,
những vùng xanh là cấm địa ban sơ, và những hột bụi trinh nguyên của những vỏ
nghêu, vỏ hến, vỏ hào ba góc hẹp, đã muôn vàn ẩn bí riêng trao - cho chúng tôi
cái phần riêng mật ngọt, riêng một giờ phụng dâng ngây ngất, chúng tôi lao đầu
vào là chúng tôi riêng sống đó chứ sao.
°
Sa mạc ư? Một lần tôi có dịp ghé vào, cập bờ sa mạc theo con
đường: từ giữa trung tâm. Trong một chuyến bay sang Đông Dương năm 1935, tôi lại
băng mình vào Du Dương Ai Cập, nhớ nhung người đổ quán phố Alexandrie, sát biên
thùy Libye ngõ hạnh, đắm đuối chìm trong hoàng sa lộ đoản cho trầm luân thân phận
giữa lưới nhựa keo sơn, tưởng chết ra ma, mà rồi ra chưa chết. Đây là câu chuyện.
VIII
NGƯỜI TA
1
Một lần nữa tôi tới sát mép một chân lý mà tôi không hiểu được.
Tôi đã tưởng mình lâm vào tuyệt địa, tôi đã tưởng mình chạm tới chỗ tận cùng
tuyệt vọng và, một phen chấp nhận chịu khước từ không màng gì nữa hết, thì tôi
đã rõ được lẽ thanh thản yên vui. Tưởng chừng như trong giờ phút đặc thù đó,
người ta chợt khám phá ra chính mình, và người ta trở thành bạn thiết của chính
mình. Không có gì có thể chiếm ưu thắng trước cái niềm viên mãn sung thiệm, đáp
ứng mọi đòi hỏi cốt yếu, một nhu cầu thiết thân nào đó ở trong ta, mà bấy lâu
nay ta không để bụng quan hoài. Bonnafous, tôi thiết nghĩ, Bonnafous từng lãng
phí thân mình trong những cuộc theo đuổi bóng vang mây gió, Bonnafous đã thâm cảm
niềm bình thản thanh thoát kia. Guillaumet phiêu bồng trong tuyết giá, cũng
thâm cảm nỗi niềm đó. Còn tôi, tôi làm sao quên được cảnh huống mình. Làm sao
quên được rằng một phen lấp thân trong cát tới tận mang tai, một phen suýt chết
vì khát nước, mà còn cảm thấy máu tim ấm cúng êm đềm túc mục đến thế dưới vòm
sao vây phủ?
Làm thế nào giúp cho niềm phơi phới nọ có được dịp phi dương?
Mọi sự trong con người đều bao hàm mâu thuẫn, ai cũng biết thế. Người ta bảo đảm
cơm nước cho anh chàng nọ để anh rảnh rang sáng tác, thì anh ta lại ngủ khì; kẻ
anh hùng chinh phục chiến thắng rạch đôi sơn hà xong, bỗng đâm ra nhu nhược mềm
dịu như hồn đàn bà; kẻ hào hoa phóng dật, nếu được ban cấp của cải giàu sang, lại
đổ ra bo bo biển lận. Những chủ nghĩa chính trị, tin quyết là mình mở lối khai
hóa tốt tươi cho con người, những chủ nghĩa li bì kia, đối với chúng ta thật chẳng
có chi cần ích liên can cả, nếu tự ban đầu ta chẳng biết cái loại người nào sẽ
được khai hóa tốt tươi ra. Kẻ sắp nảy nở là ai? Chúng ta không phải một bầy mục
súc cần nuôi cho đông đảo để ăn thịt hoặc để lấy phân, hoặc để lùa vào đồi sim
mà thẫn thờ bá láp, và sự xuất hiện của một Pascal bần cùng lại nặng ý nghĩa
hơn ba kẻ lai rai lùa bò hoặc chăn dê thịnh vượng.
Cái cốt yếu, cái anh hoa, cái tường vi hương tính, cái kỷ độ
phát tiết phiêu bồng, đố ai dám biết mình tiên đoán được cho ru! Mỗi kẻ trong
chúng ta đều có rõ những niềm vui lừng vai phố chị, những nỗi sướng chấn động
khe em, ấm cúng tại chính cái chốn cái nơi mà không có gì của ban sơ dám lên lời
hẹn ước sẽ mai sau là tổ vọng tự ban đầu. Những niềm trước vui sướng đó còn lưu
lại trong ta xiết bao ngậm ngùi tiếc thương tơ tưởng mãi, những cựu tình vàng sự
bốc ô hinh, những vân yên về sau sầu bến cũ, những thứ đó lung trạo đến thế nào
mà xui ta nhớ nhung tới cái độ yêu dấu luôn cả những khốn đốn vô ngần ta phải
chịu, nếu những khốn đốn nọ giúp ta thâu góp được những vui kia. Chúng ta đứa
nào cũng đều có khoan khoái lạ thường lúc gặp lại những thằng bạn cũ, mà thấy lại
những diễm kiều huyền ảo của những kỷ niệm tồi tàn.
Chúng ta biết gì đâu, ngoài cái điều: có những điều kiện khôn
hiểu gây mạch đời dào dạt cho chúng ta. Chân lý của con người nằm tại đâu như vậy?
Chân lý không phải là cái gì có thể minh giải, minh thị, biểu
minh được. Nếu trong đám đất này chứ không trong đám đất khác, cây cam đâm rễ mạnh
và kết trái nhiều, thì đám đất đó là chân lý của cam. Nếu tôn giáo nọ, nếu văn
hóa nọ, nếu giai độ giá trị nọ, nếu thể thức hoạt động nọ, chứ không phải thể
thức kia, giai độ văn hóa tôn giáo kia, giúp cho nảy nở viên mãn trong con người
ta nỗi sung thiệm lai láng vuông tròn, và giải phóng được trong mình con người
ta một vị lãnh chúa lộng lẫy vốn không tự giác được chính mình từ trước, thì quả
thật cái giai độ giá trị nọ, cái văn hóa dưỡng dục nọ, cái thể thức hoạt tồn nọ,
chính là cái chân lý của người ta. Còn luận lý học? Thôi xin nàng luận lý học
hãy cứ liều liệu mà xoay xở để mài miệt biện minh cho đời sống đó nhé.
Suốt tập sách này tôi có kể một vài kẻ trong cái số người dường
có nghe theo tiếng gọi của khuynh hướng tối thượng, đã có chọn sa mạc hoặc hàng
không, cũng như những kẻ khác ắt có chọn cổng vào tu viện; nhưng tôi chỉ vi bội
mục đích của tôi, nếu tôi đã tỏ ra có vẻ như muốn nhiếp dẫn các bạn hãy tán tụng
trước tiên là những con người. Cái đáng tán tụng trước tiên, ấy là cái mảnh đất
làm căn cớ thiết lập nên những con người vậy.
Hẳn là khuynh hướng có đóng một vai trò. Có kẻ khép mình
trong quán hàng. Có kẻ khẩn thiết bước theo con đường của mình một cách tuyệt đối
thiết tha, theo một hướng đi tối yếu: trong lịch sử tuổi thơ của những kẻ nọ,
ta tìm thấy trở lại những manh nha của niềm hưng phấn khả dĩ minh giải được định
mệnh nào của họ đã nhiếp dẫn họ đi theo. Nhưng Lịch Sử, được nhìn thao láo về
sau, lúc mọi sự đã thành tựu rồi, Lịch Sử lại gây ảo tưởng lẩn thẩn. Bởi rằng
những hưng phấn, hăm hở nói trên, ta có thể tìm nhận thấy ra nơi hầu hết mọi
người. Chúng ta đều có biết những anh chàng bán quán, nhân một đêm nào có bão
giông đắm thuyền, nhân một đêm nào có hỏa hoạn, bỗng dưng anh chàng lai rai nọ
đột ngột trút bỏ bản chất bê bết đi, và hiển lộ ở trong vòng những hào quang lộng
lẫy: anh chàng tỏ ra cao cả hơn chính mình. Và anh chàng cũng không lầm về tính
chất niềm sung mãn thiệm túc của anh: đêm đắm tàu, đêm hỏa hoạn kia, sẽ mãi mãi
là cái đêm vô song của đời anh. Nhưng vì thiếu những cơ hội mới, thiếu đất thuận
lợi, thiếu tôn giáo nghiêm mật yêu sách, những anh chàng lại ngủ khì trở lại,
kê đầu trên gối mộng mà vắng bóng chiêm bao, và quên, quên tuốt, không còn tin
tưởng nữa nơi tinh thể hoằng viễn của chính mình. Quả thật, khuynh hướng quả có
giúp cho con người tự giải thoát: nhưng cũng cần làm sao để giải tỏa cho những
khuynh hướng được nảy hột vọt ra.
Đêm thinh không, đêm sa mạc... là những cơ hội ngẫu nhĩ hiếm
hoi, không đi tràn lan tới để hiến thân mình cho mọi người thiên hạ. Ấy tuy
nhiên, lúc cảnh huống giậy giàng về náo động, thì tất cả mọi người cùng biểu thị
lai láng những nhu cầu xao xuyến như nhau. Tôi không đi xa đề tài, nếu đem kể lại
đây một đêm tại Tây Ban Nha đã thức tỉnh cho tôi nhìn vỡ lẽ ra sự vụ nọ. Tôi đã
nói quá nhiều về một vài kẻ riêng tây, và bây giờ tôi muốn nói về mọi kẻ.
Chuyện tại mặt trận Madrid, tôi tới viếng với tư cách phóng
viên. Tối hôm đó, tại một cái hầm trú ẩn, tôi dùng bữa với một vị đại úy trẻ.
2
Chúng tôi đang trò chuyện thì điện thoại reo. Đối thoại kéo
dài: một cuộc tấn công do bản doanh truyền lệnh, một cuộc tấn công phi lý não
nùng, tuyệt vô hy vọng, quyết chiếm lấy vài căn nhà thuộc vùng ngoại ô thợ thuyền,
đã biến thành những pháo đài xi măng. Viên đại úy nhún vai và quay trở lại bảo:
"Những đứa nào trong bọn chúng ta sẽ thò đầu đi tiên phong... ", rồi
anh ta đẩy hai ly cô-nhắc lại, một cho viên đội đang ngồi tại đó, và một cho
tôi. Anh bảo viên đội:
- Anh ra trước hết, với tôi. Uống đi, rồi ngủ một trận nhé.
Viên đội đã đi ngủ rồi. Quanh chiếc bàn ấy, chúng tôi mười hai
người cùng thức. Trong căn phòng kín bưng ấy, không một tia sáng lọt ra ngoài,
ánh chói gay gắt quá, khiến tôi nháy nheo mãi hai mắt. Tôi đã có dòm liếc ra
ngoài một cái, trước đó năm phút, qua một lỗ hở ẩn kín ở trong vách tường. Vén
tấm vải che cái lỗ hở nọ, tôi nhìn thoáng ra ngoài thấy dưới bóng trăng rờn rợn
khí u cốc, những căn nhà hoang phế như nhà ma mời quỷ đi về. Lúc đặt mảnh vải
trở lại trên cái lỗ hổng đã dòm xong, tôi có cảm tưởng như mình đã lau chùi
giúp ai cái ánh vàng của chị nguyệt, như lau chùi một vệt dầu loang lai láng.
Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn giữ gìn trong hai mắt cái hình ảnh những pháo đài
rờn rợn lục pha lam.
Mấy anh lính này chắc hẳn sẽ đi không mong kỳ hậu hội, nhưng
họ làm thinh theo tiết tháo thói nhà. Cuộc tấn công này cũng là theo lẽ hằng
nghề nghiệp. Quân mạc tiếu... Người ta thò tay hốt một nắm ở trong cái kho người
dự trữ. Người ta thò tay vốc một nắm ở trong cái vựa thóc tích tụ tháng ngày.
Người ta đưa tay gieo hột, vãi giống, cho rớt vào đường xẻ ruộng nương, mai sau
mọc mạ.
Và cô-nhắc bây giờ cũng là bồ đào mỹ tửu thiên thu, thì chúng
tôi xin uống. Bên phải tôi, người ta lạo xạo đánh cờ. Bên trái tôi, người ta
gieo câu nói rỡn. Tại đây tôi ở chốn nào? Thế ru? Một chàng lướt khướt cơn tỉnh
cơn say mò mẫm bước vào. Anh đưa tay ve vuốt chòm râu rậm rì hi hữu, và đưa hai
con mắt cợt làn như mơn trớn chúng tôi. Làn sóng mắt lướt trên ly cô-nhắc, lờ lững
ngó lơ đi, lại trở về vuốt ve cô-nhắc, xoay một cái, đậu vào thân đại úy, rất mực
vòi vĩnh van nài. Đại úy âm ỷ cười ngầm, hoang vu một cách. Anh chàng chớm dậy
cơn hy vọng mê ly, cũng nhoẻn miệng cười theo, hoang vu một cách. Một trận
phiêu bồng mỉm miệng đã lan tràn lung trạo khắp mặt cô bác đương hiện diện bà
con. Đại úy khẽ dịu dàng kéo lùi chai yểu điệu, làn mắt anh chàng chợt trở cơn
ra trò tuyệt vọng, một trận hú tìm lất lây thơ dại đã động tình mở cõi ra phơi,
tịch mịch khinh khiêu, im lìm vũ lộng, chập chờn trong xiết bao làn khói thuốc
vươn lên, trong mòn hao vợi tàn đêm trắng lậu, trong hình ảnh sắp đi về trấu lặng
lẽ của chiến trận ngày mai, ấy đó là mơ? Ấy chiêm bao là mộng.
Và chúng tôi chịu chơi trong cuộc, khép kín cõi mình rất ấm
trong cái hầm tàu phiêu dạt đương trôi, trong khi ngoài kia hốt tung, hốt hấng,
những tiếng nổ ròn gia bội như cơn sóng từng đợt điệp trùng vỗ trên mặt biển
khơi.
Những người kia chốc nữa sẽ trút sạch làu làu những mồ hôi hiện
đại, những tơ tưởng bồ đào cô-nhắc trì diên, những nhơ bẩn bám đầy thân trong
chờ đợi, giữa những cơn nước hòa hoa đổ quán của canh trường chiến trận đêm
thâu. Tôi cảm thấy họ tới sát mép bờ của thuần thanh thánh thiết. Nhưng còn một
khắc nào chậm rãi, thì cứ ở lại nấn ná thong dong nhảy cỡn cho kéo dài tới đâu
cơn nhảy thì tới đó nhảy cơn cái vũ khúc mê ly của gã say tình rượu, trút bình
nốc chén, thù tạc chiêu đăm. Và đuổi theo cho tới chỗ kiệt cùng của đuổi theo,
cái cuộc cờ kỳ tuyệt trên vạn lý biển dâu. Họ kéo dài ra cái cơn sống cuộc đời
nhứt thì thiên tải, được chút nào có thể, thì được chút đó thể hiện ra. Nhưng họ
đã lên giây cái đồng hồ đánh hiệu nó ngự tròn trên một cái giá kệ chơi vơi. Đồng
hồ sẽ điểm chuông. Thì bọn người kia sẽ đứng lên, vươn mình, nai nịt. Đại úy sẽ
vớ khẩu súng lục trúc mai ái giắt vào mình. Rượu hết men rồi. Tỉnh táo chứ.
Chàng rượu dứt áo với thiếp men. Và mọi người sẽ chậm rãi nối đuôi nhau theo
con đường du lang lài lài giôn lên thong dong ghé lại như dặn dò rất mực với một
mảnh xanh ngần hình chữ nhật hương lừng chị nguyệt bích liên thiên. Họ sẽ nói
vài cái đơn sơ như: "Tấn công cà gật... Chiến địa chết bằm... Tiền tuyến
toi đâm... " hoặc "Cái rét chịu chơi... Gió sầu tay tổ". Rồi các
cha nội sẽ phóng ầm ra xông tới.
Đến giờ, tôi chứng kiến cơn tỉnh giấc của viên đội. Anh nằm
ngủ duỗi dài trên một chiếc giường sắt, giữa những đống vôi gạch đổ nát trong một
xó căn hầm. Tôi nhìn anh nằm ngủ. Tôi tưởng mình cũng có biết cái hương vị của
giấc ngủ kia không khắc khoải không hoang mang, nhưng bình yên hạnh phúc làm
sao! Nó xui tôi nhớ lại cái ngày đầu tiên trong sa mạc Libye, Prévot và tôi, mắc
nghẽn giữa trời, không nước uống, mắc nghẽn giữa cát nghe hiểm họa trùng trùng,
và trước khi cơn khát trở nên quá điêu linh, chúng tôi vẫn còn có thể ngủ được
một lần, chỉ một lần thôi hai giờ thẳng giấc. Lúc nhắm hai con mắt lại, khởi sự
vào giấc ngủ, tôi đã có cảm tưởng mình sử dụng một quyền hành kỳ diệu: quyền
khước bỏ thế giới hiện hữu. Làm chủ một tấm hình hài chưa lên cơn náo động, còn
để tôi túc mục yên bình, đối với tôi lúc đó, một phen đã vùi đầu trong hai cánh
tay rồi, thì chẳng còn cái gì phân biệt chia xa cái đêm của tôi với một đêm hạnh
phúc.
Cũng vậy, viên đội nằm khoanh tròn mà ngủ, không ra dạng hình
người, và lúc những kẻ vào gọi anh dậy đã thắp một ngọn nến lên và cắm nó vào một
miệng chai, thì thoạt tiên tôi chẳng biện biệt được cái gì ra cái gì đương nhô
lên khỏi cái đống lù lù vô dạng, trừ ra đôi giày lính. Đôi giày thật bự, có
đóng đinh, bọc sắt, đôi giày của người lao công hay của người phu khuân vác ở bến
tàu.
Anh chàng này mang nơi chân những khí cụ làm việc, và tất cả
mọi thứ trên thân anh cũng toàn là khí cụ: bao đạn, súng lục, giây da, nịt
lưng. Anh mang đủ yên cương, giàm, ách, đầy đủ các mã cụ của một con ngựa cày bừa.
Tại Maroc, nơi những hầm sâu, ta thường thấy những con ngựa mù kéo cối xay. Tại
đây, trong cái hầm này, dưới ánh le lói lắt lay đỏ nhợt nhạt của ngọn nến, người
ta cũng đang đánh thức một con ngựa mù để xô nó vào cuộc phiêu bồng với tiết điệu
cối xay.
- Hép! Thầy đội ơi!
Thầy đội rục rịch thong dong, lò gương mặt còn ngái ngủ ra một
chút, miệng lằm bằm chẳng rõ nói chi. Nhưng lại xoay trở vào tường, không muốn
tỉnh giấc, còn muốn rúc sâu vào trong đáy thẳm của giấc ngủ như rúc vào trong
cõi bình an bụng mẹ, như lặn xuống đáy nước sâu hang, hai nắm tay loay hoay mở
khép như bấu vào một cục rong rêu đen sì đong đưa tròn xinh đâu đố ai biết, để
ghì thân ở lại đáy luân trầm. Thôi đành phải gỡ ngón tay chàng ra vậy. Chúng
tôi ngồi lên giường anh, một người nhẹ đưa cánh tay luồn dưới cổ anh và mỉm cười
nâng cái đầu nặng như thiên lôi nọ. Thật cũng có bề êm dịu giống như trong ấm
áp chuồng ngựa cái cảnh tượng dịu dàng của đôi lứa ngựa cụng đầu vào cổ nhau
cho cọ cọ. "Ê! Anh bạn!". Trong đời tôi chưa hề thấy gì thân ái như
thế. Viên đội gắng một lần cuối để trở vào trong những cơn mộng vui tươi của
mình, để từ khước cái vũ trụ của chúng ta đầy rẫy những cốt mìn, những mòn hao,
những canh dài giá buốt; nhưng chậm mất rồi. Một cái gì đương lung trạo bức
bách, một cái gì đi tới tự bên ngoài. Như tiếng chuông nhà trường sáng Chủ Nhật
chầm chậm đánh thức cậu học trò bị phạt. Cậu đã quên hết những bàn ghế, những bảng
đen phấn trắng, những bài chép phạt. Cậu mơ màng nghĩ tới những cuộc chơi ngoài
đồng; luống công. Tiếng chuông dội mãi và nghiêm khốc lôi cậu trở vào giữa cuộc
bất công của nhân gian, không cách gì cưỡng nổi. Cũng tương tự thế, viên đội dần
dà thu nhận trở về cái tấm thân hao mòn nhọc mệt, cái tấm thân dạn dày lăn lóc
chán chường, cái tấm thân mà mình không còn thiết tới nữa, nhưng biết trút cái
của phá gia nọ đi đâu, cái tấm thân sắp sửa phải nếm lại mùi tiền oan, nghiệt
chướng trong lạnh lẽo sực tỉnh cơn, những rã rời đốt khớp, những tàn rụng da
xương, rồi tới cái khối nặng yên cương giàm ách, rồi cái cuộc chạy lịch kịch cuồng
điên, rồi cái chết. Cái chết cũng chẳng đến nỗi nào, nhưng não dạ là cái chết
oan gia: cái máu tuôn bầy nhầy đống vũng, cái mười ngón tay nhúng vào gượng gạo
chống chỏi đứng lên, cái hổn hển thở từng cơn, cái giá buốt chạy khắp châu thân
hay bước tự bốn bề ùa vào vây bọc; cái chết cũng chưa đến nỗi nào, nhưng còn
cái tồi tàn của cuộc chết. Nhìn viên đội, tôi tư lự mãi, tôi gẫm lại cái cảnh ảo
não của mình lần kia tỉnh giấc, cái cuộc dồn dập gia tăng của khát, của nắng, của
cát, mình phải đưa thân ra mang lấy, gánh vào, ôi đời, ôi mộng, cái mộng đời
tôi không được phép chọn theo tình tự tôi chiêm bao.
Nhưng anh đã đứng lên, nhìn thẳng chúng tôi trong con mắt:
- Tới giờ?
Chính đó là lúc con người xuất hiện. Chính tại đây là chỗ con
người đứng ngoài vòng dự toán của luận lý: viên đội mỉm cười! Thế là nghĩa lý
gì? Cám dỗ nào lôi? Du hoặc nào cuốn? Tà dục nào lung trạo suốt tâm linh? Tôi
nhớ lại một đêm Paris. Đêm đó, Mermoz và tôi đã yến tiệc tạc thù với vài bè bạn,
mừng một chu niên nào đó chẳng nhớ. Tinh sương tờ mờ, hai đứa còn ngồi tại quán
rượu, chán chường vô độ vì cái vô độ của uống, đã ăn, đã cười, đã nói đến ăm ắp
buồn nôn rã rời vô lối. Nhưng trời hửng sáng, Mermoz đột ngột chụp lấy cánh tay
tôi bóp mạnh đến nỗi nghe cả mấy móng tay anh bấm vào. "Anh nhớ chứ, giờ
này tại Dakar... ". Giờ này các anh thợ máy đang dụi mắt, lột lớp vải bọc
chong chóng phi cơ, giờ này phi công đi hỏi khí tượng, giờ này mặt đất chỉ còn
đón bàn chân nao nức của bạn đồng nghiệp qua lại dập dìu. Trời ửng hồng rồi, yến
tiệc soạn sửa rồi, nhưng cho ai kia, khăn bàn trải ra rồi cho một lễ hội mà
chúng tôi sẽ không làm thực khách tham dự. Những kẻ khác đang liều mình...
"Tại đây sao mà dơ dáng... "
Mermoz dứt lời.
Còn anh, anh đội, yến hội nào anh được mời vào tham dự, rất
đáng liều thân?
Trước kia, tôi đã từng được nghe anh thổ lộ tâm tình. Anh đã
từng kể lại chuyện đời anh: một chân kế toán lai rai đâu đó tại Barcelone, tại
đây anh đã tháng ngày biên chép hàng ngàn con số, và anh không bận tâm nhiều vì
những chia rẽ trong nước anh. Nhưng một thằng bạn anh bỗng tòng quân, rồi một
thằng thứ hai, rồi một thằng thứ ba, và anh bỗng ngạc nhiên nhận thấy mình đang
chịu một cơn biến đổi dị thường: công việc làm bỗng dần dần thấy tẻ nhạt vô
nghĩa. Những vui chơi, những lo nghĩ, những tiện nghi tủn mủn, thảy thảy biến
thành những thứ gì đâu của một xa xôi quá vãng. Nhưng đó chưa phải là cái hệ trọng.
Cho tới lúc nghe tin một thằng bạn chết, tử trận bên Malaga. Thằng bạn cũng chẳng
phải là chí thiết chi cho lắm mà nói tới ý muốn trả thù cho nó. Còn như nói về
chính trị, thì đó lại là thứ chẳng bao giờ anh quan tâm. Thế tuy nhiên, cái tin
kia lại phóng tới trên mình, trên căn số tủn mủn đời mình, mạnh như trận gió biển.
Một thằng bạn nhìn anh sáng nọ:
- Đi chứ ta?
- Đi chứ.
Và hai đứa đã "đi". Hai đứa "đi chứ ta - đi chứ"
đã lên đường tới đó, tại chốn kia.
Và hình ảnh chợt đến để giải thích với tôi cái chân lý mà anh
không tìm được lời để diễn tả, nhưng tính cách hiển nhiên của nó đã chi phối
lòng anh.
Vào mùa chim di thê, lúc những bầy vịt trời từng đợt bay
ngang qua trời rộng, thì chúng gây nên những triều sóng dị thường tại những miền
đất ở phía dưới dặm mây bay. Lũ vịt nhà, ngong ngóng nhìn lên, như dường bị nhiếp
dẫn bởi đường bay lớn rộng của hàng ngũ vịt trời xếp theo hình tam giác dìu dặt
tiện gió lướt đi, lũ vịt nhà bỗng dang cách sập sè vụng về đạp nhảy. Tiếng gọi
hoang vu đã đánh thức dậy nơi chúng những tàn tích hoang vu nào chẳng rõ. Và bỗng
dưng trong một phút, lũ vịt nhà biến làm chim di thê thiên tẩy. Bỗng dưng trong
cái đầu âm u bé bỏng cứng rắn kia, vốn chỉ ghi lại quẩn quanh những hình ảnh ao
con, nước đục, sâu đen, chuồng tối, thoắt thôi bỗng trào dậy những cơn phiêu bồng
thênh thang lục địa, hương vị những gió dàn trên mặt sóng mênh mông, những địa
lý đại dương, những họa đồ đại hải... Con vật ngu ngơ vẫn không biết rằng cái
óc não bé bỏng của mình lại đủ rộng để mang chứa được bao nhiêu là kỳ quan kiều
diễm, thế mà đột nhiên nó đã đập cánh chịu chơi, khinh thường hột thóc, khi dễ
con sâu, và muốn mình phải trở nên vịt trời hoang vu náo động.
Nhưng tôi nhớ nhiều nhất là mấy con nai sa mạc cũ: tại Juby
ngày trước tôi có nuôi mấy con nai sa mạc, tục gọi là linh dương. Bọn chúng tôi
thủa đó, tại xứ xa xôi kia, ai ai cũng có nuôi linh dương tròn trịa đôi mắt.
Chúng tôi nhốt chúng nó trong một căn nhà bằng dây kẽm đan mắt cáo, để ở ngoài
trời, bởi vì linh dương cần có những ngọn nước của gió động phi tuyền, và không
có giống gì yếu thơ, ngây dại, mãnh khảnh du dương bằng linh dương được cả. Bắt
về nuôi lúc chúng còn bé, chúng vẫn sống được, và đưa mõm gặm nhai tại trong
bàn tay người đút. Chúng bằng lòng để cho người vuốt ve, và dụi cái mõm ướt của
chúng vào giữa lòng sũng của bàn tay chúng ta. Và ta tưởng chúng đã thuần tính,
chịu dan díu cư trú với người, và quen thuộc nết nhau. Ta tưởng đã che chở được
chúng trước sức xâm nhập của mối sầu khôn tả, khó hiểu lạ lùng, vốn âm ỷ nung nấu
hao mòn hồn linh dương trong lặng lẽ, và đưa chúng nó tới cái chết vô hạn êm đềm...
Nhưng một ngày kia bỗng ta thấy chúng thẫn thờ tỳ cặp sừng bé bỏng vào tấm lưới
kẽm gai, hướng đầu về phía sa mạc. Một sức nam châm đang hút linh hồn óng ả của
linh dương. Chúng không biết rằng chúng trốn tránh con người ta. Chén sữa ta
mang lại cho chúng, chúng vẫn tiến đến uống. Chúng cũng đứng yên đưa hình hài
cho ta vuốt, chúng vẫn dụi mõm vào lòng bàn tay chúng ta, càng thân ái thiết
tha muôn vàn hơn nữa. Nhưng ta vừa thả lỏng ngón tay buông chúng ra, ta mới nhận
thấy rằng sau một lúc động mình tuyết bạch chúng nhảy tung tăng có chiều như
vui, có chiều như hạnh phúc hân hoan bỗng nhiên chúng bị thu hút trở lại bởi niềm
gì khác đó, và quay trở lại bên lưới kẽm gai, tì đầu vào kẽm đan mắt cáo. Và nếu
ta không can thiệp vào nữa, chúng nằm yên tại đó, cũng chẳng gắng phá chuồng,
chẳng chống chọi vì với cái lưới chắn ngang, chỉ giản dị tỳ cặp sừng bé bỏng
vào đó, cúi cổ thấp ngẩn ngơ, lặng thinh cho tới chết. Phải chăng mùa yêu đương
náo động, phải chăng tuần ân ái than van, hoặc phải chăng chỉ là khát vọng thiết
tha một cuộc nhảy tung trời khiêu dược cho phí sức ngất hơi? Linh dương không
rõ. Gặng hỏi nàng, nàng chẳng nói cho ta hay. Hỡi ôi, từ thủa sơ sinh, ngay khi
hai con mắt còn chưa mở mi ra, các cô bé đã vội lìa vú mẹ mà lọt sang tay người.
Các cô nào có hay có biết một tý gì đâu của chất hằng sa mạc, của thói thường tự
do, của hương lừng hưng dật, phong dụ tình trai. Con đực là cái gì, các cô
không rõ. Nhưng các anh, các anh thông thạo hơn nhiều. Cái điều xui các cô trở
cơn xao xác, cái sự khiến các cô trở chứng kiếm tìm, cái đó các anh biết rõ, và
duy chỉ khoảng rộng tuyết mù là có thể thành tựu giúp các cô thôi. Các cô muốn
trở thành linh dương và nhảy múa theo tiết nhịp linh dương. Tốc độ tung bay
theo nhịp nhún nhảy của một trăm ba chục cây số một giờ, dặt dìu, lướt gió, các
cô muốn biết thế nào là trận nhảy thẳng băng trên hoàng sa trực tuyến, thế nào
là chợt dừng phiêu hốt, thế nào là chợt vút thẳng lên cao, như bất thình lình tại
đây, tại đó, những tia lửa hừng đột ngột từ lòng cát vọt lên. Sá gì lũ sài lang
rình rập, nếu chân lý của linh dương là phải nếm cái vị kinh hoàng, cái mùi hoảng
vía, cái lạc phách xiêu hồn riêng đủ sức xô ép các cô vào cõi mộng tự vượt quá
mình, để nảy hột tinh anh giữa tuyền oa lộng múa. Sá gì sư tử kim mao, nếu chân
lý của linh dương là được quyền nhập vào cơn nắng mặt trời để vỡ tan hình hài
trong móng nhọn! Bạn nhìn chúng và bạn nghĩ: à ra thế, các cô này đương chịu trận
tư hương. Tư hương là khát vọng quê nào của chân trời gì chẳng biết... Đối tượng
của khát khao, cái đó là thật, nhưng lại không lời để nói được nó ra.
Còn chúng ta, chúng ta đang thiếu thốn cái gì?
Anh đội ơi, anh tìm ra cái gì tại đây khả dĩ đem lại cho anh
cái cảm tưởng mình không vi bội định mệnh của mình? Có lẽ cái cánh tay huynh đệ
nâng đầu anh lúc anh còn ngái ngủ, mà sẻ chia chung? "Ê! Anh bạn...
". Ái ngại giùm, là kẻ đứng rẽ riêng mà nhìn ngó. Thế vẫn còn cách biệt.
Nhưng trong tình giao hảo, còn có một độ cao vời hảo hợp, tại đó lòng tri ân,
lòng thương hại, cùng không còn nghĩa nữa. Tại đó người ta hô hấp như một tên
tù được thoát ly cùm xích.
Chúng tôi có biết niềm hảo hợp đó, lúc chúng tôi bay từng đội
hai phi cơ vượt qua miền Rio de Oro thuở đó còn chưa quy thuận. Tôi không một lần
nào nghe thấy kẻ lâm nạn cảm tạ người giải nguy. Thường thường chúng tôi lại
còn chưởi bới nhau chán chê nữa là khác, nhân những cuộc lây lất nhọc nhằn chuyền
các bao thư tín từ phi cơ này sang phi cơ khác tại các trạm nghỉ: "Thằng
toi đâm! Đồ chết bằm! Tao mà bị hỏng máy lúc đó lại tại mày, mày bướng bỉnh như
quỷ gặp thiên lôi, cứ điên rồ đòi bay cao hai nghìn thước cho được, giữa cơn
gió thổi ngược chiều! Nếu mày biết thân mà nghe theo tao bay thấp, thì có phải
đã tới Port Etienne rồi không! Đồ toi đâm!". Và đứa kia đã liều thân phụng
hiến, lại một phen thấy xấu hổ nhận ra mình làm một cái thứ "toi đâm"
hoặc "lồi hang" chi đó. Nếu nói cảm tạ nhau, thì cảm tạ thằng kia vì
cái vụ gì mới được chứ? Nó cũng có cái quyền vào sinh ra tử trên cuộc sống của
chúng tôi đối với nó. Chúng tôi đều là các cành nhánh của một thân cây. Mày cứu
tao, thì tao rất lấy làm kiêu hãnh được có một thằng bạn chịu chơi như mày!
Anh đội ơi, nó mà ái ngại giùm anh thì còn ra thể thống gì nữa.
Mà tại sao nó phải ái ngại, nó là kẻ sắp trang bị anh đủ đầy để anh đi ra ngoài
kia chịu chết. Các anh chia nhau một hiểm nguy, các anh đảm nhận cuộc liều thân
đứa này vì đứa khác. Trong phút giây đó, người ta nhận ra cái niềm hảo hợp kia
không cần lời phô diễn nữa. Tôi đã hiểu cái cuộc: "đi chứ ta - đi chứ"
của anh. Nếu ở Barcelone anh đã nghèo nàn, cô đơn sau buổi làm công việc, nếu
ngay cả tấm thân anh cũng không nơi lưu trú, thì tại đây anh cảm thấy mình đang
thành tựu nghiệp mình, mình đang đi vào cõi của xứ miền bất tuyệt đại hòa đồng.
Anh, con người bị ruồng bỏ, bây giờ anh được đón nhận bởi tình thương.
Tôi chẳng cần biết là thật hay không, là hợp luận lý hay
không, những cái tiếng văn hóa to lớn của những người làm chính trị, những tiếng
đó có lẽ đã gieo mầm rắc mống vào trong con người anh. Nếu những tiếng đó đã
lung trạo được anh, và đâm chồi ra được, như những hạt giống đâm được chồi ra,
thì ấy bởi là chúng đã đáp ứng được khát vọng của anh. Riêng anh là quan tòa
xét đoán. Riêng đất đai nhận ra được hạt lúa của mình.
3
Liên kết các anh em bởi một mục đích chung nằm ngoài vòng
chúng ta, chỉ khi đó chúng ta mới đề huề hô hấp, và kinh nghiệm cho ta thấy rằng
yêu thương không phải là nhìn qua ngó lại nhau, mà ấy là cùng nhìn ngó chung về
một hướng. Chỉ thật là bạn hữu lúc cùng liên kết trong một đoạn dây leo núi, hướng
lên một chóp, tại đó bồ bịch lại trùng phùng. Nếu không thì tại sao ngay giữa
thế kỷ tiện nghi an lạc này, chúng ta lại cảm thấy một niềm vui viên mãn đến thế,
lúc chia nhau những thức ăn cuối cùng trong sa mạc? Trước sự vụ đó, những dự
tính của những nhà xã hội học còn có nghĩa lý chi? Đối với tất cả những ai
trong chúng tôi đã từng biết niềm vui tót vời của những lần cứu nạn trong
Sahara, mọi khoái lạc đều tủn mủn tầm phào.
Có lẽ vì vậy mà thế giới ngày nay đang khởi sự rạn vỡ quanh
ta. Ai cũng động cơn say cuồng vì những tôn giáo đang hứa hẹn với họ niềm vui
túc mục tròn đầy kia. Tất cả chúng ta, bằng những tiếng mâu thuẫn nhau lốp đốp,
chúng ta cùng phô diễn những kiền tình, hưng phấn giống nhau. Chúng ta chia rẽ
nhau trên bình diện những phương sách, chúng là kết quả của những luận lý,
chúng ta không chia rẽ nhau vì mục đích: mục đích giống nhau.
Từ đó, ta đừng nên kinh ngạc. Kẻ nào không hay biết gì cả về
cõi bí nhiệm tiềm ẩn trong mình, nhưng chợt một lần cảm thấy nó trở cơn thức giấc
trong một căn nhà hầm của những người chủ trương vô chính phủ tại Barcelone,
nhân vì chứng giám và tham dự những hy sinh, tương thân tương trợ, những hình ảnh
nghiêm mật của công chính, kẻ đó suốt đời sẽ biết riêng một chân lý: chân lý của
người vô chính phủ. Và kẻ nào có lần đã mang thân canh gác bảo vệ một đoàn thể
nữ tu bé bỏng quỳ gối kinh hoàng trong những tu viện Tây Ban Nha, kẻ đó sẽ nguyện
suốt đời liều thân cho giáo hội.
Lúc Mermoz phóng phi cơ tới triền núi Andes thuộc địa phận
Chili, mang niềm tin thắng cuộc trong lòng, nếu ta bảo anh rằng anh lầm to, rằng
một lá thư của một người buôn bán có lẽ không đáng để anh liều thân như thế,
thì Mermoz ắt hẳn đã cười anh. Chân lý, ấy là cái con người đang nảy nở ở trong
anh, lúc anh vượt dãy Andes.
Nếu anh muốn chứng minh cho thấy thảm khốc ghê tởm của chiến
tranh, với một kẻ không từ chối chiến tranh, anh đừng coi họ là dã man, tìm hiểu
họ trước khi phê phán họ.
Ta thử gẫm chuyện vị sĩ quan chỉ huy một đồn binh tiền tuyến
trong buổi chiến tranh tại Rif, đồn binh đó nằm ép giữa hai ngọn núi địch. Một
đêm nọ, ông đón tiếp phái đoàn thương thuyết từ dãy núi phía Tây xuống. Đang uống
trà với nhau thì súng nổ. Quân địch dãy núi phía Đông tới đánh đồn. Vị chỉ huy
muốn xua các vị quân sứ phái đoàn thương thuyết đi, để rảnh tay ra trận, thì
các vị này đáp: "Chúng tôi là khách của ngài tối nay, Thượng Đế không cho
phép chúng tôi bỏ ngài... ". Thế là họ nhập vào hàng ngũ thuộc hạ của ông,
giải thoát đồn ông, rồi leo trở về sào huyệt chơi vơi như tổ ó đầu non của họ.
Rồi tới lượt họ soạn sửa tấn công. Trước một ngày, họ phái sứ
giả tới:
- Tối hôm trước, chúng tôi có giúp ngài...
- Chính thế.
- Chúng tôi đã bắn ba trăm viên đạn...
- Chính thế.
- Phát hoàn số đạn ấy lại chúng tôi, là phải lẽ.
Vị đại úy, vốn người hào hoa quân tử, không thể lợi dụng cái
chút ưu thế trong cuộc chơi, nó có được là do lòng quân tử hào hoa của phía địch.
Ông hoàn lại họ những viên đạn ngày mai họ sẽ dùng để đánh ông.
Chân lý đối với con người, là cái gì làm con người thành một
con người. Khi một kẻ nọ vốn biết giữ gìn phong thể trung chính trong giao tế,
trung thực đàng hoàng trong cuộc chơi, trung tín trong quý chuộng nhau can
tràng tâm phúc "một lời đã biết đến ta", khi kẻ đó gẫm tới cái cõi
cao thượng trong bầu không khí mình được "phép" hoạt du, và gẫm ra
cái miền lai rai tử tế của kẻ gian dối mỵ dân nếu gặp dịp thì ắt cũng đã tỏ
tình tương giao huynh đệ với cũng chính mấy ông Ẳ Rập này bằng những vỗ vai bá
cổ, cũng ắt đã nịnh nọt họ và đồng thời làm nhục nhã họ (toujours amicalement,
bien entendu!), kẻ ấy nếu gặp ta, nghe ta bảo rằng chàng vị tất đã hành động
đúng đường khôn ngoan khôn khéo, thì hẳn y chỉ chào ta bằng một niềm thương hại
pha chút khinh bỉ. Và chính chàng ta có lý đó.
Nhưng mà anh cũng sẽ có lý như thường, nếu anh ghét chiến
tranh.
Muốn hiểu con người và những như cầu của nó, muốn biết nó
trong phần cốt thiết, thì chẳng nên đem những chân lý hiển nhiên của ta ra mà
cho chúng chọi nhau lại qua lốp đốp. Vâng, các anh có lý. Tất cả các anh đều
luôn luôn có lý. Luận lý minh giải được mọi sự. Cái anh chàng nọ cũng cứ có ý
luôn, cái anh chàng đem trút lên đầu những gã lưng gù tất cả những hoạn nạn thống
khổ trần gian. Nếu chúng ta một mai mở cuộc chiến tranh chống bọn lưng gù, thì
chúng ta cũng sẽ mau hăm hở nhiệt thành lắm đó. Chúng ta sẽ trả thù tội ác của
bọn gù lưng. Và quả thật bọn gù lưng cũng làm nên tội ác của lưng gù.
Muốn thử giải khai cái phần cốt yếu nọ, cần phải tạm quên những
mối chia rẽ trong chốc lát, những mối chia rẽ bất hòa, một khi đã chấp nhận, sẽ
lôi theo cả một quyển Kinh Thánh thiêng liêng chứa những chân lý cứng đen như
đá không bao giờ nhúc nhích, không bao giờ rục rịch, và mở đường cho tinh thần
cuồng tín... kể từ... tự đó... mà ra... Người ta có thể chia thiên hạ ra làm
hai loại người, người phía hữu và người phía tả, người gù lưng và người không
lưng gù, người phát xít và người dân chủ, và hỡi ôi, những phân biệt chia xa
kia đố ai mà kích bác cho được. Nhưng, bạn cũng biết đó, chân lý là cái gì
dung-dị-hóa cảnh đời, chớ đâu phải là cái gì tạo lập cõi hỗn độn nhà ma. Chân
lý, đó là cái ngôn ngữ giải khai phơi mở cái phổ cập hòa đồng. Newton không có
"phát minh" một định luật ẩn giấu lâu ngày theo cách điệu một lời giả
ngữ mê, ngôn ẩn. Newton đã thực hiện một công trình sáng tạo. Ông đã thiết lập
một thứ ngôn ngữ trần gian khả dĩ đồng thời diễn tả sự rụng rơi của một quả táo
trên hai hàng cỏ mọc bờ đồng, hoặc sự vụ mặt trời đỏ đăng thiên. Chân lý, không
phải là cái gì có thể minh giải, chân lý là cái gì giản dị hóa cho mê cung.
Ích gì đâu việc bàn luận về những lý thuyết, những quan niệm
luận, những ý thức hệ? Nếu tất cả chúng đều có thể chứng minh, thì tất cả chúng
cũng chọi nhau thảy thảy, và những luận bàn kia chỉ gây tuyệt vọng cho sự giải
cứu con người. Trong khi đó thì con người, khắp nơi, quanh ta, vẫn bày tỏ những
nhu cầu giống nhau như hệt.
Chúng ta muốn được giải thoát. Kẻ đào một nhát cuốc muốn biết
nhát cuốc có một ý nghĩa nào. Và nhát cuốc của kẻ tội đồ, đương làm nhục nhã tội
đồ, không giống nhát cuốc của người khai mỏ, đang làm lớn rộng tinh thần người
khai mỏ. Ngục tù áp bức không nằm trong cái việc đào nhát cuốc. Lao lực không
có gì đáng tởm, vật chất không có gì đáng ghê. Ao tù thống khổ nằm tại nơi: đào
một nhát cuốc mà chẳng thấy ý nghĩa của nhát cuốc, những nhát cuốc không kết liền
kẻ đào đất vào với đoàn thể loài người.
Và chúng ta muốn thoát ra khỏi ao tù.
Tại Âu Châu có hai trăm triệu người sống dở chết dở, vì không
thấy ý nghĩa đời mình ở đâu, và họ mong nảy nở. Kỹ nghệ đã lôi rứt họ lìa ra khỏi
ngôn ngữ truyền thống điền dã, phỉ phong thuần hức, và nhốt kín họ vào trong những
xóm "thương mại bình khang khổng lồ" giống như những nhà ga lựa tàu,
đầy rẫy ngổn ngang những dãy toa đen đủi như than. Từ đáy thẳm những phường xóm
thợ thuyền, họ muốn được thức giấc.
Cũng có kẻ, mắc nghẽn trong guồng máy xô bồ nghiệp nghề đủ lối,
họ không còn hưởng được những niềm vui của kẻ tiên khu khai khẩn, những niềm
vui tôn giáo, những niềm vui của người bác học. Người ta tưởng, muốn nâng cao đời
sống của họ, chỉ cần ban áo quần, cấp lương thực, đáp ứng lại những nhu cầu của
họ. Và người ta đã dần dà gây dựng cho họ nên anh chàng tiểu tư sản lai rai, hoặc
anh làm chính trị thôn làng, hoặc tay chuyên môn không có đời sống nội tâm. Người
ta cho họ học tập đủ đầy, nhưng người ta không bồi dưỡng, hàm dục họ. Cái kẻ tưởng
rằng văn hóa là miệt mài nhớ nhiều công thức, kẻ đó quan niệm văn hóa một cách
thật là ngậm ngùi thiểu não. Một cậu học sinh hạng bét tại trường chuyên nghiệp
cũng biết về thiên nhiên và những định luật của thiên nhiên nhiều hơn Descartes
và Pascal. Nhưng chàng ta làm sao có được cái khả năng vận dụng tinh thần như
những con người đó?
Tất cả mọi người cùng âm thầm cảm thấy nhu cầu được nảy nở.
Nhưng có những giải pháp đánh lừa. Cho con người vận binh phục nhất tề vào
thân, chắc là có thể làm cho y hăm hở nao nức. Y sẽ hát to những bản quân ca,
và cùng bạn đồng đội bẻ bánh đề huề chia nhau ăn rộn rịp. Y sẽ tìm ra cái điều
y kiếm, là cái hương vị hòa đồng đại thể. Nhưng từ cái miếng bánh cung cấp cho
y, y sẽ ra sao nữa? Y sẽ chết.
Người ta có thể đào bới trở ra những ngẫu tượng tà ma, và làm
sống trở dậy những thần thoại hồ đồ hay hữu lý, ta có thể làm sống trở dậy những
huyền thoại lung lạc như Liên Đức lý thuyết, Đại Nhật Nhi Man chủ nghĩa, hoặc
La Mã Đế Quốc chủ nghĩa. Người ta có thể làm ngất ngây dân Đức bằng cái men
ngây ngất được là người Đức phiêu bồng, và là đồng bào của Beethoven -Tố-Như-Tử,
và đồng quận của Nietzsche - Liệp-Hộ-Hồng-Sơn. Người ta có thể làm say sưa tót
vời ngay cả kẻ giữ hầm rượu vốn đã tuyệt diệu say sưa. Và quả thật điều đó dễ
làm hơn là gây dựng nên một Beethoven ở trong con người coi kho rượu.
Nhưng những ngẫu tượng kia là những tà ma khát máu. Những ma
cà rồng vốn thuộc loài ăn thịt. Kẻ chịu chết vì cuộc tiến bộ của trí năng kiến
thức, chịu chết vì lo chữa bệnh tật, kẻ đó phụng sự đời sống lúc chịu chết đi.
Chết để bành trướng đất đai, mở rộng bờ cõi, có lẽ cũng là việc đẹp lắm, nhưng
chiến tranh ngày nay lại tàn phá mất những gì nó tưởng đang bồi dưỡng. Ngày
nay, chiến tranh không còn là vấn đề chịu hy sinh một ít máu để hồi sinh một giống
nòi. Chiến tranh, từ cái ngày nó được trị liệu, được giải quyết bằng phi cơ và
bom đạn chất độc, chiến tranh chỉ là chuyện đổ máu điêu tàn. Mỗi bên nấp sau một
bức tường xi măng, mỗi bên, không làm gì hơn được, thì chỉ còn biết đêm đêm đưa
các phi đội len vào trong nội địa của địch mà dội bom ở giữa ruột rà địch, cho
tan hoang tim phổi địch, tại trung tâm sinh hoạt của địch, làm tê cóng sản xuất
và thương mại của địch. Bên nào tan nát sau, thì bên đó thắng. Và đôi bên tha hồ
mà mục nát song song.
Trong một thế giới biến thành sa mạc, chúng ta khao khát tìm
lại bạn hữu: vị bánh mì bẻ chia nhau giữa bạn bè đồng đội đã xui chúng tôi chấp
nhận những giá trị của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không cần chiến tranh mới
tìm thấy hơi ấm của những chen vai thích cánh trong cuộc chạy đua về chung một
đích. Chiến tranh lừa gạt chúng tôi rồi. Lòng căm thù không thêm gì vào niềm
hưng phấn trong cuộc.
Tại sao căm hờn nhau? Chúng ta liên đới nhau, cùng phiêu dạt
trên một quả hành tinh, cùng là thủy thủ trên một con tàu trên mặt biển. Những
nền minh chọi nhau, nếu đã làm thuận lợi thiếp thiết cho những tổng hợp mới,
thì đó là điều rất tốt, nhưng nếu để điển diệt nhau thì thật là tàn khốc.
Muốn giải thoát chúng ta, chỉ cần giúp nhau ý thức được một mục
đích chung nó kết nối mọi người lại, thì hợp nhẽ nhất là nên tìm mục đích đó tại
nơi nào nó đoàn kết tất cả chúng ta. Nhà giải phẫu đi thăm bệnh nhân, không có
lắng tai nghe những lời than thở của bệnh nhân: qua người bệnh nọ, ông ta tìm
chữa chạy cho chính Con Người. Nhà giải phẫu nói một ngôn ngữ chung. Cũng vậy,
nhà lý học khi ông nghiền ngẫm những phương trình huyền diệu nhờ đó ông lĩnh hội
được cùng một lúc cả nguyên tử và cả giải tinh vân. Cho đến anh mục tử đơn sơ,
cũng vậy nữa. Vì cái kẻ âm thầm coi sóc vài con cừu dưới ánh sao, nếu anh ta ý
thức được vai trò của mình, sẽ nhận thấy mình không chỉ là một tên đày tớ. Mà một
tuần binh, một người lính canh, một trường sở trụ. Mà mỗi lính canh đều mang
trách nhiệm cho toàn quốc.
Anh tưởng rằng kẻ mục tử kia không mong giác ngộ? Tại chiến
tuyến Madrid, tôi từng có viếng một nhà trường dựng lên cách các chiến hào năm
trăm thước, phía sau một bờ tường đá nhỏ, trên một ngọn đồi. Một thầy cai dạy thực
vật học tại đó. Thầy cầm một đóa mỹ nhân thảo, thầy tách rời từng bộ phận mỏng
manh của đóa hoa, thầy "thu hút" tới bao nhiêu người râu ria vượt từ
các vùng bùn lầy lân cận, lũ lượt kéo tới như đoàn hành hương, không kể gì lửa
đạn. Họ ngồi xếp bằng xung quanh thầy cai, chống cằm trên tay, chăm chú lắng
nghe thầy giảng. Họ nhíu mày, cắn chặt hàm răng lại, họ không hiểu gì mấy tí,
nhưng người ta đã bảo họ: "Các ông là những kẻ man rợ như lồi hang, chưa
thoát hẳn cuộc sống toi đâm ăn lông ở lỗ, phải gắng tiến cho kịp nhân loại chớ!"
và họ vội vã lịch kịch kéo bước tiến lên cho kịp.
Lúc ta ý thức được vai trò của ta, dù vai trò mờ nhạt mấy đi
nữa, thì khi đó ta mới thấy hạnh phúc. Chỉ khi đó ta mới sống yên bình và chết
yên bình, bởi vì cái gì đem lại một ý nghĩa cho cuộc sống cũng đem lại một ý
nghĩa cho cái chết.
Cái chết êm dịu xiết bao nếu nó nằm trong vòng tuần hoàn ổn định
của mọi sự, lúc một nông dân miền Provence đi tới chung cục đời mình, đem ký
thác cho con mình thừa kế cái tài sản gồm những con dê cái, và những cây ô liu,
để mai sau tới lượt chúng sẽ giao phó lại cho cháu họ. Trong dòng dõi điền dã,
con người ta chỉ chết một nửa đời mà thôi. Mỗi đời sống cứ theo nhau lần lượt
mà rạn nứt như một quả đậu khô nứt vỏ, để cái hạt nó nẩy ra con người ta đón nhận.
Một lần, tôi có dịp đứng cạnh ba người nông dân trước giường
mẹ họ lúc bà lâm chung. Vâng, cảnh tượng thật là đau đớn. Lần thứ nhì, cuống rốn
đứt ngang. Lần thứ nhì, một cái gút sổ tung: cái gút nối kết thế hệ trước với
thế hệ sau. Ba đứa con thấy mình lẻ loi, còn phải học hỏi một trăm điều, thiếu
mất một bàn ăn để quây quần ngày giỗ, thiếu mất một từ - cực quy tụ tình
thương. Nhưng trong lần tử biệt đó, tôi cũng nhận thấy rằng đời sống có thể được
ban cấp một lần thứ hai. Những người con ấy, tới lượt họ, họ cũng làm kẻ đầu
đàn, tâm điểm cho sự tập trung đoàn kết, họ thành tộc trưởng, cho tới giờ họ sẽ
trao quyền điều khiển lại cho lứa đầu thơ dại hiện đang chơi đùa ngoài sân.
Tôi nhìn người mẹ, người đàn bà nhà quê già nua với khuôn mặt
yên bình và nghiêm khắc, môi cắn chặt, cái khuôn mặt biến thành đá lạnh. Và tôi
nhận ra khuôn mặt những người con trong đó. Khuôn mặt bà mẹ đã nắn đúc khuôn mặt
con. Tấm thân bà mẹ đã đúc thân thể những người con tráng kiện. Và bây giờ, bà
nằm yên tan nát, nhưng giống hệt một trái khô đã trao hạt cho đời. Tới lượt con
cái bà sẽ đúc nên những tấm thân con người khác, bằng xương máu mình. Tại nông
thôn, người ta không chết. Bà mẹ chết rồi, bà mẹ sống muôn năm.
Đoạn trường, vâng, nhưng giản dị xiết bao là hình ảnh đó của
giây dòng dõi trường tại, lần lượt trút bỏ dọc đường những vỏ khô tóc bạc da mồi,
mà thẳng bước tới một chân lý u huyền nào, qua bao bận thay hình đổi dạng.
Vì thế cho nên, cũng trong đêm đó, tiếng chuông chiêu hồn tại
thôn bản nọ vẳng nghe như chất chứa những gì không phải tuyệt vọng đau thương,
mà dạt dào một niềm hân hoan ẩn kín dịu dàng. Tiếng chuông tiễn đưa người chết,
tiếng chuông đón tiếp lễ rửa tội người còn, cũng vang một giọng, và tối nay lại
vang lên báo hiệu giờ nối tiếp của hai thế hệ giao nhau. Và người ta cảm thấy một
niềm thanh thản bàng bạc khi nghe tiếng chuông mừng một bà lão đi về trong lòng
đất yên vui.
Cái gì chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác, chậm rãi như sự
tiến triển của một thân cây? Ấy là cuộc sống mà cũng là ý thức tâm linh. Một tiến
triển thăng cao huyền bí! Từ một phún thạch hỏa sơn nung nấu, từ một chất dẻo
tinh tú, từ một tế bào sinh động huyền diệu nảy mầm, chúng ta thoát thai và dần
dà, tiến triển tuyệt vời cho tới lúc viết những bản dao ca, và ước lượng những
giải ngân hà.
Bà mẹ không những chỉ truyền cuộc sống cho con: bà mẹ còn dạy
cho con học một ngôn ngữ, ký thác cho con gói hành tranh thu nhặt bao ngày trải
qua bao thế kỷ, cái kho di sản tinh thần mà bà đã đón nhận, gồm những truyền thống,
những khái niệm, những truyền kỳ, tất cả những gì làm nên sự chia biệt giữa
Newton, Shakespeare và con người thái cổ ở trong hang tối.
Cái điều ta cảm thấy lúc ta đói, cái cơn đói của khát vọng đã
giục những người lính Tây Ban Nha lướt qua lửa đạn mà học bài thực vật, cái cơn
đói đã xui Mermoz bay qua Nam Đại Tây Dương, hoặc khiến kẻ nọ tới gạ gẫm với
nàng thơ, cái điều ta cảm thấy đó là: cuộc phôi dựng chưa hoàn tất, và chúng ta
còn phải ý thức về mình và về vũ trụ. Chúng ta phải bắc cầu gieo nhịp trong đêm
tăm. Những kẻ không biết tới điều đó, là riêng những kẻ thờ ơ vị kỷ mà làm nề nếp
cho lối sống họ tưởng là khôn ngoan, là minh trí. Nhưng khôn ngoan đó là khôn vặt.
Thảy thảy trong đời đều chối bỏ cái loại khôn kia. Ô, những bạn hữu, những bạn
hữu thân mến của tôi, xin các anh làm chứng giúp: chúng ta thật sự cảm thấy
sung sướng là những lúc nào?
4
Và tới đây, tại trang cuối cuốn sách này, tôi nhớ lại những
công chức già đã "tháp tùng" tôi, buổi bình minh chuyến thư đầu tiên
nọ, thuở may mắn được chọn đi, chúng tôi soạn sửa lột xác để nên người. Họ vẫn
rất giống chúng tôi, nhưng lại không biết rằng mình đói.
Quá nhiều là cái đám người mà thiên hạ để ngủ yên.
Cách đây mấy năm, nhân một chuyến viễn du bằng xe lửa, tôi có
ý muốn viếng cái quê hương đang chạy trên đường rầy, trong đó tôi giam mình ba
ngày, chịu đựng ba ngày cái tiếng sào sạo bên tai. Tôi đứng dậy. Tôi đi dọc suốt
con tàu đêm, từ đầu tới cuối, khoảng một giờ khuya. Những toa giường ngủ, trống
vắng cả. Những toa hạng nhất cũng trống vắng.
Nhưng những toa hạng ba thì chứa ngổn ngang hàng trăm thợ
thuyền Ba Lan mất việc làm tại đất Pháp phải tìm về quê hương. Tôi dọc theo
hành lanh tiến lên, bước qua thân mình những người nằm ngủ. Tôi dừng lại nhìn.
Đứng dưới những ngọn đèn tàu, nhìn vào toa chung chạ giống một phòng ngủ công cộng,
nghe nồng hơi đồn binh hoặc cảnh sát cục, tôi thấy cả một đám người hỗn độn nằm
ngửa ngang mặc cho tàu tốc hành dồi dập. Cả một lũ người đắm trong ác mộng,
đang quay về cõi khốn cùng. Những cái đầu to cạo trọc gối bừa bãi trên thành gỗ
những băng dài. Đàn ông, đàn bà, con nít, lăn lộn từ phải sang trái, như bị dày
vò bởi tiếng xe chạy ì ầm, những rung chuyển nhồi xóc hăm dạo mãi không nguôi.
Họ tìm không ra chỗ yên thân trong giấc ngủ.
Và tôi thấy dường như họ đã mất hết nửa tính chất con người,
bị xô đẩy trôi dạt từ đầu này tới cuối nọ châu Âu bởi những cuồng lưu kinh tế,
bị đánh bật ra khỏi căn nhà phương Bắc, ra khỏi khu vườn bé bỏng với ba chậu
phong lữ thảo mà ngày xưa tôi đã từng có dịp ngắm xem tại khung cửa sổ những
nhà thợ mỏ Ba Lan. Họ chỉ gom góp mang theo những đồ dùng bếp núc, những chăn
màn, gói trong những cái bọc cột bó lôi thôi luộm thuộm. Còn những gì họ đã ve vuốt
thân yêu, những gì họ đã nuôi dưỡng thuần thục, chăm sóc ân cần suốt bốn năm
hay năm năm lưu trú tại đất Pháp, con mèo, con chó và chậu phong lữ thảo, họ
đành phải hy sinh bỏ lại, chỉ mang theo những nồi niêu nấu nướng.
Một đứa bé ôm vú mẹ mà bú, người mẹ mỏi mệt quá, trông như
đương ngủ. Cuộc sống đang chuyền nhau trong hỗn độn thê thảm của chuyến đi kia.
Tôi nhìn người cha. Một cái sọ trơn trụi nặng nề như một hòn đá. Một thân thể gập
lại trong giấc ngủ nham nhở, bọc trong lớp áo quần lao động, lồi lõm nhấp nhô.
Con người anh giống như một khối đất sét. Là thế đó, trong đêm tăm, những vật
lênh đênh trôi dạt tấp bừa tại đây, không ra cái hình thù gì cả. Và tôi nghĩ: vấn
đề không nằm trong hoàn cảnh khốn cùng nọ, trong dơ bẩn nọ, trong xấu xí hỗn độn
nọ. Nhưng chính người đàn ông đó, chính người đàn bà đó, một ngày xưa ngẫu nhĩ
gặp nhau, và người đàn ông chắc đã mỉm cười nhìn người đàn bà: sau buổi làm việc,
chắc hẳn anh ta có mang hoa tới tặng nàng. Nhút nhát vụng về, có lẽ anh đã run
như cầy sấy vì sợ bị từ khước. Nhưng người đàn bà, vốn bản chất tự nhiên là
đong đưa làm đỏm, người đàn bà tin chắc ở cái duyên hấp dẫn của mình, có lẽ
nàng đã thích đùa rỡn để chàng đâm lo cưới. Và anh chàng ngày nay chỉ còn là
cái máy để cuốc đất, để đập đe bửa củi, anh chàng ấy xưa kia đã từng biết rung
động bàng hoàng trong mối khắc khoải êm dịu làm sao. Chỗ huyền bí, là những kẻ
đó đã biến thành những đống đất sét nọ. Họ đã chịu qua cái khuôn đúc ác nghiệt
nào, như một thứ máy dát, đã tạc ra hình thù oan uổng thế này? Một con vật già,
còn giữ cái duyên già lưu lại cho cái duyên trẻ. Thì tại sao cái chất đất thó tốt
đẹp của con người lại chịu hủy hoại như điêu đứng thế kia?
Tôi tiếp tục đi tuần du giữa cái đám người ngủ hắt hiu thấp
thỏm nọ, như não nùng là chốn... Một tiếng ồn mơ hồ thoang thoảng gồm những giọng
ngáy ồ ồ, những than thở âm u, những tiếng giày thô cọ vào gỗ, của những kẻ
thân xác rã một bên, trằn trọc tìm lăn sang bên khác. Và mãi mãi vẫn âm thầm gõ
nhịp là cái tiếng động liên miên ì ầm của con tàu nghe như tiếng sỏi bị sóng vỗ
bật trên bãi biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét