Mẹ chồng tôi, bà Thế Lữ
Khi cưới tôi về ở với gia đình trong Nam, chồng tôi chỉ có mẹ,
chị, và anh thứ hai đã ra ở riêng. Bố và anh lớn của anh ở ngoài Bắc, đã mười
tám năm không gập mặt.
Mẹ người tầm thước, vừa người, vấn khăn vải, ăn trầu và còn
răng đen. Mẹ là người cổ kính, ăn nói nhỏ nhẹ, không thấy to tiếng bao giờ. Mẹ
rất hiền và nghe theo ý của các con, nhất là ý chị lớn. Việc mẹ bằng lòng cho
con trai lấy tôi, một cô bạn học của anh, theo đạo Phật, và chấp nhận tôi không
phải theo đạo Chúa, được xin "miễn chuẩn dị giáo", là do các
con khuyên được. Mẹ chăm lo cho các con, dù đã lớn, từng miếng ăn, giấc ngủ.
Chưa bao giờ tôi thấy mẹ khóc, ngay cả khi tiễn con cháu đi xa không biết bao
giờ mới trở lại. Mẹ nói mẹ không còn nước mắt.Hồi trước năm 1945, gia đình chồng tôi gồm cả bà nội, sống ở
Hải Phòng, bố là con độc nhất của bà, bố rất có hiếu với bà. Những năm
1933-1946 bố đi Hà Nội làm báo, mỗi tháng chỉ về nhà độ một hoặc hai lần, mà mỗi
lần về chỉ một hai ngày thôi. Khi bố có việc cần, bố viết thư cho mẹ. Thư chỉ độ
một trang giấy học trò, mẹ thường phải giấu bà, để tới tối không ai thấy, mới
dám mang ra đọc. Mẹ chỉ biết đọc, không biết viết.Mẹ sinh năm 1905, tại một làng đạo tỉnh Hà Nam. Cha xứ dạy
con chiên học đọc để đọc kinh, không dạy viết. Con gái xóm quê, chưa từng đi học
bao giờ, học khó quá, thì cha ra lệnh: "Không biết đọc thì không được
phép thông công", nên mẹ biết đọc. Đến khi cần trả lời thư bố, thì mẹ
phải nhờ cô em nuôi trong nhà viết giùm, giấu bà. Đến mấy chục năm sau, thỉnh
thoảng cô ấy lên chơi nhà, vẫn kể cho chúng tôi nghe chuyện thay mẹ viết thư
cho bố. Tuy nhiên, mẹ rất thông minh, thuộc tất cả thơ của bố. Mẹ cũng chịu khó
đọc thêm sách, truyện, báo chí...Tôi còn nhớ một chuyện sảy ra hôm đám hỏi của chúng tôi. Lúc
nhà trai đến, gia đình nhà gái với đầy đủ họ hàng, bạn bè, thân thuộc đang ra
tiếp đón vui vẻ, thì một bà bác tôi vì không biết bố chú rể là ai, tới hỏi mẹ
chồng tôi rằng: "Thưa cụ, thế cụ ông nhà ta làm gì ạ?", và mẹ đã trả
lời: "Dạ, nhà tôi đi diễn kịch".Một người bạn thân của tôi nghe được, chạy vào nhà trong nói
với hai chúng tôi rằng: "Trời ơi, sao cụ bà kỳ thế! Cụ không trả lời là
nhà tôi là nhà thơ, là nhà văn,... mà lại bảo là "nhà tôi đi diễn kịch!".
Hai chúng tôi đứng yên lặng nắm tay nhau, chỉ cười không trả lời lại. Vì trong
đáy lòng, chúng tôi hiểu rõ rằng, cụ bà răng đen mà ai cũng cho là nhà quê kia,
đã tỏ ra rất yêu chồng và hiểu sâu xa những đam mê, những mơ ước cuả cả đời
ông. Mẹ không phân biệt nhà thơ hay nhà văn hay người làm kịch, mà nói ra thật
đúng điều chồng mình suốt đời say mê trở thành. Đó chính là "được làm kịch,
được xây dựng nghề kịch" khi xã hội Việt Nam mới manh nha kịch nói, khi đi
hát đi diễn kịch còn là "xướng ca vô loài".Bà lang, mẹ nhà thơ Thế LữTrở lại thời gia đình còn ở Hải Phòng, bà nội rất khó tính,
nhất là đối với mẹ. Bố đã giải thích cho mẹ hiểu là tại tình duyên của bà gặp
nhiều trắc trở, bà khổ quá, bà hành con dâu vì những điều uất ức không nói ra
được... Có một lần, bố viết một truyện ngắn, mang về nhà, giả vờ là truyện của
văn sĩ khác, đọc cho bà nghe, mong bà thương mà nghĩ lại cho. Đang đọc, thì bà
cầm lấy cái tráp đựng trầu, dằn mạnh xuống phản một cái rầm, rồi nói :" À, thế ra anh lại muốn dạy tôi đấy ! ".Bố sợ quá, chạy thẳng một mạch không dám trở về nhà nữa. Và
người phải chịu đựng mọi thứ chuyện ở trên đời lại vẫn là mẹ.Ông nội người làng Phù Đổng, từ Hà Nội nhìn ra là "bên
kia sông Đuống ", ông học tây học, đi làm sếp ga xe lửa (những năm đầu
thế kỷ 20). Ông thuộc dòng trưởng trong họ, đi làm xa không trông nom được nhà
thờ họ nữa, nên nhường lại cho dòng thứ, vẫn còn ở trong làng thờ cúng tổ tiên
tới bây giờ. Do không bao giờ sống ở trong làng, bố cũng như anh lớn quên mất
quê Phù Đổng, luôn luôn khai mình quê ở Hải Phòng. Văn học sử chắc còn sai chuyện
đó mãi.Hồi trẻ, bà đi buôn tơ, nên thường đi lại trên tầu hoả, gập
ông sếp ga trẻ, vì thế mới nên duyên. Bà lấy ông nội trước, nhưng "vượt
quyền gia đình " nên không được làm vợ cả của ông. Nghĩ lại mà coi,
ngay thời bây giờ, có ai lại vui lòng cho con trai giỏi giang độc nhất của mình
lấy một cô "đi đạo", hồi đó có nghĩa là "bỏ không thờ cúng tổ
tiên nữa ", mà lại không đợi bố mẹ hỏi vợ cho không ? Kết cục là cụ nội
cưới cho ông một bà khác làm vợ cả, mang về sống cùng gia đình.Về sau, ông nội chúng tôi đổi về ga Lạng Sơn, ông mang gia
đình tới ở đó. Bà nội vẫn sống một mình ở Hải Phòng, nuôi hai con là bố chồng
tôi và một người anh. Hồi bố còn bé, bà cả chưa có con, cụ nội đã tới bắt bố
mang về Lạng Sơn, cho làm con nuôi bà cả, để mong bà cả sớm có con. Sau đó, bà
cả sinh được ba con trai và một gái. Trong tiểu sử của mình, bố kể lại cho thi
sĩ Xuân Diệu viết, có đoạn :" Khi lớn lên bắt đầu hiểu biết, thì thấy mình sống
mà lúc nào cũng thương nhớ, thương nhớ một người gọi bằng mợ, và sống trong nhà
với một người gọi bằng u..."Thỉnh thoảng bà nội lên Lạng Sơn thăm bố, hai mẹ con rù rì
nói chuyện. Đến lúc bà đi tầu hoả về, bố đưa tiễn, khi tầu đi rồi, bố cứ áp tai
xuống đường ray nghe tiếng tầu chạy vọng lại, vọng lại mãi...Thế rồi, anh lớn của bố bị bệnh mất mấy năm sau đó, lúc đó
còn nhỏ tuổi. Ông nội thương bà nội quá, bà ở có một mình, nên đã ra tay "đánh tháo"
cho bố trốn khỏi Lạng Sơn về Hải Phòng với bà. Từ đó, bố mới được sống với mẹ đẻ.
Lớn lên, theo nghiệp văn chương, nhiều truyện bố viết còn chịu ảnh hưởng thời kỳ
Lạng Sơn này. Bố cũng hay dắt các con về thăm ông và gia đình ở Lạng Sơn.Lúc bố mới bắt đầu viết văn, ông nội thấy con trai viết được
nhiều loại khác nhau, chưa nghiêng hẳn về thể loại nào, đã chọn cho bố tên Thế
Lữ (cũng do tên Thứ Lễ nói lái).Bà nội là bà lang đạo, chuyên chữa bệnh trẻ con nổi tiếng ở Hải
Phòng thời đó, vì vậy thường được gọi là " bà lang ". Có lúc, bố đã định
sẽ theo nghề lang của gia đình, nếu như thế thật, liệu có còn " Hổ Nhớ
Rừng " cho thời niên thiếu của chúng ta không nhỉ ?Đến khi bố được mười bảy tuổi, bà nội về một làng đạo ở Hà
Nam, đi xem mặt các cô gái trong làng, bà chọn mẹ chồng tôi, một cô gái hiền
lành ngoan đạo mười chín tuổi cho con trai của bà. Mẹ kể lại là trước đó, có
nhiều người đến dạm hỏi mẹ, nhưng cứ có người đến hỏi, là mẹ ốm rất nặng, chỉ
khi bà lang đến hỏi cho bố thì không ốm, nên gia đình bằng long gả.Cưới con dâu về, theo tục lệ, bà nội truyền nghề " bà
lang " cho. Vì vậy, mẹ vừa phải lo cơm nước cho toàn gia đình, nuôi
con nhỏ, cho con bú, vừa phải làm thuốc để bán, vừa đi khám bệnh cho thuốc, khi
có khách mời, (cũng có lúc, gia đình nuôi thêm người giúp việc). Vì phải làm
thuốc, mẹ học được tính làm việc rất sạch sẽ, kỹ lưỡng, cẩn trọng khi nuôi trẻ,
và làm cơm nước khéo léo, tinh khiết. Và cũng vì đi chữa bệnh cho trẻ con đau ốm
tận nhà, nên mẹ có chút tiền dư để riêng, không phải để tiêu cho mình, mà để bù
tiền chợ cho bà hài lòng.Tính bà lang rất hay dỗi, thỉnh thoảng lại lên cơn hờn. Có lần
bà hờn rồi bỏ nhà đi mất. Cả nhà sợ quá bổ đi tìm, chẳng thấy cụ đâu cả, đang
quá bối rối thì bà về. Bà vào nhà, lên cái phản gỗ, ngồi vào cái võng riêng
treo ngay trên đó, lấy trầu ăn, rồi nói :- Mình ngồi ngay ở nhà ga chứ có đâu xa, mà chẳng đứa nào
thèm ra đón mình về, cứ như con chó tiền rưỡi ấy thôi !Ấy là thời xưa người dân ta hay nói ví von như thế. Có khi bà
hành con dâu (mẹ chồng tôi) đủ kiểu rồi, không thấy nó khóc lóc gì, thì lại nói
ví :Nắng mãi mà hoa không héo,Hoa cứ reo réo hoa tươi.Mẹ sau này nghiện trầu cũng là tại bà. Mỗi khi đi đâu ra đường,
thì bà gọi lại, ấn miếng trầu vào tay, dạy bảo :- Ăn trầu đi, cho môi nó đỏ, mặt mũi hồng hào lên chứ, đàn bà
ra đường mà môi thâm thế kia.Nhiều lúc mẹ khốn khổ quá, không chịu nổi, đã trốn về gia
đình mình. Nhưng về tới nhà, thì bà ngoại lập tức khóc lóc nói :- Con đã lấy chồng, là con người ta, thì sống chết cũng phải
về đó không được bỏ, nếu không, mẹ chết ngay bây giờ đây.Rồi cụ đưa mẹ về lại nhà chồng.Mỗi lần mẹ ốm, phải uống thuốc, thì bà nội lại ngấm nguýt :- Mình ốm rơi răng cũng chẳng thuốc men gì, còn nó thì hơi tí
đã thuốc.Mẹ giận quá, nên đến lần ốm đó, mẹ không uống thuốc nữa, ốm
luôn một mẻ vài tháng. Đang lúc đó, mẹ lại mang thai chị lớn, mẹ ốm tới nỗi
thai đang lớn lại nhỏ đi, mười một tháng mới sinh, về sau chị lớn lên, rất yếu
đuối. Có một chuyện mẹ hay kể cho chúng tôi nghe là :Nhà có ba gian, ông ấy (bố chồng tôi) ngủ nhà ngoài, bà lang
(bà nội) ngủ nhà giữa, còn mẹ ngủ nhà trong. Mà có xong đâu, mỗi khi bà lang đi
vào trong Thanh (tỉnh Thanh Hoá) vài ngày, đi mua xương hổ nấu cao hổ cốt, thì
gọi mẹ ra dặn :- Này, nó đang ốm đấy, đừng có lộn xộn !Thế nhưng khi mẹ có thai thì bà mừng lắm, vì bà rất thích có
cháu.Mẹ vừa cười vừa kể, lần nào cũng đúng từng câu như vậy. Mẹ kể
thêm một chuyện nữa, bắt đầu bằng : - Con đã biết chuyện mẹ là người sung sướng
nhất đời chưa ? Có một lần, mẹ đi tầu hoả, có nói chuyện với một người trên tầu,
khi biết rằng mẹ là vợ ông Thế Lữ, người đó đã nói: "Giời ơi! thật thế à?
Chị thật sung sướng quá, chị là người sung sướng nhất đời". Đấy, con đã
nghe chuyện mẹ là người sung sướng nhất đời chưa ?Mỗi lần thấy mẹ kể chuyện, chồng tôi lại ra vuốt lưng mẹ:
"Mẹ lại kể chuyện cổ tích rồi ". Các con chúng tôi cũng được
nghe dăm ba câu chuyện "cổ tích"như thế. Chuyện cổ tích ngày xưa này,
dài mấy chục năm.Thế LữBố đi làm báo xa, mẹ ở nhà nuôi các con và phụng dưỡng mẹ chồng
thay bố. Mỗi tháng bố về một hay hai lần. Nhiều khi bố về là bà kể tội các
cháu.. Bố mệt và giận, nên lôi các con ra bắt nằm trên phản, quất cho một trận
phất trần, con khóc, vợ buồn... bố lại bỏ đi...Tuy nhiên, nhiều lúc bốn anh em cũng được bố chiều, dẫn đi
chơi, có lần trời mưa không dẫn con đi xem xiếc như đã hứa được, bố đã xuất thần
hoá trang làm nhân vật sân khấu, làm hề, giúp vui cả nhà...Anh cả, đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, còn nhớ có lần bố dắt anh
đi xe hàng ra Đồ Sơn hóng gió biển... thấy bố dũng mãnh bế mình đứng trên xe,
anh rất phục và rất hãnh diện vì bố. Anh cũng là người con duy nhất theo được
nghề đạo diễn của bố, được sống gần bố lúc mới lớn, được bố nuôi dưỡng những
đam mê về nghề kịch cho anh, được bố dẫn dắt anh lúc bắt đầu. Sau này, hai bố
con nói chuyện, bàn bạc về kịch rất tương đắc, bố vẫn là một cố vấn theo dõi
công việc đạo diễn của anh suốt đời. Có những vở kịch anh làm theo góp ý của bố,
đã rất thành công.Bố tính hay pha trò, con cháu ai có tật gì, dáng gì không đẹp,
là ông bắt chước, làm như hề, giúp trẻ hiểu cái xấu để sửa lại. Anh thứ hai là
người khó ăn, anh không ăn nổi một cọng hành. Có lần, bố vẽ hình anh đang khóc
bên cái bát có cọng hành... để dỗ anh ăn.Cả nhà các con các cháu đều học được tính hay nói đùa, ai
cũng thích kể chuyện cười. Hôm nào ăn cơm đông đủ là tranh nhau kể chuyện. Con
gái tôi khi còn bé, cháu cũng thích kể lắm, nhưng khi cô bé kể chuyện cười thì
vừa được vài câu, đến chỗ buồn cười là cô nàng cười trước, rồi càng lúc càng cười,
cười đến nỗi không nói nổi nữa, cả nhà cứ nhìn nó cũng thấy buồn cười rồi, nên
người nọ chỉ người kia, ai cũng lăn ra cười. Câu chuyện thì chưa kể xong! Mà có
ai cần nghe xong câu chuyện đâu ! Cười là vui rồi.Trong lá thư đầu tiên anh Nghi gửi cho chồng tôi sau mấy chục
năm xa cách, không hề có liên lạc, anh viết: "Hình ảnh cuối cùng của em,
mà anh còn giữ mãi, là một chú bé mươi tuổi đang lăn ra cười trên đê. Lúc đó em
đang kể chuyện "Ganh đòn bá" (ba đòn gánh) cho anh nghe ở hậu
phương".Mẹ hay nhắc lại là hồi trẻ bố còn hay nóng giận, nhưng khi bố
giận, bố chỉ nện giầy nặng thêm lên thôi. Mẹ nghe tiếng giầy là biết ngay, nên
tránh không nói gì hết cho đến khi cơn giận của bố tan đi.Bố sống xa nhà, phần nhiều ở Hà Nội, bố gia nhập Tự Lực Văn
Đoàn, làm thơ, làm báo, viết truyện, viết Tin Văn Vắn chuyên về phê bình thơ...
Bố nổi tiếng, bố lập ban kịch, rồi đi trình diễn các nơi... Bố vẫn về thăm gia
đình đều đặn hàng tháng. Nhưng rất ít bạn bè, đồng nghiệp của bố quen biết gia
đình vợ con bố.Thế rồi, chuyện phải đến, đã đến. Ngay từ những năm bắt đầu
làm kịch 1937-40, bố gập một người cùng chí hướng, bà Song Kim, bà giỏi thiên bẩm
về nghề kịch, có cùng những ước mơ những đam mê sân khấu như bố... Bà Kim đã
cùng bố xây dựng nền kịch nói, từ đó...Anh Nghi nhiều lúc nói với chúng tôi :- Anh là người không có tuổi thơ, vì mới có mười mấy tuổi,
đang ở Hải Phòng, nghe tin bố có "bà khác " ở Hà Nội, mẹ khổ
quá, mà mẹ không có ai bàn bạc, anh là con lớn nên mẹ chỉ nói chuyện với anh.Bà nội nghe chuyện ấy rất buồn. Tuy xã hội ta trong những năm
xa xôi đó, đa thê là chuyện bình thường và hợp pháp.Thế rồi Đảo chính Nhật, rồi Cách mạng tháng Tám. Bố cùng ban
kịch đang đi lưu diễn vội trở về Hà Nội. Đến khi chiến tranh chống Pháp bắt đầu,
cả đoàn kịch đã theo Kháng Chiến, đi khắp các nơi biểu diễn.Như tất cả mọi người, gia đình ở Hải Phòng gồm bà nội, mẹ và
bốn anh em cũng chạy tản cư. Vào một ngày năm 1948, đang ở nhờ trong một nhà
dân vùng hậu phương xa thành phố, nghe tin có ban kịch đi qua, các anh đi tìm
ngay được bố, đưa bố về gặp gia đình. Bao nhiêu lâu mới được một lần sum họp, mới
có một bữa ăn đông đủ cả nhà... Nhưng, người lớn có chuyện quan trọng cần bàn
ngay : Nhà đã hết tiền, không có cách sinh nhai, không thể tiếp tục sống ngoài
hậu phương được mãi. Gia đình quyết định cho tất cả đàn bà trẻ con về thành, trừ
anh lớn. Bố nói : " Nghi đi với cậu, con về thành sẽ bị bắt đi lính
cho Pháp ".Từ đó, chia ly hai ngả.Năm 1954, sau hiệp định Genève, bố và anh Nghi về Hà Nội,
nhưng nửa kia của gia đình lại ở trong Nam. Mẹ không hành nghề "bà lang "
nữa, vì ít có người bệnh tìm đến, hoặc nếu người ở xa mời đi thì không dám đi
vì mẹ không biết đường... Thế rồi, mẹ già đi, trẻ con trở thành người lớn...Thế Lữ và vợ
sum họp sau 1975Sau năm 1975, khi bố mẹ được sum họp, bà nội đã mất từ lâu,
thỉnh thoảng bố viết thư cho chúng tôi, trong những lá thư gửi con cháu ở xa,
có những câu: "Bây giờ cậu được sống ở nhà với mẹ và chị lớn của các con,
cho bõ những ngày xưa thương nhớ ". Chúng tôi rất hạnh phúc vì chuyện
bố về với mẹ "cho bõ những ngày xưa thương nhớ ". Tuy nhiên, việc
đó cũng làm một người khác khổ. Hình như trên đời này không có gì toàn vẹn. Mẹ
từ chối việc liên hệ với phía đó, có nói riêng với tôi rằng :Kể ra thì chuyện cũng xa rồi, bố mẹ cũng già trên 70 cả,
nhưng mẹ là người theo đạo Chúa, mẹ không được phép chính thức chấp nhận việc
đó.Tuy vậy anh em chúng tôi vẫn giữ liên lạc rất tốt đẹp với bà
Song Kim, tự biết mình là con, mình phải biết chấp nhận gia đình như nó là, và
trân trọng những người thân của bố. Mỗi lần về thăm Hà Nội chúng tôi đều tới
thăm bà và gia đình, tham dự giỗ tết, cũng như những bữa cơm sum họp... Bà rất
quý chồng tôi, vẫn thường nhắc những chuyện cũ như : Ngày ban kịch Anh Vũ (?)
xuống Hải Phòng lưu diễn, nhà tôi mới có mấy tuổi, bà còn bế ngồi trên lòng...
Bà vẫn thăm hỏi các chú em trai của bố, mất liên lạc từ những năm 1946...Anh
Nghi nói riêng với chúng tôi rằng :Công bằng mà nói, bố sống xa gia đình rất lâu, nổi tiếng như
thế, hồi đó rất nhiều các mệnh phụ đẹp như bà hoàng của Hà Nội, mê bố. Cho nên,
không có người này thì có người khác. Bố đã gặp được người cùng chí hướng, cùng
bố xây dựng, thực hiện những đam mê nghệ thuật, hơn nữa bố có được một gia đình
an ổn, hạnh phúc để làm việc trong rất nhiều năm, nhất là trong suốt những năm
đất nước chia cắt, có người săn sóc tinh thần cũng như vật chất cho bố, thật là
đáng quý. Mình phải kính trọng và cám ơn bà Kim. Vả lại, đây là một chuyện đã
được xã hội ngoài này trong bao nhiêu năm nay công nhận, mình nên tôn trọng việc
đó. Họ hàng làng nước, ai có nói gì cũng mặc họ.Bố chúng tôi là người không biết gì tới đồng tiền, có gì dùng
nấy, không đòi hỏi. Trong bao nhiêu năm, cụ vẫn có số lương rất nhỏ, vì không
biết lên xin, nên người ta quên cho cụ Chủ Tịch hội Nghệ Sĩ Sân Khấu lên
lương... Tuy nhiên, khi gặp lại chúng tôi, cụ vẫn cho rằng mình sống rất thoải
mái. Trong những năm tháng cuối đời, cụ vẫn giữ thói quen mê đọc sách, cụ đọc 8
tiếng một ngày, thỉnh thoảng xem truyền hình, thích nhất là xem kịch, dĩ nhiên
! Các bạn cũ, mỗi khi đi qua thành phố, đều tìm tới thăm, chúng tôi gặp được những
người xưa cũ như thi sĩ Xuân Diệu, thi sĩ Huy Cận... các văn nghệ sĩ lớp sau
như nhà văn Nguyễn Khải, hoạ sĩ Lưu Công Nhân... rồi các anh học trò như cac
tác giả Tào Mạt, Thế Ngữ... và đặc biệt là nghệ sĩ Bảy Nam, bà rất thương cụ,
nghe mấy cụ nói chuyện với nhau anh anh tôi tôi, rất hay ! Đi đâu xa, bà
cũng nhớ mang quà về cho, khi thì nải chuối, khi thì ít bánh đặc sản... Đó là
tôi chỉ kể được một vài.Riêng đối với cháu trai nhỏ của chúng tôi, cụ rất yêu chiều
cháu. Mỗi khi chúng tôi sắp về thăm, cụ sửa soạn trước ít truyện để kể riêng
cho cháu nội nghe, chúng tôi xin ghi âm nhưng cụ không chịu. Về sau, khi cháu lớn
lên, cháu hiểu được những việc làm của ông: "Ồ, hoá ra ông nội có viết về
truyện kinh dị, nên hồi xưa ông kể cho con nghe những truyện lạ lắm! ".Những món quà chúng tôi mang về biếu, được cụ thích nhất là
sách và những bó bút nguyên tử giản dị, cụ để dành để biếu bạn bè tới chơi.
Hình ảnh cụ cầm cả bó bút giơ lên xuýt xoa nói: " Cậu cảm thấy giầu
có quá! ", thật là đẹp. Và món quà cụ muốn được mua riêng cho mình là
khăn mùi xoa giấy ! Các bạn có biết tại sao không ? Vì cụ không muốn người khác
phải giặt hầu những khăn bẩn (những món này, hồi đó còn chưa mua được dễ dàng
ngoài phố).Có người than thở cho cụ, nói rằng cụ nghèo quá, nếu ở nước
khác mà nổi tiếng như thế, tha hồ mà giầu có. Tôi nghĩ khác, tôi nghĩ cụ là người
sung sướng nhất, vì một nghệ sĩ như cụ, vừa hơn hai mươi tuổi, ra đời, viết cái
gì cũng được bạn bè, đồng nghiệp, độc giả cũng như xã hội đón tiếp rất trân trọng,
nồng nhiệt, ngay lập tức: Dưới ba mươi tuổi đã được coi như thi bá thời bấy giờ,
đến khi bước sang kịch nói cũng không có gì là không thành công, tuy chưa làm
được hết những ước mơ của mình, nhưng không hề thất bại. Cụ đã mở đầu thơ mới,
mở đầu kịch nói, đóng góp được bao nhiêu cho văn hoá nước nhà. Tư cách của cụ
trước sau vẫn luôn luôn là gương mẫu cho những thế hệ tiếp theo, cụ đã truyền
kinh nghiệm, dậy bảo nghề Đạo Diễn cho nhiều lớp học trò, xây dựng cho thế hệ
sau với tấm lòng chan hòa hiếm có... Đó là một nghệ sĩ được hiểu, được quý trọng
ngay khi vừa ra đời và suốt cuộc đời. Đó là điều hạnh phúc nhất. Văn hoá là
chuyện muôn đời, đời nay chưa biết làm rõ công của cụ trong văn học thì đời sau
sẽ làm. Chúng tôi tin như thế.Riêng về mẹ chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bố chúng tôi đã về
với gia đình, với mẹ trong 12 năm cuối đời của cụ, là điều quý nhất cho mẹ.
Danh tiếng, mẹ chúng tôi không cần, mẹ biết là "người đi đã trở về "
là đủ.Tới bây giờ, bố mẹ chúng tôi đã mất cả rồi, lâu rồi. Bốn anh
em cũng đã ra đi hết. Những người đó chưa bao giờ cần giải thích cho ai cả. Còn
tôi, tôi phải viết những dòng này vì cuộc đời âm thầm của mẹ chồng tôi, không
nên để âm thầm mãi, như thế không công bằng. Và để các con, các cháu hiểu,
thương và hãnh diện vì cụ.Chúng tôi vừa nhận được tin : Cụ bà Phạm thị Nghĩa, tức Nghệ
sĩ Nhân Dân Song Kim vừa qua đời, vào tháng 11 năm 2008. Chúng tôi ở xa không về
được, chỉ biết vọng về thương cảm, xin cầu nguyện cho hương linh cụ bà sớm được
siêu thoát, thanh thản về cõi tịnh.Nếu chúng ta do những nhân duyên riêng đã được gần gũi, được
hiểu, được sống với một vài vị thuộc thế hệ đã trở thành xưa cũ đó, ta sẽ cảm
được số phận riêng của mỗi người... Những người đó sinh ra, lớn lên trong một
hoàn cảnh xã hội rất khó khăn, khác của chúng ta ngày nay nhiều lắm. Mong rằng,
họ không bị những thành kiến của những người ngày nay xét nét. Họ đã sống qua
những vinh quang, những hạnh phúc, cũng như những cay đắng, những tủi hờn... Họ
đã khai phá, đã làm việc, đã thương yêu, đã hy sinh, đã chịu đựng những ràng buộc,
những khổ đau...Thương biết bao nhiêu, kính phục biết bao nhiêu.Phạm Thảo Nguyên
Bà lang,
mẹ nhà thơ Thế Lữ
sum họp sau 1975
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét