Nhà sư vướng lụy 1
Hay là TRUYỆN CON HỒNG NHẠN LƯU LY
THE LONE SWAN
(Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký 斷 鴻 零 雁 記 )
VÀI LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC PHẨM VÀ TÁC GIẲ
Đoạn hồng linh nhạn ký- Truyện một con hồng nhạn lênh đênh?
Truyện một nhà sư vướng tục lụy? Nhà sư ấy, cha vốn là người Trung Hoa, mẹ là
người Nhật Bản. Cha mất sớm, mẹ về cố quận... Đứa con bơ vơ trôi nổi, quy y cửa
Phật, rồi giũ áo tu, ra đời, vướng vào Lụy Tình Yêu. Ngòi bút của Tô Tử Cốc, vừa
trang nhã, thâm trầm, vừa linh hoạt tân kỳ như bút pháp những văn hào hiện đại
Tây phương- ngòi bút Tô Tử Cốc sẽ đưa chúng ta vào sâu trong cõi tình và lụy, đạo
giáo và ước mơ, những mâu thuẫn muôn đời vạn kiếp của con người ở một thời đại,
và riêng biệt của con người đứng chênh vênh ở đầu thế kỷ hai mươi là thế
kỷ của những dông bão dị thường. Đọc Tô Mạn Thù, chúng ta có cảm tưởng kỳ dị:
chẳng những không một tâm tình tư tưởng nào của cõi Đạo Đông phương Chân Như lọt
ra ngoài nhãn quan ông, mà ngay cả cõi Tây phương hoằng đại , từ sơ thủy Hy Lạp
Sophocle Parménide tới hiện đại Âu châu văn thể siêu thực Appollinaire, Nerval,
Camus, Morgan, không một "bút pháp" nào ông không thành thục quán xuyến.
Toàn thể câu chuyện, cũng như mỗi tình tiết nhỏ nêu ra đều được nung nấu trong
mối tư lường của một thánh tính đạt tới cõi lô hỏa thuần thanh, siêu thần nhập
hóa. Không thể nào nói đó là bút pháp tài tình, kỹ thuật điêu luyện,chỉ có thể nói
rằng đó là một cuộc kết tinh huyền nhiệm của lịch sử Đông phương giữa một triều
sóng rộng dâng lên cùng với bao nhiêu ngọn gió ở bốn chân trời lổ đổ thổi lại.
Đọc cuốn sách của Tô Mạn Thù cũng như đọc Sophocle, Nguyễn Du, Nerval,
Apolinaire, Faulkner, Morgan, luôn luôn chúng ta bàng hoàng trước huyền nhiệm
anh hoa phát tiết.
Đại sư Mạn Thù, tên thật là Tô Huyền Anh biệt hiệu là Tô Tử Cốc, sinh năm 1883,
mất năm 1918 (xấp xỉ đồng thời với Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Apollinaire, lênh
đênh giữa hai thế kỷ 19 và 20).
Thân phụ ông vốn là người Trung Hoa, tỉnh Quảng Đông, vì cuộc sinh nhai mà lưu
lạc sang Nhật Bản, cưới một thiếu nữ Nhật, sinh hạ Tô Huyền Anh.
Tô Huyền Anh chưa được mấy tuổi, thì thân phụ chàng đưa gia quyến về lại Trung
Hoa.
Chẳng bao lâu thân phụ chàng lìa đời. Thân mẫu đành quy về Nhật Bản, gửi đứa
con ở lại Trung Hoa, nhờ thân thích bên nội nuôi dưỡng.
Đứa bé bị họ hàng quê cha ghét bỏ, vì nó mang một nửa phần máu mẹ Nhật Bản ở
trong thân thể nó.
Đứa bé cô đơn quá, bèn cạo đầu quy y cửa Phật, vào chùa Lôi Phong tại Quảng
Châu.
Phương trượng Tuệ Long, nhận thấy thằng bé thông minh xuất sắc, mới dốc lòng dạy
dỗ. Sau mấy năm dùi mài cần mẫn, chú bé đã thông thạo văn học tư tưởng Ấn Độ,
Trung Hoa, và dăm bảy ngôn ngữ Tây phương...
Sau khi Phương trượng viên tịch, Tô Mạn Thù cảm thấy bơ vơ, bèn trút giũ
áo tu, ra sống ngoài cõi tục. Tâm trạng tình cảm từ đó quả thật là éo le: tu
thì tu không trot, mà chen lấn chìm nổi với đời, thì cũng thiếu hẳn khả năng
chen lấn nổi chìm.
Chàng thanh niên ấy dấn gót du hành ở nhiều tỉnh Trung Hoa, cư lưu nhiều ngày
nhất là ở Thượng Hải. Và cũng từng du lịch qua Ấn Độ, Âu Châu, Mỹ châu. Cũng
nhiều phen qua Nhật Bản viếng thăm thân mẫu.
Chính tại Nhật Bản, Tô Mạn Thù gặp Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và nhiều đồng
chí của Tôn Dật Tiên sang Nhật lánh nạn. Những anh hùng cách mạng kia chơi thân
thiết với Tô Mạn Thù. Nhưng họ Tô vốn là nhà sư thi sĩ, chẳng thể nào nhập cuộc
thật sự với các lãnh tụ chánh trị chịu chơi gay cấn kia.
Cái anh chàng thanh niên "lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh" kia từ
đó càng lang thang trầm luân khắp châu quận, trường giang đại hải. Tiếng gọi sơ
đầu của Như Lai không đủ cứu vớt chàng, dìu dắt chàng trở lại với cõi tịch mịch
thanh tu. Càng ngày chàng càng đâm ra trầm túy, nửa trong hồ rượu nửa trong biển
tình. Chàng đúng là một loại Nerval Baudelaire Dylan Thomas Verlaine
Apolinaire. Nếu chàng mù được hai mắt như Homère, ắt chàng đã khám phá ra một
cõi sống dị thường trong u tối. Nhưng cái rủi ro lại là ở chỗ: chàng không mù.
Cũng không cận thị. Đó là điều tai hại. Hiểm họa hoành sinh.
Kể từ mười mấy tuổi đầu, chàng đã sống trọn cái thảm kịch trần gian, sinh mệnh
chàng ngược xuôi lảo đảo, mười sáu tuổi đầu, chàng đã thể hội hết nỗi đoạn trường
thế sự mà Nguyễn Du đã viết lúc đầu bạc bình sinh, chàng đã nhìn quá sáng suốt
mọi thảm kịch biển dâu, mà chẳng đủ khả năng thoát tục, cũng không đủ sức sống
xô bồ bạt mạng trắng trợn tới cùng. Thì đó là hiểm họa. Thi văn chàng từ đó
mang một tố chất đìu hiu bất khả tư nghị ở tại cái "ngã ba" siêu lệch
chênh vênh gây cấn: "dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Chiêm bao kỳ mộng
dường gần. Sịch mành sực tỉnh lại dần dần xa. Há rằng ngẫu nhĩ mà ra. Đoạn hồng
linh nhạn mù sa thế nào... "
Đọc đoạn hồng linh nhạn của Đại sư Tô Mạn Thù, từ đó, chúng ta chứng kiến mọi
tan vỡ trong xã hội Đông phương giữa những xung đột kỳ thị, những mộng và tình
và tiền oan túc trái...
(Tiện đây, người dịch xin đưa ý kiến riêng là: những sách tiểu thuyết tôi được
đọc trên vài mươi năm nay, không có cuốn nào gây chấn động cho tôi nhiều như cuốn
sách này của Tô Mạn Thù- trừ cuốn truyện của Nguyễn Du (cố nhiên) và cuốn
Sylvie của Nerval và có lẽ Fountian Sparkenbroke của Morgan- kể về mọi phương
diện- nội dung văn thể, bố cục... )
Tô Mạn Thù vốn mê thơ Lord Byron (thi hào lãng mạn Anh Quốc). Nhưng Tô Mạn Thù
không thể sống trọn cái nghiệp Byron, ấy có vì từ thuở sơ sinh, chàng đã quá lạc
loài rũ rượi, rồi chàng lại bị cái tiếng gọi âm thầm của Như Lai chi phối, khiến
chàng suốt kiếp luẩn quẩn, tìm không ra lối bước, đường tiến, nẻo lui. Hai dòng
máu ở trong mình, hai thời đại của lịch sử, xô con người vào một cõi cô độc dị
thường- đớ là chỗ cốt yếu trong cuốn truyện của Tô Tử Cốc. Cuống truyện hẳn
nhiên không tất nhiên phải là tiểu sử, nhưng nó phản ánh cuộc sống nội tâm của
tác giả và của một lớp người trong buổi giao thời riêng biệt.
Bùi Giáng
° ° °
Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu?Tên họ là gì?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ...
TẲN ĐÀ
Gia suona mattutino, lento, lento,
Ritorno a casa e non veggo la via
Gli occhi lasciai teco e il sentimento!
E ne portai conme la gelosia.
(Đã nghe vang động chuông mai
Lễ là kỳ đảo, hội là cưỡng câu
Tôi về nhà cửa sương thâu
Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường
Bên chàng, thiếp đặt tình thương
Mắt mi môi miệng máu hường bình sinh
Còn riêng mang mãi bên mình
Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi... )
FRANCESCO PETRARCA- Canzoniere
CHƯƠNG MỘT
Tại Bách Việt, về phía Nam bờ biển, có dãy Kim Nhân Sơn nguy
nga dựng sững. Những lúc trời quang mây tạnh, ta có thể nhận thấy phía bên dưới
sườn núi xanh um (tại chân núi) ẩn ẩn hiện hiện một mái ngói hồng lóng lánh, lập
lòe như lớp vảy con kình ngư. Đó là ngôi chùa Hải Vân, vẫn còn nguyên như thuở
xưa, cái ngày nhà Tống sụp đổ, Lục Tú Phù cõng vị ấu chúa chạy tỵ nạn, tới bước
đường cùng, tiên sinh đã cùng ấu chúa tự sát tuẫn quốc tại Nhai Sơn, để trọn đạo
hiếu trung, hơn là lọt vào tay cường địch hung bạo. Một số di thần triều Tống
cũng đã tới đó ẩn thân độn tích, cạo đầu đi tu. Ngày đêm hướng lên trời xanh cầu
nguyện, mong mỏi Thương hiệu phò trì vong linh của Đại Hành Hoàng đế.
Cho tới ngày nay, nhìn sơn lĩnh ở xa xa cuối chân trời, vân khí sầm uất , bàng
bạc chiều chiều như còn gợi mãi vang bóng triều đại xưa. Và thỉnh thoảng tiếng
sóng vỗ bi thống còn khiến lữ khách ngậm ngùi, cúi đầu lặng lẽ, không giám gợi
lại những bóng ma não nùng của quá khứ.
Ngày nay, tôi ghi chép lại những "bảo võng kim tàng" của ngôi chùa cổ.
Thảy thảy còn là những cựu vật chứng giám một thời. Đây một mặt hồ tĩnh lặng,
kia một dòng suối quanh co... dưới bóng tùng bách xanh um. Mấy chục nhà sư trụ
trì tại đó, còn giữ gìn những phong thái nghi lễ ngày xưa. Năm về, năm lại, qua
mỗi một mùa đông truyền giới, y bát vô thanh, khách viễn phương về thụ giới mỗi
mùa trong cảnh tịch mịch. Khách về thưa thớt lắm, ấy bởi vì đường núi hiểm trở,
đèo dốc khi khu.
Một buổi mai, tiếng chuông chùa từ từ ngân, tôi tựa lưng bên góc chùa tĩnh mịch,
nhìn những đàn hải âu bay lượn thấp thoáng ở chân trời. Thời tiết lạnh lẽo giữa
mùa đông. Ngọn gió biển như bức bách con người ta, tự bên ngoài ngàn dặm (hải
phong bức nhân ư thiên lý chi ngoại). Độc giả hiểu cho: đó là ngày tam giới
hoàn tất của tôi. Tính ra, cuộc cư lưu của tôi tại chùa, hốt nhiên đã ba tuần
viên mãn, hôm nay ngày tôi có thể xuống núi trình diện với phương trượng. Sau
đó, ngày ngày quét lá, đêm đêm đốt hương, độ quá lưu niên, có gì đâu mà ân hận!
Đang giữa cơn tư lự như thế, bỗng nhiên nước mắt trào ra. Tôi tự nhủ "Ai
cũng bảo ta là đứa bé không cha không mẹ? Có quả thật như vậy chăng? Ta là đứa
bé không mẹ?"
- Không. Không thể như vậy được.
Kể từ ngày dưỡng phụ từ trần, tôi một thân một mình không còn họ hàng nhìn mặt.
Nhưng mỗi lần gió lay đầu cây ngọn cỏ, hoặc mỗi phen mưa trút liên miên, hoặc
trong cảnh cuồng phong bạo vũ, hoặc trong cảnh vạn vật im lìm, tôi vẫn dường
như nghe thoang thoảng bên tai tiếng kêu gọi của từ mẫu. Nhưng âm thanh đó khởi
từ đâu lại? Ấy là điều tôi không rõ. Nhưng lòng tôi vẫn hằng hằng ôm ấp cái ý
tưởng ấy.
Tôi lại thở dài tự nhủ "Mẹ sinh con ra đời, sao chẳng cho con được gặp mặt
một lần? Mẹ có biết đứa con tôi thân thế phiêu linh cùng cực thế này
chăng?"
Lúc bấy giờ sóng biển rì rào từng đợt lấp lánh ngoài khơi, quang cảnh đẹp dị
thường. Tôi khoác áo cà sa lên thân thể, cùng ba mươi sáu vị đồng giới, tay cầm
nén hương, lũ lượt nối gót nhau bước đi. Lúc lên tới đại điện, bọn chúng tôi
phân tán ra hai bên tả hữu, đứng im phăng phắc như những con nhạn ngày xưa
trong cổ lục phương môn. Các vị trưởng lão ở bốn phía núi non lân cận, cũng đã
tề tựu đông đủ. Đốt hương tụng niệm xong, tứ bề im phăng phắc.
Một lát sau, vị sư cao đạo cất giọng bi khẩn tụng rằng:
Cầu giới hành nhân
Hướng thiên tam bái
Dĩ báo phụ mẫu dưỡng dục chi ân.
Lúc bấy giờ, hai mắt tôi trào lệ như mưa, không làm sao ngưỡng lên được. Các vị
đồng giới cũng tấm tức ngậm ngùi.
Buổi lễ hoàn tất, các vị trưởng lão lần lượt tới bên chúng tôi, mở lời khuyên
miễn an ủi mà rằng:
Thiện tai đại đức!
Tuệ căn thâm hậu,
Nguyện lực trang nghiêm
Thử khứ cẩn thị thân sư,
Dị nhựt Linh Sơn hội thượng.
Niêm hoa tương tiếu"
(Đức lớn tốt thay!
Lành thay đức lớn!
Tuệ căn sâu dày,
Nguyện lực trang nghiêm
Lần này đi phụng bồi sư trưởng
Tới ngày sau tụ hội linh Sơn
Sẽ cầm nhánh hoa
Nhìn nhau mỉm cười một nụ)
Tôi lặng nghe âm thanh tụng niệm ấy chan chứa lòng từ bi ai mẫn, tôi đảnh lễ thụ
điệp (đón nhận Phật kinh) gạt lệ mà bái từ các vị trưởng lão, rồi chậm rãi xuống
núi.
Hai bên đường cây cối trơ trụi xác xơ, lá cành rụng hết. Cảnh tượng thật là
tiêu điều. Chỉ thấy vài ông tiều phu hiện ra rồi mất dạng. Ai có rõ rằng kẻ xa
lánh bụi đời, quy y cửa Phật, vẫn còn mang những đau xót không lời!
CHƯƠNG HAI
Tôi đã từ giã Hải Vân tự, và bây giờ cư lưu tại một căn nhà ở
chốn hoang thôn tịnh mịch. Ngoài việc chăm lo phụng thừa nhu cầu sư trưởng,
hằng ngày tôi lãng phí thời gian trong những trận nhớ nhung xa vắng, nửa tỉnh nửa
mê, thần hồn theo nước mắt mà tràn ra không ngớt. Sư trưởng của tôi, nhận thấy
tôi tuổi nhỏ, rủ lòng thương xót; lựa lời phương tiện, từ ái khuyên lơn. Nhưng
tôi không làm sao nguôi được. Tôi quả thật là đứa khổ sở nhất trần gian.
Một ngày nọ, tôi tuân mệnh sư trưởng, xuống thôn làng khất mễ (xin gạo), được
hơn mười cân, lẽo đẽo mang đi dọc đường. Đang suy nghĩ tìm chốn trọ lại ban
đêm, chợt có kẻ trộm cướp từ xa tới, chộp cái túi vải đựng gạo và chạy mất, Tôi
chỉ đành than dài một tiếng.
Lúc bấy giờ trời nhá nhem tối. Tôi một mình bước đi vất vơ vất vưởng. Lại lạc lối
thế nào ra tận bãi biển, và không tìm được đường về. Tôi bồi hồi quanh quẩn khá
lâu, tới một cồn cát nọ, ngồi nghỉ chân giây lát. Sóng biển bỗng nổi dậy thật
hãi hùng, nhìn bốn bề chỉ thấy âm u dằng dặc.
Đương giữa lúc hoang mang như thế, chợt thấy một đốm lửa li ti ở ngoài khơi lập
lòe như một hạt đậu. Biết rằng đó là ngọn đèn của một chiếc thuyền đánh cá, bèn
cất tiếng gọi:
- Xin ông chài ghé vào đây, cho tôi sang bờ bên kia với.
Sau tiếng gọi , thấy đốm lửa lớn ra dần dần,tôi biết rằng ông chái cá đã đáp ứng,
và đang tiến lại gần.Lòng tôi cũng cảm thấy an ủi đặc biệt. Chẳng bao lâu, chiếc
ghe đã cập bến. Óng chài cất tiếng hỏi:
- Muốn đi tới đâu?
Tôi đáp:
- Tôi chỉ là một nhà sư tại Ba La thôn đi khất thực suốt ngày, lạc lối ra đây.
Mong nhờ ông giúp tôi một phen vậy.
Óng chài đưa tay khoác lia lịa mà rằng:
- Úi chà! Ăn nói gì như thế! Thật là bất thông! Ghe của người ta là cốt đi đánh
cá kiếm lời, có đâu lại phí công phí của mà chở giùm những nhà sư nghèo đói!
Nói xong quay quả chèo ghe đi tuốt. Tôi chẳng còn biết nghĩ gì ra gì được nữa,
phiền muộn ngồi khóc một mình.Chợt vẳng nghe một tiếng chó sủa ở xa xa. Tôi biết
thế là quanh quất vùng này còn có thôn làng thang lan đâu đó. Bèn đứng dậy, men
lối theo đường cỏ mọc mà đi. Dần dà thấy hiện ra ở tiền diện một ngôi cổ miếu.
Tôi vội vã tiến lên. Giữa ngôi cổ miếu, có treo một chiếc đèn leo lét. Tôi bước
vào. Luẩn quẩn một lúc, nằm xuống bên bậc đá, khoanh thân lại nghỉ. Chợt nghe
tiếng chân đi bên ngoài cửa miếu. Tôi sửa lại áo quần ngay ngắn, đứng lên, thì
thấy một đứa bé lăng xăng vội vã bước vào.
Tôi hỏi:
- Em bé đi đâu đó?
Chú bé hai tay cầm mấy cái giỏ tre đưa ra mà rằng:
- Công việc của cháu nhọc nhằn lắm. Đêm đã khuya thế này, cháu vẫn phải len lỏi
bên những tường xiêu vách nát, hoặc lọ mọ giữa những hang đá âm u, hoa cỏ um
tùm, trông cháu giống một tên ăn trộm vậy, cốt để bắt lấy những con dế kêu ri rỉ
này đây. Thật là khổ nhọc lắm.
- Trông em bé mặt mày tuấn tú sao phải đi làm cái việc hèn mọn thế?
Đứa bé than một tiếng đáp rằng:
- Gia đình cháu vốn có một vườn hoa. Ban ngày cháu gánh hoa đem bán cho nhà
giàu có. Người giàu keo kiệt quá, nên chẳng kiếm được bao lăm tiền; chẳng đủ để
nuôi dưỡng mẹ. Mẹ cháu già nua lắm rồi. Cháu là đứa con trai, có lẽ nào không tận
tâm kiệt sức làm việc mà giúp đỡ mẹ trong tuổi già. Công việc bắt dế này thật
là cực nhọc, nhưng phải gắng làm phụ thêm, kiếm thêm được đồng nào, hay đồng ấy.
Nhưng mẹ cháu quả thật chẳng có ngờ rằng cháu làm việc này. Nếu biết, ắt bà
không cho làm. Bà sẽ ngăn trở. Hôm trước, cháu có thấy bên góc miếu này một con
dế bự, cỡi trên lưng một con rết ngất ngưởng bò đi. Cháu tới đây rình mò đã hai
đêm, mà chưa chộp được nó. Nếu ông trời xanh run rủi cho nó lọt vào được trong
tay cháu, thì thật là vạn hạnh! Vạn phúc! Chờ tới ngày chợ phiên, cháu đem ra
bán, ắt được giá cao lắm. Thì cháu sẽ mua cho mẹ một tấm áo da cừu, mùa đông mặc
vào thì ấm áp cũng như ở giữa mùa xuân vậy. Còn gì thích cho bằng. Cháu đâu phải
như những kẻ ham kiếm tiền, bất kể tính mệnh xông pha đêm hôm thế này đâu!
Nghe đứa bé nói thế, tôi lại bồi hồi xúc động, nước mắt lại tuôn ra.
Đứa bé nhìn tôi, thấy đầu tôi cạo trọc, thì nó chậm rãi hỏi tiếp:
- Dạ dám xin hỏi đại sư vì lẽ chi mà ngủ đêm tại chốn hoang liêu trống trải
này?
Nhìn thấy đứa bé mặt mày chân thành trang trọng, tôi bèn đem hết đầu đuôi cơ sự
kể cho nó nghe.
Đứa bé cảm động nói:
- Thầy chịu khổ nhiều thật! Nhà cháu ở gần đây còn phòng bỏ không. Cháu xin mời
thầy theo cháu về nhà. Nếu thầy cứ ở đây, thì biết đâu bọn người hung ác trong
thôn vắng lại chẳng vu cáo cho thầy cái tội trộm cắp, thì thầy chịu đựng sao nổi!
Thấy đứa bé thành khẩn như vậy, tôi gật đầu, đồng ý theo chân nó. Vào làng, đi
tới một căn nhà lá. Đứa bé đẩy cửa bước vào, rồi khép ngay lại, để tôi đứng chờ
ở dưới hiên. Vườn hoa bốn bề đưa hương thơm. Chợt nghe tiếng bà lão thốt:
- Triều Nhi! Hôm nay sao con về khuya thế?
Tôi lắng nghe chăm chú. Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Giọng nói của bà lão ấy.
Lúc tôi bước vào nhà trong, thì bỗng dưng thấy trước mặt mình đích thị là người
vú nuôi tôi ngày trước.
CHƯƠNG BA
Tôi chào hỏi người vú nuôi, lòng đầy bi thương và hoan hỉ.
Bao nhiêu ân tình mừng mừng tủi tủi. Bà vú bảo tôi ngồi xuống, bắt tôi đem hết
sự tình kể lại đầu đuôi. Tôi đã làm gì, tôi đã trải qua những gì, nhất nhất đem
gót đầu ra thuật lại tỉ mỉ. Bà đăm đăm nhìn tôi. Bà chống tay vào gò má nhăn
nheo, suy nghĩ lâu lắm, rồi ảo não thở dài nói:
- Tội quá! Tam Lang! Nếu ngày nay tôi còn ở với gia đình cậu, thì đâu đến nỗi cậu
phải cạo đầu đi tu như thế! Tôi đã hầu hạ phu nhân không quá ba năm trời. Thời
gian ấy kể cũng không dài chi lắm, nhưng phu nhân đã đối đãi với tôi hết lòng
hiền từ thân ái. Một phen từ biệt phu nhân, đến nay đã ròng rã mười năm trời,
nhưng cứ mỗi lần cầm đũa, bưng cơm, tôi chẳng thể nào quên được tấm lòng phu
nhân đối với tôi. Lúc phu nhân rời gót ra đi, tôi liền bị người trong gia đình
cậu ghét bỏ, đối xử tàn ác, nhưng tôi vẫn ẩn nhẫn chịu đựng. Ấy bởi vì tôi cảm
ân đức của phu nhân, nên tôi chẳng thể nào bỏ cậu mà ra đi. Cho tới lúc nghĩa
phụ của cậu lìa đời, lòng tôi bời bời bối rối, đau buồn khôn tả. Tôi thầm nghĩ:
"Tam Lang thế là từ nay cô hàn, không nơi nương tựa". Tôi muốn viết
thư cho phu nhân, báo bạch hết mọi sự cho phu nhân rõ, để phu nhân sớm liệu xếp
đặt cho cậu về gấp bên quê mẹ (bên Nhật Bản) rời hẳn cái con mẹ ghẻ chèng đét
hung dữ kia! Dè đâu con mẹ đàn bà đa đoan ác độc nọ lại dò la manh mối, đánh
hơi thế nào mà đoán đước cái nguyện vọng của tôi, mụ ta nộ khí xung thiên, lôi
cổ tôi ra, lấy roi tre đánh tôi một trận bầm mình dập mẩy. Lúc bấy giờ tôi cũng
chẳng thiết chi cái chuyện phân giải thị phi, lời hơn lẽ thiệt gì về nhân đạo với
mụ ấy! Mụ tha hồ đánh tôi sướng tay thỏa dạ xong, thì đuổi tôi đi về quê, không
cho tôi nấn ná một ngày nào nữa.
Bà vú kể tới đó, thì nước mắt giàn giụa, không tiếp được lời nào nữa. Lòng tôi
đau đớn cùng cực, chẳng còn biết lựa lời gì để an ủi bà. Chỉ biết để nước mắt
trào ra như suối, nhìn bà không nói được một lời nào cả. Rồi tôi chợt nghĩ rằng
cái ngày phải chịu đựng trận bạc đãi bạo ngược kia, bà vú nuôi tôi đã quá bốn
mươi tuổi, thì làm sao kham! Tôi cố gắng hết sức làm ra vẻ trấn định, an ủi bà
ta: "Vú đừng đau xót nữa! Vú đã nuôi nấng tôi, ngày nay tôi đã thành lập,
ân ấy đức ấy, làm sao tìm ra lời mà bày giãi. Ngày nay mặc dù tôi đã quy y cửa
Phật, lòng tôi đã nguội lạnh với sự đời, nhưng may được gặp vú nuôi tại đây, vú
hãy chậm rãi cho tôi biết tin tức mẫu thân. Nếu không ắt là đi khắp bích lạc
hoàng tuyền cũng không mong được một ngày gặp gỡ. Gẫm ra trời xanh dường cũng
linh thiêng lắm. Từ ngày còn nhỏ dại, tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng mẹ tôi còn sống.
Nhưng suy gẫm trăm lần, vẫn không biết hiện giờ thân mẫu sống tại đâu, mà cũng
chẳng biết tên họ của mẹ là gì! Bữa nay, nghe vú nuôi nói về "phu
nhân", thì đó có thật là bà mẹ đã sinh tôi ra đời hay không? Thì vì lẽ gì
thân mẫu lại bỏ tôi bơ vơ khốn khổ, chẳng tìm kiếm hỏi han gì hết? Xin vú nuôi
hãy đem thân thế tôi nói cho tôi rõ một lần.
Bà vú nuôi gạt lệ, nhìn tôi mà rằng:
- Tam Lang hãy yên dạ! Tôi đem mọi sự kể hết cho Tam Lang nghe. Tôi vốn ngày
xưa là con gái người nông dân cư lưu tại vùng này, năm năm tháng tháng chỉ biết
chăn nuôi súc vật. Sau khi lấy chồng, tôi theo chồng làm ăn, ban ngày ra
làm ngoài đồng, tối đến thì về nhà nghỉ ngơi. Vợ chồng sống hạnh phúc hết sức.
Tôi đâu biết rằng trong nhân gian có đủ thứ đen trắng thị phi, rủi may may rủi.
Vợ chồng nông dân, sống hồn nhiên như nước chảy, năm qua. Tới lúc tôi ba mươi
tuổi, chồng tôi chẳng may đoản mệnh chết mất. Chẳng để lại chút gia sản nào,
ngoài đứa bé con là Triều Nhi. Từ đó về sau, càng ngày sinh hoạt càng quẫn
bách. Những bạn bè thân thích xa gần coi mẹ con tôi như kẻ qua đường, không còn
tình nghĩa gì hết. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu nỗi đời éo le, trong lòng buồn rầu
khôn tả. Nhìn bốn bề chẳng còn ai thân thích, tình cảnh khốn cùng chẳng biết
nói với ai.
Một ngày kia, tôi mang giỏ đi mót những bông lúa rơi ngoài ruộng, bỗng thấy một
phu nhân y phục theo lối cổ kính, thong dong bước tới bên tôi cất tiếng hỏi:
- Trông thím có vẻ ưu khổ lắm phải không?
Rồi bà ấy hỏi thăm cảnh huống tôi. Tôi đem hết gót đầu ra kể cho bà ấy nghe,
thì phu nhân lân cảm tình cảnh tôi. Tôi đội ơn phu nhân. Phu nhân cho tôi về
làm vú nuôi săn sóc Tam Lang đó. Phu nhân y phục cắt theo lối cổ đại Trung Hoa
chúng ta. Những sự này, tôi được nghe ra là từ lúc về ở với phu nhân. "Tam
Lang" tức là tên gọi cậu do phu nhân đặt cho đấy.
Được nghe phu nhân nói rằng lúc sinh cậu ra chưa được mấy tháng thì thân phụ cậu
qua đời. Thân phụ cậu là Tông Lang, vốn thuộc danh tộc ở Giang Hộ. Bình sinh
thân phụ cậu can đảm cương trực lắm, nên mọi người mến chuộng. Thân phụ cậu qua
đời, mẹ cậu càng ngày càng nhận thấy phong hóa Nhật Bản suy đồi, dần dà phong tục
càng trở nên kiêu ly bạc bẽo, trong lòng bà suy gẫm muốn đưa cậu về cội gốc thượng
quốc Trung Hoa, bèn dắt cậu về quê nội, đem ủy thác cậu cho một người bạn thân
thiết nhất của cha cậu. Người ấy nhận cậu làm nghĩa tử. Cậu thành con muôi của
người ấy. Ý của phu nhân là làm sao cho cậu dứt tuyệt hết mọi liên hệ với căn
tính cư dân hải đảo (người Nhật) hy vọng rằng sự giáo hóa ở quê cha sẽ rèn luyện
cậu mai sau trở thành một con rồng ở trong nhân gian. Phu nhân vốn biết rằng
hành động đó là đắc tội với quốc luật Nhật Bản, quê cha đất tổ của bà,
nhưng tình mẹ thương con, có sự gì mà chẳng dám làm được!
Phu nhân thân hành ẵm cậu đi, lén trốn sang Trung Hoa chúng ta, cư ngụ ba năm
trời. Chợt một hôm phu nhân gọi tôi tới bên bà và bảo tôi như thế này:
- Ngày nay tôi sắp quay trỏ về Nhật Bản! Thím ở lại mạnh giỏi nhé!
Rồi phu nhân đưa tay chỉ Tam Lang, nuốt lệ nghẹn ngào bảo tôi: "Đứa con
tôi sinh ra đời không may mắn! Thím hãy chịu khó săn sóc nuôi dưỡng nó, tôi sẽ
chẳng quên công lao khó nhọc của thím đâu!"
Nói xong, phu nhân viết địa chỉ mình ra giấy giao cho tôi, căn dặn tôi đừng có
để thất lạc. Tới ngày nay, tôi vẫn cẩn thận giữ gìn kỹ càng trong cái hộp tre
kia.
Lúc bây giờ, tôi khóc tầm tã như mưa. Phu nhân giao cho tôi một trăm đồng vàng.
Ngày nay số bạc ấy tuy nhiên không còn đồng nào, nhưng lòng tôi cảm kích phu
nhân thật không hề giảm một chút. Nhất là tôi nhớ lại cái đêm trước ngày phu
nhân ra đi. Phu nhân gài một tấm ảnh nho nhỏ của mình vào cái lon dẹp đặt vào
trong cái rương áo quần của cậu, bà mong rằng ngày sau cậu lớn lên, cậu sẽ
không quên được dung nghi từ mẫu. Dụng ý đó của phu nhân thật là cảm động. Đâu
có ai ngờ rằng phu nhân ra đi chưa bao lâu, thì người trong gia đình đã tìm kiếm
mọi vật đó và hủy khử đi mất hết.
Sau đó phu nhân từ bên Nhật Bản còn viết thư cho tôi ba lần, lần nào cũng gửi
tiền bạc cho tôi, nhưng lần nào cũng bị con mẹ tàn nhẫn kia thu đoạt mất cả. Rồi
nhân vì tôi hiểu rõ thân thế phu nhân, lại yêu quý Tam Lang, thì con mẹ kia
càng căm hận tôi hơn nữa, vì mụ nghĩ rằng tôi cố ý làm ra vẻ như thế, tôi cố tỏ
thái độ ra như thế là cốt để càng thể hiện rõ cái phẩm cách tàn ngược của mụ
ta! Do đó, cái niềm oán độc của mụ ta càng sâu cay hơn nữa. Quả thật con người
ta và con mãnh thú, chỉ cách nhau có một đường chỉ mỏng mà thôi! Lúc tôi đã bị
đuổi đi rồi, thì con mẹ kia lại phao tin lên rằng phu nhân đã gặp bão tố ngoài
khơi, đã chết trong bụng cá mập cá voi rồi. Do đó, bà con thân thích láng giềng,
ai ai cũng coi cậu như là một đứa con không mẹ, chẳng ai thèm để ý chi tới cậu
nữa. Xét ra như thế, thì trong gan phổi con mẹ kia, mụ ta quả có ý muốn phòng
ngừa ngày sau cậu lớn lên khỏi có ý nghĩ tìm về thăm viếng phu nhân! Hỡi ôi! Mụ
ta là cái giống người gì như thế! Đã giữ lấy con của kẻ khác lại còn đối xử tàn
bạo như vậy! Tôi suy gẫm hoài mà chẳng thể nào hiểu được mụ ta, chẳng rõ kiếp
trước mụ ta là cái giống độc vật gì gì! Trời Phật ôi! Tôi há đâu chỉ vì oán độc
kẻ khác mà thốt cái lời ra như thế. Bữa nay tôi nói ra như thế, chẳng qua là để
cho cậu rõ cái người đàn bà kia ác nghiệt như thế nào đó thôi.
Nghĩa phụ của cậu vốn là người thành thực, thường vẫn thể niệm cái ân nghĩa của
thân phụ cậu đối với ông ta, nên nghĩa phụ của cậu thuở sinh thời vốn đối xử với
cậu như con ruột. Ai có ngờ đâu được rằng ông ta vừa qua đời thì con mẹ kia đã
lập tức trở mặt đối với cậu như thế. Một đứa bé chưa ráo máu đầu, còn thuần
nhiên thơ dại, đã chịu dày vò khắc nghiệt như vậy, quả thật không có gì so sánh
được. Nhưng ngày nay cậu đã lớn ra như thế, phong tư độc lập như thế, cũng coi
như là bấy nay không gặp rủi ro chi nhiều; tôi thì già nua rồi, đáng lẽ chẳng
nên đem những chuyện oái ăm quá khứ ra làm phiền muộn cậu, chẳng nên thốt những
lời cay đắng, mà nên giữ chút lòng trung hậu thì phải hơn. Tuy nhiên
trong thời buổi đa đoan kỳ quặc này, dẫu tôi có nhất mực giữ lòng trung hậu của
mình, mà người ta thì cứ nhất mực muốn hãm hại tôi. Theo cái lẽ bi đát như thế,
thế tình thế thái đã ra như thế nghĩ thật cũng đáng ngậm ngùi.
Bà vú nói xong, thì cúi đầu thở dài. Một lát sau, bà định nói tiếp nữa. Lúc bấy
giờ lòng tôi tràn đầy sầu khổ, lớp lớp liên miên (như vân quỷ ba quyệt). Nhưng
nhân vì tôi đã dò ra tin tức mẫu thân, chẳng còn mong muốn hỏi thêm chi nhiều nữa
về những sự việc đã qua, và cũng chẳng còn thì giờ đâu để tự cảm thương thân thế,
tôi bèn chậm rãi nói với bà vú nuôi:
- Đêm đã khuya rồi, vú hãy đi nghỉ ngơi. Tôi sẽ đơn thân ra đi tìm mẹ, mong rằng
vú đừng bi thương quá độ. Sự đời ai biết đâu mà liệu định, vú hãy thử nhìn tôi
và Triều Nhi xem, chúng tôi biết đâu lại chẳng làm nên danh phận? Chẳng lẽ mòn
đời mỏi kiếp vẫn chẳng ra cái dạng gì gì cả hay sao?
Bà vú bỗng ngẩng đầu lên, đưa tay vỗ vào vai tôi nói:
- Tội thay! Vú thật chẳng thể ngờ rằng Tam Lang lớn lên lại mảnh khảnh đến thế!
Hãy gắng ngủ cho ngon giấc đêm nay, lưu trú tại đây mà liệu tính công việc đi
sang Nhật Bản thăm viếng phu nhân. Tôi thường mộng thấy phu nhân vận y phục cổ
kính ngày xưa đứng bàng hoàng trên bờ Đông Hải, đưa mắt mong ngóng Tam Lang về.
Tam Lang ạ, cậu còn có một người chị và một người em gái nuôi (nghĩa muội), hai
chị em vẫn ở bên phu nhân săn sóc mẹ. Cậu rồi cũng sẽ được nghe âm thanh phu
nhân gọi cậu. Còn tôi thân thể đã già nua, chỉ còn chờ ngày vào quan tài, chẳng
còn mong chi tái hội phu nhân. Chỉ cầu nguyện trời xanh phù hộ cho phu nhân mà
thôi!
Sáng hôm sau, ánh trời rực rỡ. Tôi nghĩ tới những sự việc đã qua, còn in rành
rành trong tâm khảm. Độc giả thử nghĩ xem, làm sao tôi có thể ngủ được trong
đêm vừa rồi? Lúc bấy giờ nỗi niềm bời bời cùng độ, tôi đứng dậy khoác áo vào
mình, bước ra ngoài nhìn bốn phía. Dương liễu gầy khô, núi non tiêu điều.
Từ đó về sau, tôi lưu trú tại nhà vú nuôi, mỗi ngày cùng Triều Nhi chèo ghe hoặc
thả cần câu cá tại một vùng khói mưa mờ tỏa bên sông tịch mịch hoang
liêu. Cũng có lúc cưỡi trâu ra bên ngoài thôn ở. Những u hận vạn ngàn, chẳng rõ
ra sao, đã dần dà tiêu tán giữa những trận gió mưa vi vu thổi vào chiều hôm.
CHƯƠNG BỐN
Một ngày kia, vào lúc hoàng hôn, giữa cảnh hoang liêu gió tuyết
thổi lạnh thấu xương, tôi cùng Triều Nhi đang lẽo đẽo từ phía sau núi gang củi
quay về nhà. Vừa bước vào cửa, nhìn thấy vú nuôi đang tựa lưng bên lò bếp, ngồi
im lìm. Bà đang chăm chỉ khâu vá lại một chiếc áo cũ. Nghe tiếng chân tôi bước
vào, bà ngẩng đầu nhìn tôi nói:
- Khổ nhọc cho cậu quá! Thấy cậu yên vui sống ở đây, lòng tôi cũng thư thái an ủi
được nhiều. Cậu và Triều Nhi hãy ngồi nghỉ ngơi một chặp, để tôi thắp đèn và
đem cơm cá ra dùng. Nhà chúng ta ở đây cách hồ nước không bao xa, cá tôm chẳng
những tươi ngon lắm, mà giá mua cũng chẳng cao gì đó. Sống ở làng thôn, thật
nhiều điều tiện lợi hơn thành thị.
Tôi và Triều Nhi liền cởi tơi nón ra, cùng vú nuôi ngồi vào dùng bữa tối. Thật
là hoan lạc vô cùng. Dùng cơm xong, vú nuôi quay nhìn tôi bảo:
- Hôm nay nhìn Tam Lang gánh củi, lòng tôi thấy bất nhẫn quá. Thân thể cậu ốm yếu
như thế! Bữa sau chớ nên gánh củi nữa. Công việc vất vả nặng nhọc kia,
Triều Nhi đủ sức giúp được rồi. Bữa nay, tôi đã nghĩ ra một cách cho cậu. Cậu
hãy nghe tôi khuyên bảo đây: Vườn hoa chúng ta, trong ba tháng xuân ấm áp, bao
nhiêu hoa nở tươi tốt lắm.. Ngày nay chúng ta đang ở giữa mùa đông, chẳng còn
bao ngày tháng nữa, thì năm mới về, cậu mang hoa ra chợ bán mỗi buổi sáng sớm.
Ban ngày cậu cũng có thể coi sóc nhà cửa vườn tược cho tôi. Lợi lãi do hoa cỏ
đem lại, tuy chẳng là bao, nhưng tôi vẫn gom góp dành dụm đủ tiền cho cậu. Sau
hai năm hoặc ba năm, ắt là có đủ tiền lộ phí cho cậu đi qua Nhật Bản một chuyến
thăm phu nhân. Ngoài cách ấy ra chẳng còn cách gì khác. Tam Lang, ý cậu nghĩ
như thế nào?
Tôi đáp:
- Mọi sự xin y theo lời vú nuôi hết thảy.
Vú nuôi bảo:
- Tam Lang! Cha ông của Tam Lang tại Giang Hộ vốn xưa kia là những vị công tử
(con cái của những bậc công hầu). Ra ngoài thì ngựa béo hào hoa, áo khinh cầu
phong nhã. Mà ngày nay cậu phải làm một kẻ bán hoa cỏ, thật là sự việc quái gở.
Tuy nhiên, ngày sau cậu về Nhật Bản, cậu vẫn là một vị công tử ngàn vàng, thì
ai còn dám kêu cậu là kẻ bán cỏ lá hoa?
Tôi chăm chỉ lắng nghe, đưa mắt nhìn vú nuôi. Thấy bà nói tới đó thì tươi cười ấm
áp như xuân.
Ngày tháng thoi đưa. Bỗng chốc đã thấy xuân về. Từ đó tôi tuân theo lời vú
nuôi, ngày ngày mỗi sáng sớm tôi vận y phục lai rai vào, nham nhở như đứa chăn
bò, mang hoa đi bán. Mỗi buổi sáng, tôi dạo qua ba bốn hàng thôn, tay trái xách
giỏ hoa, tay phải cầm cây gậy trúc, đầu đội nón chài cá - cốt để không ai nhận
ra cái đầu trọc của tôi và biết tôi là một tỳ kheo vậy. Tôi lẽo đẽo bước đi,
trong lòng lấy làm xấu hổ cho thân phận. Thấy phần đông những kẻ mua hoa là những
thiếu nữ. Rồi đến những đàn bà trong làng xóm. Mỗi ngày tính ra tôi thâu được
vài ba trăm xu. Suốt một tháng trời đều đặn như thế.
Một ngày kia, tôi đang một mình bước đi sang thôn làng nọ, thì trời bỗng nhiên
u ám, mưa phùn lất phất rớt hột miên man, thấm ướt hết áo quần. Đó là ngày trước
tiết thanh minh hai hôm, và nhà nào nhà nấy đang sửa soạn lễ Tảo mộ, nên đường
đi vắng ngtắ chẳng thấy bóng người nào. Chỉ nghe liên miên âm thanh dằng dặc của
mưa phùn rớt hột li ti tí tách sầu não sát nhân mà thôi. Tôi len lỏi lần mò bước
đi trên con đường mòn mỏi, tới một góc nhà nọ, dừng chân tạm nghỉ ngơi giây lát
dưới một cây liễu nhỏ.
Chợt thoáng thấy trên bờ tường trước mặt phía sau tấm màn lụa bích một song cửa
sổ, có một nữ lang ăn vận mới mẻ đang đứng đăm chiêu nhìn ra đường. Thật là một
nữ lang dung hoa tuyệt diễm.Nhưng mặt ngọc của giai nhân mang vẻ trang nghiêm
biểu hiện một mối sầu khôn tả. Lúc tôi đưa mắt nhìn kỹ, thì bóng hồng chợt lẩn
mất.
Cơn mưa chợt tạnh hẳn, trời bỗng sáng sủa xanh lơ. Màu cỏ cây biêng biếc
trước nhãn quan. Tôi đang định cất bước, chợt thấy cánh cửa bên vách nhà kia bỗng
mở ra. Lại thấy một cô gái vội vã bước ra ngoài, nghiêng thân chào tôi một cái.
Thẹn thuồng mà rằng:
- Xin tha thứ tội thất lễ của nô tỳ! Dám xin hỏi công tử từ đâu tới đây? Con
cái dòng dõi nào? Tuổi niên hoa như thế, vì lẽ chi phải chịu làm cái nghề hèn mọn
đó? Công tử há chẳng biết rằng thiều quang trôi qua, hối hận không kịp nữa? Xin
hãy đáp cặn kẽ cho nô tỳ rõ.
Nghe cô gái nói mấy lời kia, tôi biết rằng cô ấy thật là người thông minh rất mực,
chẳng có chi giống người quê mùa cục mịch. Nhưng vì lẽ gì mà đường đột bàn vấn
như thế, nghe ra y hệt như lời một tướng sĩ đoán vận mệnh nhà ma! Cô chỉ
có ý thăm dò hành vi của tôi, hay là còn có duyên do gì khác nữa? Tôi chỉ còn
biết đứng lỳ ra đó, đăm đăm nhìn cô gái, lòng rất bối rối, chẳng rõ phải
đối đáp thế nào ra câu.
Sau một lúc khá lâu, cô gái nói tiếp:
- Em sở dĩ đường đột hỏi như thế, ấy chẳng qua là tuân lệnh cô chủ ở trong nhà.
Cô chủ bảo em ra hỏi công tử mấy lời đó. Cô chủ của em vốn bản chất tính tình u
nhã tĩnh mịch vô cùng, chẳng hề có bao giờ mở miệng ăn nói gì với người ngoài.
Nhưng hôm nay, lại sai em bàn vấn đề này, ấy bởi vì cô chủ em nghe thấy cái tiếng
rao bán hoa cỏ của công tử chứa chất dư âm cay đắng xót xa thế nào đó. Hôm nay
cô chủ em đứng ở phía sau màn the song cửa nhìn thấy công tử, thì suy ra thân
thế công tử quyết nhiên chẳng phải là kẻ bán hàng rong tầm thường. Mong rằng công
tử đừng lấy làm quái lạ về ngôn ngữ đường đột của em, công tử có phải thuộc
dòng dõi " Hà Hợp" và tên là " Tam Lang" đó chăng?
Bất thình lình nghe cô gái nói câu đó, tôi kinh hoàng tưởng như muốn co giò chạy
trốn. Nhưng chợt nghĩ rằng cô gái kia chẳng hề có ý làm tổn hại tổn thương tôi
gì cả, tôi bèn chậm rãi bình tĩnh đáp rằng:
- Thật đúng là tên của tôi đó. Tôi cần kiếm tiền đi gấp sang Nhật Bản tìm
thăm viếng mẹ, nên bất đắc dĩ phải làm bừa công việc này. Dám mong cô
nương đừng tiết lộ sự đó với ai, thì tôi đội ơn cô không phải là ít!
Cô gái nghiêng thân xá tôi một cái, nói tiếp:
- Xin tuân lời dạy bảo! Công tử hãy trân trọng giữ mình! Và xin công tử sáng
mai trở lại chỗ này. Bây giờ em xin quay vào báo với cô chủ của em.
Lúc quay về nhà, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tâm sự, rầu rĩ cắm cúi bước đi.
CHƯƠNG NĂM
Ngày hôm sau, khi trời âm u nặng nề hơn cả ngày trước. Lúc
tôi trở giấc dậy, cảm thấy tâm hồn bàng hoàng khôn tả. Vì sắp tới lúc phải tới
hội ước với cô gái kia. Người đọc sách tới đây, ắt nghĩ rằng tôi đang bị
vướng thân vào trong tấm lưới tình bối rối, và như vậy là đang lâm vào hiểm họa
trở ngại cuộc thanh tĩnh pháp lưu. Làm tỳ kheo mà vướng víu tâm hồn như thế thì
ắt phải tiêu ma đạo hạnh thanh tu vậy. Kỳ thực, hằng ngày tôi vẫn tâm tư niệm
tưởng: Mình là thuộc sa môn đạo pháp, thì sống vào cõi tục, dù sao cũng
giữ gìn hạnh kiểm nết na, há đâu có hại gì mà lo sợ. Nào tôi đâu có ngờ tới những
việc về sau! Tự thân tôi sẽ chịu những giày vò bứt rứt nào, tôi đâu ngờ ra được.
Dần dà sẽ kể lại độc giả rõ đầu đuôi.
Tôi bước ra khỏi nhà, chính lúc đó, lòng tôi trào dậy muôn loại hoang mang sầu
muộn hồi hộp phập phồng. Thôn làng ven sông đang tế lễ Hàn thực, mưa gió phiêu
hốt chan hòa khắp mọi ngả. Tôi đưa mắt nhìn bốn bề, lòng tôi xao xuyến một trận
dị thường. Thầm nghĩ rằng cảnh vật u buồn ra như thế, quả thật chẳng là điềm
lành. Rồi suy gẫm rằng cô tiểu thư kia ước định tương phùng như thế, ắt là có
duyên do xa vời nào. Nếu không gì hết cả, thì sao có tiều thư lại từng rõ biết
tính danh tên tuổi của tôi.
Huống nữa là hôm qua chợt nhìn thấy mặt ngọc đầy vẻ đơn sơ thanh đạm trang nhã,
phương dung tuyệt nhiên không có gì giống như những vẻ đẹp thông thường hấp dẫn!
Há đâu có thể là một phường một loại với những dung hạ lưu nham nhở!
Tôi vừa bước đi vừa suy gẫm, chẳng bao lâu đã tới chỗ đầt đai hôm trước, ở bên
dưới khung cửa sổ màn lụa xanh lơ. Tôi đứng bần thần khá lâu. Trước sau chẳng
thấy động tĩnh gì hết.
Tôi còn đang trầm ngâm trong cuộc, tự nhủ "chẳng lẽ nào cô gái nọ lại có ý
giỡn cợt chế giễu ta chăng". Rồi nghĩ lại những lời cô đã thốt, thì thấy mỗi
lời mỗi tiếng đều là lời chí tình, sao còn có thể hồ nghi gì cho được?
Lúc mưa gió bắt đầu tạnh chút ít, cô gái hôm nọ chợt mở cửa ra, chẳng nói chẳng
rằng, chẳng mỉm cười cười mỉm gì hết cả, lặng lẽ tới trước mặt tôi, và đưa hai
tay ra với một phong thư nặng trĩu cả bàn tay. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì
cô gái đã quay gót. Tôi vừa định mở miệng hỏi, thì cô gái đã quay gót. Tôi vội
vã bóc phong thư ra xem, thì thấy bao đầy vàng bạc. Lòng tôi hoang mang nghi hoặc,
dòm kỹ thấy còn một tờ thư viết cho tôi. Hỡi ôi! Xem thư xong, tâm hồn tôi dao
động ao xuyến dị thường, cõi lòng như tan nát. Thư viết thế này:
"Thiếp là Tuyết Mai, đem nước mắt hòa mực mà viết lá thư này trân trọng gởi
Tam Lang.
Trước đây, em nghe người ta nói anh Tam Lang đã cạo đầu tóc mà đi tu, làm một
ông tỳ kheo trong cửa Phật. Em vốn nghĩ rằng tính tình anh vốn kiên trì với
cái cõi cô đơn (cô đơn là tính chất, chất hằng đơn cô) nên em tin ngay lời
thiên hạ đồn đại. Em đau đớn mấy phen toan kết liễu tính mệnh mình. Đêm đêm tịch
mịch nhớ anh, mà trong cơn mộng tìm không ra lối về tương kiến. Sống đã ra như
thế, còn nói chi được nữa cái kiếp sống thừa! Gần đây, suốt mấy buổi mai, chợt
nghe ra trong giọng rao bán cỏ hoa một âm thanh kỳ lạ em kinh hoàng nhận rõ đó
là âm thanh dội từ đáy lòng tâm sự của anh Tam Lang. Ngày xưa thuở em còn bé,
đã từng được hai bên gia đình hứa gả con cho nhau, em đã gặp anh một lần, thì cảnh
trạng cho tới ngày nay em vẫn còn chôn chặt trong tâm khảm. Cho tới buổi sáng vừa
rồi, đứng sau song cửa nhìn thấy anh, em biết rõ đó chính là Tam Lang của em.
Lúc bấy giờ, em cảm thấy hồn bay bổng mất đi đâu. Em không còn hiểu gì ra gì được
nữa. Lòng rộn ràng xao xuyến quá, liên tồn bất khả tự trì. Em muốn chạy thẳng
ra trước mặt anh mà trần tình tâm sự nhưng danh nghĩa không cho phép. Nên đã
sai tỳ nữ mạo muội bước ra bước ra hỏi han, khiến cho anh hoang mag như thế, em
xin anh tam Lang hãy thương em mà thứ lỗi cho.
Kể từ ngày mẹ em qua đời cho đến ngày nay, em sống linh đinh sầu khổ, chẳng thiết
cho tới sinh thú ở đời. Người mẹ ghẻ chẳng chút ân đức nào cả, chỉ thấy lợi mà
quên tình nghĩa, xúi giục người cha già nua của em hủy bỏ cuộc ước định đính
hôn ngày trước đi, và hãy nghĩ tới chuyện đem gả em cho một kẻ khác. Hỡi ôi,
Tam Lang! Lòng em chung thủy thế nào, vẫn tồn liên không dời đổi một chút cỏn
con nào cả. Nếu một ngày em bị cha mẹ áp bức phải lấy một kẻ nào không phải Tam
Lang, thì em chỉ còn một bước đi đứng mà thôi. Ấy là vào cõi quyên sinh vậy.
Thì em dẫu có thịt nát xương mòn đến ngàn vạn kiếp, trái tim của em vẫn chỉ biết
có anh Tam Lang của em mà thôi. Trời xanh ở trên cao kia có đoái tưởng mà che
chở cho em chăng trong những ngày điêu đứng này em cũng chẳng cần chi biết tới
nữa.
Dè đâu hôm nay ngẫu nhiên run rủi em thấy mặt anh trở lại, mới hay rằng Tam
Lang của em chưa đến nỗi nào. Cảm thấy lòng trời bao dong, Thượng đế hiền từ rất
mực, thì lòng em vui mừng biết lấy gì cân hoặc đo ra cho đầy đủ. Than ôi! Vũ trụ
mang mang càn khôn rộng rãi, doanh hoàn thế giới bao la, khắp mười phương quốc
độ, nếu em bỏ anh, thì em còn biết bám vào ai được nữa! Dẫn rằng biển cạn đá
mòn. Dẫu rằng sông dứt còn đàng tới lui... Hình hài xương xẩu của em có thể chỉ
như là một sợi tơ mỏng manh, nhưng tình yêu trong máu của em thì thật là
liên tồn bát ngát. Nay em xin biếu anh trăm đồng vàng gọi là chút quà mọn phụng
trình, mong manh sớm mua vé đáp tàu về Nhật Bản viếng phu nhân và bàn bạc với
phu nhân về cuộc tình duyên của chúng ta. Em đã trăm phen ngàn bận suy nghĩ về
việc này, chỉ xin anh rủ lòng thương liên tồn chiếu cố. Em đang ở trong cảnh cư
tang phụ thân, không thể giãi bày tỉ mỉ, chỉ xin anh bảo trọng thân thể trên dặm
đường dài".
Nay kính thư
Tuyết Mai.
Té ra hỡi ôi! Tuyết Mai là vị hôn thê của tôi vậy. Nhiên như thế thì tôi há đâu
có thể bỏ rụng rơi nường được. Mà bỏ rụng nường để ôm gói cô độc đi đâu? Đi vào
chùa mà bộc bạch với cửa "Không" về cái sự ngổ ngang của mình ra như
thế! Như Lai ôi! Bồ Tát ôi! Con xin giũ áo tỳ kheo của con vậy. Như Lai Bồ Tát
hãy thể niệm cái cõi lòng đó của con mà đừng có lối cuốn con vào trong cửa
"Không" để hành hạ giày vò con suốt tam sinh làm chi như thế ra chăng
nhẽ!!! Rừng Tía mà chi!! Tử Trúc Lâm mà chi! Ăn nhằm vào đâu mà chi cho đáng chứ!
Cả rừng cả rú, cả sơn thụ cả lâm tuyền. Con xin trút giũ thảy thảy hết trở lại
cho Như Lai, để suốt một bình sinh đi theo dấu chân liên tồn của Tuyết Mai tiên
nữ. Nếu con không làm như thế, thì oan nghiệt ngập trời còn ai có thể đảm đương
giúp được cho con đó chăng ru? Suốt mười phương quốc độ, còn đâu không dội tiếng
than van của một kẻ đã lầm đường còn liên tồn tiếp từng phen lạc lối? Độc giả ắt
từng có phen nghĩ rằng tôi là đứa hồ đồ, mang áo cà sa vào mình giữa một bể hận
mông mênh, trời tình bát ngát như thế thì đích thị tôi là đứa bất cận nhân tình
nhân sự nhân vụ ở giữa cái khoảng nhân gian. Nhưng mà thật ra vốn từ xưa, tôi
đã đành cạo trọc cái đầu khoác áo cà sa vào thân thể để đi tu, thì đó chẳng qua
chỉ là một cái phương sách tình nghi đắc dĩ, miễn là khả dĩ bảo tồn được cho
cái sinh mệnh Tuyết Mai đó mà thôi.
Vì nên thử nghĩ rằng Tuyết Mai vốn nòi kỳ nữ miêu cương, ôn tồn bát nhã "cổ
đức u quang, nghiêm dong cựu hạnh". Tôi xin bây giờ nói cho độc giả rõ rằng
là người cha Tuyết Mai vốn là bạn thân của nghĩa phụ tôi. Lúc nghĩa phụ tôi
chưa lìa trần. Cha Tuyết Mai đã cùng nghĩa phụ tôi hứa gả Tuyết Mai cho tôi, từ
cái thuở nàng còn liên tồn bé bỏng (sau này mới chậm rãi lớn rộng dần ra).
Nhưng rồi về sau cha của nàng nhận thấy rằng gia đình nghĩa phụ tôi vận mệnh
càng ngày sa sút, còn người mẹ tôi thị bặt vô âm tín; ông ấy mới nảy sanh ra niềm
hối hận ăn năn, muốn hủy bỏ lời hứa hôn ngày trước. Nhưng nàng Tuyết Mai cao
nhã huy hoàng ra như thế, há nhiên đâu có thể can tâm điềm nhiên phụ ước. Thế rồi
cha nàng và mẹ ghẻ của nàng đều chẳng đoái hoài lân mẫn chi tới đứa con gái, cứ
bừa bãi coi con gái chỉ như nhiên là một cái món đồ hàng hóa trao đổi bán buôn
mà thôi. Liên tồn tình yêu? Cái đó đâu có nghĩa lý tí ti nào đối với những bậc
phụ mẫu mẹ cha của con cái? Chỉ cần là làm sao bán món hàng cho được cao cái
giá mà thôi. Trước cái sự thể nó ra như thế về cái uy quyền hà khắc kia của phụ
mẫu, thì một cô con gái yếu đuối còn đâu chốn đâu nơi, đâu chỗ, mà đặt cái miệng
vào thốt cái lời cho ra cái tiếng? Dẫu rằng một tiếng thỏ thẻ nho nhỏ hoặc cỏn
con mà thôi?
Từ đó Tuyết Mai chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay (và tiêu hóa giấm ớt) trong bụng
dạ nàng mà thôi .Không thể bày tò được nỗi lòng với ai cả. Đó quả thật là
điều người ta vốn bảo rằng: nỗi ai oán của những đứa con gái mồ côi kia, xét ra
chỉ còn một cách là mang chở cái khối nặng xuống địa phủ để trình bày với phụ mẫu
và Diêm Vương. Thì như thế còn yên vui sung sướng hơn là sống vật vờ ở dương
gian kéo dây dưa cái cuộc đời nham nhở vậy. Điều đó, nếu không tự thân mình mẩy
hình hài thể nghiệm, thì ắt chẳng thể nào hiểu được.
Trong lúc đó, tôi lớn lên dần dần. Lâu ngày chẳng đặng cùng Tuyết Mai tương kiến.
Chẳng có duyên cơ nào hội nào để chứng minh tình yêu trong linh hồn của nhau một
phen nào cả. Nhiên như thế, một lần nhìn ra cái tình huống kia, thì lòng tôi
phiền muộn không thể nguôi được. Âm thầm suy gẫm, xét ra chỉ còn có một lối xuất
gia quy y cửa Phật là khả dĩ dập tắt ngọn lửa thiêng liêng trong máu me yêu
đương của trái tim và hai lá phổi của hồng nhan mỹ lệ kêu gào. Và khiến cho giai
nhân từ đó có thể yên tâm mà tìm ra hạnh phúc gia đình chắp nối với kẻ khác cái
dây dưa dằng dặc. Nếu không làm thế, ắt cô gái tuyệt diễm danh muội kia phải ôm
cái mối buồn bã rũ rượi chầy chầy mà khô héo mất cái tấm thân ngà ngọc chết đi,
há có thể nào như thế được? Há chẳng nhận thấy sờ sờ rằng phụ mẫu của nàng tham
lợi mà đâm ra ám trí óc, cam chịu để cho cốt nhục máu mủ mình tan rã theo bụi cỏ
lá cây, hơn là đem mà gả cho một thằng người ngợm đói rét đười ươi là cái đứa
tôi đây?
Lúc bấy giờ tôi còn là đứa nhỏ tuổi khí thịnh máu hăng, xương xẩu dữ tợn, tôi
đã quay đầu ngoảnh mặt mà đi, phiêu nhiên mà bước, tìm tới gõ cửa chùa Thường
Tú tại Quang Châu, khẩn cầu Tán Sơ trưởng lão cho phép tôi nhập môn, và trưởng
lão đã chấp thuận cho tôi vào làm "Biển Ó Sa Di". Còn cô Tuyết Mai,
thì tôi đã âm thầm phó thân phận bạc mệnh của nàng cho hồng ân. Như Lai Phạm
Thiên Đế Thích, tha hồ Thích Ca xử trí nào ra sao thì mặc Thích ca ra nấy (ra
thế).
Những chương sách trên đây thuật lại nỗi niềm tưởng niệm thân mẫu lúc tôi ở tại
chùa tức là sự tình nông nổi mấy tháng sau ngày tôi vào chùa vậy.
CHƯƠNG SÁU
Từ ngày nhận được lá thư của Tuyết Mai, tôi mới rõ lẽ rằng nường
ấy đã tin yêu tôi một cách khôn hàn gay cấn thâm hậu vô song. Lúc bấy giờ linh
hồn thể phách tâm đầu tôi dào dạt bừng sôi sục sục, tôi chẳng còn có thể định
đoạt đường đi lối bước ra cái gì gì cả. Cũng chẳng nhận định ra đâu là vòi või
bích lạc, đâu là âm y đen đủi hoàng tuyền. Trừ em Tuyết Mai ra, thì còn cái chi
chi đáng kể nữa đối với tôi? Còn vật đồ gì là tại lập lưu tồn thị hiện hữu nữa
đối với tôi? Bà vú nuôi tôi, tuổi tác đã ngoại năm mươi rồi, bà già nua như thế,
nhưng vừa một phen nhìn thấy lá thư Tuyết Mai, đã cảm động như chính bà tự thân
cảm thụ đoạn trường, nước mắt bà tuôn ra như mưa. Trong cảnh huống đó,
tình trạng thần kinh tôi như thế nào độc giả có thể đoán ra được rồi vậy. Hẳn rằng
mọi sự thế gian thiên hạ, do tình ái mà nảy sinh ra thì không sự nào mà chẳng
éo le gây cấn. Vô luận sinh từ thấp, hóa, noãn, thai, bốn mặt. Nếu đã vì duyên
do kia mà nhập vào cõi nhà ma sinh sinh diệt diệt, thật đó là một trạng huống
bi thương.
Bốn ngày sau lễ Thanh minh. Lúc tinh sương, ánh rạng đông chiếu vào cây cối,
mùi hương hoa lá bốc lan tràn. Tôi từ biệt Triều Nhi và bà vú nuôi, bà vú vốn hối
thúc tôi gấp gáp lên đường. Còn về phía Tuyết mai, bà hứa sẽ dốc hết tâm lực mà
phò trợ cô nàng. Tôi không biết nói lời chi để báo đền ân đức vú nuôi. Tôi chỉ
giàn dụa nhìn bà. Rồi trích ra hai chục đồng vàng trong số bạc Tuyết Mai tặng
tôi trao cho Triều Nhi để nó mua áo lông cừu cho mẹ. Cảm tình tôi đối với Triều
Nhi thật sâu xa quá, đứa bé ấy tuy còn nhỏ tuổi, mà lòng hiếu thảo thật phi
phàm. Đứng nhìn nhau thật lâu, lòng tôi chẳng nỡ chia tay cùng. Chợt quay đầu
nhìn hoa cỏ trong vườn vạn vật cũng như mang đầy màu thương cảm... Bà vú nuôi
chợt tới bên tôi nói:
- Tam Lang, phải lo liệu lên đường! Kẻo trễ chiếc tàu thì khổ.
Tôi ngậm ngùi từ biệt vú nuôi và Triều Nhi.
Hai ngày sau tới Quảng Châu. Tôi bước lên bờ, thong dong cửa bộ. Tôi có ý định
tìm thăm ông thầy cũ và tử biệt ông. Tôi nghĩ rằng chùa Thường Tú đã bị lớp người
tân học bạo đồ đạo bỏ và lập đường xá phố thị.
Chẳng còn chút gì lưu lại nữa. Pháp khí pháp cụ, thảy thảy tiêu ma hết cả rồi.
Tôi nghĩ rằng thầy tôi lúc bấy giờ đã quay về tĩnh thất, tôi bèn đáp tàu đi
Hương Giang ngay buổi xế nọ.
Sáng hôm sau, tôi mặc y phục chỉnh tề, bước lên bờ liền hướng chân về phía nhà
mục sư Robert. Vì mục sư ấy vốn người Tây Ban Nha. Mấy năm trước đã đưa vợ và
cô con gái tới lưu trú tại Hương Giang. Óng vốn ít ra ngoài giao thiệp. Chỉ
thích sưu tầm những đồ vật cổ kích và những kỳ hoa dị thảo mà thôi. Tôi vốn đặc
biệt hâm mộ vị mục sư ấy: Thanh u tuyệt dục, ông ấy quả thật là một giáo sĩ cao
đạo, lòng ông chẳng hề nuôi cái ý gì tai hại, ông không hề nghĩ tới việc chinh
phục đất đai xứ sở của người ta.
Do đó, tôi từng đã hân hoan theo ông về nhà học tập Âu văn trong hai năm trời,
và vị mục sư đối với tôi thật là nhiều tình nghĩa.
Đến nhà mục sư, cô gái ông Robert niềm nở tươi cười bắt tay tôi, kéo tôi vào
phòng văn hỏi chuyện... Phòng văn hơi giá như đồng... Trúc se ngọn thỏ, tơ
chùng phím loan. Cô tiểu thư dạo nhạc Tây phương cho tôi nghe. Ngày nay tôi còn
ghi tạc kỷ niệm lưa thưa cái mùi hương dị dị ấy. Tiểu thư ngồi bên dương cầm,
hai bàn tay búp măng thoăn thoắt, đầu tóc hồng vàng tụ, nghiêng nghiêng ngả ngả.
Ói ! Tôi bỗng biến làm thi nhân mà nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình:
"Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy? Nước xuôi dòng là cổ độ đăm đăm. Tuổi mười
tám bây giờ lên gấy gảy. Mộng miên man vân mấn phủ dương cầm ... "
Vợ chồng ông mục sư mừng rỡ bước vào giữa lúc tôi miên man ra như thế.
Óng bà cao hứng quá, chạy lại nắm tay tôi. Óng nắm hai tay. Bà đưa ngón búp
măng xoa mãi cái đầu thầy tu cạo trọc của tôi. Bà mừng rỡ như cầm một viên ngọc
kim cương ở trong mấy ngón tay bà vậy.
Bà tưng bừng hàn huyên không ngớt! Tôi đi đâu? Mà mất dạng bao nhiêu ngày? Tôi
gặp những ai ai trên bước đường xuôi ngược? Tại sao trông tôi bần thần ra
như thế? Tại sao càng ngày trông tôi càng gầy ốm? Vì lẽ chi? Nhà sư nhỏ tuổi
ôi! Nhà Sư nhỏ ôi! Nhà sư có thầm yêu trộm dấu một cô sơn nữ ở sườn non nào
chăng? Cô sơn nữ ấy tên gì? Tên tuổi của nàng có hằng ngày rập rình về "tập
kích" (!) thầy ở ngay giữa hào lũy trong cõi thanh tu? Thầy đọc kinh ngâm
kệ, hay là Thầy lẩm nhẩm tên tuổi của ai? Nếu sơn nữ không kết duyên với thầy,
thì thầy tính sao? Thầy tính sao? Có thể nào tìm kiếm một giai nhân thôn nữ ở
thôn làng ra thay thế cho thầy được chăng?
Hỡi ôi! Màu lan nam diện! Hỡi ôi! Tuyết Mai! Bà mục sư đâu có rõ ngọn ngành? Bà
cao hứng quá hỏi dồn dập âm thanh liên miên trào ra không ngớt. Đang giữa cơn bần
thần cảm động, nghe bà trút một trận ngôn ngữ Âu châu tràn lan ra như thế, tôi
bỗng buột miệng bật cười ra một tiếng. Bà hỏi:
- Thầy cười sự chi? Thầy cười sự chi?
Tôi đáp:
- Tiểu sinh cười, vì thấy phu nhân vui vẻ quá. Mặc dầu...
Bà hỏi dồn:
- Mặc dầu làm sao ? Mặc dầu làm sao?
Tôi đáp:
- Mặc dầu quả thật hiện giờ lòng tiểu sinh tan nát.
Bà hỏi dồn dập:
- Tại sao tan nát? Ai làm cho tan nát?
Tôi đáp:
- Nhưng không hề gì! Bây giờ sắp chấm dứt cơn tan nát rồi.
Bà hỏi:
- Tại sao sắp chấm dứt?
Tôi đáp:
- Cũng có thể là ra như thế?
Cô hỏi:
- Thế thì tại sao mối sầu làm cho lòng anh tan nát, nó không chịu lành hẳn, mà
chỉ "chậm rãi tiêu tán từ từ" - theo lời anh nói?
Tôi đáp:
- Chuyện gì trong nhân gian đều phải chậm rãi từ từ mới được. Mê gái cũng từ từ.
Tụng kinh cũng phải từ từ. Mò cua bắt ốc cũng phải từ từ. Tiếc thương cũng phải
từ từ. Lành vết thương cũng phải từ từ.
Tôi nói tới đó, cả ba người cùng cười ầm lên một trận. Bà mục sư vội bảo cô gái
đem bánh và trà ra cho tôi dùng tạm. Trong lúc nhấm trà, tôi đem sự tình ra kể
hết ngành ngọn: chuyện thân mẫu, chuyện Tuyết Mai, chuyện Triều Nhi và bà
vú nuôi. Chuyện lên đường bây giờ sang Nhật Bản...
Ba người ngồi âm thầm nghe tôi thuật, lặng lẽ ràn rụa nước mắt. Những người tha
hương khách địa ấy cũng bâng khuâng vạn cảm trong lòng. Tôi ngậm ngùi tin yêu
bày tỏ hết nỗi niềm với người tuy không họ hàng thân thích đồng quận, đồng
hương nhưng họ có tâm hồn cảm thông rất mực.
CHƯƠNG BẲY
Bốn ngày sau, vợ chồng ông mục sư, sắm sửa cho tôi bốn bộ âu
phục và lo liệu mọi sự thuận lợi cho cuộc đáp tàu xong, bắt tay tôi, bảo:
- Tàu nhổ neo vào giữa lúc ngọ, cậu hãy lên đường xuôi buồm theo gió. Thượng đế
chúng tôi sẽ phò trì cho cậu phúc tuệ đủ đầy. Cậu đi chuyến này, nhớ thỉnh thoảng
viết thư nhắn tin về cho chúng tôi biết.
Óng bà mục sư nói xong thì cô gái tóc nâu lòa xòa xiêm áo xanh lam, cũng đề huề
bước tới. Trông nường có vẻ ưu sầu. Tới bên tôi nường đưa tay ra bắt tay tôi một
cách thân thiết vô cùng. Mấy ngón tay của nường thật là mịn màng ấm áp. Nường cầm
một bó tỷ la lan hoa và hàm tu thảo. Hỡi ôi hoa thảo gì như thế! Thêm một bộ
sách Anh văn thân tặng. Tôi cảm tạ đón nhận tặng vật của nường. Như đón
nhận một kho tàng man mác của thiên tiên thơ ngây xuống trần gian thăm viếng giấc
chiêm bao thi sĩ. Nường đìu hiu không nói lời nào cả, nhưng chẳng hiểu vì sao
tôi nghe rõ ràng âm thanh nường văng vẳng trong không gian. Suốt cuộc hành
trình, tôi nghe âm thanh ấy vọng theo tôi mãi mãi như từ một cõi sương tuyết vô
hạn nào Tây phương khôn hàn tịch mịch... - "Người một thuở, mà chàng sầu vạn
kỷ. Suốt một đời chàng sẽ đứng riêng tây... " Trời vẫn xanh, sóng biếc giỡn
triều ngày... Tiền trình vạn lý nghiêng mày tạ nhau - (Dư bái tạ thụ chi. Nga
nhi, hải thiên tại nhãn, dư Đông hành hỹ... )
Tôi lên tàu ngồi nhìn chân trời mây sóng trùng trùng điệp điệp. Phía trước, một
hình bóng... mơ hồ... Phía sau, một hình ảnh đìu hiu nụ cười chất chứa u sầu.
Tôi không biết. Tôi không biết gì nữa cả.
Thuyền rẽ sóng, năm ngày năm đêm như một cơn mơ dàn rộng. Em về? Bủa rộng
chiêm bao. Buồn sông sóng biển chìm sâu bên dòng...
Thuyền đã lênh đênh buồm gió vượt Thái Bình Dương. Trời xanh ngắt. Sóng ngun
ngút rì rào. Mặt trời hào quang chiếu diệu. Tôi bồi hồi luẩn quẩn trên boong
tàu, quẩn quanh lui tới phòng thủy thủ. Mang mang thiên hải... Diêu diêu dư
hoài... Cầm mấy cuốn sách của tiểu thư đưa tặng, mở ra. Trong đầy đủ toàn tập
thi phẩm Shakerpeare, Byron và Surrey. Tôi nhận thấy Byron không khác gì Lý Bạch
Trung thổ chúng tôi. Shakespeare là một nòi với Đỗ Phủ. Surrey thì cũng như Lý
Hạ. Byron là thiên tài, Shakespeare là thiên tài, thánh thần tài. Surrey là quỷ
vương ma chùa tài.
Tôi khởi sự đọc thơ Byron. Ngâm những vần du hành của Childe Harold. Tới đoạn
cuối, có sáu chương vịnh trùng khơi đại hải.
Tôi than dài một tiếng:
- Hùng hồn kỳ vĩ, kim cổ thi nhân, vô ký thất hĩ! (Hùng hồng hoằng đại, thi
nhân xưa nay, thật không ai sánh kịp vậy!)
Tôi thấm bút mực tạm phỏng dịch bài thơ ra Hoa ngữ như sau:
Hoàng đào lan hãn
Linh hải ưu minh
Vạn sưu cổ tập
Phiếm nhược khinh bình
Mang mang cửu vi,
Mỗi hữu di hư
Khoáng tai thiên chiểu
Phỉ nhân du cư...
(Mạn Thù đại sư dịch theo ý thơ, hồn thơ Byron, chứ không dịch sát lời bài thơ
nọ:
"There is a pleasure in the pathless woods,
There is a rapture on the lonely shore;
There is a society where none intrudes,
By the deep sea, and music in its roar.
I love not man the less, but Nature more... "
Đại khái ta có thể lược dịch tổng hợp ra thơ Việt như sau:
Ba đào bành bái tuôn sôi
Thẫm đen linh hải chèo bơi vạn thuyền
Thuyền con, chiếc lá giữa miền
Dấu bèo phiêu dạt diện tiền lưu ly
Mang mang thiên địa cửu vy
Ngàn tầm hải vực vô kỳ thái hư
Mênh mông âm điều gầm gừ
Hồn thiêng đại khí ngôn từ lãng ba
Thiên thu chấn đãng chan hòa
Ngọn triều non bạc như hà thế nhân
Thần công uy vũ vạn phần
Bão dông nguyên thủy phân trần càn khôn
Doanh hoàn vũ trụ trao hôn
Hai vành tịch nạp liên tồn lưỡng nghi
Như nhiên chân khí lầm lỳ
Hỡi ôi đại hải ù lỳ cứ tuôn
Vạn ngàn hải lý uông uông
Vào trong bất tuyệt bắt buông ra ngoài
Con người khổ lụy trần ai
Rụng rơi vết tích phôi phai điêu tàn
Con người bài bố đa đoan
Đành xin thúc thủ trước ngàn khơi vâng
Thiên thu bão tố luống từng
Đã chơi trận trận kiêu hùng là bao?
Con người ta? Giọt mưa rào
Vất vơ vùi lấp chôn vào đáy sâu
Ty hào còn lại chi đâu
Chỉ duy đại hải nguyên màu còn ngân
Thành trì hào lũy binh đoàn
Un ùn sấm sét tan hoang cung thành
Ngất trời dao động tam bành
Té ra rốt cuộc phù danh thôi mà
Hùng quang hải thượng âm ba
Còn dư cung bậc chan hòa liên thiên
Một đời tử diệt cuồng điên
Tuyết băng bèo bọt bốn miền nhà ma
Hùng tâm từ Armada
Tới bờ tráng khí Trafalga nào
Chỉ duy biền biệt ty hào
Còn chăng riêng chỉ ba đào lãng tinh
Carthage? La Mã biên đình
Assyria Greece còn tình tự chi?
Nước đại hải? Sóng biên thùy
Đã trào xuôi ngược vô kỳ thủy chung
Hỡi ôi vương chúa kiêu hùng
Hỡi ôi nô lệ cơn vùng dậy cơn
Hỡi ôi khổ lụy vong hồn
Thanh tân man dại lá cồn rụng hoa
Hồn sa mạc thạch lựu là
Cái chi như thế cái là cái chi?
Chỉ riêng ba lãng nguyên kỳ
Thiên thu bất diệt diên trì cuộc chơi
Từ sơ thủy lóng lánh ngời
Tới bây giờ vẫn rạng ngời long lanh
Xô ùa lớp lớp vòng quanh
Trùng khơi lộn ngược tiếp nhanh điệp trùng
Gương kim cổ? một lá bùa?
Huy hoàng thể thái? Bốn mùa bão giông?
Vạn năng bao quát xuân hồng
Thu xanh đông biếc phiêu bồng hạ dương
Thời gian vĩnh thể miên trường
Gào kêu? hiu hắt? hay mường tượng ngân
Thao thao bất xá xa gần
Hách nhiên thần quỷ hay thần thánh ma
Từ bắc cực tới hoàng sa
Từ nam cực tới vùng sa mạc nào
Từ băng giá giữa chiêm bao
Tới vùng nhiệt đới anh hào trường miên
Thần linh thị giám diện tiền
Hay là duệ hậu hách nhiên như là
Phò dao dương giác hải hà
Ngưng băng dâm lệ dê hòa hài hươu
Kể chi mang diễu bài trừu
Kể chi thùy mỵ ty hào tồn liên
Chỉ duy còn mãi là riêng
Mộng hồn đại hải là viên dung hình
Hình khiếm diện? Vẫn là hình
Từ trong cô thể mà hình tượng ra
Kình ngư vạn lý hay là
Thâm sâu vô để hồn ma quái nào
Từng khu vực mỗi âm hao
Lừng vang há giống hoàng mao thi thành
Ta yêu bao xiết tam bành
Hỡi ôi đại hải bao ngành nhớ nhung
Tang thương từ kể một vùng
Tằng kinh thương hải điệp trùng mà ra
Ân tình bao xiết nhà ma
Trút về cửa quỷ chan hòa đại dương
Lãng hoa phách ngạn khôn lường
Khương an khương thịnh mù sương khuynh thành
Vong hồn nam diện một cành
Còn lưa hơi thở cho mình yêu nhau
Chuyện ngày trước chuyện ngày sau
Gần xa bành gái một màu sơ nguyên
Bàn tay khép mở dịu hiền
Hỡi ôi thương hải diện tiền đón ta
Dịch xong bài thơ Byron, tôi ngâm vang lên một trận. Lúc bấy giờ màu trắng mới ở
trên trời hắt hiu rỡn rỡn. Đúng như là màu xanh trăng mới im ngầm. Phấn thừa
hương cũ bội phần chia xa. Gió đàn nhị nguyệt nhà ma. Giữa hoang vu biền lập
lòa bốc tia. Ngọn đèn ngư phủ xa kia. Có nghe thơ vọng tới chia niềm gì.
Sáng hôm sau, con tàu cập bến Yokohama. Tôi lên bờ tìm một khách sạn. Hành lý lẽo
đẽo mang đi. Sau đây, xin thuật lại những việc xảy ra trên đất nước Nhật Bản
quê mẹ.
CHƯƠNG TÁM
Vừa trút hành trang xuống, tôi rút tờ ghi địa chỉ mẹ tôi do
vú nuôi trao. Hỏi chủ nhân khách sạn chỉ dẫn giúp. Chủ nhân bảo:
- Địa chỉ này rất gần đây. Vùng đó thật là yên tĩnh. Đi tàu hỏa chỉ cách năm trạm
nghỉ thôi. Công tử hãy thư thả ngồi dùng trà một lát, tôi lo liệu mua giúp vé
tàu cho. Tôi vốn quen người biết mặt rất nhiều, ít thấy ai siêu dật như công tử.
Công tử viếng chốn ấy là phải. Dường như công tử nóng lòng đi ngay? Có công việc
cần kíp hay sao?
Tôi đáp:
- Thăm viếng mẫu thân tôi.
Ăn trưa xong, chủ nhân khách sạn tiễn chân tôi tới nhà ga. Tôi cảm kích lòng niềm
nở ấy vô cùng. Tàu khởi hành. Qua hai trạm tới một nhà ga, danh là: "Đại
thuyền". Người xếp trên tàu bảo tôi:
- Cậu xuống đây, sang tàu. Đi một trạm nữa, đến trạm thứ nhì là tới chốn vậy.
Tôi đổi tàu, vào va gông ngồi xao xuyến ù lỳ. Lòng tôi lúc bấy giờ thật là khó
tả. Tôi tự nhủ:
"Chỉ một lát nữa thôi, thì cùng mẹ trùng phùng. Thật là... Thật là
gây cấn. Đây có phải là niềm vui lớn nhất trong bình sinh của ta
chăng?"
Chợt lại chuyển niệm: "Từ nhỏ ta chẳng hay tin gì cả. Mà thế sự biến đổi
liên miên, biết đâu thân mẫu chẳng dời nhà nơi chốn khác? Nếu hôm nay không gặp
được mẹ, thì chịu đựng sao cảnh lạc loài?"
Tim tôi bồi hồi lo âu dữ quá. Con tàu chợt dừng bánh. Tôi đưa mắt dòm ra khuôn
cửa, thấy bảng đề ba chữ: "Đậu Tử Trạm". Tôi xuống tàu, ra khỏi sân
ga, nhìn bốn bể chẳng thấy người đi đường. Vùng này quả thật là vắng vẻ.
Tôi mướn một chiếc xe tay (gần giống như xích lô đạp). Người kéo xe bôn bôn ba
ba nhắm hướng đồng ruộng chạy nhanh. Lúc bấy giờ thời tiết thật lạnh lẽo. Nhìn
ra xa chỉ thấy lớp lớp băng giá tích tụ hoang liêu mấy dặm dài. Tới chân một ngọn
núi, xe rẽ về phía tả, rồi lăn dọc theo bờ biển. Chỉ thấy mấy khóm nhà chài. Một
lũ bé con đi đi lại lại tìm chỗ thả cần câu. Cảnh vật thật là u liêu hết sức.
Người kéo xe chợt dừng chân bảo:
- Đây chính là vùng Anh Sơn. Công tử muốn đi về phía nào?
Tôi đáp:
- Anh Sơn chính là vùng này ư?
Bèn xuống xe, mang va ly hành trang bước bộ.
Đi khá lâu, tới một chốn nọ, tùng xanh, cát trắng. Mới dừng chân ngóng vọng một
lúc, chợt thấy ở xa xa, giữa khoảng tùng bách xanh um, có một con đường, một nhịp
cầu nho nhỏ dẫn tới một ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà ẩn ẩn tựa lưng vào sườn núi hậu
diện, mở ra phía biển ở tiền diện. Phía bên dưới nhịp cầu nho nhỏ kia, có một
dòng tiểu khê nao nao chảy róc rách chạm vào đá vang lên một âm thanh vui vui rầu
rầu rĩ rĩ. Tôi vội vả tiến về phía đó. Ngẩng đầu nhìn lên thấy bên tấm cửa có tấm
bảng đề:
"Tương Châu Đậu Tử
Anh Sơn thôn - số 8"
Tôi mừng rỡ quá. Chính chữ đó, chính là địa chỉ mẹ tôi.
Bèn đưa tay gõ cửa nhẹ nhẹ. Một lúc lâu, vẫn chẳng nghe động tĩnh gì hết, dường
như nhà vắng không người.
Tôi bèn gõ cửa lần nữa.
Một người đàn bà mở cửa bước ra.
Nhìn người ấy, với tấm vải trắng buộc ở phía trước hình hài, thì tôi đoán ra đó
là chị bếp.
Tôi liền hỏi:
- Xin thứ lỗi đường đột! Đây có phải là nhà của Hà Hợp phu nhân chăng?
Người đàn bà đáp:
- Phải.
Tôi hỏi.
- Tôi muốn gặp phu nhân. Phiền thím thông báo giùm cho.
Người đàn bà tỏ vẻ trù trừ mà rằng:
- Chủ nhân tôi bệnh nặng vừa mới khỏi. Thầy thuốc dặn rằng bà không nên tiếp
khách. Khách đến đây có việc gì, xin cho biết để tôi thay mặt báo cho bà chủ rõ
cũng được.
Tôi nói:
- Chủ nhân đây là mẹ của tôi. Tôi tên là Tam lang. Tôi từ bên Trung Hoa sang
đây, hôm nay mới tới Yokohama lần đầu. Nhờ thím thông báo gấp cho.
Người đàn bà nghe tôi nói như thế thì giương đôi mắt nhìn tôi đăm đăm từ đầu tới
chân. Suy gẫm âm thầm một chặp bàng hoàng hãi nhiên mà rằng:
- Ồ! Công tử là Tam Lang thật sao? Tôi thường nghe chủ tôi nhắc tên thiếu chủ hằng
ngày, và lo âu mãi chẳng biết thiếu chủ còn sống hay đã mất rồi.
Nói xong, liền quay vào trong nhà. Một chặp sau trở ra, trang trọng mời tôi
vào. Dẫn tôi đến hành lang. Một cô bé tóc xõa xá một lễ chào tôi bảo rằng:
- Anh hai về may mắn quá chừng! Mẹ bệnh đã một tháng nay. Sáng nay mẹ mới thấy
có khỏe ra chút ít. Bây giờ mẹ vừa thức giấc. Mời anh hai vào gặp mặt mẹ.
Cô bé nói xong thì dắt tôi lên cầu thang. Tấm bình phong vừa xô qua một phía,
thì thấy mẹ tôi đang ngồi trên giường, tựa vai vào bệ cửa sổ. Tóc buông lòa xòa
bối rối. Bà nhìn tôi mỉm cười nhè nhẹ. Tôi trong lòng biết rằng nụ
cười của từ mẫu như thế, thật còn xót xa gấp mấy lần gào khóc. Tôi chạy tới quỳ
xuống bên chân mẹ, miệng không thốt ra được lời nào cả. Nước mắt thì trào ra
như suối chảy. Lúc bấy giờ, chợt nghe từ mẫu ngậm ngùi nói:
- Con tôi còn sống bình an. Đa tạ Trời Phật phù hộ. Tam Lang! Con hãy lau nước
mắt nhìn mẹ đây. Mẹ đau lần này suýt lìa trần mấy phen. Tuổi già, sinh mệnh như
ngọn đèn trước gió. Nay mẹ nhìn thấy con. Thì bệnh mẹ như dường không cánh mà
bay, thân thể nghe khỏe khoắn rồi. Con đừng đau đớn nữa.
Mẹ tôi cầm nước mắt lại. Đưa tay nâng tôi dậy. Từ từ bà quay nhìn cô bé, bảo rằng:
- Đây là anh hai của con. Từ nhỏ anh sống xứ người, nên con chưa gặp mặt lần
nào.
Quay mặt lại nhìn tôi, mẹ nói tiếp:
- Đó là đứa con gái nuôi của mẹ (dưỡng nữ). Năm nay nó mười một tuổi. Nhỏ hơn
con năm tuổi. Nó là em của con vậy, nó săn sóc mẹ rất chu đáo, mẹ thương nó hết
sức. Còn con chị của con ngày mai hay tin con đã về, thì nó sẽ tới gặp mặt. Chị
của con đã lấy chồng hai năm nay. Việc nhà chồng bề bộn lắm, nên nó ít khi về
nhà. Từ nay mẹ có được hai anh em con đây ở bên, thì thật là điều an ủi. Mẹ tạ
ơn Trời Phật đã rủ lòng che chở không để cho con của mẹ tan nát thịt xương ở xứ
người.
Mẹ tôi nói xong, tôi nhìn cô em bé đang nép thân bên mẹ, hai mắt rướm lệ. Lúc bấy
giờ, cảnh huống thật là tịch mịch đìu hiu. Cảnh vật bốn bề cũng khơi rộng những
yêu thương và luyến tiếc của người ta. "Chỉ có mơ màng một bãi xa.
Tuyệt mù chỉ nhạt phai và. Véo von tiếng chở lưu ly mộng. Trong khoảng đêm trường
ma gọi ma".
Tuy nhiên?
"Lòng xin bốn phía mở cho trăng
Khách lạ mười phương cũng đãi đằng
Nước ngọt vẫn tuôn, vườn đợi hái
Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng"
Dù sao chăng nữa? Vâng:
"Những cặp chim hồn lạc hướng bay
Tấc gang cách trở nhớ muôn ngàn
Cô hồn dựng núi lên cao ngất
Lời chẳng giao lời tay tạ tay"
Một lát sau mẹ tôi xoa đầu chúng tôi mà rằng:
- Các con đừng buồn nữa. Mai mẹ sẽ khỏi bịnh, mốt mẹ sẽ dắt con tới viếng phần
mộ ông ngoại con và ba con, cầu nguyện vong linh phù hộ cho con. Bà con thân
thích nhà ta cũng đông đúc lắm. Sau này mẹ sẽ dẫn hai anh em con đi thăm viếng
và du ngoạn khắp miền. Mẹ đau nặng, nằm mãi trên giường bệnh đã lâu, nay nhân dịp
mà du hành một cuộc, cho thư thái xương xẩu và phong vật các làng xã quê người.
Lúc bấy giờ chợt người bếp trở vào bên mẹ tôi, dường như có ý hỏi han điều gì?
Mẹ tôi đứng lên và dặn em gái tôi như thế này:
- Huệ Nhi, con hãy dẫn anh hai con ra ngoài xem phong cảnh trước nhà, anh con mới
về, phong trần bộc bộc tội nghiệp quá!
Xong bà quay sang phía tôi chỉ người bếp mà rằng:
- Tam Lang, con hôm nay về ở gia đình, mọi sự đều do A Trúc coi sóc. A Trúc
giúp việc nhà ta hơn mười năm nay, chị thật là người trung hậu thành thực, mẹ
thương mến cô ta lắm lắm.
Mẹ tôi nói xong thì bước xuống thang lầu, lo cơm nước buổi tối cho thằng con có
dịp ăn no một trận. Tôi trong lòng nghĩ rằng trong thiên hạ, lòng nhân từ của
người ta không đâu bằng tình thương của mẹ đối với con cái. Vì vậy, nên những
thằng con đứa cái luôn luôn suốt kiếp phải phiêu bồng mới làm thơ lai rai được.
"Người ta bảo người mẹ chàng hay khóc
Chia gia tài cho con quý lệ đau
Chàng là con một người mẹ hay sầu
Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ
Người thi sĩ cũng nguyện cầu Thượng Đế
Một đôi lần
Nhưng vốn nghiệp đi hoang
Thì chết rồi chắc người vẫn lang thang
Như buổi sống ở trong bầu trăng gió
Ở địa ngục hay Thiên đường không rõ... "
Tôi bước theo chân em gái. Ra tới mặt trước nhà. Chính vào lúc trời chiều lãng
vãng bóng hoàng hôn. Mặt trời lặn xuống bên dãy núi Yentfu. Ngư phủ quay thuyền
về bến. Màu trời màu biển, màu sắc rặng núi xa xa, thật nhiên là thanh kỳ thiên
nhật vậy.
Hốt nhiên nghe vẳng lên giữa mù sương tịch mịch tiếng chuông chùa ở sau núi. Tiếng
chuông chậm rãi hòa lan vào với tiếng chim hải âu, dõi theo tiếng thủy
triều mà chìm vào hư không vắng lặng.
Em gái bảo:
- Đó là tiếng chuông chiều tại Thần Vũ cổ tự đấy anh ạ.
CHƯƠNG CHÍN
Đêm đến, tôi viết hai bức thư: một bức thư gửi cho bà vú
nuôi. Một bức gửi về mục sư Robert. Trong hai bức thư, tôi đều nói rằng mình
bình an về tới gia đình, gặp mặt từ mẫu. Và kể rằng mẹ con tôi cảm tạ ân đức
kia không bao giờ quên.
Mẹ tôi gởi bà vú nuôi một trăm đồng vàng, dặn dò mẹ con bà vú nuôi hãy giữ gì
thân thể cho khỏe mạnh, ngày sau tự nhiên sẽ có phen tái hội.
Viết xong hai lá thư, tôi thấy máu me mỏi trong mình, bèn đánh một giấc
ngủ vùi mê man.
Ngày hôm sau thức giấc, mặt trời hồng chiếu dương quang qua song cửa. Tôi khoác
áo đi tắm một trận. Tắm xong, lên lầu gác, nhìn thấy ngọn Phù Dung Phong (
Fujiyama) chọc thẳng đỉnh chót vót phiêu phiêu trên mặt sóng vàng kim hải. Phổi
tim tôi bỗng chan hòa một trận. Nghe chừng như gột rửa sạch sẽ hết mọi trăm não
ngàn phiền dơ bẩn mốc meo ở trong thớ máu và ở trong các khớp xương sườn (kể cả
xương bánh chè cũng vậy). Ngày đó mẹ tôi bỗng nhiên tinh thần bình phục, lăng
xăng trần thiết mọi sự vật cho tôi, không nghỉ ngơi một phút nào cả.
Tôi về nhà đã được hai ngày. Qua tới ngày thứ ba, vừa mới tinh sương, mẹ tôi đã
dắt tay hai đứa tôi vội vã tới nhà ga xe lửa. Ấy là cuộc đi Tảo mộ tại Tiểu Điền
Nguyên (Odawara).
Đó là một ngày âm u và rét mướt. Chuyến xe đi giữa mịt mờ hoa tuyết phấp phới đầy
không gian. Cảnh vật trên dặm trường thật là ảm đạm tiêu tao. Tới lúc xe đậu lại
trạm Tiểu Điền Nguyên, thì thấy mọi nẻo đường đều dằng dặc đầy tràn những tuyết.
Khắp làng mạc chìm trong gió tuyết, vì thế nên tìm không ra một bác phu xe tay
nào hết cả. Mẹ tôi bèn mướn một người đàn bà nhà quê cõng em tôi đi. Rồi ghé lại
chỗ dịch trạm mua một bó hoa tươi tốt. Sau đó, tôi nâng đỡ mẹ tôi bước đi có
hơn ba dặm đường tới chân một ngọn núi. Tôi ngẩng nhìn lên chóp núi, thấy lộ ra
trên đó một góc vách tường hồng. Mẹ tôi đưa tay về phía đó bảo rằng:
- Đó là Long Sơn Tự ( chùa Ryusan). Mộ của ông ngoại con và ba con ở trên đó.
Chúng tôi lần lượt chậm rãi leo đá núi mà lên. Lúc tới gần cửa chùa, thấy có
hai câu đối in đậm đà nét chữ:
Bồ đoàn tọa nại giang đầu lãnh
Hương hỏa trùng sinh kiếp hậu khôi.
(Bồ đoàn, ngồi lại nguyện cầu
Luống từng chịu gió giang đầu giá băng
Trùng sinh kiếp hậu há rằng
Tro là hương hỏa mộng hằng là than
Ngồi suông trên tấm bồ đoàn
Ngày xuôi dốc tuột hai hàng thái hư)
Tôi trong lòng thầm nghĩ rằng hai câu đối thật là thâm trầm chỉnh đốn.
Nhưng vì lẽ gì lòng nghĩ thế mà chỉnh đốn, mà mộng ước trong máu me lại ngậm
ngùi không chịu đành cho rằng như thế là chỉnh tế?
Vào tới giữa điện, một vị lão ni già nua bước ra, cùng mẹ tôi hàn huyên một chặp.
Rồi vị lão ni bước chầm chậm đi thắp hương, cùng đem lại mẹ tôi một ly nước lã.
Tôi và em gái bước theo chân mẹ ra phía sau ngôi phù đồ, thấy hai nấm mộ cha và
ông ngoại nằm song song bên nhau, giống như hai giọt nước sương trên lá cỏ. Bốn
phía đều có giậu rào có vuông vức dây thép gai mịn màng mát tươi. Bốn mặt trụ gỗ
có khắc năm chữ; Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Đó là do phái Mật Tông biểu thị
ân đức của Đại Nhật Như Lai.
Tôi và em gái tôi chạy nhặt nhánh tùng khô, đem về hươi quét sạch sẽ những mảnh
tuyết tụ trên hai nấm mộ. Mẹ tôi cầm luôn nước rảy xuống, từ đỉnh nấm mộ xuống
bốn phía và ba bên hai bề vẹn vẽ.
Chẳng mấy chốc, nước chan hòa lôi cuốn hòa chan đi hết mọi vết tích của
tuyết tụ mộ phần. Thế là bày hoa hương ra le lói được rồi vậy. Mẹ tôi nhặt một
nhành lá trường thanh diệp đặt ngay ngắn vào giữa thạch án, bảo chúng tôi đồng
thời quỳ chân vái lạy. Vái lạy xong tôi ôm mặt khóc tơi bời một trận.
Mẹ tôi bảo:
- Tam Lang! Tuyết phong khốc liệt lắm. Chúng ta hãy sớm liệu về thôi.
Tôi mở mắt ra nhìn lại nấm mồ, thì thấy tuyết từ đâu xuống đã phủ đầy một lớp
chẳng rõ tự lúc nào. Những đồ vật vừa bày ra lộng lẫy và le lói như thế, bỗng
nhiên khoảnh khắc đã bị băng tuyết vùi lấp mất tăm mất dạng hết cả rồi. Mẹ tôi
đem một ít tiền bạc gói trong giấy trắng kính biếu vị lão ni. Rồi cáo biệt.
Xông pha vào giữa tuyết mà xuống núi.
"Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao"
Tôi bày em tôi ngâm thơ vừa thuộc thì mẹ tôi bảo:
- Tam Lang! Dì của con năm ngoái đã dời sang Sương Căn (Hakone). Miền đó cũng ở
gần vùng này. Bữa nay mẹ muốn dẫn con tới viếng dì con. Con hãy biết rằng thuở
con còn nhỏ, dì của con yêu dấu con như một con phượng non, như một con bồ câu
ra ràng bình minh mới mẻ thái bình vậy. Thuở bấy giờ một ngày không thấy con,
thì dì con trong lòng buồn bã. Lúc mẹ dẫn con sang bên Trung Quốc, thì dì con hết
sức cản trở. Con đi rồi, dì con tan nát can trường. Tam Lang, con hãy ghi nhớ
ân tình của dì con, đừng có quên đấy nhé.
Tôi đáp:
- Con sẽ không quên.
Mẹ bảo tiếp:
- Dì con dạy bảo điều gì, con đừng trái ý nhé.
Tôi đáp:
- Con sẽ không trái ý dì con bất cứ điều gì.
Mẹ bảo:
- Được.
CHƯƠNG MƯỜI
Lúc tới nhà dì, người giữ cửa thông báo, dì tôi liền ra
đón mẹ tôi.
Rồi dì sang nhìn tôi, hỏi mẹ tôi:
- Cậu này là khách từ đâu lại?
Mẹ tôi cười đáp:
- Tam Lang đó, mới về mấy bữa nay.
Dì tôi nghe ra, mừng rỡ vô cùng. Bảo:
- Thật sao ! Tam Lang còn sống trở về! Sao chị không đánh điện tín báo em hay!
Vừa nói dì vừa đưa tay phủi mấy đóa hoa tuyết rớt trên vai tôi, chậm rãi than một
tiếng:
- Tội thay Tam Lang. Dì không thấy mặt cháu đã mười mấy năm! Ngày nay trông tướng
mạo cháu, thật khó nhận ra, con gầy ốm hơn lúc nhỏ. Con đi đường mệt lắm. Vào
nhà thôi.
Chúng tôi theo gót dì vào phòng. Cởi áo ngoài ra. Hốt nhiên thấy một nữ lang
đem khay trà tới. Nàng vận y phục nhạt màu, dáng đi thật là tha thướt. Nàng
chào chúng tôi. Tôi ngồi một bên nhìn nàng. Thấy nàng quả thật là thanh tao diễm
lệ hơn người. Lòng tôi bỗng nhiên nghi nghi hãi sợ, dường như từng đã có gặp
nàng từ lâu ở nơi nào...
Dì tôi cầm một đôi que sắt tro lạnh trong lò. Vừa gạt tro vừa nói:
- Chị em ta xa nhau hơn một tuần rồi, khiến lòng nhớ nhung. Ngày đó tiếp được
thư chị, mới hay rằng bịnh tình chị đã bớt, mới yên tâm chút ít. Nay Tam Lang về,
thật tưởng như là chiêm bao mộng ảo. Em mừng hết sức.
Mẹ tôi đáp:
- Cảm ơn em. Chị tuy trong mình còn bệnh tật tuổi tác già nua, nay thấy mặt Tam
Lang, thì khoan khoái vô cùng, nhưng trông Tam Lang xanh xao đáng thương quá.
Lúc bấy giờ nữ lang kia đã pha trà hoàn bị, đem lại mời mẹ tôi. Tôi nhận thấy nữ
lang lúc đó e thẹn bối rối, dường như lóng cóng cả tay chân. Dì tôi biết thế,
quay sang nhìn nữ lang nói:
- Tĩnh Tử! Ta còn nhớ thuở Tam Lang ra đi, con đã biết buồn rầu nỗi ly biệt,
con đã khóc lóc giàn giụa. Con còn nhớ chăng?
Rồi dì bấm đốt ngón tay nói tiếp:
- Con lớn hơn Tam Lang đúng hai mươi mốt tháng (gần tới hai tuổi) thế thì Tam
Lang là em của con vậy, con chẳng nên ngượng nghịu bối rối như thế.
Nữ lang làm thinh không đáp, chậm rãi đưa bàn tay ngọc ra vuốt vào mái tóc mai
của em tôi. Hai má nữ lang trông có vẻ ửng đỏ chút ít.
Dùng cơm tối xong, tôi chợt nghe thấy trong mình mệt mỏi. Đầu óc choáng váng, tứ
chi nóng rần, xương xẩu máu me trở cơn sốt ran ran.
Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Bệnh nặng phát tác mất rồi!
Sáng hôm sau, trời vẫn còn tuyết liên miên. Mẹ tôi, dì tôi và mọi người trong
nhà đều buồn rầu hết sức, bảo rằng chứng bệnh kia không nhẹ.
Tôi mặc dù nằm rên rỉ trong chăn, nhưng không thấy đau khổ, nhân vì mới về lại
gia đình, nhận ra rằng từ thuở nhỏ đến nay, chưa có bao giờ hân hoan êm đềm như
ngày đó.
Tôi suy gẫm lại mọi sự việc đã xảy ra trong đời tôi từ ngày bước chân vào chùa
tới lúc bấy giờ: việc gặp gỡ ân sư, gặp gỡ mẹ con bà vú nuôi, và gia đình mục
sư Robert... Mọi người đều yêu thương tôi không khác gì con ruột, thì như thế,
mọi nỗi phiêu linh tân khổ đã trải qua từ trước, kể cả cũng được đền bồi. Nhưng
lúc nghĩ tới Tuyết Mai, nàng phải một mình ôm mối đau lòng không nói ra được với
ai hết cả.
Tuy nhiên sự việc tôi đi tu và việc Tuyết Mai, tôi giấu hết, không nói cho mẹ
tôi rõ, sợ mẹ đau lòng. Hai sự việc kia, xuất gia và hợp hôn, quả thật là mâu
thuẫn nhau triệt để; một đằng sang Đông, một đằng sang Tây; một đằng nằm im, một
đằng rục rịch. Tôi đã nguyện tu hành cho đắc đạo rất mực chân tu, thì cố nhiên
không thể nào lấy vợ; nhưng đã đi tu, còn có thể nào về bên mẹ mãi mãi được
không?
Trong khi tôi quẩn quanh tư lự gần xa như thế, mẹ và dì bước vào. Dì tôi tay
bưng bát thuốc lá cây rễ cỏ, bước tới bên mép giường bảo:
- Tam Lang, bệnh của cháu là một loại cảm mạo. Bây giờ cháu ngồi dậy uống thang
thuốc này, một vài ngày sau ắt sẽ khỏi bệnh. Loại rễ thuốc lá hoa này do dì tự
tay hái ngắt về. Tam Lang, dì của con hằng ngày chẳng có việc chi làm, thì giờ
nhàn rỗi chỉ có biết đi vào trong núi ở trong rừng mà hái lá, ngắt rễ cây. Đem
về bào chế ra thuốc, rồi đem cho những kẻ nghèo khó mà đa bệnh để họ dùng trong
lúc tai nạn. Phải nên biết rằng trong thế gian, các ông thầy thuốc chẳng ông
nào là chẳng tham tiền; do đó kẻ nghèo đói nếu rủi ro lại vướng bệnh, chỉ còn
biết buông tay mà chết. Những chuyện thương tâm thảm nhục (đau lòng xót mắt) chẳng
có chuyện nào đau đớn hơn sự tình trạng huống kia. Dì tự nghĩ mình còn chút sống
thừa le lói, trừ cái cuộc đi hái lá cây về làm thuốc giúp người thì chẳng còn
việc chi lạc thú nữa cả. Còn như những việc đốt hương niệm Phật lâm râm theo lối
những người đàn bà ở làng thôn (thôn làng thôn xã) thì ấy là điều mà dì của con
chẳng làm đâu. Tam Lang! Dì và mẹ của cháu đều già nua hết rồi. Ngạn ngữ có
câu: "Người già nua thêu thùa sự vụ là cốt để giao thụ cho người sau"
- lão giả dự vị giao đại sự 1 - Ấy bởi rằng lời trong ý là nói người già
nua chỉ nên vì người sau mà mưu việc hạnh phúc, còn tự thân mình vất vả, thì
không bận tâm lấy làm điều gay cấn cho lắm đâu. Xét riêng gia cảnh của dì hiện
nay, thì thằng con của dì đã phục vụ trong ngành hải quân, nó đã lấy vợ lập gia
đình rồi, thì dì chẳng còn phải vì nó mà lo lắng sự gì 2... Ngày nay, còn đứa gái Tĩnh Tử kia kìa, nó là
kẻ rất mực của dì lưu tâm quan thiết. Tĩnh tử (Kiyoko) mồ côi cha thuở nó còn
bé, nó nương tựa vào dì đã mười mấy năm nay. Dì chỉ biết... dì nghĩ rằng... mọi
sự thôi thì hãy nên ủy thác hết cho Thiên mệnh vậy.
Dì tôi nói tới đó, thì trầm ngâm một lúc, thở dài một tiếng, rồi nhìn tôi nói tiếp:
- Tam Lang, ngày trước mẹ cháu từ Trung Hoa về lại xứ nhà, chưa được ba tháng,
thì tiếp được một lá thư của gia đình nghĩa phụ của cháu, báo tin cho biết rằng
"Tam Lang leo lên núi, bị cọp ở trong rừng vồ nuốt mất hình hài thân thể tứ
chi". Nghe tin sét đánh đó, dì gẫm rằng bên xứ ấy vốn xảy ra nhiều tại
nạn cọp bắt người ăn thịt xương, thì dì tin rằng sự việc kia là có thật. Dì và
mẹ cháu ôm nhau khóc một trận tưởng như chết mất ra ma, rồi vì quá đau lòng mà
hai chị em vốn đã già, lại tăng thêm già nua, thêm hơn hai mươi tuổi nữa.
Thần thái đã ra người lẩm cẩm. Sự việc đời còn mà ra như thế, còn biết tính ra
làm sao, chỉ còn biết ngày đêm cầu nguyện ông trời xanh, chúc cho vong hồn cháu
tiêu dao du, mà ghé về xứ nhà ứng mộng chiêm bao cho mẹ cháu.
Tôi lắng tai nghe dì kể lể giọng thật bi thảm. Trong lòng tôi lại ùn ùn trào dậy
bao nhiêu mối u sầu trường hận cũ, trái tim và hai lá phổi như muốn vỡ toang ra
một trận, chẳng còn biết ăn nói ra làm sao cả .
Thật lâu sau, ngẩng mặt nhìn mẹ, nhận thấy dung nghi điềm đạm, không còn bi thiết,
thì tôi cố gắng đàn áp mối bi thống trong máu xương mình, cung kính nói mà rằng:
- Con xin ghi tạc mối tình thương yêu của dì. Những phen lao đao vất vả cháu trải
qua, đã thành chuyện quá khứ mơ hồ, không thể nhắc gợi ra nhiều chi nữa, con
xin dì và mẹ hãy xếp lại đừng bận lòng chi tới. Từ nay về sau, con ở lại nhà, sớm
hôm phụng bồi dì và mẹ, thì lòng con sung sướng tràn lan rất mực lắm rồi.
Tôi nói xong, mẹ tôi giục uống bát thuốc, một lúc sau, toàn thân tôi mồ hôi ra
như tắm, tôi mỏi mệt khắp cả hình hài xương xẩu, nhắm mắt thiêm thiếp miên man.
--------------------------------
Mấy tiếng "dự" và "giao đại" nên đọc chậm
một tí, để khỏi lộn nghĩa. |
|
Bà dì kia ăn nói mạch lạc, ôn tồn sắp nhiếp dẫn ngôn ngữ
vào một vấn đề gay cấn nêu ra. |
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Tôi đau ốm suốt bốn ngày đêm xong xuôi một trận, thì mới đủ sức
bình yên, không cần phải dùng thuốc thang nữa. Mẹ tôi và dì tôi và mọi người
trong nhà, ai ai cũng tưng bừng nét mặt. Ấy vào ngày mồng ba tháng ba. Khí trời
thanh tân tôi ngồi dậy lại bên cửa sổ, vén tấm màn nhìn ra ngoài. Sắc núi rực rỡ
chân trời, hoa lá chim chóc thi đua nhau đâm bông và ríu rít, trong một trận
trường kỳ thi đua gây cấn. Nửa như phản kháng nhau. Nửa như ứng đáp nhau. Lại
thêm một nửa như... như nhiên thường hằng chan hòa từng cơn cơn thái hư tịch mịch.
Lòng tôi thư thái dị thường. Chợt tưởng như một sự: Dường như suốt mấy ngày đau
ốm, mỗi phen từ trận mê man lò dò tỉnh giấc, mỗi phen lại dường như khướu giác
lại chạm phải mùi hương xuân sắc bất khả tư nghị. Chẳng rõ là hoa hay lá? Hay đạo
hạnh? A na tam miệu tam Bồ đề? Tứ Bồ Tát? Ngũ ni cô? Thật quả là tôi không phân
biệt được rõ. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng đó ắt nhiên là một loại hương phấn bốc
hơi pha màu xiêm nghê thường quần duệ địa vậy. Bên giường tôi nằm trên chiếc
bàn nhỏ, mỗi buổi mai, lại mỗi có một bó hoa tươi tốt đặt gọn gàng ôn tồn nằm
yên vui trong cái lọ. Màu hoa gì như thế? Sắc hương thênh thênh, hoa tâm như
còn chứa đọng giọt sương ướt át rất mực liền tồn từng khoảnh khắc sát na.
Hôm nay chợt thấy một bức phỉ thúy khâm trâm đặt trên chiếc bàn. Ban sơ tôi
nghĩ rằng đó là đồ vật thơ ngây của em gái rất mực nữ lang Tĩnh Tử Kiyoko và
như vậy thì hiển nhiên bó hoa tươi tốt lòe xòe ắt cũng chẳng vật lòe xòe của mỹ
nhân loe lói diễm kiều kia đó vậy. Mới hay rằng đó té ra là hiển nhiên như thế.
Tôi lại chậm rãi nhớ ra rằng ngày trước tợ hồ như từng đã có phen ôn tồn tương
thức. Ấy nhân vì ngày trước tại trong phòng văn tiểu thư con gái mục sư Robert
tôi từng đã có phen lăn tăn nhìn thấy tấm họa hình ảnh nữ sĩ Hy Lạp Sappho do
bàn tay một nghệ sĩ Đức quốc. Hình ảnh đó và nữ lang ôn tồn này trông giống
nhau quá sức. Cũng hai con mắt đen láy tròn trĩnh ưu tư. Cũng làn mi liễu cong
vòng vang lừng trên mặt ngọc. Cũng hai môi khép mở mơ hồ lúc làn tóc mây lòa
xòa buông xuống một bóng hoàng hôn của bình minh kỳ ảo phiêu bồng.
Đương lúc tôi trầm ngâm như thế, chợt đưa mắt lưu ý tới phía dưới màn the, trần
thiết cực kỳ phong nhã. Có một chiếc bàn với hình hài trái xoan trứng ngỗng
thiên nga lồ lộ. Trên có đặt một chiếc gương soi, một chiếc hộp nạm bạc, và bút
nghiên, và đèo thêm một dải lụa hồng tua tủa nem dén mép rìa râu mọc thơ ngây.
Không một hột bụi nào đậu vào trong cụm ngây thơ nọ. Bên cạnh lại có một chiếc
rương nho nhỏ học trò đựng sách gỗ lá cây, hình trạng giống như cái tổ ong tò
vò, hoặc cái chuồng bồ câu tư lự. Sách chứa trong đó khá nhiều. Tôi lò dò
tiến lại lần giở ra xem xét lai rai nhận xét một vài. Đều là sách cổ xưa
Trung Quốc, tới lúc nhìn qua tường vách bên tả, lại thấy một chiếc bàn ghế nhỏ
cỏn con, trên có đặt một chiếc nhạn trụ minh tranh, tợ hồ như còn văng vẳng dư
âm phảng phất trên huyền ty loan phím.
Lúc bấy giờ, tôi mới chịu hinh hoảng hiểu ra rằng đó là căn phòng lầu các của
khuê nữ rất mực Tĩnh Tử ( Kiyoko). Trong lòng tôi lại càng thêm thán phục nữ
lang nọ đa tài, học rộng, thâm thúy xuất trần, thật quả có như là bình sinh hóa
thân của Ma Cô Tiên Tử (Nường Tiên kiều diễm ở trong núi Ma Cô) Ma Cô là núi,
mô ca là rừng? Hỡi ôi! Kiyoko sư muội sư nương nõn nường tài hoa ra như thế?
Anh hoa phát tiết ra ngoài? Ngàn thu rất mực một tài hoa riêng?
Lúc bấy giờ, tôi lại cảm thấy trong lòng như có nảy ra một sở niệm tiêu dao
phiêu bồng. Rồi sau đó, lại tiêu điều phủ nhiên nhược thất? Như đang giữa cơn
đánh mất một cái gì?
Chợt thấy mẹ tôi lên thang gác, tay cầm hai bộ áo xuân. Mẹ bảo:
- Tam Lang, hôm nay cuồng phong đại tuyết đã đề huề rút lui. Mùa đông đã đi qua
rồi. Thì con hãy thử mặc bộ quần áo này vào mừng xuân.
Tôi cầm lấy hai bộ quần áo, rồi xuống bên mẹ tôi trên chiếc ghế dài nệm gấm viền
tua, có lò xo bối rối. Mẹ tôi âu yếm nhìn tôi đưa tay vò đầu tôi, sờ vào trán
tôi và hỏi:
- Con cảm thấy thế nào tới sáng nay?
Tôi đáp:
- Con cảm thấy thư thái. Không có chi khổ nhọc gay cấn, chỉ xương xẩu còn hơi mỏi
mệt máu me chút ít mà thôi. Bao giờ mẹ sẽ dẫn con và em gái về nhà? Con cũng
chưa gặp lại người chị của con.
Mẹ đáp:
- Lúc nào cũng được. Ban đầu mẹ có ý chờ con bình phục sẽ quay về. Nhưng dì của
con đêm qua lại một hai khẩn khoản yêu cầu mẹ khoan đi vội. Sáng nay đã gởi thư
cho chị con biết tin. Dì con còn một sự việc thiết tâm lắm lắm, cùng mẹ bàn bạc
qua loa. Nếu như con ở đây thấy thư thái thì mẹ cũng không có ý về nhà ngay làm
gì. Con biết rằng mẹ tuổi đã cao, cuộc đời đã xế thân thuộc sinh bình ai
ai cũng đã già hết cả rồi. Cũng chẳng còn năng lui tới thăm viếng nhau. Đâu còn
có như thời xuân xanh tới lui ngày ngày nô nức nữa? Ngày nay mẹ đưa mắt nhìn bốn
phía chỉ duy còn có chỗ dì con là nơi chốn thân mật bịch bồ, hình ảnh thong
dong tương hợp. Huống nữa dì thấy con, thì trong lòng dì vui mừng vô hạn, thì
con trọ lại đây cũng chẳng khác chi ở giữa gia đình. Mẹ biết tính tình con chỉ
mong ước cảnh u tịch, thì ở lại đây trọ căn gác này là rất thích hợp vậy. Căn
gác này vốn là khuê phòng của Tĩnh Tử. Từ ngày con tới thì Tĩnh Tử mới dọn xuống
phòng dưới, cùng với em gái của con ở chung. Tam Lang con ở lại đây, nếu thấy
không thích hợp, thì hãy nói thật tình cho mẹ rõ.
Tôi đáp;
- Con xin tuân lời mẹ dạy bảo. Phong vật nhà dì thật là tốt đẹp, ở lại một thời
gian, lòng con rất sung sướng.
Lúc bấy giờ người bếp vào cho hay rằng cơm sáng đã dọn tề chỉnh. Mẹ tôi hân
nhiên khoan khoái, bảo tôi thay y phục đặng xuống phòng điểm tâm. Theo gót mẹ
xuống tới phòng ăn, tôi thốt lời cảm tạ ôn tồn dì tôi hậu đãi ân cần chiếu cố.
Dì tôi đón tôi vào, hân hoan vạn trạng. Đưa mắt nhìn tôi mà rằng:
- Nhờ ơn Trời phật, Tam Lang đã khỏi bệnh. Tĩnh Tử con hãy lẹ chân bước tới
chào anh Tam Lang của con đi, xem sáng nay anh con cảm thấy thế nào?
Thoáng một cái, đã thấy ngọc nhân gót sen vi vút, dìu dặt bước qua như bóng nhạn
ngang trời, lướt tới bên tôi, trang trọng cung thân xá một cái, rất mực
"mái cột" môn tường phong nhã sả phạ chiêm bao.
Lúc bấy giờ ngọc nhân phong tư tài mạo vân mấn xum xuê tót vời thể thái, phong
độ càng nhìn càng siêu, càng ngó càng ưa và mến, và cũng càng như bán khai bao
hàm khôn xiết chất mối khuynh thành khiến cho bình sinh, phải chịu trận tam
sinh khuynh quốc. Hỡi ôi! Sự thể đã ra như thế nào, thiết thân láng giềng lân cận,
nửa mơ hồ bất định lưu ly, nửa một cơn lồng lộng thinh không dìu dặt cuộc phiêu
bồng lảo đảo. Làm sao tôi còn dám? Trận khôn hàn vô hạn ngẩng mặt nhìn nhau?
Nhưng chả lẽ bỏ chạy mất? Như quân cướp đi chinh phục xóm làng bỗng hãi nhiên
rút lui về sào huyệt? Vì bất thình lính cảm thấy bị vây bọc, bốn bề bị tập kích
giáp công? Dù sao thì dù, dù co giò chạy trốn, dù đứng lại đại từ bi ù lỳ ra
đó, dù sao thì dù, cũng cảm thấy ở trong mình toàn thể hình hài, xương xẩu, máu
me, xương bánh chè, xương sườn suốt dọc xương sống, cùng một loạt thi đua nhau
tam bành lảo đảo, tứ trướng gào kêu trong trận rụng rơi toàn diện. Lả tả toàn
phương, không có cách gì cưỡng áp, đành phó mặc cho danh hoàn bờ cõi thổi đợt đợt
gió về mà xô đẩy như đẩy xô quay tít những chiếc lá ngô đồng lúc thu sang trong
trận gió may heo hút. (Dư bất cảm hồi mâu chính thị, duy tâm như phiêu nhiên
phù động, như thu phong xuy lạc diệp, bất tri hà sở chỉ, bất thức hà phương
lưu, bất hội hà xứ đình, Bất nghiệp hà sở đậu) - Bản dịch Anh ngữ: "I did
not have the courage to turn my eyes to look directly at her, but my heart
fluttered aimlessly, like falling leaves wafted by autumnal winds and not
knowing wither they would land" - Tôi chẳng có can đảm đưa mắt nhìn thẳng
vào mắt nàng, nhưng mà trái tim tôi phù động phiêu nhiên bất định, giống như những
lá rơi, bị gió thu xô đẩy, và chẳng rõ sẽ rơi rụng vào nơi đâu mà cập bờ cập bến.
Anh em tôi cùng mẹ tôi cư lưu tại nhà dì tôi giữa một vùng hồng nhan thiên
hương gay cấn bốc hơi lừng tia ra như thế, quả thật chẳng khác gì đem thân thế
mà ủy thác vào Vườn Tược Nhà Trời, vào Đào Nguyên Bích Động, Thanh Ngạn Xum
Xuê, bốn bề Xiêm Nghê Thánh thót, Thần Thơ Oản Oẻn Ngây dại thêm ra.
Dì tôi vốn đã yêu tôi rất mực, tôi chỉ còn biết dâng lên một vạn cung kính một
ngàn kính cung cẩn trọng để phụng bồi a dì, a mẫu cho hân hoan sắc mà thôi, tự
thân cảm thấy từng bừng phiêu bồng thái thậm. Nếu trong lòng thảng hoặc có vướng
víu chạm phải những gì chả rõ của cái quá khứ đoạn trường về luẩn quẩn một cái
bên, thì tôi lại tựa lưng vào những gốc cây tùng cây bách, nhìn cái nước chảy
lòe xòe, hoặc cầm quyển thi thư mà giải muộn. Phòng văn Tĩnh Tử vốn chứa
nhiều sách lý học đời Tống, ngoài ra còn vài loại Phạn chương, Lư văn nữa, đã bị
con trùng sâu bọ rủ rê dán chuột gặm mòn bên những bầy mối hoen hoen. Đọc không
ra được cái nét chữ. Thảy đều là thi thư ra đường. Lại còn thêm vài bản dịch
BalaĐa và Ma Hát Thư, ấy là những thi thư thuật sự thiên trường địa hậu đậu lại
bờ hoa. Hai quyển thư này ngày nay đã thất truyền tại Trung Quốc. Duy chỉ trong
Hoa Nghiêm kinh là ngẫu nhiên có nhắc tới danh xưng hai bộ sách đó, và nghe nói
rằng ấy là do bàn tay Mã Minh Bồ Tát soạn ra. Ngày nay bản dịch Anh ngữ (của
ông Dutt) về những cuộc chinh phạt của những bộ lạc Bhrata, cũng là một phần
trong bộ sách đó.
CHƯƠNG MƯỜI HAI
Một bầy nhạn thấp thoáng bay vút ngang trời. Tiếng ve bốn bề
văng vẳng. Tôi cúi đầu đi vòng quanh vườn tược nhà dì, vòng quanh bờ đập nước,
vòng quanh những doanh mâu lang lạc, những rạng rỡ cột trụ vân thạch, và ghé tới
bên cái bờ ao lãnh nhiên liên ỷ li ti vang bóng mùa thu trước năm nào. Mùa xuân
năm nay? Nhưng mùa xuân nào như thế năm nay? Lòng mới nở giữa tay đời ấm áp?
Giường bên cửa sổ? Cây đưa mát?
Chân bước trông vời áo tiểu thơ?
Một hôm trận gió xa vời lại.
Năm ngoái năm này năm nữa ru.
(... ) I strolled about my aunt's grouds - her pavilions, garden, and the path
skirting the fishpond... Across the heavens flashed the forms of swans. Every
nook resounded with the chirping of the cicada... Wide spaces and limpid
streams greeted my eyes. I silently recalled that only this morning my mother
had said she would take my sister and me home on the following morning...
Chân cứ bước ,lòng cứ miên man trầm tư. Mắt cứ mơ hồ nhìn sóng lăn tăn trong từng
luồng thinh không dĩ thái, như phi thuyền bộc lộ trong mát lòa xòa trước nhãn
quan. Tôi lặng lẽ nhớ lại rằng sáng nay mẹ tôi có nói cho biết sáng mai mẹ sẽ dắt
hai anh em tôi về trở lại nhà. Thì như thế, vùng đất đai bạch vân hồng thụ,làm
sao chẳng có chăng niềm quyến luyến. Lòng tôi như thế nào như thế. Tôi
quyến luyến cái chi? How light her step, how slim her body was! Who would ever
think that she had seen eighteen years go by? 1 Xiết
bao nhẹ nhàng gót chân nàng bước ! Bao xiết mãi cốt cách là tấm than thể nàng mảnh
khảnh đầy đặn nở nang gầy gầy sậu cốt! Xiết bao máu me hồng thắm tịch mịch ra đời!
Ai dám bảo rằng nàng đã luống nhìn mười tám tuổi xuân trôi qua ở bên mình và mất
dạng ở tiền diện hoặc là ở sau lưng? Mất đi đâu? Giữa phong cảnh phiêu nhiên tịch
mịch . Ồ Tĩnh Tử cô nương! tại hạ nói sao về những trận chiêm bao vốn cứ câm lặng
về gùn ghè chia hai bờ cõi! Ó Tuyết Mai ngày ấy, ồ Tĩnh Tử hôm nay. Tôi mơ hồ
nhớ nhung những chân trời mù sương nào xa xôi quá. Sao cứ về giữa lầm than xứ sở
mà náo động mãi như thế ngày đêm? Những cụm sơn lê, những ngành du thụ. Những
sinh lục.Những đường quỳ. Chùm thạch thảo nào cô nương đã hái. Đóa tường vi nào
tại hạ đã bảo " em nhớ cho". Mùa thu đã chết rồi. hay là mùa Xuân Hồi
Sinh đang trỗi dậy. Chân nào bước lên đồi. Gót nào đi xuống biển. Hình hài nào
từ huyễn ngạn lẽo đẽo gạ gẫm hoài với mộng mỵ chiêm bao. Về châu quận quê hương
nào của tôi như thế?
I had been thinhking more about it than I knew. The grey ivied house with the
stretch of oak woods about it. The great lake that could be so clear that, the
fishermen claimed. You could see the Danaan cities flooded over from China and
Russia to take possession of the fair land... Pyramids and spireis you could
see there, if you had the sight, as the people said, and great forts. And on
the shores were oak woods, and apples orchards, and bleaching greens, and
fishermen going out after the pollan. The freshwater herrings, when sunset
came. The long lines of rooks homing to the oak woods. In winter the snipe
rising with their soft whine from the bogs, and under the fullness of the moon
and ga white frost, the whistle of the wild swan, the honk of the wild geese.
Sometimes at night there was a miracle under the full moon, when a white cloud
came driving westward from the far Pacific towards the waters of the Yang Tse
Kiang, the shimmering white arch of the moonbow rose the haunted waters.
Tôi đã tư lự về mù sương tỳ hải châu quận chiêm bao kia nhiều hơn như tôi tưởng.
Những ngôi nhà kỳ ảo mốc meo xám xanh lơ xanh lục, in rêu ngầm lún phún, thường
xuân đằng kiều diễm, bạch anh dàn lưu ly, với những dằng dặc dãy rừng phong
liên miên tượng liên miên tượng thụ, vấn vít bốn bề ba phía bốn xung quanh. Mặt
ngọc hồ nguy nga nào tinh khiết thế, cho đến nỗi những ngư ông ngư phủ đã thơ
ngây báo biểu rất mực rằng, nhìn đăm đăm vào ắt các anh sẽ thấy có những Đô Thị
Phiêu Bồng Huyền Thuyết Cổ Hy vụt nhô lên bất chợt bởi thần thuật Đa Na Ó kỳ
bí, ở diện tiền bọn người hì hục lao công, hồ ngọc ôi, ngươi quyến rũ dã man gì
thế, khiến hằng hằng mỗi mỗi cường quốc nọ cứ lăm le muốn chiếm hữu đất đai xứ
sở kia cho bằng được. Kim tự tháp và những chop nhấp nhô tiêm đỉnh, thảy thảy đều
lộ diện ra đó kia, nếu như bạn có rất mực cái mắt nhìn của làn lục my thanh
nhãn, nói theo ngôn ngữ của ngạn ngữ thói thường: Và ôi những thành trì, những
thiết bảo! Ói những hào lũy những mê cung. Và dọc mép hải tân diên tần hải thúy
của kim hải chon von,còn tròn xoe rừng phong tượng thụ, tụ thượng thù du trùng
dương tiết, thạch lựu hoa lòa xòa đi với những vườn tược lê táo đâm bong chất
chồng chen lấn và những nõn nà xum xuê thanh lục tuyết bạch phiêu nhiên phiền
sương phương trượng cờ phướn tử trúc lâm, cung cầm ba la mật. Và những ngư phủ
phiêu bồng lật đật xô ghe ra vạn lý viễn khơi, chạy theo đuôi con kình ngư, con
cá mộng, con cua đỏ, con hồng tôm, con thanh ngư, con thúy lục, con hồng vàng tụ
từ thạch thượng tam sinh, lúc bình minh trở cơn chiều cho hoàng hôn xuống bong.
Lúc sơ đầu cổ độ ngong ngóng vọng theo làn nước chảy xuôi. Ói những hàng liền
cánh tỵ dực ô nha từng loạt tung bay về tổ tại liên tồn thường trụ trong rừng
tía hột sát na chan hòa khuynh thành một thuở kim cương. Ói vong hồn sơ khai ba
la mật. Bật là mà? Bà là thế như nhiên như vậy chứ?Những con sa điêu, những con
thạch điểu những mùa đông vụt cánh tung lên trời từ hồ nước lạnh giữa lách lau
lá hoa cồn lạnh lẽo tê cóng mong gì bốc hơi thiên hương ra được nữa. Vụt cánh
tung lên? Với tiếng kêu rè rè trong âm thanh sầu muộn. Và dưới tuần trăng viên
mãn nguyệt nguy nga và tuyết băng bạch ngọc, sương giá mơ hồ, con hồng nhạn
huýt một thanh âm, con thiên nga bvèo một điệu đáp, con vịt trời vút một tiếng
tương ứng long lanh. Thì hỡi ôi! Thinh không bỗng nhiên dâng hết vong hồn về
cho Thái Hư trong từng Sát Na Tinh Thể. Đôi phen trong tĩnh dạ, chợt xảy ra một
trận huyền nhiệm lãng tinh dưới một vùng của yên hoa nhị nguyệt, lúc một ánh bạch
vân phù động lướt qua bay về phía trời tây, khởi từ viễn khơi Thái Bình Dương
thúy lục tới con nước tại giang đầu dương liễu Dương Tử Giang... Thì cái cung
vàng lấp lánh trắng bạch ngọc băng của thềm cung ngọc thỏ bỗng nhô lên lồng lộng
trên mặt nước lởn vởn những oan hồn về đù đỡn cuộc dã man.
Hỡi ôi!
Lời tối hậu! Ý tuyệt trù
Bỗng dưng chắp nối cho sầu ma hoang
Lời thăm thẳm? Ý khôn hàn
Vì đâu riêng tụ về hàng thơ điên.
Bán khai nhân vật diện tiền
Sương lung bán ẩn suốt miền cảo thơm.
Chiều chiều chân mật vi hôn
U nùng hậu diện linh hồn chẩm ma?
Diễm kiều ghé lại mà ra
Dặn dò
Dưới nguyệt
Hay là dưới sương?
This region of white clouds and red-blosso med trees could not but make my
heart wish to linger longer. Anon a wistling wind struck my ears, and looking
up into the sky I saw only the old leaves fluttering downwards from their
branches. My heart felt rather startled with the realization that clear skied
autumn had almost hone; and without knowing it my heart became filled with
uneasiness as if were harboring heavy sorrows. My mother was attending to the
baggage at this time.
Chốn dất đai vùng này với những bạch vân hồng thụ ấy há sao chẳng nhẽ chỉ càng
khiến long tôi dung dằng quyến luyến, chần chừ, chưa nỡ giũ áo ra đi. Chợt
nghe thoảng một ngọn gió vi vu bên tai, tôi ngẩng mặt nhìn lên trời, chỉ thấy
những lá úa lìa cành, vì vèo rụng xuống. Trong long chợt tủng nhiên sực nhớ ra
rằng mùa thi thanh thúy đã hầu tàn. Chẳng rõ vì sao,chẳng biết đâu chăng nhẽ,
lòng tôi bỗng thấy u hoài bang bạc mang nhiên, như mang chứa những sầu muộn nào
chồng chất. Nghĩ rằng mẹ tôi lúc bấy giờ đã xếp đặt xong xuôi hành trang ly biệt.
Chợt vẳng nghe từ cõi nào xa xuôi vô hạn, một âm thanh tin yêu đằm thắm của một
thời đại huy hoàng nào về hẹn mai hậu mai sau trong một lời ban sơ ướm thử... -
"Then as soon as you appear I shall have you sworn as a Pursuivant of the
Great Seal, or as they call it, one of the King's Chief Messengers. That is the
best thing for you. And now, thank you for your coming. To- night I drive to
Mnemosyne's Land... "
"Rồi chừng đó, chàng vừa hiện, thì tôi ắt sẽ yêu cầu chàng tuyên thệ rằng
mình là như một... một Kẻ Thị Tòng của Thượng Thừa Quốc Tỷ, hoặc như thói thường
thiên hạ nói: Một trong những Sứ Giả Thượng Thặng của Ngọc Hoàng từ Thanh Cấm
Nguyệt về hồ sơn ứng mộng Vũ Lâm Xuân. Đó là sự vụ tót vời đẹp đẽ cho anh. Và
giờ đây, xin cảm tạ anh đã về một lần hội ngộ. Đêm nay tôi sẽ giông xe giá ngự
về Miền Cõi Mnemosyne,".
Còn tôi? Tôi bây giờ? Thật ra tôi nghĩ tới cuộc lui về bên hiên " Thoái
Nhàn" để gặp lại đứa em gái. Tôi cử bộ nhi hành. Một hai... Một... hai...
bước tới chỗ thạch lan kiều thượng, chợt nghe tiếng vỗ phần phật của một loại
thạch tựu trường quần duệ địa đa mang.
Trong khoảnh khắc khôn hàn sát na gay cấn, hương phong tứ dật, quốc độ mười
phương vân yên phức úc hỡi ôi!.
Em nói anh nghe tiếng lẫn lời
Hồn em thở ở trong hơi
Miệng cười bừng nở hàm răng lựu.
Sáng cả mười phương một góc trời
In a short time sweet odors saturated the air about me. And I suddenly saw the
lovely girl, charmingly attired, and advancing with airy steps as if wafted
hither on a breeze.
Em đi về như mây núi đầu xuân
Gió bay qua nước chảy suối vô cùng
Mừng như thể hôm qua về đồng nội
Buồn bã cũ đã bẽ bàng bước vội
Để bây giờ còn một mối riêng tây
Lời nhân gian không tiếng để phơi bày
Kim cương mộng như trăng mờ bát nhã
Mưa thúc giục như bình minh vội vã
Vào nhớ nhung như vào giữa hội hoa
Lá xanh xao như cành nhánh gật gà
Và thánh thót đến cây già tùng bách
Anh lại thấy một trời xưa đã mất
Đã đi về cùng với gót chân em
Đã đi qua cùng với cánh tay mềm
Anh mở miệng không nói lời nào cả
Vì bất chợt thấy môi cười em ạ
Vì vui mừng xa lạ bỗng quen nhau
Vì vu vơ vui sướng gió pha màu
Cây in cỏ nước cợt cồn rỡn cát
Và vạn vật rủ rê nhau bát ngát
Dàn mênh mông mây bủa gió xa bay
Em đến bên anh ghé sát mi mày
Và cũng sát cả mày mi ghé sát
Anh tự hỏi phong thu lác đác
Hay thu rừng phong lổ đổ sương thâu
Rừng thiên ôi vạn đại chớ pha màu
Nhiều như thế cho ngưòi thêm khổ nhọc
Con kim báo một phen vì cô độc
Đã nhe răng và mỉm miệng cười thầm
Trong mộng ước một phen nào bắt gặp
Hồn tủy xương sư tử đủ hai lần...
She was several paces from me when she turned her eyes in my direction and,
with languid leisure, exchanged glances with me.
"Đản kiến ngọc nhân thu trang, thiên nhiên phiêu cử nhi lai, khứ dư cẩn sổ
vũ. Nhứt hồi thanh phán, từ từ dự ngã mâu tương chúc hỷ... Dư tức túc nhiên cúc
cung chí kính... "
Chợt thấy ngọc nhân Tĩnh Tử Thu Trang, xiêu xiêu lệch lệch, phơ phất tới bên, đạo
hạnh luống dường Như Lai Bồ Tát. A nậu đa la tam niệu tam bồ đề, cùng tôi cách
nhau khoảng chừng mấy chục bước rưỡi. Chợt quay mắt xanh, nhìn tôi một cái. Chậm
rãi thong dong, rã rượi khôn hàn, đầu mày cuối mắt, bãi động tương thân. Tôi định
tới gần, bỗng dưng dừng lại. Cung cung kính kính, xá một lễ dài. Đếm một ra
hai. Tồn liên lá cỏ. Lá cồn rạng tỏ. Sương liễu đằm đìa. Là sớm hay khuya. Hay
là lúc đó. Là về giữa ngọ. Hoặc giữa bình minh. Gay cấn tự tình. Như chiêm bao
đứt nối. Chắp lại làm sao. Giậu rào ôi hỡi! Có nghe cây thổi. Trúc gió thế nào?
Nữ lang hồng đào. Hay là hồng lựu. Thạch lựu tường quần. Bồ quân bánh mật. Ngà
ngọc quân thiên. Diện tiền Nam Diện...
Vâng. Vâng. Mặc dù ngọc diện lúc bấy giờ có đỏ ửng vì ngại ngùng sương ngại
ngùng gió giở ý rụt rè. Nhưng mà tôi có sàm sỡ dòm tận mặt đâu, nên nường cũng
không đến nỗi lo âu mà cúi mặt.
- Although the dainty girl's cheeks were flushed on this occasion, she did not
appear to be so bashful as she had been on the previous occasion when she felt
so shy that she did not know what to do.
Mặc dầu má hồng e ấp cũng có ửng đỏ lên chút ít trong cái cơ hội gay cấn khôn
hàn nọ, nhưng dù sao nường cũng không có vẻ quá thẹn thuồng như ban sơ buổi mới,
đến nổi cảm thấy lóng cóng luống cuống cả tứ chi, không còn biết mở miệng ăn mần
răng nói mần răng với máu me ở trong mình mẩy rục rịch dập dồn.
At a glance I perceived that she desired to speak but said no thing.
Dư thiểu chúc, giác ngọc nhân tợ dục ngôn nhi vị ngôn"
Tôi nhìn thoáng qua, biết rằng người ngọc dường muốn mở miệng nói điều gì,
nhưng ngại ngần chưa nói (chẳng nói gì cả).
Tôi càng bối rối luýnh quýnh khôn hàn trong cái cơn dẽ giun tao phùng cầy sấy
kia đó ạ. Ói em Kim Cương ngàn thu một thuở, Nương Tử rất mực vô ngần Nam Diện
cành Nam màu lan sơn thủy sơ khai tại sơ đầu cổ độ, cổ mở ra hoa đà đún đẩy, sơ
hở một đôi phen lăng tằng phôi dựng rất mực, một ù lỳ, hai sàm sỡ, ba bốn dục
trích sàm diên bên phi tuyền xuất sơn vẫn muôn vàn thanh thúy thẩm thúy hằng miền
cõi một Đa Mang.
My embarrassment increased at an alarming rate. I drew back not knowing what to
do. I could only lower my head and gaze at the ground.
Tôi bối rối một cơn rối bối đến cái độ hãi hung hãi sợ nhiên là khiếp đảm tán
phách phi hồn, đảo tứ điên tam đa tàm nhị bội. Tôi vụt nhảy lùi ra sau một bước
rưỡi chẳng cón biết ăn mần răng nói mần răng vào cái lúc đó bấy giờ. Tôi chỉ
còn biết cúi gầm cái đầu bù tóc rối của tôi xuống, nhìn chi trên đất nhạt cỏ mọc
tùm lum liên tồn lá cỏ?
Sau một lúc lâu, thật là lâu liên tồn rất mực, chợt trên đóa tàn cúc một vật gì
lấp lánh trước mặt tôi, phiêu phiêu phiêu nhiên như phấn điệp, lửng lơ phù động
sắp vụt bay đi. Bay đi đâu mà dung dằng nửa đậu nửa đi như thế? Hỡi linh hồn
tinh thể mù sương! Tôi vội vã tiến bước tới đưa tay bắt lấy. Mới hay rằng đó là
tấm màn lụa long lanh như cánh ve mùa thu động đậy, vốn ban sơ nằm ở trên đầu
tóc của ngọc nhân, rồi sau đó ngẫu nhiên chẳng rõ vì cớ chi mà lập lòe bay vút.
Vừa cầm vào trong tay, đã vừa có ý muốn quẳng nó ra xa. Lại nghĩ rằng làm như rứa
e đắc tội với lễ tiết trung dung. Tức thì tôi ngẩn ngơ một cái. Đưa tay ra toan
đặt tấm lụa vào năm ngón ngọc nhân.Ngọc nhân tri ngộ sự tình, tức thì thể thái
thong dong, thần hồn chậm rãi, bèn đưa hai vòng tay ngọc ra tiếp đón lấy tấm lụa
ngà.
Đem đôi vành tuệ mục thanh nhãn đều đặn song đôi, mắt bồ câu tròn xoe lóng lánh
ra nhìn tôi hội ý, phát kiều nhu thanh tức thỏ thẻ mà rằng:
- Đa tạ Tam Lang đại ân đại đức từ bi vô lượng biến bố khắp mặt chúng sinh mười
phương quốc độ. Không có tam Lang rat ay tế độ, thì vong hồn tinh thể tiểu muội
e đã đi đời cửa quỷ nhà ma.
Môi đào thỏ thẻ hé ra nói mấy mời từ bi như thế, lập thời tôi nhận ra tỷ mỷ rằng
đó là lần ban sơ duy nhất của ngọc nhân ngẫu nhiên từ bi mở môi đào ra lần
đầu tiên ôn tồn thỏ thẻ. Hai vành tịch hạp rất mực anh đào,kể từ đó về sau liên
tồn tiếp tục mà mọc cỏ trổ bong hoa. Ban sơ trổ he hé hàm tiếu vén xiêm. Dần dà
trổ rộng thong dong thoải mái theo du trường tuế nguyệt. Từ đó tôi tự niệm đậm
đà giữa cuộc ở trong cơn mà thể hội thường hằng nơi chốn cư lưu của từ bi một
vùng đeo đai Thanh Cấm Nguyệt. Nữ Lang Nương Tử đã đi về gieo rắc hồng ân chan
rưới xuống khắp hình hài thân thể máu me xương xẩu tôi.
Tuy nhiên?
Tuy nhiên trong ban sơ lạ lùng buổi mới đó, với cái ân huệ di dư thành khẩn khoản
đãi kia, cũng đồng thời khiến cho tâm khảm là đà lay lắt của trái tim tôi càng
keo sơn sắc mắc se sắt dị thường cơn rục rịch, và chẳng biết phải thốt ra cái lời
gì tương nghi tương hợp với linh hồn mồn một chan rưới hồng huệ xuống cho tôi để
có thể gọi là đền bồi một cách thích đương hoặc là thích đáng.
Chợt thấy má lúm đồng tiền của thiêng liêng tiên tử ấy mà ngẫu nhiên mà động đậy
đầy đủ bốn nhịp liên tồn bốn lần cơn rục rịch.
If Shappho were to come to life again, she would not possess such artless
beauty.
Giả như mà Shappho trùng sinh trên tam sinh thạch thượng, ắt là nường cũng hẳn
nhiên không thể nào có được hoặc sở hữu được cái dung nghi kiều lệ thơ ngây thuần
phác thiên nhiên nọ. Hỡi ôi!Bình sinh tôi đã chết, tại hạ đã ra ma hai phen rồi,
sao lần này còn đeo đai định chết lịm trong trận trầm túy nịch nhân kia cho đủ
bốn lần bấn loạn, thế là nghĩa lý gì như vậy đó chăng ru?
This moment was enough to derisive one out of his senses.
Khoảnh khắc sát na thiểm động bôn đằng kia đã đủ để nhiếp dẫn con người tar a
khỏi vòng của linh hồn thong tuệ để nhập vào cõi hồn xiêu phách lạc đảo tứ điên
tam. Sao gọi là tam? - Tam sư muội ấy là tam? Tam chanh tam quit, tam cam cõi
lòng? Không biết. Không biết. Không biết. Thưa rằng tại hạ không dám biết. Dẫu
rằng chiêm bao lẽo đẽo biết có dám lắm chẳng nhe?
The lovely one inclined her head to one side for a time, and let out soft,
gentle mysterious murmurs.
Đúng là biết ra như thế đó. "Ngọc nhân tầm phục phủ kỳ cảnh, thổ uyển
diệu chi âm... ". Người ngọc nghiêng nghiêng cổ ngà về một phía, ôn tồn uyển
chuyển thỏ thẻ lời huyền diệu rất mực của âm thanh... "vi vi ngôn viết" rất
mực mà rằng;
- Tam Lang mấy ngày rày có khỏe chăng? Chốn Đậu Tử khí hậu ôn hòa, em thật lòng
tơ tưởng tới viếng thăm phong cảnh ấy, phụng yết anh hoa phong vận phát tiết
bao giờ, nhưng mẹ ở nhà công việc bề bộn quá, em chỉ sợ năm nay chưa thể trừu
thân đột xuất phụng bồi lưỡng nghi tịch hạp. Vùng đất đai này so với miền Đậu Tử
kia ắt nhiên cũng một thể thái thanh nghiêm u nhã thúy triệt một như nhiên mà
thôi môi thà ra cũng thế vậy. Duy có khí hậu là khác nhau thôi. Một bên cứng, một
bên mềm vậy. Ấy bởi vì mềm này ở tại ở trung tâm núi non cấm địa vậy. (the
clear atmosphere and quiet of this place, compare with that of Hakone, is the
same; but the climate is altogether different, for Hakone is in the heart of
the mountain).
Đường nhân vịnh La Phù thi vân:
"Du nhân mạc chước đơn y khứ
Lục nguyệt phi vân đái tuyết hàn".
Người đời Đường vịnh núi La Phù có thơ rằng:
"Khách đi, áo mỏng mặc vào
Liệu chừng chớ thế mà hao tổn mình
Mây bay tháng sáu rập rình
Mang về gió tuyết biên đình lạnh ghê".
(The Tang poets wrote of Mt. Lo-Fu, saying:
"Excursioners should not wear light clothes to this spot; the flying
clouds of the sixth moon carry the chilliness of snow."... )
"Miêu cương mạc ngoại sở tề
Song đôi là thói đề huề thể thân
Xin người anh hãy lại gần
Tiền trình vạn lý vô ngần có em"
"Ngô tư thử ngữ di dụng ư thử, phạ giác thân thiết hữu vị. Vị tri Tam Lang
dĩ ngô ngôn hữu đương bất?" - Em suy gẫm cái lời kia đem dịch di sử dụng
vào cuộc này, coi chừng như có phần thân thiết mùi hương đậm đà ý vị. Chẳng biết
anh Tam Lang xét lời em có thích đương hay chăng?
When I heard the lovelyone's allusion, I felt strangely startled, and merely
muttered to myself, for I was unable to frame an answer.
Nghe ngọc nhân âm thầm chỉ định ôn tồn ra như thế, lòng tôi liên tồn kỳ lạ kinh
hãi, máu me nổi da gà ra ngoài da vịt. Chỉ còn biết ấm ớ dấm dớ lời không thốt
ra ngoài môi đáp ứng gì được cả. Lâu một chặp sau đó (sau đó một chặp), tuy
nhiên tôi vẫn cung kính nói được ra cái lời:
- Đa tạ cô nương phân thần cập ngã. Cô nương rộng lượng từ bi ra như thế chan
rưới mưa móc liên tồn cho tại hạ, mà cam lòng chiếu cố một phen luống những tới
hàn gia hàn xá ở mé tây thiên, thì than ôi, để cho tại hạ được có phen sớm hôm
phụng bồi tả hữu phía trước và ngay cả phía sau, những lần bận bận phen phen
nào chúng ta tạm mở cuộc với nam hải điều đồ mà thùy luân ư hoang thôn hàn dũ.
Vạn hạnh thay vậy! Thiên phước vậy thay! Phước hạnh thay vậy. Hạnh hà như chi!
Chi như hà hành?
Hỡi ôi! rất mực hạnh hà!
Đến điều tinh thể sao là bỗng dưng.
Canh rau muống đĩa muối vừng
Một hôm nằm mộng nghe mừng hai hôm
Chiêm bao phố thị hội đàm
Với trăng châu thổ gái chàm đã qua
Xứ chiêm thừa thãi giang hà
Dư vang để lại cho nhà cửa xin
Dâng lời vô hạn oan khiên
Lời điên tiếng dại câu chìm lặng câu
Dập dìu thiên nữ hồi mâu
Há rằng hư sự sơ đầu tiểu khê
Thế ru? Là rứa chẳng nhe?
Ấy rằng các hạ có dè cho chăng
Đến điều rất mực lăng tằng
Mephistopheles hằng dửng dưng
Hà tư hà lự luống từng
Hà thanh hà lục vang lừng van xin
- I thank my sister for wasting her thoughts ang vitality upon me. If my sister
should condescend to come to my humble abode (hàn xá) what greater for tune
could her young brother desire than to wait on her day and night while dropping
our fishing lines from the wall windows of remote village...
- "Tạ a tỷ phân thần cập ngã! Quả a tỷ kiến uổng hàn xá, tỷ trĩ đệ triêu tịch
đắc thị tả hữu, thùy luân ư hoang thôn hàn dũ, hạnh hà như chi! Phủ tắc hàn xá
đông tây thi tập bất thiểu, diệc khả khiêu đăng phi tuyển; a tỷ đắc vô hiềm
nhuyến trần hỗn nhân? Cảm vấn a tỷ hỷ tụng thùy gia thi cú da?"
Nếu như a tỷ chẳng muốn cùng tại hạ mở cuộc chơi câu cá mò cua, thì ắt nhiên rằng
là tại hàn gia cũng có khá nhiều không ít những thi tập Đông Tây văn
chương Trung Hoa Ân Mỹ. Thì a tỷ cũng có tể thong dong thắp đèn khêu ngọn mà
châm mồi lần giở cảo thơm ra. A tỷ nếu như chẳng hiềm ố kẻ phàm phu tục tử? Thì
dám xin hỏi a tỷ thích đọc tụng thi văn của trung thi văn của trung niên thi sĩ
nào?
Ngọc nhân đê đầu ngưng tư, tuyền tức tinh mâu chúc ngã... Người ngọc cuối
đầu trầm tư xong quay đôi con mắt lãng tinh nhìn tôi mỉm cười mà rằng:
- Trước nay em vốn thường đọc thơ của Bùi tiền bối Trần Hậu Sơn, và cũng yêu
chuộng thơ của Bùi hậu bối Lục Phóng Óng. Duy chỉ có điều ấy là có những phong
vận xa xôi đau đớn của cố quốc cố hương, lệ ngấn đầy trang giấy, khiến lòng kẻ
đọc bi thiết quá chứng. Rồi sau này em cũng có đọc Trang Tử và thi ca Đào Uyên
Minh, thì cũng có được thường dương thế ngoại mà dìu dắt tiêu dao du chút ít
chút nhiều, cũng có thể nhận ra rằng sách vở tư tưởng kia có quan hệ với tính
tình con người ta chẳng phải là ít. Tam Lang có xét thấy cái rương đựng sách của
em có chứa nhiều tác phẩm triết lý, sách đó đều là của bậc di thần triều Minh
Gia Tĩnh là Chu Thuấn Thủy tiên sinh đã di tặng cho vị viễn tổ của em là ông An
Tích Công. Nhân vì An Tích Công (Óng Tích Can, thuở bấy giờ tham sự chính
sự Đức Châu, đem lễ nghĩa đệ tử mà đối đãi với Chu Công (coi Chu Công như là sư
phụ của mình) nhân vì thế mà gia đình em được thừa thụ ân tứ của Chu Công
vậy. Gia đình em cất giữ những sách vở đó kể ra đã có tới hơn hai trăm ba mươi
năm trời rồi.
Nàng thốt xong câu đó tôi kinh ngạc trố mắt nhìn đăm đăm. Ói con người ngọc.
Ói ngà ngọc con người! Phong vận tiêu dao, nền phú hậu bậc tài danh ra như thế!
Người ngọc nói tiếp mà rằng:
- Thuở em còn nhỏ nghe ba em nói về di sự Chu Công, cho tới ngày nay, em còn nhớ
rõ mồn một. em này đem thuật lại cho anh Tam Lang nghe.
Hỡi ôi người ngọc!
Em nay đem ra thuật lại cho anh nghe? Để làm chi như thế? Để làm thế như chi.
Như chi thế để làm? Làm thế để như chi? Hỡi ôi! Em lầm lẫn mất rồi hỡi em người
ngọc ạ! Anh có đáng vào đâu mà được nghe cái lời em nay đem ra thuật lại về cái
sự tích phong vận kia?
Vĩnh biệt thôi! Hỡi vô ngần nương tử.
Từng cơn mơ anh kinh hoàng dị thường
Em thì đẹp thanh tao cổ nguyệt tự,
Anh quyền gì gạ gẫm chuyện uyên ương
Anh đánh mất suốt càn khôn vũ trụ
Em để dành đầy đủ trụ càn khôn
Anh điên dại chiu vào không chỗ rúc
Em lầm sao! Mà hạ tứ liên tồn
Lần hạ tứ đắp xây trên lầm lẫn,
Đi đi em, đừng đứng đó đa mang
Trong mộng ước nhiều phen anh lẩn thẩn
Sịch mành ra ôi đã lỗi muôn vàn
Đầu tóc rụng bốc tia sơ đầu dậy
Gọi sơ nguyên về hiện tại điêu tàn
Tóc đầu rụng bốc hơi buồn lẩy bẩy
Phận giẻ giun ôi cầy sấy khôn hàn!
Trong khi tôi đờ đẫn co ro lẩm nhẩm nhậm gấm cái kinh hồn tư lự oan nghiệt của
mình ra như thế, thì người ngọc đã thở một hơi dài ảo não, bi thiết mà rằng:
- Năm Sùng Trinh thứ mười bảy (tức là vào thở trong nước em Chính Bảo nguyên
niên), lúc rợ Hồ ùn ùn nổi lên đánh phá, thì Chu Công thân một mình bôn bá đáp
thuyền qua Trường Trĩ (Nagasaki) muốn chiêu tạp binh đeo đuổi cứu cánh phò vua
giúp nước. Nhưng rốt cuộc chẳng thành. Chí nguyện tiêu ma. Đến thuở Vạn Trị tam
niên, thì xã tắc nhà Minh nghiêng ngửa. chu Công làm kẻ di dân của vong quốc, cảm
thấy xấu hổ không thể ăn hột thóc nhị triều, nên đành cam lưu trụ Trường Trĩ,
vì chốn đó ở tiếp giáp với miền Bình Hộ (Hirato) là nơi chon nhau cắt rốn của
Trịnh Thành Công. Về sau, Đức Xuyên (Tokugawa) nghe tin , bèn phái Thủy Hộ
nho thần đem lễ vật tới mời về giữ chức tân sư (khách thầy). Cảm niềm yti ngộ,
Chu Công bèn đem học thuyết Vương Dương Minh mà truyền dạy trong xứ sở em. Chu
Công và Vương Dương Minh vốn là bạn đồng châu, sinh cùng làng. Cho tới
ngày nay, Chu Công di mộ vẫn còn tồn tại ở Thứ Thành huyện, Cửu Từ quận trên
núi Quận Thuyên Long (Mt.Dzuiryu, Ibaraki Judji). Một ngày nào thong dong thư
thả, em sẽ dẫn đường anh Tam Lang tới tế một bậc hiền triết kia, gọi là an ủi
cái vong hồn trung quân thời vong quốc, Tam Lang đồng ý chăng? Em cũng
còn nghe thêm rằng Chu Công vốn yêu quý hao anh đào, nay tại vườn Hậu Lạc Viên ở
Tiểu Thạch Xuyên, Giang Hộ (Koishikawa, Yelo), vẫn còn lưu lại niềm di ái của
Chu Công tự tay trồng trọt và vun quén ngày tháng. Chu Công lìa đời vào năm thứ
hai triều Thiên Hòa (Tenwa), hưởng thọ tám mươi ba tuổi.
Chu Công khinh bỉ nhà Thanh, ghét như cừu thú.Bình nhựt ông học tiếng Nhật Bổn,
sau rất thông thạo, sử dụng thật linh hoạt. Nhưng vào lúc lâm chung, mọi
lời Chu Công thốt ra là Hán ngữ. Vì lẽ đó nên không một ai nghe những lời thùy
huấn của ngài trước khi vĩnh biệt trần gian. Thật là điều đau xót vậy.
Nàng nói xong, ngẩng mặt lên trời than một tiếng. Lòng tôi cũng buồn vô hạn.
Hai đứa đứng im lìm một chặp (mặp chột). Chỉ nghe tiếng gió thổi hiu hắt, chợt
một chiếc lá hồng rơi xuống nằm lại trên vai nàng (vang nài). Nàng nhíu hai
hàng long mày (lay mồng) một cái, tợ hồ như có điều chi không mãn nguyện. Rồi
nàng cúi đầu thấp giọng mà rằng:
- Tam Lang, sáng mai đi sao? Sao không ở lại thêm nữa? Em từ ngày cha mất, bỏ
bê học hành đã lâu, Tam Lang ở lại, thì em có thể nhờ anh giảng giải giúp những
chỗ khó khăn liên tồn gay cấn trên trong sách. Tam Lang nếu không xem khinh bọn
nhi nữ chúng em, thì dẫu tuy em điêu linh, lòng cũng thỏa mãn.
Nghe nàng nói chưa dứt câu, mặt mày tôi đã nóng ran, đỏ tới mép tai. Cúi gầm
cái đầu xuống. Muốn bày tỏ một vài lời thành khẩn mà tìm không ra lời nào cả. Một
chặp lâu sau mới ấp úng mà bảo rằng:
- Mẹ tôi bảo ngày mai phải về. A tỷ thân thiết nói như thế, tôi rất cảm kích.
Lúc bấy giờ em gái tôi bỗng hiện ra tại hành lang. Vừa bước tới vừa gọi:
- A tỷ không thấy rằng em đã vận áo kép rồi sao? Cơm chiều đã sắp dọn sẵn.
Sao chị chưa về phòng ăn?
Tĩnh Tử nhường lối cho tôi đi trước, rồi theo gót tôi vào nhà. Buổi ăn tối đầy
rẫy món ngon vật lạ, nhưng tôi mơ mơ hồ hồ linh hồn chẳng biêt mùi vị ra sao.
Ăn xong, tôi ủ rũ ngồi ngoài mái hiên lầu gác, suy gẫm hoang mang về cái bữa
nói chuyện hôm nay, lần đầu tiên nhìn thấy cái ngọc nhân thiên chân trình lộ...
chẳng những nhan sắc phi phàm mà tâm hồn và học vấn cũng sâu thẳm xuất chúng.
Thì cho dẫu là Ó Xá Tiên Tử giám thủ thiên môn cũng chưa dễ dàng mà hơn được
nàng mấy chút.
Tư lự như thế, chợt ngẩng đầu thấy vầng trăng lòa xòa mọc ra ở giữa trời
cùng với vài ngôi sao xum xuê thưa thớt. Khe khẽ ngâm một vần thơ của Ức
Óng:
"Thiên nham vạn hác vô nhân tích
Độc tự phi hành minh nguyệt trung"
(There is no trace of man among the thousand peaks and ten thousand valleys. I
fly about alone in the bright light of the moon... )
Càn khôn không dấu tích người.
Ngàn tầm vạn cốc một trời mênh mông.
Phiêu phiêu dưới nguyệt dậy lừng.
Một thân vu vút ngàn tràng hoang liêu.
Bỗng dưng những sương tuyết phiêu bồng từ vạn đại kiếp nào chợt hiện về lù
lù khắp mặt. Tôi bỗng nhiên hoài niệm một hình bóng lang thang nào của một thằng
bé mồ côi đi lạc đường. Nó đã chết một phen. Rồi sống lại? Rồi chết trở lại?
Cái lần tối hậu sinh nó ra như thế nào. Ói tuyết giá ngàn xưa. Thật các ngươi
có còn nhớ ra như thế với ta chăng? Chợt nhớ tới bài thơ của thi sĩ Tây phưong
nào quên mất tên như thế?
The snow came down like stars tonight.
Over the city silently.
The air, like and great glittering tree,
Bloomed noiselessly with light,
Đêm nay tuyết xuống như sao
Trên thành phố lặng âm hao không lời
Thiên không lấp lánh rạng ngời
Một vùng như thể cành giao cây quỳnh
I thought, it is the snow I see
Like stars. And it was long ago
That ever I saw the stars like snow.
Lòng suy gẫm, tuyết băng tôi thấy
Giống ngàn sao lấp láy suốt trời
Đã bao xa đã bao giờ
Ngàn sao tôi ngó mà ngờ tuyết sương...
And I thought of a boy, along time dead,
Who dreamed such beauty out of pain
That music moved within his brain
And the stars stormed about his head
Và tôi nghĩ tới một đứa bé kia từ lâu rồi đã chết.
Đứa bé kia từng đã mộng chơi vơi
Những kiều diễm khôn hàn từ đau xót
Đẹp vô ngần như nhạc trổ lừng xoang
Trong tâm não muôn vàn phù động ấy
Và ngàn sao vi vút bủa vây hàng...
His ghost is like the wind, I said,
That cries into the crystal gloom
And wanders where the white clouds blow.
Hình ma ấy cũng như là gió
Gào kêu trong hắc ám lộng pha lê
Và trôi dạt lang thang theo bốn ngõ
Bạch vân dàn vi vút khắp sơn khê
And I shall hear his song, I know
Wherever the boughs of silence bloom
With snow like stars or stars like snow
Và tôi nghe những lời ca ngâm ấy
Của bé con, tôi biết thế, khắp nơi nào
Mà cành nhánh của tịch liêu trổ lá
Trổ hoa tràn, với tuyết bạch như sao
Trổ hoa lá của hoang liêu tĩnh dạ
Như ngàn sao giống sương tuyết đêm nào
Tôi lại lẩm nhẩm lời thơ Ức Óng:
"Thiên nham vạn hác vô nhân tích
Độc tự phi hành minh nguyệt trung"
Lòng như trải rộng ra khắp không gian. Nhìn trăng trầm tư mãi thật lâu, quay lại
thấy ngọn đèn tim bậc tuột. Đèn tàn bấc lụi. Thế ra đã khuya lắm. Bèn cởi áo ra
chui vào giường nằm ngủ.
Lại thở dài lẩm nhẩm "Đêm nay trăng hoa như nước. Nước như trăng sương. Biết
đâu ngày mai mây gió u ám lại chẳng kéo ùa về?"
Tôi lưởng vưởng bê tha như thế chợt nghe ẩn ẩn tiếng sấm vang, dường như phát từ
bờ ao phù dung ngoài lia. Lòng tôi đã bê tha, nhân thế mà ngày càng thêm bê bối
lai rai dây dưa dằng dai không dứt. Lại thở than mà rằng:
- Mây ôi, sấm ôi, sét ôi, mưa ôi, tuyết ôi, bao mhiêu thứ ôi chẳng qua chỉ tật
là ôi một. Bất quá chỉ vì nhiệt độ khác nhau mà nảy sanh ra đủ thứ. Thật ra mọi
thứ mây ôi mây ư, mưa ôi mưa ư, sấm ư, tuyết ôi, tuyết ư, thảy thảy mọi mọi ư ư
ôi ôi, đáo cùng vẫn chỉ duy có một một ôi ư ư ôi mà thôi vậy. Thì từ đó cái cô
nương ôi, cái nương tử ôi, cái nuồng ấy ôi, dẫu ôi rằng là Kim Cuôông, hoặc rằng
là Kiêêêm Cuốốống, hoặc Cuốốống Cuồồồng chàng Kim, thì chung quy cũng chỉ một
Nuồồồng là Thúy nọ vốn có phen từng đã ở truồng mà tắm hoa thang lan rũ bức gữa
một mùa hè rực rỡ lập lòe lửa lựu ở đầu tường chính trong cái giờ vô hạn sát na
mà tại Âu Châu Zarathustra đã một phen đi về giữa một vùng Gái Tơ Sa Mạc và luống
đã là also sprach... Vậy chăng ru?
Thì từ đó mà đi? Xin tạ thiên tạ địa:
- "Đa tạ Thiên công, hạnh vật dĩ nhu tình yêu phược ngã".
Đa tạ Trời xanh, may mắn mong sau Hóa công đừng có dùng những sợi tơ mềm cỏ mượt
liên tồn nào mà cột chân giò của tôi lại!
Ngày hôm sau, điểm tâm xong, mẹ tôi bảo tôi vận áo phục lữ hành vào và nói thêm
rằng dì tôi dẫn Tĩnh Tử cùng đi một chuyến.
Tôi mừng khôn tả, tự nhủ rằng như thế thì tôi khỏi phải đau lòng đứt ruột vì cuộc
chia tay.
Chúng tôi lên tàu lửa, nhìn thấy trên khuôn cửa lưu ly còn in ngấn sương. Mẹ tôi
và dì tôi liên tiếp chuyện trò, chỉ trỏ mây trời, chỉ cây cối, trông hớn hở lạ
thường. Khoảnh khắc sau đã nghe gió trời sóng biển rì rào. Chẳng mấy chốc đã tới
nhà. Từ đó trở đi tôi hằng ngày thấy mặt Tĩnh Tử, mỗi phen dạo gót ra đầu sân,
cuối hè, mỗi phen thấy dung nhan nàng lãng đãng. Nhưng chúng tôi không
nói chuyện gì nhiều, chỉ mỉm cười kính trọng chào nhau thôi.
Một ngày kia, mưa phùn lún phún như sa mù, tôi đứng bên mẹ tựa lan can nhìn ra
ngoài cảnh biển khơi, chợt nghe tiếng gõ cửa nhẹ nhẹ. Người bếp bào mang bức
thư cung kính trao cho mẹ tôi. Mẹ tôi vội vã mở thư ra đọc rồi cho tôi biết:
- Tam Lang, đây là thư của chị con. Nó bảo ngày mai nó sẽ tới đây. Ấy cũng nhân
chồng nó đi Đông Kinh ngày mai, nên nó có dịp rảnh về viếng nhà. Chị con thật cũng
là đứa đáng thương cho thân phận lắm. Nói tới đó, mẹ tôi thở ra một cái rồi tiếp:
- Ngạn ngữ có câu: "Dưỡng nữ đồ lao" há chẳng đúng ru! "Nuôi nấng
con gái chỉ tầm ra những khổ nhọc mà thôi!" Một phen xuất giá theo chồng,
thì con gái đành phải gác người thân thích ra ngoài cuộc. Phải đành quên gia
đình cha mẹ thôi. Mỗi phen gặp giai tiết, muốn đi gặp lại mặt con gái, đâu có
phải dễ gì. Sự đó mặc dù cũng là do công việc bề bộn mà ra, nhưng nói chung
trong thiên hạ, tấm lòng đứa con gái vốn thường hay quên mất cha mẹ già. Xưa
kia có một người con gái nhà nghèo, lấy được chồng giàu có. Cha mẹ đứa con gái
trong lòng mừng thầm, nghĩ rằng như thế từ nay hai miệng ăn sẽ không
còn chịu đói khát nữa. Ngờ đâu mấy ngày sau, đứa con gái sai người đem y
phục cũ của nó trả hết về cho cha mẹ, lại dặn người ta nói lại cho cha mẹ kia
biết rằng "Đứa con giàu có chẳng mặc quần áo của cha mẹ sắm cho ngày
đi lấy chồng". Ý nó muốn nói rằng đồ vật cha mẹ cho làm của, toàn là chẳng
có chút giá trị gì. Người đời tâm lý như thế đó, há chẳng phải rằng "
giang hà nhật hạ" hay sao? (Sông nước mỗi ngày mỗi rút xuống: con người ta
cứ càng ô trọc thêm)
Mẹ tôi nói xong, thì đem đặt phong thư lên bàn, rồi đưa mắt hiền từ nhìn
tôi:
- Tam Lang, sáng nay con rét lạnh không? Mẹ cảm thấy hai cánh tay lạnh cả.
Tôi đáp:
- Con không thấy lạnh.
Mẹ tôi từ từ gọi tôi lại bảo:
- Con hãy ngồi xuống.
Tôi ngồi xuống. Mẹ hỏi:
- Tam Lang, con nhận thấy Tĩnh Tử là người như thế nào?
Tôi đáp:
- Thông minh, đẹp đẽ, tao nhã, thật là cô gái hiếm có.
Mẹ tôi có nghe tôi nói thế lúc bấy giờ bỗng lộ vẻ khoan khoái lạ thường . Bèn
nói:
- Thật thế! Thật thế! Thành nhiên. Thành nhiên... Mẹ cũng yêu mến Tĩnh Tử
hết sức vì nó ôn hòa thùy mị, dung nghi tại hoa đầy đủ hết cả. Hôm nay mẹ có điều
này nói cho con rõ. Con hãy lắng tai nghe: Tam Lang! Mẹ sẽ quyết ý đem con Tĩnh
Tử về làm dâu, nghĩa là mẹ muốn rằng con Tĩnh Tử phải là vợ của con đó nhé.
Chính thế. Chính thế. Tĩnh Tử lớn hơn con hai tuổi? Không hề gì. Không hề gì. Tốt
nhất là: gái hơn hai. Tốt nhì là: trai sụt một. Bao giờ gái cũng phải lớn hơn
trai hai tuổi thị cuộc vuông tròn mới khỏi lọt ra vòng ngoài bê bối. Trai phải
nhỏ tuổi hơn gái, thì gái dạy bảo điều gì, trai mới chịu nghe. Chính thế. Con
Tĩnh Tử thùy mị, thông minh, khôn ngoan rất mực, nói năng phải lời, nó hơn con
hai tuổi chính thế, thì tuy tình nghĩa vợ chồng, nhưng con hãy nên coi nó như
là chị của con, thì ngày sau hạnh phúc gia đình mới bền vững. Con đừng
đánh đập nó nhé. Nó giận nó đánh con, thì con cắn răng chịu
đau, nhường nhịn nó nhé. Nếu con đánh đập nó lại thì chiếu giường sẽ xiêu lệch,
còn ra cái thể thống gì? Vợ đánh chồng thì chồng phải nhịn.Nếu chồng đánh vợ
thì vợ chồng còn đâu cái mô dạng thể thái vợ chồng. Bao giờ vợ cũng trước chồng.
Vợ trước chồng sau. Sang giàu suốt kiếp. Vợ sau chồng trước? Mạt kiếp cơ hàn!
Chính thế.
Nhất vợ nhì trời. Chồng là trời.
Thì chồng đứng hạng nhì là phải.
Do đó: nhì chồng, nhất vợ.
Con phải nhớ lấy lẽ đó nhé. Con đừng đánh đập nó nhé.
Tôi đáp:
- Con không đánh đập nó. Con không đánh đập ai hết cả. Tuy nhiên...
- Tuy nhiên cái chi? Con đánh nó ư?
- Không phải. Nhưng mà...
- Nhưng mà cái chi? Để mẹ chẫm rãi nói, cho con rõ. Sao con cứ cắt ngang lời mẹ
như thế. Con làm mẹ quên mất cái điều gì đã nói. À phải rồi. Một định nói cho
con rõ là: kể ra, vợ lớn hơn chồng hai tuổi, thì kể cũng là hơi khó coi. Vả
chăng năm nay con mới có mười sáu tuổi. Mười sáu tuổi mà cưới vợ thì kể cũng
hơi sớm quá chút ít. Nhưng mà mẹ đã nghĩ kỹ rồi. Ngoài con Tĩnh Tử ra, thì khó
đâu còn có một đứa con gái nào vẹn toàn như thế. Hơn nữa, Tĩnh Tử mồ côi cha mẹ.
Thì theo phong tục, con phải theo nó về ở một thời gian với gia đình nó trước
khi thừa hưởng di sản của cha mẹ nó. Trong khi đó, mẹ có thể ở chung với dì con
cho có bầu bạn. Dường như đó là thiên duyên xảo tấu. Hình như trời Phật đã an
bài ngăn nắp đâu vào đấy. Dì của con cũng nhất thiết liệu định chỉnh tề nói hết
mọi sự cho cuộc vuông tròn. Chờ tới sang năm, vừa khai xuân thì làm lễ thành
hôn cho hai đứa con. Tới mùa hè thì mẹ sẽ dời nhà về ở Sương Căn. Sự việc này sắp
đặt ra như thế, lấy tình lấy lý mà luận, thì cũng như con về làm rể nhà dì con.
Dì con có được thằng rể là Tam Lang. Thì từ đó trong lòng dì con mới yên vui
thư thái được. Dì con nuôi con Tĩnh Tử từ nhỏ, dì con cũng trách nhiệm rất lớn
đối với nó, ngày nay Tĩnh Tử đã lớn, chẳng có lúc nào là dì con chẳng vì con
Tĩnh Tử mà lo nghĩ gần xa. Mấy năm gần đây liên tiếp bọn trai tới cầu hôn tuy
là nhiều, nhưng dì con không để tâm tới bọn đó. Cái ý của dì con chẳng có quan
hệ cho tới cửa nhà gia thế bọn đó, mà chỉ liên can tới mối lo âu về chuyện tâm
địa người đời, kẻ tốt kẻ xấu, thiện ác khó phân biệt cho ra, nếu gả bừa con
Tĩnh Tử đi, rủi gặp thằng chồng bê bối, thì dì con ắt phải đau lòng, và lượng
tâm ắt phải chẳng thể nào yên ổn được. Này dì con có được con rồi, Tam Lang ạ,
thì dì con trút được gánh nặng trên lưng.
Mẹ tôi nói tới đó, bi thương cảm động muốn khóc mà rằng:
- Tam Lang mẹ già của con suốt một đời đau thương tịch mịch, ngày nay mẹ mới sắp
được chừng kiến ngày vui hạnh phúc của con, thì mẹ và dì con mặc dầu tuổi gà
như ngọn đèn trước gió, cũng lấy làm an ủi trong lòng vô cùng .Mọi sự về sau, mẹ
xin ủy thác hết cho thiên mệnh. Mẹ biết rằng Trời Phật thế nào cũng sẽ ban cho
hai chúng con đầy đủ song toàn phúc tuệ.
Trong khi mẹ tôi liên miên nói như thế, lòng tôi nghe tim phổi đập bình bình.
Lúc mẹ tôi dừng lại, tôi bồi hồi kinh khủng, không dám mở môi đáp lời gì cả.
Đang định đem hết mọi sự đã trải qua bày giãi cho mẹ rõ, thị lập thời lại thấy
không ổn: sợ đem lại phiền muộn cho từ mẫu, không thể nào nói ra. Tôi suy gẫm
lao lung lâu lắm, mắt tôi nghe rì rào lệ chảy ra. Mới thấp giọng mà rằng:
- Này con có mấy lời bày tỏ, xin từ mẫu để tai nghe giùm... con đã quyết tâm...
Mẹ tôi vội vã hỏi dồn:
- Con định nói gì?
Tôi đáp:
- Con suốt đời sẽ chẳng lấy vợ.
Nghe tôi thốt ra câu đó, mẹ tôi hãi nhiên đứng dậy trố mắt nhìn tôi...
Còn tôi , lúc thốt ra cái lời khôn hàn nọ làm rụng rơi hết mọi hy vọng chan hòa
nhất của mọi kẻ thân yêu, thì lòng tôi bất thình lình như rã riêng đi mất hết
máu tim. Bất thình lình thì hồn tôi bị chiếm trở lại bởi một tình tự dị thường
vốn từng đã lung trạo tôi suốt bao năm từ ngày còn bé bỏng. Ấy là cái trực giác
dị thường về cái chỗ huyền ảo huyền hoặc của sát na. Nó thấm nhập tủy xuơng tôi
như một thứ mù sương căm căm mơ hồ khôn tả. Mọi vật như đang xô ùa nhau quay
chong chóng, trong khi đó tôi cảm thấy mnìh đứng lại trung tâm cuộc bão giông
và tự hỏi: vì lẽ chi không thể vãn hồi mọi sự vụ? Vì lẽ chi cái vui đi qua? Cái
buồn khổ cũng đi qua? Vì lẽ chi con chim nhạn bay quang trời không để lại một
đường rẽ trắng? Vì lẽ chi trận gió heo may thổi qua không viết rõ tâm sự mình
vào cụm cây bên tam sinh thạch thượng? Vì lẽ chi giọt nước mưa rào long lanh
như ngọc nằm trên chiếc lá tùng bách nọ không chịu rớt xuống vào giữa lòng bàn
tay của tôi lúc tôi từ từ đếm xong một ... hai... ba... bốn... tới mười? Mười?
Là con số của viên mãn vể giữa ngọ viên dung. Nhưng viên dung ở chỗ nào, nếu
như trong cái sát na khôn hàn tôi thốt ra cái tiếng, giọt nước ở trên cành lam
nhánh lục vẫn cứ còn ù lì lóng lánh ở trên kia?
Bỗng nghe:
- Con nói thế? Ồ! Là nghĩa lý gì? Con đã nhìn thấy cái gì mà nói ra cái lời như
thế? Con đùa chơi? Con bướng bỉnh? Con cứng đầu? Con nói như thế thì mẹ còn hiểu
đâu vào đâu được nữa? Con tới tuổi thanh xuân con không chịu lấy vợ, thì thiên
hạ sẽ nói sao về mẹ? Dì con thương mến con, chẳng là uổng nhiên hết cả hay sao?
Con hãy bình tâm nghĩ lại coi, cái lời con thốt đó, có thể nào để lọt vào tai
dì của con được không? Huống nữa còn con Tĩnh Tử nó lại nói với mẹ rằng , trừ
Tam Lang ra nó không để ý tới ai được hết . Lúc con ở nhà dì lâm bịnh,mọi thang
thuốc do tay nó pha nấu cho con. Lòng nó yêu con đã chầy rồi. Mẹ thật không thể
nào hiểu được bỗng nhiên nay con ngang nhiên lầm lì thốt ra cái lời cộc lốc như
thế!
Mẹ tôi càng nói càng lớn tiếng. Câu cuối cùng nghe như một tiếng thét đau xót dị
thường. Tôi gạt nước mắt mà rằng:
- Từ mẫu hãy bình tâm nghe con thưa rõ. Con sờ tim tự vấn, thì thấy mình yêu
Tĩnh Tử dị thường, con coi nàng không khác gì da máu của con vậy, hoặc xương xẩu
của con vậy. Con cũng kính trọng nàng, điều đó Tĩnh Tử trong lòng tất cũng rõ.
Nay con bỗng nhiên thốt cái lời vô lý nọ, ấy chẳng phải là có ý phản đối mẹ và
dì, ấy chẳng qua là do một mối khổ tâm bất đắc dĩ, mong mẹ tha thứ cho con.
Mẹ tôi rầu rĩ không đáp lời nào cả.lâu lắm mới gắng gượng nói:
- Tam Lang con hãy nên nghe theo ý mẹ. Mẹ nay già nua lắm rồi, chỉ còn mong
nhìn thấy con và Tĩnh Tử thành gia thất, thì dẫu mẹ có đi vào lòng đất ắt cũng
ngậm cười chín suối vậy.
--------------------------------
Bản Anh ngữ dịch nhiều đoạn thật linh động thơ ngây. |
CHƯƠNG MƯỜI BA
Nghe mẹ tôi nói thế, tôi không cầm nước mắt được nữa, liền
khóc một trận như mưa. Trong lòng tôi thật thấy mình có tội lỗi. Sao lại chẳng
nghe lời. Chống lại ý nguyện huyên đường như thế để cho mẹ phải thốt lời thương
tâm ấy ra, tình cảnh như thế chịu đựng sao được. Tôi bàng hoàng một chặp, rồi
quỳ xuống gục đầu vào gối mẹ tôi kiếm lời an ủi mà rằng:
- Mẹ tha thứ cho con. Con thực là thằng bất hiếu, tội con nặng nề lắm. Từ đây về
sau con tuân lời mẹ vậy. Con còn nhỏ tuổi, chưa hiểu chi nhiều, mẹ hãy tha thứ
cho con.
- Ừ! Con nghe theo lời mẹ mới là phải lẽ. Người đời xưa bảo rằng: "bất tín
lão nhân ngôn, hậu hối tương hà cập" (không tin lời người gia, sau hối hận
sao còn kịp nữa). Huống chi đây là việc lớn suốt đời của con, mẹ già há đâu chẳng
suy nghĩ kỹ càng? Con phải biết rằng không một phút nào mẹ chẳng vì con mà lo
liệu. Như con chị của con, thuở nó còn ở nhà, mỗi phen nó không nghe lời mẹ,
thì mẹ liền nạt cho nó một trận tơi bời. Nay nó đã về nhà chồng mọi sự mẹ chẳng
hỏi han chi tới nữa. Nên biết rằng lòng đứa con gái nó hướng về bên chồng, thì
cứ để yên cho nó hướng, mẹ há đâu cản trở chất vấn cái gì. Còn nói về chuyện
Tĩnh Tử, thì lại không như thế. Đứa bé này tính tình trang trọng, nhàn mục
hiền hòa lại thông minh đào để, hết sức hợp ý mẹ. Con chớ xem thường nó. Nó
không phải như những hạng gái lôi thôi phó phấn đồ chi, nhâm nhi lý nhí đâu.
Mẹ tôi còn muốn nói nữa, thì người vú bước vào thưa:
- Thưa bà, phòng tắm đã sẵn sàng mọi sự. Nói xong, lui ra.
Lúc bấy giờ khoảng mười giờ. Vẻ mặt mẹ tôi không còn ảm đạm nữa. Bà vỗ vai tôi
bảo:
- Tam lang, bữa nay mẹ phải xuống gác kiểm điểm áo quần mùa đông, mà mười
một giờ mới xong xuôi công việc. Con hãy đi tắm một trận.
Lúc bấy giờ tôi biết mẹ đã hết buồn, thì lòng tôi hẳn nhiên hân hoan vậy. Ngẩng
đầu nhìn khoảng không mây mỏng phiêu du, thong dong ruổi ruổi. Tôi khoan khoái
một cơn, máu me xương xẩu phiêu phiêu động mình. Vâng, mọi sự vẫn thơ ngây? Nhịp
đời đi chậm rãi? Niềm vui vẫn ở lại? Hạnh phúc đơn sơ biết bao? Đồng thời tôi cảm
thấy như dường không khí xuân xanh đang rẽ chia ra hai phía, nhường lối cho tôi
bước, và khi tôi bước qua rồi, thì nó khép lại ở sau lưng tôi, như nước trùng
dương khép lại sau khi con tàu rạch sóng băng qua. Thế thì có chi mô đâu là trở
ngại? Có ai xô tôi vào cõi hỗn độn u ám tranh chấp gì đâu? Tình và nghĩa? Nợ và
duyên? Bâng khuâng nghĩa mới? Ngậm ngùi tình xưa... ? Không.Không có chi gay cấn
phũ phàng cả.
Tôi đi thay quần áo và vào phòng tắm. Tắm xong một trận, tôi bước mình lên lầu
gác, nhìn ra biển khơi, ngồi nhìn lâu lắm.
Thì bỗng dưng cảm thấy buồn sầu ở đâu xô tới như mây, tư lự ngậm ngùi ùn ùn đến
như triều sóng biển, cùng chen lấn nhau tập kích tôi bốn mặt ba phương.
Sầu hận cũ bỗng dưng trở lại
Thêu đời hồng anh rụi cả máu me
Một khoảnh khoắc khôn hàn cơn kinh hãi
Ngập trường phong theo thể độ triều dài
Lời yếu đuối ôi lời thơ tàn tức
Lời nhỏ to từng đã phỉnh tôi nhiều
Tôi không biết tôi không còn biết được
Một tình yêu người xây đắp thế nào
Cũng đôi lúc tôi tìm ra tiết điệu
Dặt dìu buông ẻo lả giấc mơ mòng
Tình chấn động suốt vùng cây suối liễu
Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra dòng
Lời lẩn thẩn theo vần lôi thôi nhuộm
Mẹ và em sao chẳng hiểu nỗi lòng
Tình chấn động nhà ma le lói nhuốm
Màu gẫm suy cái chết của thân mình
Đành thế vậy mẹ và em nếu muốn
Con rời bờ lìa cõi thế điêu linh
Vâng, bây giờ tôi hiểu. Lúc tôi quyết định cưới Tĩnh Tử, thì đó chẳng qua chỉ
là lời choáng váng thốt ra, trong một phút lê mê bàng hoàng tình phi đắc dĩ đấy
mà thôi. Và từ đó về sau bao nhiêu ưu hoạn sẽ nối đuôi nhau bay liên miên khắp
mặt chiều hôm sa mù vang bóng vậy. Và cũng như âm thanh hải triều triền miên ai
oán than van, không bao giờ dứt mối tiền ai oán than van, không bao giờ dứt mối
tiền oan túc chướng một bận đã phôi thai. Nhưng làm sao! Biết làm sao! Lúc thốt
cái lời ấy! Nếu lời ấy không thốt ra lúc bấy giờ, thì còn lời gì để thốt ra khả
dĩ yên ủy được mẹ tôi đang choáng váng?
Sự việc đã ra nông nỗi ấy, còn biết liệu xử ra sao? Chỉ còn có cách tạm
thời thuận theo ý mẹ già một trận, chờ cơ hội chầy chầy khác, sẽ lựa lời dần
khuyên giải, thong dong gỡ...
Nhưng gỡ dần như thế nào? Mẹ có thể nghe ra, nhưng còn Tĩnh Tử? Và nguy hại
thay! Còn cả mối tình âm u âm ỷ của chính máu me tôi đối với nàng! Còn Tuyết
Mai? Tôi sẽ bước cái lối nào để đừng giày xéo một trong hai? Giã từ cả đôi? Cả
Tuyết Mai cả Tĩnh Tử? Nghĩa là cả tình mộng và nợ và duyên và lụy và... và? Chẳng
lẽ lang thang mơ hồ đi như con ma lạc gió? Ngồi lại ở bên đèo, trên là đường
truông, dưới là vực thẳm? Bẻ một ngành thạch thảo mà gửi về một nửa tiếng thơ?
Anh đã hái ngành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho! Mùa thi đã chết rồi
Hỡi ôi! Mùa thu đã chết rồi? Rồi đến mùa đông cũng chết? Riêng mùa xuân mùa hạ
song trùng chết từ ban sơ, há chưa đủ hay sao?
Em nhớ cho mùa thi đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
Mộng trùng lai không có được trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé, ta đợi chờ em đó...
Đợi chờ ở đâu mà bảo em nhớ nhé. Hỡi ôi! Suối vàng là cái chi như thế? Chẳng lẽ
thảy thảy mọi người cùng phải xuống hết dưới đó để đợi chờ nhau chăng?
Nếu thấy như thế là quá phiêu diểu diêu mang, thì đợi chờ nhau trên mảnh
đất đai dương trần này phải ăn làm sao với mẹ, nói làm sao với em? Lựa lời
khuyên giải như thế nào mẹ già mới có thể thu hồi cái mệnh lệnh. Nếu mẹ già
kiên quyết không chịu, ắt con phải đành đem chuyện đời con ra nói hết? Hoặc giả
cuối cùng mẹ sẽ chấp thuận cho con trở về cửa Phật Đại Từ Bi? Về với Như lai, tất
nhiên không thể lẽo đẽo đèo bòng dắt theo người phụ nữ rất mực đoan trang. Tôi
đặt bàn tay lênngực sờ vào trái tim tự vấn, quả thật tôi không phải đứa vong
tình bạc nghĩa tàn nhẫn bỏ rớt rụng Tĩnh Tử sư muội nhị cô nương...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét