Những câu thơ mới
trong một khu vườn lạ
(Đọc tập thơ Trở mình trong máng xối của Ngô Liêm
Khoan. NXB Hội Nhà văn, 2007)
Nếu đọc một tập sách mà khen cái bìa đẹp thì hóa ra vô duyên.
Nhưng một cái bìa đôi lúc cũng là cái cớ để người ta tò mò lần giở những trang
bên trong của tập sách; khi ấy cái bìa là sứ giả quan trọng để dẫn dắt ta đi
vào những câu chữ, như bước qua hình thức để đến cái cốt lõi là nội dung của cuốn
sách. Tôi đọc tập thơ Trở mình trong máng xối của Ngô Liêm Khoan bằng
những suy nghĩ như thế. Một cách làm lạ của hình thức báo hiệu một tư duy lạ
phía bên trong.
Thực ra, thơ Ngô Liêm Khoan đã đến với tôi từ lâu lắm, hơn mười
năm trước khi tôi và anh cùng là sinh viên học trên Đà Lạt. Ngày ấy, tôi đã thảng
thốt khi nghe anh đọc: …Rồi trời sẽ gắt hơn/Phượng vội vàng những giấc mơ
ngợp nắng/Màu cũ từ đáy ao làng lá mục/Gợi những nếp nhăn già nua gợn sóng/Tuổi
thơ đi qua bụi khuất mặt người hay: Mình đã chia tay/Rồi sẽ chia tay
bốn mùa/Tình yêu là phép toán/Cộng dần mất mát cho nhau, và: Tôi nhấn vai
mình vào sôi động triền miên/Những cuộc tình sao băng/vụt qua/Những cuộc tình
sao chổi/vết xoay lưng ngàn năm còn lẳng lặng/Ngậm ngùi theo những tháng
năm. Đó là những câu thơ trong bài thơ Đã nhạt màu phượng
cũ mà Ngô Liêm Khoan đã viết năm 1996, khi ấy anh mới mười chín tuổi. Ấn
tượng với một giọng thơ vừa lạ, vừa đẹp này còn đến với tôi ở một bài thơ khác
anh viết năm 1997 có tựa đề Hiên trúc mà trong ấy anh đã lấy một ý để
làm tựa đề cho cả tập thơ: …Đặt tai vào vai mình nghe nhịp thở/Màu nâu của đất
mò mẫm lên cây/Màu lá mục trở mình trong máng xối…Soi mình vào mắt em/Tôi, viên
sỏi gai giữa lòng hồ nước lặng/Qua nhiều mùa trăng lời tỏ tình không còn bối rối/Đôi
mắt này, hai hạt cỏ già nua…Xung quanh này chỉ có hạ và đông/Chỉ hai miền thức-ngủ;/Thị
Màu giữa mùa xuân theo dấu chân mèo hoang/Lỡ nhịp Trương Chi giữa mùa lá vàng
thổi sáo… Tôi trích những câu thơ trên để muốn nói về một sự ám ảnh của những
câu chữ mình đã thuộc từ chục năm trước và đặt những câu thơ ấy ngang bằng với
những bài thơ mới trong tập, từ đó có một cái nhìn chung về tập thơ này.
Trở mình trong máng xối gồm 36 bài thơ, được Ngô Liêm
Khoan chia thành ba phần: Cội rễ, Địa đàng và Giấc mơ đợi sáng. Cội
rễ gồm 7 bài: Cội rễ, Đồng cảm, Dự cảm, Với những thương yêu, Bóng
người đã dáng ngồi, Người bạn tri âm và Cát. Đây là những bài
anh viết về quê hương, về những gì là cội rễ từ trong những ký ức sâu
thẳm của mình. Cội rễ là một bài thơ có tứ chặt, gói ghém trong đó những
hình ảnh thân thương của một thời xa xưa: Bắt đầu từ đôi chân/Bước chập chững
sà vào vòng tay mẹ/Cảm giác lẫn dần vào tháng, vào năm/ Bắt đầu từ bầu trời đêm
sáng trong/Được cha nâng lên vai bằng đôi tay chai sần vì nhát cuốc/Những ngôi
sao gần với tôi hơn/ Bắt đầu từ cánh đồng/Đêm sương muối buồn lùa đòng ngậm sữa/Tuổi
thơ gối đầu lên đường cày mơ ước mảng mây trôi. Tất cả những bắt đầu như
thế dẫn anh đi đến với những chân trời khác mang đầy ảo ảnh lộng lẫy, và như thể,
anh đã chạm được vào đấy; nhưng khi Tất cả lùi dần, khi Gót chân
giờ không còn bùn đất lại đem đến cho anh một cảm giác tiếc nuối, quạnh
hiu: Chiều thành phố nhìn vào sâu ký ức/Có nắng vàng…cuộn lá tre rơi. Đó,
có lẽ cũng là dấu hiệu của một sự cô đơn. Ngô Liêm Khoan quê ở Bình Định, nơi
anh đêm nằm mộng hoa sen nở mà hình dung ra Nhành mong manh oằn
lại giữa miền Trung nên anh thương lắm con người và mảnh đất này: Có
phải đâu là nghi thức tế thần/Mỗi mùa lũ nổi xác người chết đuối/Màu phù sa lắng
nghèo nàn đá sỏi/Cỏ hoa đồng và hạt lúa rưng rưng… Và khi ở một phương trời
xa thẳm, khi kề cận nỗi cô đơn anh lại trở về cùng nỗi nhớ quê xa: Trời miền
Trung mưa nguồn chớp bể/Người như cây đóng rễ cọc đất nghèo/Viên gạch
vỡ nơi đầu hè chái bếp/Lại quặn lòng với những thương yêu. Quê hương - đó
chính là cội rễ, và Ngô Liêm Khoan đã nâng niu một cách trân trọng.
Nếu như phần một Ngô Liêm Khoan viết về quê hương thì ở phần
hai, Địa đàng, tôi hình dung ra anh viết về một vùng đất khác, không
kém phần thân thương với anh, gắn với anh một thời trai trẻ đầy mộng mơ đó
chính là Đà Lạt. Đà Lạt và những dấu ấn sâu đậm đã đi vào thơ anh, nhưng thật
ngạc nhiên khi từng dòng thơ anh viết lại rất ít từ “Đà Lạt”, đó có lẽ cũng là
một cách thể hiện riêng. Và chúng ta vẫn có thể nhận ra khi trước mắt là những
hình ảnh: Vòm thông hư ảo, Sương tràn qua vai thành phố, Câu chuyện trên đồi,
Những đóa quỳ lặng lẽ trong đêm…Ngô Liêm Khoan gọi Đà Lạt là Đất
lành khi anh viết những câu thơ tặng bạn bè sinh viên một thuở: Có điều
gì như không thể lãng quên/Mà cứ dặn lòng: thôi, đừng thương nhớ!/Đà Lạt ngày
xưa đất lành như thể/Ta vấp ngã là hoa nâng lên. Đó cũng là miền đất Địa
đàng theo cách nghĩ của riêng anh, ở khu vườn ấy bật lên những mầm
yêu: Mình hôn nhau/Một bàn tay trẻ thơ mơ màng chạm vào nụ hoa bất tử/Làm
dịu dàng những nỗi buồn/Làm hạnh phúc những nỗi đau…Cây cỏ xung quanh như khu
vườn nguồn cội/Dịu dàng hương táo trổ hoa. Đà Lạt - địa đàng của một thời
tuổi trẻ, một thời yêu, một thời thơ đã là những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời
để anh khôn nguôi thương nhớ.
Phần thứ ba của tập thơ Giấc mơ đợi sáng đầy đặn
hơn hai phần trước với 22 bài thơ thể hiện nhiều chủ đề, và có độ dài ngắn khác
nhau. Ngoài hai bài Đã nhạt màu phượng cũ và Hiên trúc đã
trích dẫn, tôi ấn tượng với những bài thơ ngắn, với những cái tên rất gợi: Sẹo
nước, Vu lan, Nửa buổi, Tan tầm, Nguyệt thực, Từ Thức, Chạm cốc…cuốn hút người
đọc. Những ẩn ý được đặt trong những bài thơ ngắn chỉ ba, bốn dòng, mang hình
hài của thể thơ Haiku: Trăng rực sáng/Tiễn chú chuồn kim ngủ gật/Mang giấc
mơ chìm vào lòng hồ trong miệng cá rô gai (Sẹo nước), Mùa chay/Hoa
sen nở trắng/Bát đũa thơm mùi cỏ hoa (Vu lan), Sương và lá/Vẫn muôn đời
bịn rịn/Dù biết rồi cũng sẽ chia xa (Nửa buổi)… Bên cạnh những dòng thơ cô
đọng và diệu vợi ấy là những suy tư trước cuộc sống mà Ngô Liêm Khoan (hay cũng
như bất kể người nào khác) đều đang đứng trước. Anh viết trong Giấc mơ đợi
sáng: Cuộn chảy cùng thời gian thác ghềnh/Tôi va đập vào những tia khúc xạ/Miệng
ngậm đầy rong rêu ngũ sắc/Chỉ còn đôi mắt của suy tư dập dềnh trên mặt sóng…và
trong Vào đêm: Ánh sáng nhạt dần phía cuối trang thơ/Câu thơ đuối.
Buông mình. Nắng tắt/Khi vòm cây phía bên đường đen lại/Lá không khép nổi mắt
mình vì lớp bụi ưu tư…Đó là những suy nghĩ về cuộc đời ngổn ngang, là những ẩn
dụ về cuộc sống giằng xé những suy nghĩ, giằng xé cả những giấc mơ...
Trở mình trong máng xối của Ngô Liêm Khoan mang đến một
sự tinh tế, kỹ càng của những câu chữ, ẩn đằng sau là khoảng lặng nội tâm.
Trong nhịp điệu thơ trẻ đương thời, thơ Ngô Liêm Khoan như đứng trong một khu
vườn biệt lập. Khu vườn của anh không tấp nập bướm ong, cũng chẳng tịch mịnh
xưa cũ. Đó là một khu vườn lạ, và anh đang đứng đó, tôi chợt hỏi, đó, có phải
chăng là khu vườn mà Ngô Liêm Khoan cho là địa đàng của riêng mình?.
25/9/2008 La Văn Tuân
25/9/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét