Thời của thánh thần 3
Chương 14
Xẻ dọc trường sơn
Văn Quyền có khả năng thính nhạy đặc biệt, có tài đánh hơi
trước những thông tin và tín hiệu lạ. Điều này rất ít khi thấy xuất hiện ở con
người mà thường hay gặp ở những loài vật, đặc biệt là các giống chim câu và
khuyển.
Chim câu bịt mắt thả tít lên trời xanh, vài ngày vẫn tìm được
đường về. Dù đi xa đến đâu, chó chỉ cần đánh dấu bằng các vết nước đái dọc đường.
Loài chó Phú Quốc, ngoài dáng đẹp bộ lông có những xoáy lưng độc đáo, còn có khả
năng đánh hơi và tìm dấu cực kỳ. Một người lái buôn từng mang một con chó Phú
Quốc từ cửa biển Dương Đông vào đất liền Hà Tiên, nửa đêm, con chó tự tháo
xích, bơi vượt biển hơn bốn mươi hải lý, tức khoảng bẩy mươi nhăm kilômét, để
trở về nhà cũ.
Sự xuất hiện bất thường của Cam trong phòng thủ trưởng Chiến
Thắng Lợi, khiến Quyền hết sức chú ý. Nói chuyện với Đà Giang ở tầng dưới,
nhưng tai, mắt Quyền như để ở cả tầng trên, như có sức xuyên thấu lớp bê tông
trần nhà để nhận biết cuộc nói chuyện bất thường giữa Cam và Lợi. Bằng một trí
nhớ siêu đẳng, Quyền lại mường tượng tới bức thư có tên Phương Xa, một cái tên
phiếm chỉ, theo đường giao liên gửi lên ATK tới địa chỉ người nhận Nguyễn Kỳ
Khôi. Dạo ấy cái tên Khôi hầu như không ai biết. Không ai có tên là Nguyễn Kỳ
Khôi công tác trong cơ quan đầu não ATK. Vậy mà Văn Quyền đã cầm lá thư ấy đem
về cho Lợi. "Em biết lá thư này gửi cho anh. Nhân lúc không ai để ý, em lấy
về". Tưởng làm phúc, hoá ra phải tội. Lợi sầm mặt. "Tôi đã nói với cậu
bao nhiêu lần rồi. Coi như tôi không bao giờ có cái tên Khôi. Thư từ ai gửi
cũng mặc. Cứ để văn thư họ ghi không có người nhận và gửi trả lại…". Quyền
đã toan cầm lá thư mang trả thì Lợi giật phắt lại. "Bây giờ trả, hoá ra lạy
ông tôi ở bụi này. Cậu để tôi đốt vứt sọt rác. Nhắc, để lần sau phải nhớ".
Một tháng sau lại có một thư khác của Phương Xa gửi Nguyễn Kỳ
Khôi. Lần này thì Quyền chẳng dại. Làm phúc, tìm cách lấy lòng thủ trưởng mà lại
bị mắng, thì xin cạch. Chào nhé. Quyền tìm mọi cách biển thủ để được bóc lá thư
ấy xem Phương Xa là ai, nội dung viết gì?
"Bao lâu rồi bặt tin anh. Em mong anh đến mất ăn mất ngủ.
Nhắm mắt lại là em lại mường tương ra ba ngày thần tiên ở phố Phương Đình ấy.
Ngay bây giờ, em sẽ đánh đổi tất cả để được sống lại những ngày hạnh phúc ngắn
ngủi. Anh yêu ơi anh có biết rằng anh đã cho em một báu vật thiêng liêng và quý
giá biết nhường nào không? Nhưng thôi, em muốn dành cho anh sự bí mật tuyệt đối.
Để anh bàng hoàng, ngây ngất… Tháng sáu năm ngoái, em lên Định Hoá họp về công
tác phụ vận. Tìm anh hoài chẳng thấy. Sao anh im lặng lâu quá vậy? Đã quên em rồi
chăng? Hay có sự cố gì đó mà thư tù bị thất lạc. Viết thư cho em, hãy gửi về địa
chỉ: Đào Thị Cam, hòm thư lưu 241051. Hoặc gửi theo đường thư tay về K3.
Đào Thị Cam là ai? Quyền cất giấu lá thư không cho ai biết. Rồi
sẽ có lúc cần đến như một tang chứng. Có bảo bối, Quyền sống với Lợi có vẻ bình
đẳng và tự tin hơn. Sau hoà bình lập lại, chẳng khó khăn gì, Quyền đã tìm ra
Phương Xa, tác giả của nhưng lá thư gửi Khôi hồi kháng chiến. Truyện ký "Người
đẹp Sơn Minh hay là huyền thoại về Ni cô Đàm Hiên" của Đà Giang đăng
trên tạp chí Văn, đã nói quá rõ về con người nổi tiếng này. Để thử thần kinh
Chiến Thắng Lợi, Quyền làm ra vẻ hồn nhiên, khoe với Lợi:
- Thằng Đà Giang bạn em viết truyện ký này khá lắm. Anh đã đọc
chưa? Đồng chí Đào Thị Cam trong này xứng đáng được phong anh hùng…
Quả nhiên, mặt Lợi tái đi, cử chỉ lúng túng.
- Thế à? Mình hoàn toàn không biết gì về nữ đồng chí ấy.
Rõ ràng là Lợi rất sợ nhắc đến quá khứ, đặc biệt là mối quan
hệ mờ ám với Cam.
Đã vậy lần này Quyền lại thử chơi một đòn cân não.
- Báo cáo thủ trưởng. Chị Cam lúc ở phòng thủ trưởng ra, có
chuyện gì mà có vẻ xúc động lắm… Tay Đà Giang, bạn em nó khoe hồi gặp để viết
truyện ký về chị Cam, nó được chị ấy cho xem khá nhiều bức thư ký tên Phương
Xa…
- Các cậu bỏ cái thói chõ mũi vào việc của người khác đi - Lợi
giật mình, quay ngoắt nhìn Quyền đầy ngờ vực, rồi sẵng giọng - Mà cái tay Đà
Giang ấy nó có việc gì mà cứ quanh quẩn mãi ở đây thế?
Biết mình vừa mó dái ngựa, Quyền liền nhân đà chuyển nhanh
câu chuyện.
- Dạ, báo cáo thủ trưởng, cậu Giang muốn lên gặp trực tiếp
lãnh đạo Ban để xin đi chiến trường ạ. Cậu ta có đơn viết bằng máu…
- Tưởng cậu ta về Ty Văn hoá Sơn Nam mấy năm nay rồi cơ mà?
- Dạ, đúng vậy. Sau sai lầm với cuốn tiểu thuyết "Cưới
chạy" xuyên tạc và bôi nhọ cải cách ruộng đất, rồi tiếp đến là cuốn
tiểu thuyết "Máu của đất" bị cấm phát hành, Giang bị kiểm
điểm và buộc phải chuyển khỏi báo Tiến Lên. Em nể tình đồng nghiệp, vận động
cho cậu ta về quê. Tưởng sẽ yên tâm phấn đấu và sáng tác, nào ngờ Giang lại gây
chuyện với ông trưởng ty.
- Tay trưởng ty tên là Huệ Lan phải không? Anh em văn nghệ sĩ
Sơn Nam kêu ông này lắm.
- Vâng, một cái tên như ái nam ái nữ. Cái chính là Huệ Lan sợ
Đà Giang giỏi hơn mình.
Giỏi hơn là cái chắc. Đợt văn nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế,
chỉ mới hơn một tháng hắn đã viết được vở kịch nói đoạt huy chương vàng Hội diễn
Toàn quốc… Thế nên Huệ Lan mới ra sức trù dập, cho ngồi chơi xơi nước, cho hưởng
bẩy mươi phần trăm lương để vô hiệu hoá…
- Đúng như đồng chí Tư Vuông nói. Lãnh đạo mấy tay văn nghệ
có tài mệt lắm… - Lợi buông một tiếng thở dài, liếc nhìn tập hồ sơ đang làm dở ở
trên góc bàn, ngay phía tay phải của anh. Trong chiếc cặp ba dây màu xanh kia
là toàn bộ hồ sơ về Nguyễn Kỳ Vỹ. Nhiều lúc ngồi thừ người bên bàn, Lợi cứ thầm
ao ước: Giá cái cặp hồ sơ về Vỹ biến mất, bị tay nào lấy cắp mất, hoặc cháy rụi
không còn vết tích. Nhưng không. Nó cứ chềnh ềnh trước mặt anh hàng mấy năm trời,
như một trớ trêu, một thách thức. Chềnh ềnh và ngày càng cao lên, to ra.
Từ ngày Vỹ bị gọi từ Liên Xô về nước, số sự cố, vụ việc không
hề giảm, ngược lại có nhiều chuyện làm Lợi đau đầu. Gần đây nhất là sự kiện mít
tinh biểu tình, đọc thơ Nhân văn Giai phẩm, thơ phản động, tập hợp các phần tử
quá khích ở nông trường Quan Chi. Theo báo cáo của công an, nếu không có cô Võ
Thu Hạnh, con của đồng chí thượng tá Võ Khang đi cùng, tối ấy Nguyễn Kỳ Vỹ bị bắt
tống giam là cái chắc. Liền sau đó là cuốn sổ tay của Vỹ do Sành, nộp cho cơ
quan công quyền.
Cuốn sổ ghi chép này đặc biệt nguy hiểm, hoàn toàn phơi bày
tâm can Vỹ, chỉ ra những mối quan hệ chằng chịt và phức tạp của Vỹ. Những bài
thơ Vỹ sáng tác trong thời gian gần đây, khi tên tác giả bị cấm in trên các
báo, đã hoàn toàn bộc lộ tâm trạng u uất, bức bối, chán ghét cuộc đời, hận thù
chế độ…
Phần thơ của bạn bè, lại càng nguy hiểm. Những tên đầu sỏ của
Nhân văn Giai phẩm đều có thơ được chép. Nhiều tài liệu của bọn Xét lại quốc tế
được lưu ý dịch để phát tán… Đã có lần cơ quan báo vệ chính trị đề nghị cho bắt
Vỹ. Nhưng đồng chí Tư Vuông không đồng ý. Chưa đủ chứng lý hay đồng chí Tư
Vuông còn nể nang Lợi, muốn tiếp tục thử thách lòng trung thành của Chiến Thắng
Lợi?
- Lãnh đạo mấy anh văn nghệ trong hoàn cảnh kẻ thù luôn rình
rập thế này càng mệt thủ trưởng ạ - Quyền luôn tìm lúc phụ hoạ thích hợp - Em
nghĩ hay là tay nhà văn Đà Giang này nó viết bằng nước quả mồng tơi? Đây, xin
trình thủ trưởng lá thư tình nguyện của hắn.
Lợi cầm lá thư, đọc và lật đi lật lại, như nhà y học nhìn
tiêu bản để xác định thành phần sinh hoá. Có vẻ là máu chứ không phải nước quả
mồng tơi. Bọn văn nghệ sĩ hăng lên, uống chén rượu vào là có thể cứa manhxơlam
thoải mái, máu chảy ồng ộc đầy cốc ngay ấy mà. Mấy cô mấy cậu diễn viên điện ảnh,
kịch sĩ thì giói nhất là khoản khóc. Đang cười toe toét đến cảnh cần khóc chỉ cần
chớp chớp mắt là nước chảy tuôn trào… Nét chữ run rẩy thế này chắc là xúc động
lắm đây.
- Này, phải nhân lá thư này để kích động lớp trẻ. Phần tử bất
mãn chế độ, thoái hoá, trùm chăn như nhà văn Đà Giang, cũng xung phong lên tuyến
đầu, một khi đế quốc Mỹ đã xâm phạm đến nơi thiêng liêng nhất: Tình yêu Tổ Quốc.
Cậu đưa ngay lá thư này lên báo cáo anh Tư và xin chủ trương. Nếu anh Tư đồng
ý, chúng ta sẽ cho chụp đăng bức thư trên báo chí. Các văn nghệ sĩ xung phong
ra trận. Lá thư bằng máu của nhà văn Đà Giang sẽ có sức mạnh bằng cả một đơn vị
thiện chiến.
Ý kiến thủ trưởng đặc biệt sáng suốt. Đây sẽ là một sáng kiến
độc đáo của Ban ta - Quyền xoa tay - Dạ, xin anh mấy chữ đề xuất để em sang
trình Anh Tư.
°°°
Đà Giang là bút danh của Mai Văn Nhạ, một cây bút được điều từ
báo Liên khu Ba về báo Vệ quốc. Sau chiến dịch Hoà Bình, Nhạ bám sát các đơn vị
bộ đội dân công dọc đường số Sáu có nhiều bài ghi chép, ký sự sắc sảo được bộ đội
chuyền tay nhau đọc. Rồi đột nhiên một cái tên lạ hoắc bỗng xuất hiện trên báo
Văn, với bút ký "Trăng nước sông Đà", ký tên Đà Giang, làm giới
văn chương chú ý. Hoá ra Đà Giang và Mai Văn Nhạ chỉ là một. Hồi viết bút ký
đó, Nhạ phải lòng một cô dân công Mai Châu có tên là Giang. "Mai Châu mùa
em thơm nếp xôi" Câu thơ trong bài thần ca Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng như choàng vào cô gái Mai Châu vẻ đẹp huyền thoại, khiến nhà văn đất
Sơn Nam càng thêm mê mẩn. Hai người thường hò hẹn nhau ở bến phà sông Đà. Bút
danh Đà Giang xuất xứ là vậy. Đây cũng chính là cái mốc, đánh dấu sự nghiệp văn
chương của Nhạ. Độc giả và anh em trong làng văn sẽ quên hẳn một anh chàng Nhạ
nhà báo để ghi nhận và yêu mến một nhà văn có bút danh Đà Giang.
Liên tiếp trong ba năm, Đà Giang cho in lần lượt các tập truyện
ký, và tiểu thuyết: "Người đẹp châu thổ" "Cưới
chạy", "Máu của đất". Tiểu thuyết "Cưới chạy" vừa
in ra, đã bị đánh tơi bời. Đến cuốn tiểu thuyết "Máu của đất" thì
sự nghiệp văn chương của Đà Giang bị chững lại. Cuốn sách chưa ra khỏi nhà in
đã có lệnh ngừng phát hành. Có một thông tin từ đâu đó truyền xuống: "Máu
của đất" cùng một mạch viết về cải cách ruộng đất, nhưng đen tối
và phản động hơn "Cưới chạy", in ra không có lợi.
Dạo đó, đúng vào cái thời điểm xử lý ngầm vụ án Nhân văn Giai
phẩm. người ta tưởng Đà Giang mắc chứng điên. Ông thủ trưởng cơ quan Giang đã gọi
người đưa anh đi nhà thương Trâu Quỳ. Giang trốn nhà thương về quê ba tháng.
May mà được cô vợ hiền lành tần tảo, chăm nuôi cho Giang vượt qua cơn hoạn nạn.
Cuốn tiểu thuyết "Máu của đất" mất hút như chưa hề được
sinh ra. Một năm sau, khi cấp trên buộc Đà Giang phải chuyển công tác về Sơn
Nam, anh cũng không biết người ta đã làm gì với đứa con tinh thần chưa kịp khai
sinh của mình? Chắc chắn là những cuốn sách xấu số ấy đã bị đưa vào máy nghiền
để tái chế lại. Hỏi nhà xuất bản, người ta đùn đẩy cho nhau, nhún vai không biết.
Tất cả đều như vô can, đều quá dửng dưng. Thậm chí hỏi xin lại bản thảo, người
ta cũng nhún vai lắc đầu: "Chúng tôi không giữ. Chúng tôi không biết. Đồng
chí lên hỏi cấp trên…"
Cấp trên là ai?
Không biết "Máu của đất" đã hoàn toàn biến
khỏi mặt đất.
Lá đơn viết bằng máu của Đà Giang như đã chiêu tuyết cho nhà
văn, cho cả giới nhà văn. Hàng chục tờ báo cùng chụp đăng nguyên văn bút tích
lá thư xin tình nguyện ra mặt trận tiêu diệt giặc Mỹ xâm lược với những nét chữ
run rẩy, mãnh liệt cảm xúc của Đà Giang. Những dòng chữ như một lời hịch, lời
hiệu triệu, kích động hàng vạn thanh niên đang náo nức lên đường.
Người đầu tiên mang tin vui đến với nhà văn Đà Giang là cô
giáo Đào Trinh Khiêm. Cầm tờ báo Cứu Quốc còn thơm phức mùi mực, nàng phóng một
mạch từ trường về nhà, chạy ba bước lên cầu thang, giọng lanh lánh như chuông:
- Có tin rất vui đây các anh ơi. Nhà văn Đà Giang trở thành
anh hùng chống Mỹ rồi…
Lúc ấy, trên gác, mấy anh chàng văn sĩ thất thế đang có cuộc
tranh luận quyết liệt và bất phân thắng bại về việc máy bay phản lực Mỹ có dám
đánh bom Hà Nội hay không? Phái "Hà Nội ngàn năm văn hiến, bất khả xâm phạm"
có Vỹ và Hàn Thâm Nho. Phái "Mỹ mà xấu, Mỹ sẽ ném bom tuốt tuột, ngay cả mả
bố Tổng thống Hoa Kỳ táng ở giữa Hồ Gươm", có Đà Giang và Du San.
- Thằng Mỹ, có cho ăn kẹo cũng không dám đánh bom. Hà Nội -
Tác giả "Bến đò ngang", Hàn Thâm Nho, hùng hồn tuyên bố xanh rờn. Nó
đánh Hà Nội tức là đánh vào lương tri thời đại, đánh vào văn minh và văn hiến.
Các vị thử nghĩ coi, thằng Mỹ đang dương dương tự đắc vỗ ngực cho mình là đại
quốc tiêu biểu cho văn hoá toàn cầu, lẽ nào dám mang bom huỷ diệt Thăng Long?
- Các ông chỉ là một lũ hủ nho gàn, nói chuyện chán bỏ mẹ -
Đà Giang giọng ngán ngẩm - Các ông cứ tưởng tên nó là Mỹ, tức là nó phải đẹp chứ
gì? Cứt chó. Mỹ mà xấu và đểu mới đúng. Các ông nhớ lại đi. Đại thế chiến thứ
hai, thằng Nhật chủ quan khinh thường, ngoằng một cái Mỹ nó táng cho hai quả
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, chết hàng trăm nghìn thường dân vô tội.
Năm 1963, anh em nhà Diệm Nhu tưởng Mỹ không dám can thiệp sâu vào miền Nam,
ngoằng một cái, Mỹ xúi Thiệu Kỳ Hương làm cuộc đảo chính, xơi tái mấy anh em Diệm.
Mỹ là thế đấy, các bố ạ. Vậy thì con xin các bố chớ có chủ quan, có mẹ già vợ dại,
con thơ hãy mau mau sơ tán về nông thôn. Lên được núi cao, rừng sâu càng tốt.
Nhất là nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Kỳ Vỹ có cô vợ hoa hậu thì
phải cố mà giữ, chớ có cho giặc lái Mỹ nó nhìn thấy mặt người đẹp Đào Trinh
Khiêm…
- Cái gì mà khiêm với chả nhường thế? Các vị đang nói xấu tôi
đấy nhé! - Khiêm xuất hiện ở cửa, tay cầm tờ báo huơ lên - Tôi sẽ phạt, không
cho xem lá thư viết bằng máu của nhà văn Đà Giang…
Cả bọn nháo nhào, cùng giành lấy tờ báo.
Đà Giang bỗng lặng đi khi nhìn thấy đích thị những dòng chữ của
mình được in trang trọng chính giữa trang nhất.
- Vợ chồng tớ sẽ khao tất cả, nhân sự kiện trọng đại này - Vỹ
tuyên bố hùng hồn rồi vẫy Khiêm ra hiên nói nhỏ.
- Tao nói thằng Giang đừng giận nhé - Đợi cho Khiêm xuống
nhà, tranh thủ đi chợ, Du San nháy mắt với các bạn rồi nhìn thẳng vào Giang như
đang đi guốc trong bụng anh - Mày viết lá thư này bằng máu đỉa hay nước quả mồng
tơi? Cũng có thể bằng nước vỏ lựu hay máu mào gà như Nguyễn Du viết trong Kiều
khi mô tả thủ đoạn của Tú Bà khuyên gái lầu xanh làm giả sự trinh nguyên… Tinh
tướng. Nhưng qua làm sao được mắt thằng này?
Đang châm đóm, Đà Giang vứt phịch cái điếu cày xuống sàn, nước
điếu đổ khai mù. Anh chồm tới, hai tay túm chặt cổ áo Du San xoắn một vòng.
- Cho mày nói lại. Nếu không tao sẽ vặn cổ…
Cả bọn xúm lại can. Du San biết đã chọc vào máu Trương Phi,
chắp tay rối rít:
- Tao trót xúc phạm… Xin lỗi… Muốn đùa cái chất anh hùng rơm
của mày thôi mà…
- Ăn nói láo, lối mất dạy… May mà mày kịp xin lỗi, không tao
đấm vỡ mặt - Giang phẩy tay, thở dốc, hai mắt ngân ngấn nước - Chúng mày biết
không, tao hoàn toàn không thích cái trò đạo đức giả. Đừng tưởng thằng này cũng
như loài cá sấu. Vừa ăn con mồi vừa chảy nước mắt. Trích máu viết thư với tụi
mình kể cũng hơi… hề. Nhưng buộc lòng phải viết, phải chứng tỏ tim gan mình. Từ
ngày về tỉnh, bỏ sông vào ngòi, uất không chịu được. Làm tớ suốt đời cho thằng
Huệ Lan thì thà bốc cứt mà ăn cho xong. Tao biết nỗi khổ này không chỉ riêng
ai. Thằng Vỹ phải làm quân cho thằng xe đạp thồ Tiến Tới cũng nhục lắm. Hàn Tín
chui qua dái thằng hoạn lợn. Nhưng còn đỡ hơn tao, vì giám đốc Tiến Tới còn biết
cách nghĩ ra thơ ca hò vè để thằng Vỹ có công ăn việc làm, có tí tiền nộp cho
cô giáo Khiêm. Thằng Huệ Lan nó chơi tao tới số, chỉ thiếu cách bốc cứt nhét
vào mồm tao. Phải bằng mọi giá thoát khỏi vùng đất tổ tiên ông bà, thoát khỏi
thằng Huệ Lan. Với lại, làm thằng viết mà cứ bí rì rì như thế, viết thế đếch
nào được. Tao bèn viết đơn, rồi trực tiếp lên gặp lãnh đạo cao nhất của tỉnh,
xin tình nguyện đi chiến trường, quyết chết xanh cỏ, sống đỏ ngực. Khốn nạn
thân tao, mọi đơn từ, lời thỉnh cầu, cuối cùng đều chuyển về cho thằng Huệ Lan
giải quyết. "Anh bỉ mặt tôi, anh coi thường tôi. Có lá đơn mà anh cũng vượt
mặt tôi, lên làm phiền các đồng chí lãnh đạo tỉnh". Thăng Huệ Lan xạc tao,
họp kiềm điểm trước toàn cơ quan, vu cho tao tội coi thường lãnh đạo, vi phạm
quy chế tổ chức…
- Và uất ức quá nhà văn Đà Giang đã viết đơn bằng máu, gửi
lên tận Trung ương - Hàn Thâm Nho tiếp đoạn kết.
- Đúng vậy - Giang nói tiếp - Cực chẳng đã, tao bèn nghĩ án
binh pháp Tôn Tử. Có thể gọi là "khổ nhục kế", mà cũng có thể gọi là
"bi phẫn kế" cũng được. Tao soạn một cái án thư kê giữa sân nhà, có
hương, nến và giấy dó hảo hạng của làng Bưởi. Đêm sáng trăng vằng vặc, người
hoàn toàn chay tịnh, tao thắp ba nén hương, quỳ lạy, kính cẩn bố cáo cùng trời
đất, các bậc tiên tổ, anh linh. Rồi tao lấy một chiếc gai bưởi già, đâm vào đầu
ngón tay trỏ và viết… "
Du San tròn mắt nghe. Khi Giang kể vừa dứt, anh liền phủ phục,
chắp hai tay:
- Bái phục, bái phục. Hệt như Ức Trai tiên sinh những ngày bị
giam lỏng ở thành Đông Quan, nhìn giặc Minh đi lại mà bầm gan tím ruột. Tiểu
nhân đây có mắt như mù. Núi Thái Sơn sừng sững trước mặt mà không biết. Xin nhận
ở tiểu đệ này một lạy…
Cả bọn ngớ ra, rồi cùng cả cười. Bắt chước Du San, cả Nho và
Vỹ cũng phủ phục như diễn tuồng. Đúng là không còn động tác nào để diễn tả sự
kính nể và khâm phục hơn thế.
Câu chuyện lập tức xoay quanh một chủ đề hết sức nghiêm túc:
Sứ mệnh của nhà văn trước Nhân dân và Tổ Quốc. Vỹ bộc bạch:
- Sau cái chết của cô em dâu, của hàng trăm người dân vô tội
trong vụ ném bom cầu Thanh Am của máy bay Mỹ, tao cứ suy nghĩ, phải làm một cái
gì. Chúng mình chỉ mới trượt qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng mình còn tuổi
trẻ. Chỉ quanh quẩn bàn giấy, rồi đi sơ tán, đào hầm hào trú ẩn… thì phí cả đời
trai. Lúc này mới là thời của trường ca và tiểu thuyết chúng mày ạ. Alexandr
Tolstoy nếu không từ bỏ giai cấp của mình đi với nhân dân thì làm sao có bộ tiểu
thuyết bất hủ "Con đường đau khổ"? Và ngay cả "Pie Đại đế",
bộ tiểu thuyết đưa ông lên hàng những nhà văn Nga kiệt xuất nữa. Phải có ánh
sáng của Nhân dân mới dựng lên được hình tượng ông vua vĩ đại của nước Nga như
thế…
- Nếu ra trận, mày sẽ để hoa hậu Đào Trinh Khiêm cho ai? -
Giang rít thêm hơi thuốc, nhả những vòng tròn đều đặn lên trần nhà.
- Đà Giang, mày đừng giễu cợt tao. Khi mày viết đơn bằng máu
tức là mày đã nghĩ đến vợ và con mày. Vợ mày, một cô mậu dịch viên bán gạo ở cửa
hàng lương thực huyện, với Khiêm vợ tao, đều đáng yêu như nhau, đều phải được
tính đến khi chúng ta ra trận. Họ sẽ rất buồn, nhưng họ không bao giờ ngăn cản
chúng ta. Tao thề có mặt trời ngoài kia, cách đây hai ngày, tao đã nói với
Khiêm điều này ngay trên giường ngủ của nàng. Khiêm khóc và bảo: "Em chỉ sợ
người ta không cho anh đi. Anh bây giờ đâu còn được ai tin tưởng".
Cả bọn cùng lặng đi vì câu nói trắng phớ sự thật. Ai cũng tự
vận vào mình.
- Khiêm đã điểm trúng cảnh ngộ bọn mình - Nho nói - Chúng
mình đều là lũ bị vứt ra ngoài rìa. Thằng em con ông chú ruột tao, thành phần địa
chủ. Viết đơn xin đi bộ đội bao lần mà chính quyền nhất quyết không nghe.
- Chúng mày đã bao giờ cảm giác thấy trên mặt mình có cứt
không? - Du San bỗng buông câu hỏi - Nhiêu lần tao thấy cứt trên mặt mình rồi đấy.
Ấy là mỗi lần họp cơ quan xong, tay bí thư ra vẻ quan trọng bảo các đồng chí
trong chi bộ ở lại.
Thế là họ đã loại trừ chín mươi phần trăm quần chúng
Mensêvích ra ngoài cuộc. Mà có phải chuyện kinh bang tế thế gì cho cam. Đôi khi
chỉ là phân phối trong nội bộ với nhau mảnh vải phíp, hộp thuốc đánh răng, dăm
chiếc nan hoa xe đạp.
- Thôi đừng nói nữa, nhục nhã lắm. Nỗi đau của chúng mình là
bị gạt ra ngoài cuộc, bị tước bỏ quyền yêu nước… Tất cả nhiệt huyết, tình yêu của
chúng mình đều bị nghi ngờ, bị khước từ. Độc quyền yêu nước đang là một tội ác…
Giọng Vỹ tắc lại. Anh ôm mặt và khóc tức tưởi.
°°°
Cuộc tụ tập của bốn văn sĩ ở nhà Vỹ, chỉ đầu giờ làm việc
sáng hôm sau đã đến tai Văn Quyền. Liền sau đó, Quyền nhận được lá đơn ký tên cả
bốn người xin tình nguyện ra mặt trận. Đơn không viết bằng máu, mà bằng thứ chữ
nắn nót rất đẹp của Hàn Thâm Nho.
Tất nhiên, người sốt sắng để làm việc này là Đà Giang. Giang
nói với Quyền:
- Cả bốn thằng chúng tớ quyết định viết chung lá đơn này. Tớ
viết đon bằng máu rồi, giờ lại viết nữa. Cậu báo cáo với Trung ương, tinh thần
văn nghệ sĩ sôi sục lắm. Thằng Vỹ, vợ bìu con díu gay nhất bọn, cũng quyết xin
ra đi đợt này. Riêng tớ, có quen thượng tá Võ Khang trên Ban Quân lực Bộ Tổng.
Nếu thủ trưởng Tư Vuông đồng ý thì ông sẽ gửi tớ sang Thông tấn xã Giải phóng.
Chỗ này ngon lành đấy. Rất hợp sở trường của tớ. Cậu cố gắng giúp nhé!
Quyền đã chuyển ngay lá đơn và nguyện vọng đề đạt của Giang
lên bàn làm việc của Chiến Thắng Lợi.
Họ đùa bỡn hay thật lòng? - Lợi ngồi trầm ngâm trước lá đơn Họ
định thử lòng tin của chế độ, chính quyền đối với giới văn nghệ sĩ? Bài toán phải
giải với lá đơn này không hề dễ dàng. Không cho đi, họ sẽ lu loa lên rằng Đảng
không tin ở trí thức, văn nghệ sĩ, Đảng đóng cửa, độc quyền yêu nước một mình.
Cho đi, biết đâu chỉ cần vượt vĩ tuyến 17, họ sẽ "qua sông đấm buồi vào
sóng", họ sẽ tha hồ viết sách, viết báo bôi nhọ cộng sản, xoá sạch thành
quả của Chủ nghĩa xã hội. Lợi bất cập hại. Hậu quả khôn lường. Riêng với Vỹ, Lợi
còn lo điều này: Vỹ muốn đi Nam là để gặp Vọng. Nguyễn Kỳ Vọng hắn đang giữ một
chức vụ gì đó trong chế độ Nguỵ? Có thể Lợi không biết gì về Vọng, nhưng Vỹ thì
biết. Anh em ruột thịt, cùng một cửa chui ra sẽ khác hẳn anh em cùng cha khác mẹ.
Vậy thì đại nguy. Sẵn bất mãn, chán ghét chế độ, Vỹ dễ dàng nhảy sang hàng ngũ
giặc, hợp tác với giặc. Đến lúc ấy, chính Vỹ sẽ giết chết sự nghiệp chính trị của
Lợi. Không thể giải thích và vô can trong chuyện này được. Còn ai tin Lợi? Cả sự
nghiệp, tiền đồ, thậm chí tính mạng của Lợi sẽ đi tong.
Lợi đã trình bày tất cả những suy nghĩ ấy với đồng chí Tư
Vuông.
- Tôi hoàn toàn tán thành với những phân tích của đồng chí -
Tư Vuông gật gù - Tôi càng thông cảm và chia sẻ với đông chí về trường hợp cậu
Nguyễn Kỳ Vỹ. Trong bốn cậu này, chúng ta phải tách ra để có đối sách với từng
trường hợp. Đà Giang viết về cải cách ruộng đất như một phản kháng bản
năng, "Cưới chạy" và thậm chí cả "Máu của đất",
nếu chúng ta không thu hồi thì cũng chẳng gây nguy hại gì. Chúng ta đã công
khai nhận sai lầm về cải cách ruộng đất, chúng ta đã có cuộc sửa sai, vậy thì
tác phẩm của Đà Giang cũng chỉ là minh hoạ cho chính sách sửa sai của chúng ta.
Du San viết truyện ngắn "Bại luân", Hàn Thâm Nho viết thơ "Bến
đò ngang", cần phải phê phán. Nhưng đây cũng chỉ là sản phẩm hạng hai. Vả
lại sự dính líu của họ với Nhân văn Giai phẩm cũng chỉ là sự a dua, theo đóm ăn
tàn. Rắn đe như thế là đủ. Với ba trường hợp này, có thể biên chế họ vào các
đơn vị phục vụ hoả tuyến. Đà Giang tính phổi bò, nhưng văn khoáng hoạt và rất
có lửa. Ta cho đăng công khai lá thư viết bằng máu của Đà Giang, tất phải bố
trí cho cậu ta đi. Nếu muốn đi theo con đường Thông Tấn Xã thì ta nên ủng hộ.
Tôi sẽ viết thư để đồng chí sang gặp anh Võ Khang bên Bộ Tổng tham mưu bố trí
cho Đà Giang đi theo đường dây của Trung ương Cục"
Lợi lắng nghe mà tim đập như trống trận. Thủ trưởng Tư Vuông
quả là hiểu thấu tim gan từng người. Ông chưa nói đến Vỹ tức là ông đã ngầm
tách Vỹ ra khỏi nhóm ba người kia. Hay ông ngại Lợi là anh em ruột rà với Vỹ
nên không muốn nói hết? Hay ông còn điều gì nghi kỵ không tin Thắng Lợi? Cần phải
làm gì để ông tin rằng, Lợi và Vỹ tuy anh em ruột, nhưng là anh em cùng bố khác
mẹ, rằng rất lâu rồi Lợi không muốn nhìn mặt Vỹ, không tiếp xúc thăm hỏi gì.
Anh em kiến giả nhất phận, ai làm người ấy chịu. Thương em anh để trong lòng,
việc quan anh cứ phép công anh làm.
Lạ thế. Đợi mãi mà anh Tư vẫn chưa nói gì đến Vỹ. Anh Tư nhẩn
nha gõ ngón tay xuống bàn, như nhả ra từng chữ:
- Cả tôi và đồng chí cần phải thấy hết tầm nhìn của Trung
ương. Chúng ta không chỉ đơn thuần chiến đấu trên mặt trận quân sự, mà đã chuẩn
bị kỹ lực lượng trên các mặt trận chính trị ngoại giao, văn hoá văn nghệ… Hàng
trăm các văn nghệ sĩ trí thức tài năng, trung kiên đã được đưa về quê hương chiến
đấu. Từ miệt rừng U Minh, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên Trung Bộ… ta đều đã bố trí lực
lượng. Đợt bổ sung này phải rất thận trọng. Nếu là công nông binh ta tin dùng một
trăm phần trăm, thì giới trí thức tiểu tư sản chỉ nên tin dùng năm mươi phần
trăm. Văn nghệ sĩ, nói chung là tốt, nhưng dễ dao động thiếu lòng tin. Họ như
con dao hai lưỡi, dùng không dễ. Xưa Lê Lợi dùng Nguyễn Trãi, nhưng chưa hắn đã
tin. Nguyễn Huệ dùng Ngô Thì Nhậm, nhưng vẫn ngầm sai Ngô Văn Sở luôn thăm dò
giám sát. Bởi vì giới văn chương họ có cái lưỡi vô cùng lợi hại. Cái lưỡi của
Edốp nguy hại không? Cái lưỡi đây tức là sự phát ngôn. Người xưa nói "uốn
ba tấc lưỡi" là vì thế. Cái tập thơ "Thủ đô gió ngàn" của tôi,
tôi cho hội thảo là để thăm dò những cái lưỡi chống đối mình…
Một luồng khí lạnh bỗng chạy từ chót sống lưng lên tận gáy
Chiến Thắng Lợi. Thì ra nhà thơ Ngô Sỹ Liên vẫn găm trong lòng mối hận với những
kẻ dám chê bai, phủ nhận thơ mình. Ngày ấy, chính Vỹ, bằng sự hồn nhiên thẳng
thắn của mình đã trót cho đăng trên báo Văn bài phê bình ca ngợi tập thơ
"Thủ đô gió ngàn", nhưng đoạn cuối lại có ý chê thơ Ngô Sỹ Liên thiếu
chân thực, còn nặng chất ca dao hò vè và hô hào khấu hiệu. Ngần ấy chữ thôi, đủ
phải trá giá cả một đời…
- Trường hợp của cậu Vỹ, tôi rất tiếc - Tư Vuông nhìn thẳng
vào mắt Lợi, như để đọc những phản ứng của anh - Đây là một câu chuyện rất dài
mà đồng chí chưa biết hết đâu. Tôi chỉ nói vắn tắt thế này: Vỹ là trường hợp
ngoại lệ. Là nhà thơ loại một, văn chương thứ thiệt. Không thể để cậu Vỹ đi bất
cứ đâu lúc này. Đây cũng là một biện pháp để bảo vệ sinh mạng chính trị cho cả
cậu nữa, đồng chí Chiến Thắng Lợi ạ!
°°°
Lời cảnh báo của đồng chí Tư Vuông về Vỹ, lúc khác chắc sẽ
làm Lợi lo lắng, nhưng lúc này thì anh lại có những việc còn trọng đại, đáng lo
hơn nhiều.
Đã mấy ngày nay, Lợi như người sống dở chết dở. Có khi anh ngồi
hàng giờ bên bàn, mắt nhìn trân trân những dòng chữ họ tên ngày tháng năm sinh
của Lê Kỳ Chu do Cam gửi lại mà đầu óc trống rỗng như kẻ vô hồn. Dường như căn
phòng làm việc với bốn bề cửa kính cửa chớp kín mít là nơi trú ngụ yên ổn nhất
của Lợi. Đó là pháo đài có thể bảo vệ, che chở anh trước những ánh mắt soi mói,
những lời thì thào bàn tán. Hết giờ làm việc, Lợi thường cố nán lại, có hôm
thành phố lên đèn, hoặc tiếng còi báo động ủ vang mà Lợi vẫn không hay biết. Lợi
sợ phải về nhà. Lợi không dám nhìn mặt Là và thằng Nhất, không dám sà xuống bế
bổng bé Ly rồi công kênh nó lên cổ lên đầu như mọi ngày.
Sự xuất hiện đột ngột của Cam với tin báo về Lê Kỳ Chu đã làm
xáo trộn tất cả cuộc sống của Lợi. Sung sướng như kẻ bỗng vớ được vàng. Bồi hồi
phấp phỏng như người vừa tìm lại được báu vật tưởng đã mất. Lo âu hốt hoảng như
kẻ từng man trá, biển lận nay có nguy cơ bị tố giác. Xấu hổ, day dứt như kẻ phản
bội, lừa gạt… Lợi có tất cả những tâm trạng, cung bậc tình cảm đó. Cái điều mà
suốt mười tám năm nay anh không nghĩ tới, hoặc cho rằng không thể xảy ra, thì
giờ nó đã đến.
Anh đã có con trai với Cam, đứa con ngoài giá thú. Giá là một
người đàn ông bình thường, một nông dân, một gã đạp xích lô, một anh cu li… thì
chẳng có gì phải bận tâm. Mo phú tuốt. Cá vào ao ta, ta được. Khi ấy thậm chí Lợi
sẽ vui sướng khoe ầm với bàn dân thiên hạ, rằng họ Nguyễn Kỳ có thêm một chi mới
tận vùng Mường Bi. Nhưng sự đời không đơn giản vậy. Lợi đang là một cán bộ cách
mạng, đang được tin dùng và giữ một trọng trách mà không phải anh cán bộ nào
cũng với tới được.
Lợi đang có một gia đình êm ấm. Một người vợ hiền chung thuỷ,
đang là cán bộ thương nghiệp ở một cửa hàng vào loại số một Hà Nội, hai đứa
con, một trai một gái, ngoan ngoãn xinh đẹp. Một mẫu hình gia đình lý tưởng. Sự
xuất hiện của Lê Kỳ Chu sẽ là một quả bộc phá, san bằng tất cả. Đầu tiên tổ chức
sẽ gọi Lợi đến, đề nghị viết tường trình. Sau đó là đồng chí hãy bàn giao công
việc, chờ tổ chức kết luận. Ăn cám rồi. Dám hủ hoá với vợ liệt sĩ cách mạng, lại
là vợ liệt sĩ Lê Thuyết, khu uỷ viên Liên khu Hữu ngạn, đó là một tội. Thấy đồng
chí Cam có thai lại lẩn trốn trách nhiệm, khai man lý lịch, đổi từ họ Nguyên Kỳ
ra họ Chiến để che giấu tổ chức, là hai tội. Hủ hoá tiếp với Là, khi tổ chức
phát hiện mới làm lễ cưới chạy, là ba tội. Vô trách nhiệm với con mình, với đồng
chí Cam, dối trá to chức suốt mười mấy năm, đó là bốn tội… Trời ơi, toàn những
tội tày đình.
Có một phương án mà Lợi thoáng nghĩ đến đầu tiên. Ấy là Lợi sẽ
không làm gì cả, không tác động gì cả. Coi như Lợi không biết có cuộc Cam tìm gặp.
Không dính líu gì đến Cam. Không quen biết. Bằng chứng ở đâu chứ? Chị ta có
thai với ai đó giờ đổ vạ. Người đúc cốt kẻ tráng men đã đi một nhẽ, đằng này kẻ
ăn ốc, người đổ vỏ sao được? Đã vô can thì cứ bình chân như vại. Cứ mặc cho Chu
vào chiến trường. Càng vào nhanh càng tốt. Chỉ cần chớm đến Quảng Bình, Vĩnh
Linh đã thấy tử thần chiến tranh đứng đợi với hàng trăm lượt máy bay, tàu chiến
quần đảo mỗi ngày, với lửa cháy ngút trời, bom đạn như vãi trấu. Nếu vượt qua
được vĩ tuyến 17, ở vùng Cửa Tùng, hay đầu nguồn sông Bến Hải, hay vòng qua Lào
vào Lao Bảo, Hướng Hoá, thì cũng có nghĩa là lọt vào giữa họng của thần chết.
Không chóng thì chầy cũng phơi xác Trường Sơn… Thế là phi tang. Sạch sành sanh
tang chứng vật chứng. Chẳng còn dấu vết gì của cuộc tình tội lỗi.
Những ý nghĩ, những phương án chạy tội, có phần nguy biện và
bất nhẫn ấy, làm đầu óc Lợi mụ mị, chai lì. Suốt một tuần, Lợi án binh bất động,
chẳng làm gì.
Thì bỗng có điện thoại của Cam.
- Tôi đã lên thăm Chu. Nó đang nằng nặc xin ra mặt trận. Đơn
vị của nó đang luyện tập suốt ngày đêm. Thằng bé phải đeo bốn, năm mươi cân,
toàn gạch đá và súng đạn đi mỗi đêm ba mươi cây số. Thằng bé phải học võ thuật,
ngã sứt đầu, sưng tay… Anh đã thu xếp đến đâu rồi? Anh phải làm gì đi chứ? Anh
không thể để thằng bé tự làm theo ý nó được…
- Tôi đang tìm cách… Phải chuyển cho nó về tỉnh đội đã… Cũng
có thể chuyển nó đi học… Nhưng phải từ từ, tế nhị. Biết bao trường hợp cũng
hoàn cảnh như… con mình. Làm không khéo có khi rũ tù.
- Nếu anh ngại thì thôi… - Tiếng Cam như oà khóc trong ông
nói.
- Tôi xin… Tôi sẽ làm…
- Không còn nhiều thời gian đâu… Tôi lo thằng bé hăng hái quá
sẽ xung phong vượt Trường Sơn trước mùa mưa này… Nếu xảy ra việc gì, anh sẽ…
Thật là rốt ráo, quyết liệt. Thật trái ngược hẳn với con người
và tính cách của Cam. Hoàn toàn trái ngược với cương vị và trách nhiệm công tác
của Cam hiện giờ. Cú điện thoại ấy buộc Lợi phải huỷ ngay sách lược án binh bất
động bàn đầu để vào cuộc một cách nghiêm túc. Phải nhanh chóng tìm ra giải pháp
không để Chu đi chiến trường. Lợi gầy rộc, kém ăn, ít ngủ, nhiều lúc như người
mất hồn. Có lần Là đứng sau Lợi rất lâu mà anh không biết.
- Anh có chuyện gì giấu em? Chú Vỹ nhà mình lại gặp nạn hả
anh?
Lợi giật mình.
- Cơ quan hồi này nhiều việc quá. Phải sơ tán ra ba nơi. Anh
đang tính có khi phải đưa hai đứa trẻ về Định Hoá với ông bà ngoại.
- Sao không đưa về làng Động với bà nội? Chỗ bà nội gần hơn,
mình tiện về thăm nom. Chú Vỹ với thím Khiêm cũng đưa bọn trẻ về quê rồi đấy.
- Em thu xếp cho các con về bà nội cũng được - Lợi nói như muốn
cho qua chuyện.
- Anh vẫn còn việc gì giấu em? Hôm qua em đã điện thoại cho
bác Tư.
- Sao? Điện cái gì?
- Em lo cho anh thôi. Em nói với bác cố gắng giúp đỡ nhà em.
Tự nhiên nhà em hồi này bỗng gầy rộc đi…
- Vớ vẩn. Này, tôi cấm cô không dúng vào công việc cơ quan của
tôi đấy nhé.
Là xịu mặt, mắt ngấn ướt chực khóc. Lợi thấy ân hận vì bỗng
nhiên vô cớ nặng lời với vợ.
- Anh nói thế để em rút kinh nghiệm. Em không nên tự tiện gọi
điện cho anh Tư và các đồng chí Trung ương. Đừng lo gì cho anh…
Nói vậy, chứ Lợi vẫn lo sốt vó. Cam gọi điện giục liên tục.
Hình như Cam đang muốn trắng phớ ra mọi chuyện. Không tìm ra
lối thoát thì khác nào tự treo cổ mình.
°°°
Lá thư của đồng chí Tư Vuông gửi thượng tá Võ Khang về việc bố
trí cho nhà văn Đà Giang đi chiến trường, không ngờ lại là cầu nối để Lợi có cơ
hội giải quyết chuyện riêng của mình. Ban Quân lực Bộ Tổng tham mưu mới là nơi
quyết định chuyện đi ở của tân binh Lê Kỳ Chu. Chính Lợi phải trực tiếp trình
bày với Võ Khang.
- Báo cáo anh, tôi có chuyện riêng muốn nhờ anh giúp đỡ!
Sau khi làm xong công việc của Đà Giang, Lợi ngồi nán lại,
nói với thượng tá Võ Khang.
- Có chuyện gì, đồng chí cứ nói. Tôi sẽ làm hết sức mình - Võ
Khang hồ hởi và nồng nhiệt chìa bàn tay to bè của ông ra.
Cử chỉ ấy khiến Lợi thêm tự tin và hy vọng.
- Tôi có người thủ trưởng cũ, có thể coi là ân nhân, là người
thầy, đã dìu dắt tôi từ ngày còn hoạt động bí mật trong vòng địch hậu Liên khu
Ba…
- Tình cảm đã qua rèn luyện, thử thách, quí lắm đó.
- Vâng. Quí hơn mọi thứ trên đời. Đồng chí ấy tên là Lê Thuyết,
từng là uỷ viên Liên khu uỷ. Một chiến sĩ cách mạng kiên cường. Rất tiếc rằng đồng
chí đã bị bọn Việt quốc, Việt cách giết hại tại Hải Phòng…
- Tiếc quá. Đồng chí Lê Thuyết có còn ân nhân nào không?
Một người quá thông minh. Lợi nghĩ vậy và nhìn Võ Khang thở
phào, mặt rạng rỡ hẳn.
- Giọt máu của đồng chí Lê Thuyết để lại là một cháu trai tên
là Lê Kỳ Chu, năm nay vừa chớm mười tám tuổi. Cháu Chu đang học dở lớp mười, sắp
tốt nghiệp thì xung phong đi bộ đội.
- Vậy hả? Con nối chí cha. Giỏi quá.
- Cả trường các cháu viết đơn bằng máu, xin tình nguyện xẻ dọc
Trường Sơn đi con nước…
- Khắp nơi đang dấy lên phong trào yêu nước như vậy đó. Thế hệ
trẻ ngày nay rất có lý tưởng, rất đáng tự hào… Nhưng… tôi đang suy nghĩ về trường
hợp cháu Lê Kỳ Chu mà đồng chí nói. Có nhất thiết phải để Chu ra mặt trận
không? Đồng chí Lê Thuyết chỉ còn duy nhất giọt máu này. Tôi chưa biết mẹ của
cháu…
Ông này như đang ngồi trong đầu mình - Lợi thầm nghĩ - Những
điều mình đang khó nói thì ông ấy cứ đọc ra vanh vách.
- Chắc đồng chí biết chị Đào Thị Cam, Phó Chủ tịch Hội phụ nữ
Sơn Minh…
Võ Khang bỗng vỗ hai tay vào nhau.
- Con trai chị Cam hả? Người đẹp Sơn Minh sao kẻ võ biền này
lại không biết? Đại tá Quảng Lạc khen chị Cam không tiếc lời ông đang muốn vun
vào cho thiếu tướng Bình Nguyên, người theo chủ nghĩa độc thân. Tướng Bình
Nguyên gặp người đẹp Sơn Minh mê như điếu đổ. Ổng muốn cầu hôn chị Cam mà chưa
được.
- Lê Kỳ Chu là con trai độc nhất của chị Cam. Nếu anh hiểu
tâm trạng một người mẹ và trách nhiệm một cán bộ lãnh đạo phong trào ở đồng chí
ấy… Chị Cam không dám đề đạt với Trung ương, không dám vì con mình mà ảnh hưởng
đến phong trào…
- Tôi hiểu. Đồng chí Cam làm sao mà yên tâm công tác được khi
cháu Chu đi chiến trường? Cháu Chu hiện đang đóng quân ở đâu? Thuộc quân số đơn
vị nào?
Lợi vội lấy mảnh giấy mà Cam đã ghi địa chỉ của Chu đưa cho
Khang.
- Đang ở Suối Hai ư? Tôi biết rồi. Đây là đơn vị tình nguyện,
tuyển chọn những chiến sĩ có sức khoẻ, trình độ văn hoá, được chuyên gia bạn huấn
luyện đặc biệt. Những mũi dao thép của chiến trường…
- Chị Cam đã lên thăm cháu…
- Tôi với đồng chí cũng sẽ lên thăm cháu - Võ Khang đột ngột
đưa ra đề nghị, rồi mở cuốn lịch trên bàn xem rất nhanh - Thế này nhé. Tuần sau
tôi kín hết. Chỉ còn buổi chiều thứ ba. Tôi mời đồng chí cùng lên thăm cháu Chu
được không? Tôi muốn biết nguyện vọng của cháu trước khi có những quyết định.
Lợi định đưa tay ra, nhưng rồi một ý nghĩ vụt loé trong đầu
khiến anh rụt nhanh tay lại. Sau này, tức chỉ ba ngày sau, thì Lợi tự khen cái
quyết định lúc đó của mình là rất chính xác.
- Tôi không dám phiền tới đồng chí. Đồng chí còn bận nhiều
công việc. Chị Cam sẽ gặp đồng chí để cám ơn sau, nhưng cũng không dám phiền đồng
chí phải cất công đến tận đơn vị cháu như thế. Chỉ cần đồng chí chỉ thị xuống
đơn vị, chuyển cháu Chu về tỉnh đội, hoặc cho đi học…
Vò Khang nhìn Lợi rất nhanh rồi gật đầu.
- Thế cũng được. Anh nói với đồng chí Cam là chúng tôi sẽ hết
sức lưu ý trường hợp cháu Chu. Chị Cam hãy hoàn toàn yên tâm.
Lợi chia tay người sĩ quan quân lực với tâm trạng của người vừa
trút một gánh nặng trên đoạn đường leo dốc. Anh gọi điện ngay cho Cam:
- Tôi vừa gặp thượng tá Võ Khang, người phụ trách Quân lực Bộ
Tổng tham mưu.
- Thật ư? Vậy thì may rồi - Tiếng Cam mừng quýnh.
- Anh Khang hứa sẽ giải quyết ngay trong tuần này. Ngày mai
tôi sẽ lên thăm Chu để báo tin cho con mừng. Cam đừng lo lắng gì cả.
Không thấy Cam nói gì. Chỉ nghe một tiếng khóc cố kìm nén. Hẳn
là Cam đang quá sung sướng.
°°°
Con đường lên hồ Suối Hai hôm ấy vừa có ve đẹp thần tiên sơn
thuỷ hữu tình, vừa có không khí hùng tráng náo nức của trước ngày vào trận. Cả
một vùng quanh núi Ba Vì kéo từ Trung Hà, Sơn Tây đến Lương Sơn, Kỳ Sơn, Miếu
Môn… là khu tập kết để chuẩn bị cho tiền tuyến. Cơ man nào là xe pháo, đủ các
loại binh chủng hợp thành: Xe tăng, thiết giáp, xe cơ giới, đại, trung xa, pháo
tự hành, pháo cao xạ, cachiusa… Hàng nghìn xe Giải Phóng, Zin ba cầu, I Pha,
Uat mới nhập còn bóng nước sơn, nườm nượp đi trên đường, san sát đậu trong các
bãi đỗ. Ở đâu, chỗ nào cũng gặp màu xanh áo lính. Các đơn vị bộ binh hành quân,
ba lô, mũ rợp lá nguy trang, súng đạn, xẻng, cuốc, tăng, võng lỉnh kỉnh. Các
đơn vị cơ động chật kín từng đoàn xe tải, nối dài như bất tận. Những dòng người
và xe này đang nối nhau chảy vào Trường Sơn, vượt Trường Sơn…
Câu thơ Quang Dũng như chợt từ những tảng mây nhởn nhơ trên đỉnh
Tản Viên Sơn kia hiện ra:
"Em ở Thành Sơn chạy giặc về
Anh từ chinh chiến thủa ra đi
Gặp nhau giữa vùng quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì… "
Hào khí đánh giặc chín năm của cả dân tộc giờ lại đang trỗi dậy,
sống động một vùng trung du.
Trong bạt ngàn rừng người kín lá nguỵ trang ấy, Lợi bỗng nhận
ra ngay Lê Kỳ Chu. Trời ơi, chàng trai cao trên một mét bẩy, mũi dọc dừa, mắt xếch,
mặt lấm tấm trứng cá kia, nhác trông đã thấy giống Lợi lạ lùng. Lợi thầm khen
mình thật nhậy cảm và thông minh khi quyết từ chối không đi cùng Võ Khang. Đây
chính là giác quan chính trị, nghiệp vụ tổ chức Lợi học được từ những ngày ở
ATK. Thì ra ba ngày hoan lạc vô tiền khoáng hậu ở Phương Đình đã không tan đi
phí hoài. Thì ra Cam đã âm thầm và bí mật giữ lại giọt máu của anh trong ba
ngày thần tiên ấy. Nàng là người đàn bà kỳ diệu nhất mà anh từng gặp trên đời.
Lợi sững người, thót tim khi bắt gặp ánh mắt chàng trai cũng
đang sững sờ nhìn mình. Một tình cảm thật kỳ lạ, chỉ có ở tình cha con, máu mủ
ruột rà, bỗng tràn ngập trong lòng Lợi. Giá như không có những ánh mắt bao
quanh, giá như chỉ có hai người, ở giữa một cánh rừng, hay một khoảng đồng trống,
một xứ sở xa lạ nào đó, Lợi sẽ ào đến, ôm chầm lấy Chu và kêu lên: Con trai! Bố
đây. Bố đẻ của con đây. Bố hạnh phúc vô cùng! Suốt từ hôm mẹ báo tin cho bố, bố
như người đang sống trong mơ…
Hình như chàng trai cũng đang chột dạ, hoang mang tự hỏi: Sao
lại có người giống mình thế kia? Hay là bố Lê Thuyết? Bố Lê Thuyết vẫn còn sống
và đến tìm mình?
Suýt nữa thì Lợi bật khóc. Anh phải cắn môi mình đến chảy máu
để cố trấn tĩnh lại. Lúc này vẫn chưa phải là lúc để lộ tông tích của mình. Sẽ
rất nguy hiểm cho mình và cho cả thằng bé. Hãy đừng để thằng bé sốc. Rồi sẽ có
nhiều dịp để con biết ta là ai - Lợi cố tự nhủ mình như thế khi đi đến bên Chu.
- Chú là Chiến Thắng Lợi, bạn của mẹ cháu, và là học trò của
bố Lê Thuyết cháu ngày trước - Lợi nói và tránh không nhìn vào mắt Chu.
- Thế mà mẹ cháu chẳng bao giờ nhắc đến chú… Cháu cứ tưởng…
- Chú bận công tác đặc biệt. Rất lâu rồi mới gặp lại mẹ. Nghe
nói cháu học giỏi và có thể được vào diện đi học nước ngoài…
- Đi nước ngoài trong hoàn cảnh nước nhà như thế này để làm
gì hả chú? Cháu muốn trả thù cho bố cháu. Cháu muốn ra mặt trận, muốn tiêu diệt
giặc Mỹ như anh Nguyễn Văn Trỗi.
Lợi mỉm cười hài lòng. Đường lối giáo dục lý tưởng, lập trường
giai cấp đã thấm đến từng li ti huyết quản của lớp trẻ như thế này, làm sao
chúng ta không chiến thắng? Trong giây lát, Lợi bỗng quên phắt vai một người
cha đi tìm đứa con thất lạc mà anh lại trở về nguyên vai một nhà tuyên huấn,
nhà chính trị. Đây là một vấn đề rất có ý nghĩa trong việc tổng kết công tác
thanh vận, công tác giảo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
- Tình nguyện đi chiến trường, cháu không sợ hy sinh gian khổ
ư? Không lo mẹ phải ở nhà một mình sao?
- Nếu sợ hy sinh thì chẳng có ai dám đánh Mỹ. Còn mẹ cháu đã
có tổ chức. Bây giờ không phải là lúc để nghĩ đến cá nhân mình chú ạ. Bác Hồ đã
dạy: "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc
lập…"
Lợi bàng hoàng. Không ngờ những bài anh giảng ở các lớp bồi
dưỡng chính trị, những lời cổ vũ trong những buổi nói chuyện với thanh niên,
sinh viên, giờ lại được Chu nhắc lại đầy tâm huyết. Hãy cứ để thằng bé sống với
lý tưởng của mình. Lợi xoài tay ôm lấy đôi vai rắn chắc của cậu tân binh.
Tưởng như từng dòng máu chảy giần giật trong tấm thân trai
căng tràn mười bẩy tuổi đang truyền sang anh. Cảm giác ruột thịt máu mủ bỗng
làm mắt Lợi cay xè. Anh bỗng thấy biết ơn Cam vô cùng. Cam thật sâu sắc, biết
nhìn xa trông rộng khi quyết bằng mọi giá giành lại đứa con của mình. Lợi phải
biết ơn Cam, ngàn lần biết ơn nàng đã cho anh giọt máu vô giá này. Nó sẽ phải ở
lại hậu phương như nàng mong muốn.
Không ai có quyền cướp đi báu vật quí giá nhất của đời nàng,
giọt máu thiêng liêng mà suốt mười tám năm vì nó nàng đã chịu muôn vàn đắng cay
cơ cực. Chỉ vài ngày nữa thôi, nếu đúng như lời thượng tá Võ Khang đã hứa,
chàng tân binh hừng hực lý tưởng này sẽ tách khỏi đội ngũ, và đi ngược dòng người
xẻ dọc Trường Sơn để đến nơi mà móng vuốt của tử thần chiến tranh không thể với
tới được.
- Chú đến đây để nói với cháu điều này - Nhớ đến công việc của
mình, Lợi ghé sát tai Chu nói nhỏ - Sắp tới, nếu cấp trên có lệnh tách cháu ra
khỏi đoàn chiến sĩ đi B, ở lại để nhận nhiệm vụ khác, thì cháu phải tuyệt đối
chấp hành đấy nhé. Mẹ dặn chú nói với cháu như vậy.
- Kìa chú - Đến lượt Chu tròn mắt ngạc nhiên. Cậu thấy người
lớn thật khó hiểu - Cháu nhất định ra chiến trường. Cuộc đời đẹp nhất là trên
trận tuyến đánh quân thù. Cháu viết đơn bằng máu chứ không phải bằng nước lã
đâu…
Lợi không biết nói sao trước những lời tưởng như ngu tín
nhưng rất hồn nhiên và chân thực của chàng trai, sản phẩm của anh, của Cam và
thời đại đầy chất lý tưởng, "Thời của Thánh Thần", như tên tập thơ của
Nguyễn Kỳ Vỹ, em trai anh…
PHẦN II. CUỘC BỂ DÂU - Chương 15
non sông một dải
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
(Nguyễn Du)
Hai mươi mốt năm, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, mùa Xuân năm
1975, giang sơn Việt Nam mới lạ quy về một mối. Cuộc hành trình đến độc lập tự
do quá dài và cực kỳ gian khổ, khốc liệt. Cứ nhìn trập trùng bia mộ, tầng tầng
lớp lớp nghĩa trang liệt sĩ khắp các thôn làng dọc dải đất hình chữ S thì đủ biết.
Xương máu đã xây nên độc lập.
Cái làng Động thân thương, suốt cả một cuộc kháng chiến chống
Pháp chín năm, đồn địch dựng giữa làng, ác liệt là thế mà cả làng cũng chỉ có
tám liệt sĩ. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, đau thương mất mát đã tăng gấp bội.
Con số liệt sỹ vọt lên cấp số nhân, gấp chín lần, tròn hai trung đội.
Gia đình anh Nguyễn Kỳ Quặc không phải là hộ duy nhất trong
làng có hai con trai đi chiến trường, nhưng mất mát thì lại đứng hàng đầu. Nguyễn
Kỳ Công, con trai đầu của Cục, học hết lớp bẩy thì nghỉ học, chưa đầy mười bẩy,
đã khai tăng tuổi trốn bố đi khám tuyển bó đội. Chị y sĩ ở phòng cân đo nhìn cậu
thanh niên choai cao ngỏng, quần sắp tụt dưới háng vì sức nặng của những hòn đá
chật căng hai túi, không nhịn được cười:
- Cháu ơi, về để bố mẹ vỗ béo thêm một năm nữa rồi hãy đi
khám tuyển.
Công van vỉ:
- Cháu xin cô. Mẹ cháu đã bị chết vì bom Mỹ ở cầu Thanh Am.
Cháu muốn đi trả thù cho mẹ. Cô cho cháu thêm mấy cân, cô nhé.
Chị y sĩ ứa nước mắt, tặng cho chú bé năm cân, đủ tiêu chuẩn
nhập ngũ.
Trước khi Nguyễn Kỳ Công vượt sông Bến Hải, anh gửi về cho bố
và bà nội lá thư cuối cùng. Đó là mùa khô năm 1972, thời kỳ mà cuộc chiến ở
thành cổ Quảng Trị diễn ra cực kỳ khốc liệt. Suốt từ đấy Công mất hút giữa đại
ngàn Trường Sơn, giữa mịt mù khói súng.
Tiếp theo bước Công là cậu em Nguyễn Kỳ Cải, sinh giữa năm Cải
cách ruộng đất. Đây là đợt tồng động viên toàn quốc, huy động toàn bộ lực lượng
cho chiến trường. Trai tráng thôn quê không gâu nệ thành phần lý lịch, tuổi từ
mười tám đến ba mươi sáu, đủ tiêu chuẩn sức khoẻ đều phải nhập ngũ.
Nhiều huyện, thiếu chỉ tiêu, phải gạn lấy xuống mười bẩy, lấy
lên tới ba mươi bẩy tuổi cho đủ quân số. Các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp chỉ để lại nữ sinh và số nam sinh viên lớp cuối khoá, còn sinh viên năm
thứ nhất, thứ hai đều điều hết ra mặt trận hoặc chuyển sang các trường Đại học
Y, Bách khoa cầu đường, Giao thông vận tải… huấn luyện cấp tốc để chi viện cho
chiến trường. Nhà Đĩ Ngao, liền một đợt cả hai anh em Ngạnh Vẩu và Ngộc cùng
tòng quân. Ngạnh Vẩu cùng lứa với Cục, cả tuổi mụ là ba mươi nhăm, mọi đợt được
miễn, nhưng lần này vẫn vào diện tuyển quân cho đủ chỉ tiêu của huyện, mặc dù
ông Lưu Văn Ngao khi đó đang là chủ tịch xã. Riêng thằng Ngộc, em thứ năm của
Ngạch, ngày bé trẻ con trong làng vẫn gọi đùa là Ngốc vì cậu chàng chuyên đi
mang vác và hầu tụi con gái. Đi học, Ngộc chữa giấy khai sinh, đổi tên là Ngọc,
Lưu Bích Ngọc, tên như đàn bà. Ngộc to béo như hộ pháp, nhưng bao nhiêu lần đi
khám tuyển bộ đội đều bị loại. Không phải vì Ngộc có chân trong Ban chấp hành
Đoàn xã, là trung đội trưởng dân quân, được địa phương giữ lại, mà vì lần nào
khám tuyển, huyết áp và mạch đập của Ngộc cũng vọt lên đùng đùng. Có lần huyết
áp tới 200/120, nhịp tim tăng hơn 100. Thì ra từ mấy năm nay, Ngộc đã có một bí
quyết để đánh lừa các bác sĩ tuyển quân: Trước khi đi khám Ngộc uống một ly rượu
pha với mấy giọt nhựa xương rồng, thế là huyết áp, nhịp tim tăng vù vù.
Thủ đoạn trốn nghĩa vụ quân sự của Ngộc quả là lợi hại. Đám
thanh niên trai tráng đi hết, giữa một biển đàn bà con gái ở thôn quê, Ngộc trở
thành của hiếm, mì chính cánh. Đi dân công, đi đắp đê, đi tập dân quân, đi lấy
phân xanh trong tít vùng núi đá Cầu Dậm, một mình Ngộc chăn dắt hàng chục vợ bộ
đội, và một đàn gái tân đang khao khát mùi đời. Giống như Phèng Cửu Tựu, ông Đội
cài cách ngày trước, có tối Ngộc ngủ liền với ba cô. Ông Tựu thời cải cách phải
dùng quyền lực dùng chuyên chính đế ép buộc, cưỡng đoạt, còn Ngộc bây giờ là của
quí hiếm, là cái cọc cỡ bự để các ả trâu tự tìm đến.
Rõ ngược đời mười mươi mà lại là chuyện trăm phần trăm có thực.
Có trường hợp hai cô, cùng đánh ghen vì Ngộc. Hoá không khảo mà xưng. Đó là trường
hợp hai chị em cô Lành, cô Nhi con dì con già, cả hai mới cưới được một tuần
thì chồng cùng đi chiến trường. Gái vừa chớm hơi trai, xa chồng biền biệt, lại
gặp Ngộc tán tỉnh dẻo mỏ, không kìm giữ được, cả hai nàng cùng có chửa. May mà
Ngộc có bố là chủ tịch xã, nên vụ việc được ém nhẹm đi ngay. Hai cô Lành, Nhi
được gửi ra Hà Nội nạo thai chui. Ông Lưu Văn Ngao thấy mình bị tai tiếng, có
thể khoá bầu sắp tới rớt chức chủ tịch, đành bấm bụng đẩy một lúc hai thằng con
đi bộ đội.
Lần khám tuyển ấy các bác sĩ từ Quân lực Trung ương điều về,
nên mánh khoé uống nhựa xương rồng của Ngộc bị lật tẩy. Ngộc là trường hợp duy
nhất bị khám lại. Kết quả Ngộc khoẻ nhất làng. Ngộc và Cải đều xếp sức khoẻ loại
A.
Ngay tuần sau, làng Động tiễn mười bẩy tân binh lên đường.
Như đã được trù tính từ trước, hai con trai ông chủ tịch Ngao
thuộc diện quân số do tỉnh quản lý. Sau hai ngày tập trung, Ngạnh Vẩu được
phiên chế vào đơn vị huyện đội, chuyên đi tuyển quân ở các xã. Ngộc về tiểu
đoàn cao xạ tỉnh đội. Ưu ái như thế, ngang loại "gáo" vàng, con ông
cháu cha còn gì.
Bọn Cải, dân ngu cu đen, mười lăm trai tơ làng Động, cùng mấy
trăm tân binh các xã, ngay hôm sau, được một đoàn xe tải nguỵ trang như rừng,
đưa thẳng ra mặt trận.
°°°
Làng Động sau đợt tổng động viên cuối năm 1972 ấy, hầu như chỉ
còn rặt trẻ con, người già và cánh đàn bà con gái. Đàn ông, một số ít thoát ly
làm việc ở các cơ quan nhà nước công trường xí nghiệp, còn lại bao nhiêu vét hết
ra chiến trường.
Mọi công việc nặng nhọc như cày bừa, cấy gặt, đắp đê, đào
mương, đi dân công, lợp nhà, tát ao, ma chay, tạp dịch… đều do cánh đàn bà con
gái, mà họ tự giễu bằng hai từ "thị mẹt" đảm nhiệm. Hiếm hoi lắm ban
quản trị hợp tác xã và một hai đội sản xuất mới có vài anh "cu ngảu",
tức những người được gọi là đàn ông. Họ cũng có thêm một cái tên mới là
"mì chính cánh", loại bột ngọt gia vị chỉ cần dính mấy hạt vào đầu
que tăm là nước canh ngọt lừ, hiếm hoi và đắt giá vô cùng.
Gọi là "mì chính cánh" cho oai, chứ bọn "cu ngảu"
làng Động, thực chất là bọn đàn ông khoèo chân hở rốn, hoặc đã quá tuổi hoặc
không đủ tiêu chuẩn ra mặt trận. Đó là anh Thím chột, uỷ viên kiểm sát Hợp tác
xã, anh Lì khèo chủ hiệu may đầu làng, ông Tư Lắp, kế toán trưởng, chú Song Lé
đội trưởng thuỷ lợi, ông Ngao rỗ, chủ tịch xã… Nổi bật trong số mì chính cánh
này có lẽ là anh Tư Cục. Tuy đã tứ tuần, tay trái oặt ẹo như dải khoai nước,
tai phải nghễnh ngãng, nhưng Cục lại có cái "phom" cao to, bộ mặt hao
hao Tây lai, nhìn kỹ thấy còn bảnh ra phết. Vả lại, Cục đang là đàn ông độc
thân.
Từ ngày Bính bị bom chết, khối đám gọi Cục cho không con gái,
nhưng thương vợ, xót con, Cục nhất quyết ở vậy. Sau đợt Công và Cải, hai thằng
con lớn đi chiến trường, lý lịch Cục thêm vài điểm đỏ, được tổ chức tín nhiệm
cho đi học cảm tình, đối tượng, sắp đặt vào chân Phó chủ nhiệm hợp tác xã phụ
trách khu chăn nuôi. Cái tên Phó Cục bắt đầu được người ta gọi, lâu dần thành
quen.
Thật lạ hoá ra sông có khúc, người có lúc. Cái thời cơ hàn của
Cục đã qua. Hết xuống chó rồi, giờ là lúc đời Cục lên voi. Lên voi ngay trong
những năm tháng chiến tranh khốc liệt, cả làng Động rỗng rễnh như ổ trứng gà bị
chuột tha trộm, như vò khoai khô bị rút hết ruột, mới kỳ lạ chứ. Làm cái anh
phó chủ nhiệm phụ trách chăn nuôi như Cục, tưởng quyền rơm vạ đá hoá ra lầm to.
Lắm quyền nhiều lực ra trò đấy nhé. Xã viên tranh nhau công điểm, một ngày công
ba lạng, năm lạng thóc, kệ các thị mẹt. Cục thuộc diện cán bộ, nghiễm nhiên mỗi
vụ cũng vài tạ thóc. Có người phơi khô quạt sạch gánh đến tận nhà. Đó là mối lợi
nhỏ. Trại lợn vài trăm con, khu ao cá vài mẫu, lò ấp vịt mấy ngàn quả trứng một
vụ… mới là lợi lớn.
Xuất mổ một tấn thịt cho mậu dịch, bét nhất cũng được lại quả
cái thủ, bộ lòng, tim gan. Anh chị cán bộ huyện xuống xin phân phối hữu nghị một
con lợn về nuôi. Xong ngay. Tớ ký, nhưng cũng phải có đi có lại đấy nhé. Thế là
xoàng nhất cũng phải cho cái phiếu mua tút thuốc Sông Cầu, cái phích Rạng Đông,
gói chè Thanh Hương, hoặc xuỳ ra mấy mét phiếu vải, bìa tem thực phẩm. Cánh hẩu
hơn thì cho cái phiếu mua vài nghìn gạch, tạ xi măng, vài chục cân sắt thép,
hay cái đài Orionton, tấm vỏ chăn con công Trung Quốc, cái xe đạp Thống Nhất
hay Vĩnh Cửu… Thời buổi mọi thứ khan hiếm như vàng, chỉ cần có một tí quyền, nắm
một chút vật tư, lương thực, thực phẩm để trao đồi, phân phát là đời lên hương
ngay.
Nhà Cục từ ngày có tí chức, chẳng lúc nào thiếu nước mắm
ngon, mì chính, xà phòng, đường sữa, thuốc lá, chè Thanh Hương. Bà Cử Phúc nhiều
lần giấu Cục bảo con Ruộng mang cho bớt ông bà ngoại nó, cho đỡ phải tội. Nghĩ
mà thương hại thằng Công, thằng Cải. Mùa đông cuốc bộ đi học từ tờ mờ đất, xa bẩy
tám cây số, không có nổi một đôi dép cao su, một cái áo sợi mông. Bụng lúc nào
cũng lép tận xương, sôi òng ọc. Bây giờ thằng Cách, con Ruộng sướng hơn nhiều.
Lên chức Phó một năm, Cục đã mua được cho hai anh em chiếc xe đạp Thống Nhất để
lai nhau đi học. Cũng là bổng lộc cả đấy. Phân phối hữu nghị cho bà Trưởng
phòng Thương nghiệp huyện hai con lợn giống, bà ấy cho cái phiếu xe đạp cung cấp.
Rõ là, có đi có lại thật toại lòng nhau.
Đó là mối lợi vật chất. Nhưng cái lợi tình ái mới là mối đại
lợi, mới thực sự đưa đời Cục lên voi. Ngẫm ra tay nào đặt cái tên "mì
chính cánh" kể cũng thâm thuý thật. Cục là loại "mì chính cánh"
nhãn hiệu "hai tô" của làng Động. Đi đến đâu Cục cũng thấy ánh mắt
đàn bà nhìn mình thèm thuồng.
Ngày còn thằng Ngộc ở nhà thì nó làm bá chủ. Lũ đàn bà con
gái chạy theo nó như bầy dê cái. Nay thì vẫn thê đội ấy, những Lành, những Nhi,
cùng Cúc, Nhài, Lan, Huệ.: tóm lại cả thế giới thị mẹt của làng Động và mấy
làng lân cận đều là sở hữu của Cục. Nói ra thì mất lập trường, quan điểm, bôi xấu
chế độ. Nhưng sự thật, chiến tranh đã làm cho đàn bà con gái cái làng Động của
Cục lâm vào cảnh nguy khốn lắm rồi. Gay nhất là đám vợ liệt sĩ, thứ đến là vợ bộ
đội.
Nghe họ nói, nhất là trên hội trường, trong cuộc họp, tưởng họ
sắt đá, chung thuỷ lắm. Nhưng cứ nhìn vào mắt họ xem. Những đôi mắt buồn thăm
thẳm, lúc nào cũng bồn chồn khắc khoải không yên, lúc nào cũng như thiếu đói một
cái gì. Đi giữa sân kho hợp tác, bất chợt nhìn sang chỗ cân lúa hay chỗ đập
lúa, Cục đều bắt gặp những ánh mắt nhìn như thiêu đốt, như mời gọi. Ở trại chăn
nuôi, mấy chị băm bèo trộn cám, cho lợn ăn mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào Cục. Có
chị cứ lấy cớ xán vào Cục, hoặc đi qua như vô tình chạm người, chạm mông, tưởng
điện chập, toé lửa…
Miếng ăn đến miệng, không chén là ngu. Mấy lần Cục nghĩ thế,
khi cô Nhi vào phòng làm việc của Cục, giả vờ xin chữ ký để áp bầu vú như quả
bưởi vào vai Cục, phả hơi thở hôi hồi vào gáy Cục.
Căng thẳng quá. Không chỉ Nhi, mà cả Lành, cả Nhài đều có
chung những vở diễn như thế, làm thần kinh Cục lúc nào cũng căng lên, khắp người
rộn rạo hưng phấn, tay chân như muốn phát cuồng. Cái gã đàn ông trong Cục bấy
lâu nay bị ức chế, bị quản thúc, giờ bỗng bừng sống dậy. Cục thắp hương lầm rầm
khấn vái trước bàn thờ Bính, xin Bính kéo anh ra khỏi những cái bẫy tình. Kìa,
bát hương hoá. Chân hương cháy đùng đùng. Bính thương Cục đấy. Ở vậy thế là đủ
rồi. Chiến tranh với đế quốc Mỹ còn dài, lấy vợ, đẻ thêm mấy thằng con trai nữa
để chúng nó đi trả thù cho Bính.
Hôm sau, Cục quyết hành động. Quả nhiên, Nhi lại vào phòng
phó chủ nhiệm ở trại chăn nuôi.
- Báo cáo anh… Kho lương thực huyện phân cho trại mình hai tấn
rưỡi lúa để xay xát. Anh cho ý kiến để phân cho các gia đình.
Nhi lại áp sát sau lưng Cục. Lần này hình như cô ta chịn cả
cái "bàn là" vào lưng Cục. Là Cục đoán thế vì tự dưng anh thấy bỏng dẫy
một bên sườn. Cái cô này đến lạ, chồng đi bộ đội mới mấy tháng đã dính vào thằng
Ngộc nhằng nhằng. Đến khi có chửa, phải đưa ra Hà Nội nạo thai, rồi Đĩ Ngao bắt
Ngộc đi bộ đội, mới dứt ra được. Nhưng nghĩ đi lại phải nghĩ lại, đàn bà đã phải
hơi giai rồi, lại hơ hớ, ngồn ngộn thế kia, ai mà nhịn được? Đến như con lợn xề
ngoài chuồng kia, đến kỳ động hớn, không có đực là lồng lên, phá phách điên cuồng.
Thật tội chạm tay vào, là ả lợn nằm ngoan ngoãn, chân sau dạng ra, chổng mông
chờ đợi. Có lẽ Nhi đã bị những con lợn xề động hớn tra tấn còn hơn mọi cực
hình. Có lần, Cục bắt gặp Nhi đứng thẫn thờ, mặt đỏ bừng bừng nhìn con lợn đực
nhảy lên lưng con lợn nái…
- Kìa anh, ký duyệt cho em đi… - Nhi cúi xuống, những sợi tóc
mai xoà vào má Cục, buồn buồn.
Cục đánh bạo, ưỡn người lên, rồi luồn cánh tay lành ra sau
lưng, bàn tay để ngửa, sau đó lại từ từ cúi xuống. Trời ơi, cả bàn tay Cục ấm
nóng, rồi bỏng dẫy. Cục không dám động đậy.
Nước ùa ra bàn tay anh ướt đầm…
Kẻ ngồi người đứng úp thìa như thế một lúc lâu. Nếu không bị
Nhài đến phá đám thì chắc chắn câu chuyện sẽ gay cấn biết chừng nào.
Nhưng, tín hiệu đã phát và thu rồi, đời nào Nhi chịu dừng ở
đó. Là người đàn bà ít nhiều đã có kinh nghiệm, lại đang cơn say tình, tối hôm
sau, Nhi đã thu xếp cho hai người một chốn thần tiên, ấy là khu đống rơm ở vườn
chuối cuối làng.
Sau cuộc mưa gió với Nhi, Cục trưởng thành nhanh chóng trong
tình trường, thành gã thập thành có hạng. Lần lượt các cô các chị Lành, Cúc,
Nhài, Lan, Huệ… tự tìm đến Cục. Hình như họ kháo nhau, rỉ tai nhau rồi tạo điều
kiện cho nhau được thưởng thức Cục. Khác xa với Phèng Cửu Tựu ngày cải cách phải
dùng uy quyền, thủ đoạn mới cưỡng nồi người đàn bà cởi quần ra, Cục bây giờ được
các thị mẹt tự dâng hiến. Cục là mì chính cánh giúp cho bát canh suông cuộc đời
các thị mẹt làng Động thêm chút ngọt ngào.
Đi đêm mãi cũng có ngày gặp ma. Không hiểu do các cô các bà
ghen nhau vì "ăn chia" không đều hay vì có kẻ ghen ghét, mà một tối
Nhài, Lành và chủ tịch Ngao rình bắt quả tang Cục và Nhi đang quần nhau ở nhà
kho trại lởn. Đời Cục thế là toi rồi! Hết thời kỳ lên voi rồi. Hủ hoá với vợ bộ
đội, khác gì tên Việt gian phản động cài ở hậu phương để phá tan tành sự nghiệp
cách mạng? Người ta xung phong ra mặt trận, sống chết từng giờ, chỉ mong gửi lại
vợ dại con thơ ở nhà cho các anh trông giữ, thế mà anh lại rủ rê, quyến rũ, rồi
đè ngửa vợ người ta ra… Thứ hỏi còn anh lính nào yên tâm mà đánh giặc? Anh chọc
bừa, nhiều thằng chó dái hậu phương khác cũng bắt chước anh chọc bừa thì vỡ trận
to. Lính ngoài mặt trận đào ngũ hết. Thế cho nên Cục chết là đáng đời. Cục ơi,
tham thì thâm!
Nhưng rồi bỗng như có phép lạ, Cục được tha bổng. Trời đất quỉ
thần ơi, nhà Cục đại hồng phúc. Bính linh thiêng cứu bố con Cục đận này rồi.
Trời, Phật làm sao cứu nổi Cục?
Cứu Cục chính là Chi bộ.
Rất may là Cục vừa được Chi bộ kết nạp. Nếu không phải là người
của tổ chức thì đời Cục đã ra bã. Chi bộ phải họp lên họp xuống hàng chục
phiên. Phân tích, tranh luận đến nát nước nát cái. Đây không phải chỉ là chuyện
riêng của đồng chí Quặc mà là chuyện hệ trọng của tổ chức, của cả hệ thống tổ
chức. Con sâu làm rầu nồi canh. Bậy! Nồi canh của tổ chức, đời nào có sâu?
Không làm êm thấm, kẻ địch nhân cơ hội này phá hoại tổ chức từ bên trong phá
ra. Ông bí thư tuyên bố hùng hồn thế. Việc đầu tiên là cấm không được tiết lộ vụ
hủ hoá này cho quần chúng biết. Ém nhẹm và bí mật tuyệt đối không để tin tức lọt
lên cấp trên. Cấp trên biết chuyện này thì bao nhiêu công lao phấn đấu, bao
nhiêu thành tích của cả một tập thể sẽ thành công cốc. Chi bộ không trong sạch,
không đạt tiêu chuẩn bốn tốt thì còn mặt mũi nào để nói với quần chúng? Còn vai
trò gì là đầu tầu, lãnh đạo? Thôi thì đóng cửa bảo nhau, xử lý nội bộ. Đồng chí
Quặc vợ chết vì bom Mỹ, là đàn ông độc thân, gà trống nuôi con đã mấy năm trời.
Dẫu là gỗ đá cũng phải mối mọt, huống chi người… Còn cô Nhi vợ bộ đội nhưng đã
ba năm bặt tin chồng, ngày xưa ba năm là xứng đáng được nhận bằng tiết hạnh khả
phong, giờ thời đại mới, thiếu nữ có kinh từ mười một tuổi. Nhi cưới được bẩy
ngày thì chồng đi miết vào chiến trường. Ba năm chịu đựng, đóng cửa chờ chồng
đã là ghê lắm rồi, chi bộ thử thách chán mới cho đi học lớp đối tượng. Đàn bà ấy
mà, đái không vượt nổi ngọn cỏ, khôn ba năm dại một giờ…
Chi bộ đang họp xử lý kín, thì có giấy báo tử chồng Nhi từ
huyện đội chuyển về. Chủ tịch Ngao kêu lên giữa cuộc họp, không hiểu vì sung sướng
thay cho Cục hay đã tìm được lối thoát cho tổ chức: "Tôi biết tin anh Bức
chồng cô Nhi hy sinh tại trận địa pháo cầu Hàm Rồng từ năm ngoái rồi, nhưng vì
muốn giữ yên ổn hậu phương nên không thông báo với gia đình Nay thì cô Nhi đã
trở thành người tự do… Chi bộ mình chăng phải kiểm điểm ai hết. Chúng ta nên
tác thành cho đồng chí Quặc và đồng chí Nhi làm vợ chồng…"
Đám cưới đồng chí Quặc và Nhi được chi bộ đứng ra tổ chức sau
lễ báo tử Bức một tháng. Cục lấy được vợ trẻ hơn mình mười sáu tuổi, hừng hực sức
thanh xuân, nên chỉ trong vòng ba năm đã đẻ liền ba đứa con, hai gái, một trai.
°°°
Càng gần ngày chiến thắng, các chàng trai làng Động càng nằm
lại chiến trường nhiều hơn.
Cải vào mặt trận sau Công đúng một năm. Vừa hành quân vừa
tranh thủ luyện tập, đến hết mùa mưa, đơn vị Cải vòng qua đất bạn Lào, vào sâu
chiến trường Tây Nguyên. Tháng chín năm 1974, trong trận thử lửa ở Đắc Tô, Tân
Cảnh, trận đánh thăm dò, trước khi quân ta điểm huyệt toàn bộ hệ thống quân sự
Mỹ Nguỵ ở Buôn Ma Thuột, Cải đã vĩnh viễn nằm lại ở một con suối không tên.
Hai mươi bốn liệt sĩ của làng Động lần lượt được báo tử.
Hôm nhận giấy báo tử Nguyễn Kỳ Cải, bà Phúc nhìn thấy bức ảnh
thằng cháu nội trong khung tang, liền bị ngất. Còn cô Hậu lại ôm ghì lấy tấm ảnh,
vừa nhăn nhở cười, vừa trò chuyện với đứa cháu như Cải đang còn sống. Riêng Cục,
lầm lì suốt một ngày không nói. Anh bảo Nhi bắt con gà trống thiến làm một mâm
cơm cúng, bảo cái Ruộng mời ông bà Bùng đến dự lễ tưởng niệm. Chập tối, Cục lặng
lẽ ra mả Bính, thắp hương, lầm rầm khấn vái một hồi lâu, rồi vật vờ như con ma
đói về nhà.
Hy sinh giữa tuổi mười tám, bài vị chàng trai Nguyễn Kỳ Cải
ngời ngợi như một tài tử điện ảnh trên ban thờ, cạnh dưới bài vị chị Bính. Còn
một chỗ trống nữa, phía bên kia, lần nào thắp hương, anh Cục cũng thầm mong đó
không phải là chỗ dành cho Công.
Làng Động chỉ còn một trường hợp duy nhất là Nguyễn Kỳ Công vẫn
bặt vô âm tín.
Bỗng một ngày chị Là từ Hà Nội về, mang theo những tin tức
làm cả làng Động sôi lên sùng sục.
Tin thứ nhất: ông Nguyễn Kỳ Vọng, con thứ ba của ông bà Lý
Phúc di cư vào Nam năm 1954, vẫn còn sống và sắp trở về.
Tin thứ hai: ông bác Nguyễn Kỳ Vọng đã gặp thằng cháu Nguyễn
Kỳ Công tại chiến trường miền Đông, Nam Bộ.
Cả hai tin này đều chắc như đinh đóng cột, vì chị Là chỉ là
cái loa phát ngôn của chồng. Ông Chiến Thắng Lợi là cán bộ Trung ương cao cấp,
vào ra Sài Gòn như đi chợ, đã phát thì ngôn nào dám sai?
Mẹ con bà Cử Phúc như người chết rồi bằng được sống lại. Bà Cử
Phúc, gặp ai cũng khoe lá thư của anh Ba Vọng do ông cả Khôi mang từ Sài Gòn
ra, đã được truyền tay đến nhàu nát. Không biết chữ, nhưng bà đã thuộc đến từng
dấu phẩy
"Con là Nguyễn Kỳ Vọng, cúi đầu kính lạy u vì tội bất hiếu.
Vì hoàn cảnh chiến tranh, con xa gia đình đã hơn hai mươi
năm. Lúc nào hình ánh thầy u, hình bóng quê hương cũng luôn ghi nhớ trong tâm
khảm. Biết bao vật đổi sao dời, không làm sao kể hết trong mấy dòng thư này.
Con vẫn luôn nói với vợ con và hai cháu Kỳ Vân, Kỳ Vy rằng, nhất định sẽ có một
ngày chúng ta về thăm quê cha đất tổ. Quả là hồng phúc nhà ta còn rất lớn. Gặp
anh Khôi con ở Sài Gòn mà con tưởng như trong mơ… Vậy là bốn anh em con vẫn còn
cơ hội gặp thau giữa làng Động quê hương. Ngày ấy không còn xa nữa. Nhất định
con sẽ về thăm u và gia đình… Nhân đây con cũng báo tin cho chú Quặc biết. Nếu
chú có con trai lớn tòng quân thì đúng là hai bác cháu đã gặp nhau ở An Lộc rồi".
Chỉ vỏn vẹn ba dòng thư ngắn ngủi cũng đủ làm anh Cục sướng
muốn phát điên. Anh uống hết một chai ba rượu trên quán cháo lòng bà reo chợ Mới,
mồm nói huyên thuyên rằng tuần trước chị Bính vợ anh báo mộng thằng Công dắt
theo về một cô vợ người Sài Gòn, giọng líu lo, nói mà anh chẳng hiểu mô tê gì.
Có thế chứ! Trong hai thằng con trai anh, nhất định sẽ phải có một thằng đi tới
đích, là người chiến thắng trở về chứ? Khối trường hợp báo chí đăng hẳn hoi. Cô
vợ nhận giấy báo tử chồng, bố mẹ chồng thương con dâu lỡ dở bèn cưới cho ruột
thương binh goá vợ, đến khi đám cưới vừa diễn ra thì anh chồng lù lù xuất hiện.
Lại có trường hợp một anh bộ đội về nhà, thấy ảnh mình trên bàn thờ, đang ngơ
ngác đứng nhìn không hiểu thực hư ra sao, thì bố mẹ ngoài đồng về, tưởng con là
ma, liền qui xuống vái lia lịa mong hồn ma sống khôn chết thiêng phù hộ cho cả
nhà…
Không thể ngồi yên ở nhà vì mấy dòng thư như đánh đố, anh Tư
Cục bảo Nhi bắt con gà sống thiến cho vào rọ, đong vào tay nải mấy cân nếp cái
hoa vàng, đích thân khăn gói ra Hà Nội, tìm gặp bác cả Khôi để hỏi về trường hợp
bác Vọng đã gặp cháu Công như thế nào?
°°°
Bác cả Khôi, anh Cục vẫn thường gọi đồng chí Chiến Thắng Lợi
như thế, là người duy nhất của làng Động có mặt tại dinh Độc Lập, trung tâm đầu
não của chính quyền Sài Gòn, đúng ngày chiến thắng 30 tháng tư năm 1975.
Đoàn công tác đặc biệt của Ban X, do đồng chí Tư Vuông dẫn đầu,
cùng đi có Chiến Thắng Lợi và Văn Quyền khởi hành từ Hà Nội vào đúng ngày giải
phóng Huế, 26 tháng ba.
Chiếc xe Uoat mới cứng, phủ kín lá nguy trang, đi suốt đêm
ngày theo mệnh lệnh "thần tốc, thần tốc hơn nữa", đuổi kịp đại quân ở
Đà Nẵng. Từ đây, đoàn nhập vào Bộ chỉ huy tiền phương của cánh quân phía bắc,
tiến thẳng vào dinh Độc Lập.
Sau hai mươi mốt năm, kể từ ngày 10 tháng mười năm 1954, ngày
những anh bộ đội Cụ Hồ tiến vào giải phóng Thủ đô giờ đây Chiến Thắng Lợi lại
có vinh hạnh được cùng đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Cũng bộ quân phục
màu cỏ úa, mũ tai bèo, lẫn trong hàng vạn sĩ quan chiến sĩ quân giải phóng,
nhưng vị thế của Chiến Thắng Lợi giờ đã khác. Ông theo đại quân vào thành phố lần
này là để tiếp quản toàn bộ hệ thống của chính quyền cũ; tiếp đó là tẩy rửa,
thanh trừng toàn bộ hệ thống tư tưởng phản động, chống đối; thiết lập bộ máy của
chính thể mới. Đời người mấy ai có được niềm vinh quang cao vời, niềm hạnh phúc
tột đỉnh ấy.
Ngay ngày đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn, Ban X đã lập một chiến
tích vang dội, có sức lan truyền khắp cả nước và thế giới ấy là bài phóng sự
"Đại quân ta tiến vào Sài Gòn", ký tên tác giả Văn Quyền, thành viên
của Ban X, đăng trên hầu hết các tờ báo lớn ra hàng ngày và phát liên tục trên
Đài phát thanh. Bài phóng sự đăng kín hai trang báo khổ lớn mô tả các cánh quân
tiến thần tốc với khí thế chẻ tre từ các ngả Đồng Dù, Bến Cát, Dầu Giây, Long
Thành, Bến Lức…, vào chiếm các trung tâm đầu não cuối cùng của quân nguỵ Sài
gòn, và mũi thọc sâu quyết định là Lữ đoàn tăng thiết giáp đánh chiếm dinh Độc
Lập, bắt tướng Dương Văn Minh phải lên Đài phát thanh tuyên bố nguỵ quân nguỵ
quyền bô súng, đầu hàng vô điều kiện, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Kèm theo
bài phóng sự hừng hực lửa ấy là bức ảnh hai chiến xe tăng 843 và 390 của Lữ
đoàn 208 anh hùng tiến thẳng vào cửa dinh Độc Lập.
- Các cậu giôi lắm. Vừa vào hang cọp, còn lạ nước lạ cái chưa
biết đường đi nước bước ra sao mà đã có ngay một bài phóng sự bốc lửa, chẳng
khác gì bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ngay sau chiến thắng quân Minh…
Đó là lời khen của đồng chí Tư Vuông dành cho Chiến Thắng Lợi
và Văn Quyền.
Chiến Thắng Lợi thật thà:
- Dạ, báo cáo anh, công này thuộc về cậu Văn Quyền. Suốt đêm
cậu ấy thắp đèn hì hục viết. Cậu ấy có nhờ tôi đọc duyệt. Tôi sửa cái tít, thêm
chữ TA, để khẳng định đây là đại quân Cách mạng.
- Giỏi lắm. Riêng cái tít đã chứng tỏ một tầm nhìn vĩ mô, chiến
lược. Mà cậu Văn Quyền bỗng nhiên viết lên tay mới lạ. Vừa có thực tế sống động,
vừa có văn chương bay bổng. Tớ sẽ đề nghị với Trung ương thưởng huân chương chiến
công cho các cậu đợt này.
Xưng hô cậu tớ thân mật như anh em một nhà, đủ biết đồng chí
Tư Vuông vui đến mức nào…
- Anh Tư đặc biệt đánh giá cao bài viết của chú - Chiến Thắng
Lợi nói với Quyền - Chính tôi cũng rất khâm phục khả năng nắm bắt thực tế của
chú. Không hiểu chú lấy tư liệu ở đâu, lúc nào mà tài thế?
Cái nhìn dò xét, xăm xoi của Lợi, khiến Văn Quyền phát hoảng.
Giả vờ hỏi vậy thôi, chứ ông ấy đã biết tỏng, đã đi guốc trong bụng mình - Quyền
nghĩ thầm vậy và đành phải thú nhận:
- Với anh thì em không dám giấu giếm điều gì. Anh có nhớ hôm
anh em mình gặp Châu Hà ở phòng Tổng thống Dương Văn Minh không? Chính cậu ấy
đã cung cấp cho em tư liệu viết bài phóng sự.
Chiến Thắng Lợi à một tiếng, như đã hiếu ra.
Châu Hà chính là bút danh của nhà văn Đà Giang từ ngày đi chiến
trường. Về nguyên tắc tổ chức, các nhà văn đi B, đều không được ký bút danh cũ
trên các tác phẩm viết tại mặt trận. Đà Giang, sau chuyến vượt Trường Sơn năm
1967, phải bỏ lại cái tên cũ ở miền Bắc, lấy dòng sông Châu Giang quê hương làm
bút danh nhà văn giải phóng Châu Hà. Vậy là từ cái tên cúng cơm Mai Văn Nhạ, đến
Đà Giang, rồi Châu Hà bây giờ là cả một chặng đường trưởng thành của một đời
văn. Cũng tương tự, Du San lấy bút danh Xuyên Sơn, Hàn Thâm Nho ký tên mới Trần
Nhân Ảnh. Từ ngày ký tên mới, Châu Hà trở thành nhà văn giải phóng nổi tiếng với
hàng loạt các tác phẩm gây tiếng vang trên văn đàn: Các tiểu thuyết "Trường
Sơn hùng vĩ" "Đỉnh dốc, "Vượt ngầm", các tập truyện ngắn và
ký sự "Em gái Vân Kiều", "Trăng sáng Cửa Việt", "Mũ
tai bèo"… Đặc biệt, tập tuỳ bút "Đường lớn ta đi" ngay
sau khi xuất bản đã có sức hiệu triệu hàng vạn thanh niên lên đường ra mặt trận,
đã được báo chí hết lời ca ngợi là tác phẩm đúng tầm thời đại, bản hùng ca về
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, được chọn in vào phụ lục sách giáo khoa bậc trung
học. Châu Hà được trao giải thưởng Văn học Trường Sơn và trở thành nhà văn giải
phóng hàng đầu được nhận Giải thưởng Văn học Á - Phi - Mỹ La tinh. Gần mười năm
ở chiến trường, Châu Hà không những là nhà văn với sức đi sức viết kỷ lục mà
còn là một nhà báo sắc sảo, luôn có mặt tại những nơi nóng bỏng, ác liệt nhất,
luôn có những phóng sự hừng hực khói lửa chiến trường.
- Mình không ngờ trong cuộc chiến tranh này Châu Hà đã trưởng
thành vượt bậc - ông Lợi nói với Quyền - Trong số ba tay nhà văn tình nguyện đi
B đợt ấy, Đà Giang thực sự là niềm tự hào của giới văn nghệ… đau nhất là mình
đã đồng ý để Du San đi chiến trường…
- Em chẳng ngạc nhiên khi Xuyên Sơn trở thành kẻ chiêu hồi.
Trong bài viết "Từ Du San đến Xuyên Sơn, hành trình của một tên phản bội",
em đã lật tẩy bộ mặt tay sai bồi bút của nó. Viết đơn tình nguyện đi chiến trường
cũng chỉ là sự a dua theo Đà Giang và Hàn Thâm Nho, chứ bản chất hắn là kẻ dễ
dao động, không chịu được gian khổ, ác liệt, thì em biết. Thằng nhà văn khi đã
quay bút phản bội Tổ quốc thì giọng lưỡi của nó còn hơn cả rắn độc. Nghe đài
Sài Gòn đọc bút ký "Xương trắng Đất Việt" của nó em chỉ muốn đập vỡ
cái đài, chỉ ước bắt được nó để băm vằm thành từng mảnh. Tiếc rằng nó đã leo
lên máy bay trực thăng chạy theo quan thầy Mỹ. Trước khi tháo chạy ba ngày nó
còn kịp phun trên đài Nguỵ bài tuỳ bút "Tử thủ cùng Sài Gòn",
anh bảo có điên không?
- Nhưng bù lại chúng ta đã có Châu Hà, Trần Nhân Ảnh và bao
nhà văn anh dũng khác… - Chiến Thắng Lợi đột ngột trở lại chuyện cũ - Này, chú
không nghĩ rằng Châu Hà sẽ kiện chú đấy chứ?
- Kiện thế nào được em? - Văn Quyền nói cứng, nhưng sắc mặt
chợt tái dại, không qua nổi được mắt Lợi - Em chỉ tham khảo tư liệu của cậu ấy
thôi…
- Tôi nhắc để tránh cho chú những phiền toái sau này. Đạo văn
là điều tối kỵ của người cầm bút - Chiến Thắng Lợi xua tay - Thôi, qua chuyện
khác nhé. Hình như tôi có đọc loạt bài Châu Hà viết về cuộc nổi dậy Tết Mậu
Thân ở Sài Gòn.
- Dạ, đúng. Phóng sự "Dáng đứng Thành đồng" in
trên Văn Nghệ Giải phóng. Năm 1968 Châu Hà từng sống ở địa đao Củ Chi, rồi tham
gia tồng tiến công Tết Mậu Thân. Chẳng ngõ ngách nào ở Sài Gòn cậu ấy không biết.
- Chú tìm Châu Hà, bảo đến gặp tôi nhé.
Văn Quyền phát hoảng, trán toá mồ hôi hột. Anh thoáng nghĩ đến
một cuộc đối chất mà vị quan toà không ai khác là Chiến Thắng Lợi.
Như để trấn an Quyền, Lợi đặt cả hai bàn tay lên vai thuộc cấp,
vỗ nhẹ:
- Tôi muốn nhờ Châu Hà một việc. Hoàn toàn là chuyện riêng
tư. Phải nhờ tay nhà văn xông xáo này may ra mới tìm thấy tung tích của cậu em
cùng cha khác mẹ với mình.
- Nguyễn Kỳ Vọng hả anh?
- Vì nó mà cái lý lịch của tôi luôn bị tổ chức đặt một dấu hỏi
- Tiếng thở dài của Lợi khiến Quyền như thấy lây sang mình.
- Bây giờ là lúc mình phải đối mặt với sự thật. Dù sao nó
cũng cùng giọt máu với mình. Người cách mạng không phải là kẻ không có trái
tim. Nếu nó là nguỵ quân nguỵ quyền, là ác ôn nợ máu thì tôi cũng phải nhận
trách nhiệm với tổ chức…
- Dạ, anh để em lo việc này. Em sẽ đi gặp Châu Hà ngay.
Quả nhiên, người tìm ra Nguyễn Kỳ Vọng không ai khác là nhà
văn Châu Hà. Bằng hệ thống cộng tác viên đặc biệt và tài nghệ của một người săn
tin, chỉ trong ba ngày, Châu Hà đã tìm thấy tên Nguyễn Kỳ Vọng trong danh sách
của Tồng Cục Kiều Lộ, thuộc Bộ giao thông Công chánh chính quyền Sài Gòn.
Dẫu đổi họ thay tên và súng sính trong bộ quân phục giải
phóng rộng thùng thình thì Châu Hà vẫn là anh chàng nhà văn Đà Giang đen gầy,
xương xẩu ngày nào. Chỉ có điều, thay vì chiếc điếu cày lúc nào cũng cặp kè bên
mình, giờ thì trên môi Châu Hà thường trực điếu thuốc lá Basto. Hàm răng được
hun khói thường xuyên xỉn màu cánh dán khiến nụ cười của anh không giấu được vẻ
quê mùa gốc gác.
Cùng bước vào phòng Chiến Thắng Lợi với Châu Hà là một người
tầm thước, mặc bộ complê sáng, đội mũ phớt, dáng vẻ khúm núm sợ sệt.
Chiến Thắng Lợi sững người. Ông nhìn người mới đến chằm chằm,
rồi quên cả mình đang ở một cương vị phải giữ gìn, ông tiến lên mấy bước, xoà
tay ra:
- Chú Ba Vọng phải không. Đúng là em Nguyễn Kỳ Vọng rồi.
- Anh Khôi! Em đây.
Hai anh em ôm chầm lấy nhau. Chiến Thắng Lợi cố nuốt nước mắt
vào trong, còn Vọng thì bật khóc ồ ồ.
- Bà và cả nhà vẫn mong chú từng ngày. Biết chú không di tản,
lại chỉ là một công chức kỹ thuật, không nợ máu, anh rất mừng.
Đó là câu chuyện mở đầu của hai anh em suốt hơn hai mươi năm
xa cách.
°°°
Chuyến trở về làng Động của Nguyễn Kỳ Vọng như một giấc mơ.
Trong số những người đầu tiên được lên con tàu Thống Nhất đầu
tiên làm cuộc hành trình xuyên Việt từ Sài Gòn ra Hà Nội, Vọng có niềm hạnh
phúc của người phía bên kia nhưng lại được chính thể mới tin cậy, tin dùng.
Cùng trên chuyến tàu với Vọng là một số ít người Bắc di cư, có nhân thân tốt,
được ưu ái đặc biệt về gặp mặt gia đình. Còn lại, toàn một màu áo lính. Có nhiều
toa chở đầy thương binh. Những người lính dạn dầy trận mạc, từng cận kề cái chết.
Nhiều người là thương bệnh binh hôm qua còn trong bệnh viện. Nhiều người có
thâm niên hàng chục năm khắp các chiến trường B, C, K. Họ được phiên chế theo từng
đơn vị toa tàu có sĩ quan chỉ huy, có bộ phận bảo đảm hậu cần. Hành trang của
những người lính chiến thắng hầu như giống nhau: kèm theo ba lô, võng dù, đàn
ghita là khung xe đạp gia công, xăm lốp xe, búp bê, quần áo, đường sữa… Nhiều
anh bê theo cả những chiếc ti vi đen trắng to đùng, hoặc treo toòng teng bên cửa
sổ những buồng cau, những xe nôi trẻ con, đồ gia dụng bằng nhựa… Nhiều anh
không quên mang vác đưa lên toa những bao tải gạo, những can nhựa nước mắm, những
giỏ trái cây đủ loại măng cụt, sầu riêng, mãng cầu, dừa, xoài, chồm chôm, bưởi,
mít tố nữ… cao ngất ngưởng. Đoàn tàu chiến thắng nồng nặc mùi mồ hôi người lâu
ngày không tắm giặt chen chúc kẻ nằm người ngồi, chất ngất đồ đạc, hành lý, nhiều
lúc ì ạch chạy với tốc độ bằng người đi xe đạp, đêm xuống nhà tàu phải thắp những
ngọn đèn dầu vàng nhợt nhạt ở các lối đi. Vui nhất, ầm ĩ nhất là lúc hai đoàn
tàu ngược chiều Nam Bắc gặp nhau ở ga cau Phú Yên, ga xoài Bình Định ga gà Quảng
Ngãi và ga trứng vịt Quảng Bình. Tàu Bắc vào có vẻ hỗn tạp, chen chúc người,
nhưng cũng nghèo nàn hơn. Toàn cán bộ vào tiếp quản, đi công tác, các gia đình
tập kết dắt drư nhau về quê, thân nhân đi tìm người nhà và cánh lâi buôn đường
dài. Hàng vào chủ yếu là chè Phú Thọ, Thái Nguyên, thuốc lá sợi Lạng Sơn, thuốc
lào Vĩnh Bảo… Người ta réo tên ời ời xem có ai là người thân, người đồng hương.
Không ít cảnh vợ chồng, cha con, anh em gặp nhau tình cờ, câm động đến rơi nước
mắt.
Dằng dặc suốt chiều dài đất nước đâu đâu cũng cảnh đổ nát
hoang tàn. Những rừng dừa cụt ngọn cháy đen, tua tủa như những rừng cọc Bạch Đằng.
Những cánh đồng bị đạn pháo cày, bỏ hoang lâu ngày, cỏ mọc ngút đầu. Những nền
nhà nham nhở. Những túp lều dựng vội bằng đủ thứ phế liệu. Hàng trăm chiếc cầu
đổ sập ngang sông. Xác xe tăng, xe tải cháy ngổn ngang dọc đường. Những thị trấn
hầu như chỉ còn là những đống gạch vụn…
Thế là tròn 22 năm kể từ ngày Vọng đáp chiếc máy bay Dakota từ
phi trường Gia Lâm vào Sài Gòn. Ra đi như một cuộc chạy trốn quê hương bằng đường
trên trời. Trở về trên chuyến tàu xuyên Việt nối liền hai miền chia cách. Ngày
đi Vọng vẫn còn là một cậu tú tài mười bầy tuổi, ngày về đã là một người đàn
ông tứ thập, với biết bao chìm nổi, phong trần.
Gặp bà Cử Phúc, Vọng ôm chầm lấy mẹ, khóc rống lên. Nhìn thấy
ảnh ông Cử Phúc trên ban thờ, Vọng lại khóc nức nở một lần nữa. Chao ôi, toàn
những gương mặt thân yêu mà cho tới lúc gặp, anh vẩn không thể nhận ra. Mẹ anh
gầy yếu hom hem và già sọm hơn tuổi thực của bà đến chục tuổi. Cục cao lênh
khênh, đen cháy như thanh gỗ hong gác bếp, còn Hậu, cô em ruột, mà anh lại cứ
tưởng là bà vú già của gia đình.
Ký ức về Nguyễn Kỳ Viên một thời, khiến Vọng cứ ngơ
ngẩn như người lạc vào một xóm ngõ nào đó chứ không phải ngôi nhà xưa, nơi anh
đã gắn bó những năm tháng tuổi thơ. Khu nhà của thầy u nay đã bị chia năm xẻ bẩy,
chen chúc các hộ gia đình. Cái làng Động của anh đông đúc, chật chội hơn, nhưng
xác xơ, tiêu điều. Nền đình Đụn giờ thành nhà kho, sân phơi hợp tác, ngổn ngang
những đầu máy cày, máy tuốt lúa han rỉ. Đầu làng, cuối làng chỗ nào cũng chuồng
trâu tập thể, trại chăn nuôi lợn, phân rác ngập đầy.
Suốt một đêm trắng, Vọng thức kể cho bà Cử Phúc và Cục nghe về
quãng đời hơn hai mươi năm chìm nổi, phiêu bạt. Dường như lần đầu tiên kể từ
ngày xa quê, anh mới có dịp sắp xếp lại những trang ký ức.
Mệt quá, Vọng ngủ thiếp đi trên tấm phản mà Cục đã thay cho
chiếc sập cổ bị trưng thu hồi cải cách. Trong cơn mơ, Vọng thấy mình bé loắt
choắt với cái tên Vện cúng cơm bà nội và u thường gọi. Cục và Vện dẫn bé Hậu ra
bờ ao câu nhái cho vịt. Hậu rén đi sau hai anh, tay xách chiếc giỏ bằng tre
đan, đựng nhái, bé như một quả phật thủ. Những con châu chấu nhỏ được mắc vào
lưỡi câu, dùng dây gai nối vào đoạn cần tre. Chỉ cần nhử nhử bên vệ cỏ là con
nhái háu ăn nhảy lên đớp. Đang ham câu, Vện bỗng nghe tiếng ùm, quay lại, thấy
bé Hậu đang chới với dưới nước. Vện sợ quá, kêu oai oái chạy đi gọi u, gọi bà.
Còn Cục, chẳng nói năng gì nhảy ùm xuống ao, vừa bơi vừa quờ tay túm tóc bé Hậu…
Cơn mơ về tuổi thơ làm Vọng bừng tỉnh. Anh thấy như nước từ
tóc Hậu còn vương trên má mình. Anh thấy lờ mờ một gương mặt đang cúi sát xuống
anh. Một bàn tay nhỏ bé đang xoá ngấn nước trên má anh. Thì ra đó là cô em gái
Hậu tội nghiệp. Lúc anh kể chuyện, Hậu chỉ ngồi ở góc khuất phía xa nhìn. Lúc Vọng
ngủ, cô mới dám lại gần, ngắm nhìn anh với vẻ mặt ngây ngô nhưng vô vàn âu yếm.
Cô không hiểu sao mà anh Vọng của cô, lại khóc?
Hậu ơi, thế giới tuổi thơ của chúng mình đã chết rồi. Vọng thầm
nói với em gái và chụp bàn tay lên mái tóc em.
Chương 16
đứa con lưu lạc
(Trích hồi ký "Kẻ tha hương")
Từ đất Bắc, chúng tôi đáp máy bay xuống phi trường Tân Sơn Nhất
buổi trưa ngày… tháng… năm 1954. Sau khi chia tay hai anh em Tạ Đôn và Tạ Thu
Uyên, chúng tôi được xe nhà binh chờ tới lăng Đức ông gần chợ
Bà Chiểu.
Trước khi vào Nam, người đội mũ phớt, đeo kính đen
luôn rót vào tai tôi rằng, đồng bào di cư sẽ được cấp một căn hộ
và đầy đủ tiện nghi sinh hoạt. Hoá ra đó là những lời lừa phỉnh.
Lăng Đức ông, nơi đón tiếp đồng bào Bắc di cư, như một
cái bị quá chật phải chứa một lúc hàng nghìn con người. Các gia đình chen
chúc trải chiếu, hay bất kỳ thứ gì để ngủ cả ở khu lăng mô, quanh hành lang đền
thờ và cứa nhà cầu trong cái nóng bức và ngột ngạt hơi và đủ
thứ xú uế người.
Tôi rụt rè hỏi người phụ trách trại, một ông béo
lùn, nói giọng Bắc lơ lớ.
- Bác ơi, tối nay cháu ngủ đâu?
- Cậu ngủ đâu tôi không cần biết - ông béo lùn xì
mũi - Tôi chỉ biết mỗi ngày tôi cấp cho cậu mười đồng.
Tôi đã sống hai tháng trời với mỗi ngày mười đồng bạc
ấy. Có nghĩa là mỗi ngày tôi chỉ được ăn hai tô hú tiếu, mỗi tô năm đồng.
Sức trai đang lớn, cái dạ dày tôi làm sao chịu nổi. Được bà con mách,
tôi rủ một đứa bạn chuyển tới một trạm tạm cư khác ở đường Hàng Xanh. Nhà
thờ Thánh Mẫu nơi đây cũng chật ních người Bắc di cư. Lang thang
trong thành phố cả tuần, tôi lạc tới nhà thờ Phú Hạnh. Nước rãi tôi chợt ứa
ra khi thấy nhà bếp của cha đổ đi những thức ăn thừa. Bà nấu bếp như đi guốc
vào bụng tôi. Bà dồn đồ ăn vào một tô bự và báo: "Cháu
là học sinh di cư phải không? Cháu ăn đi, đừng ngại".
Bát cơm phiếu mẫu ấy, suốt đời tôi không quên. Từ hôm ấy, tôi
khám phá ra một chỗ ngủ lý tưởng ở mái hiên trường xứ nhà thờ. Ban ngày tôi đi
nghe ngóng về tin tức học hành, đến khuya tôi mới dam mò về mái hiên ngủ vì sợ
nhà xứ đuổi.
Anh em Tạ Đôn đến tìm tôi. Thật tình tôi không muốn gặp Thu
Uyên trong tình cảnh bờ bụi này một chút nào. Nàng có vẻ hợp với
không khí Sài Gòn, lộng lẫy như một cô đầm lai.
Thấy tôi quá khốn khổ, Đôn giới thiệu tôi xuống ở cùng mẹ
con Nhu, bạn cùng học, dưới xóm Cù Lao. Căn nhà sàn trong khu lao động. Muốn
tới nhà phải qua một cây cầu khỉ ngoằn ngoèo, nước đen ngòm như mực tàu,
suốt ngày bốc mùi hôi thối. Mẹ con Nhu dành cho tôi gian gác xép, đứng dậy là cụng
đầu mái tôn. Lúc nào cũng có cảm giác tóc mình khét cháy vì chạm vào
mái nhà. Mùa thu Sài Gòn dịu mát hơn tôi tưởng rất nhiều. Tôi dần làm
quen với những phố sá sầm uất khi tạm biệt căn nhà ổ chuột của mẹ con Nhu lên ở
tại Nhà hát Tây đầu đường Bôna. Thông tin này tôi đọc được trên báo
chí và biết Chính phủ đã bắt đầu quan tâm tới học sinh di cư mất liên lạc gia
đình.
Chiều chiều tôi thả bộ dọc đường Catina, từ nhà thờ
Đức Bà đến bờ sông Sài Gòn, say sưa ngắm nhìn những cao ốc nhiều tầng, những
cứa hàng, khách sạn sang trọng, những dòng xe hơi bóng lộn, những bóng đèn nhiều
màu lấp lánh dưới hàng me. Sài Gòn quả là viên ngọc Viễn Đông, đẹp hơn
trí tưởng tượng của tôi nhiều.
Từ Nhà hát Tây, chúng tôi lại được lệnh di
chuyền xuống trại học sinh di cư Phú Thọ vừa mới xây trên bãi rác cũ. Sau
bao nhiêu ngày vất vưởng thì nơi đây với tôi là chốn thiên đường. Cứ hai học
sinh được ở một lô sáu mét vuông trong một dãy nhà sàn dài lợp tôn,
phân tầng. Chúng tôi được nuôi ăn ở bếp tập thể, trừ tiền ăn, mỗi
tháng tôi được lĩnh 90 đồng.
Có bằng tú tài I từ Hà Nội, tôi vừa học phụ đạo để chờ thi tú
tài II vừa đi dạy học tư gia. Chính Thu Uyên đã giới thiệu tôi với
một gia đình người Bùi Chu di cư. Lớp học chỉ có hai
em, em gái lớp ba và em trai lớp bốn. Em gái lớp ba tên Lê Thuỳ Miên. Số phận
trớ trêu, mười một năm sau cô học trò lớp ba ấy đã trở thành người bạn đời của tôi.
°°°
Cái cơ duyên đã dẫn tôi đến với Miên mười một năm sau, có lẽ
bắt đầu từ người cha của nàng. Ông Lê Huy Mật từng là nhà thầu khoán lục lộ,
tham gia xây dưng nhiều tuyến đường phía bắc. Sau khi di cư vào Nam, ông tiếp tục
nghề cũ. Thấy tôi loay hoay chọn trường Đại học sau khi đậu tú tài II, ông
gợi ý tôi thi vào trường Cao đẳng Công chánh. Nhờ đăng ký học
ban MPC (toán lý hoá) ở Đại học xá Minh Mạng, tôi đã dễ dàng qua kỳ
thi lý thuyết. Gay go nhất với tôi là môn thi thể dục. Từ bé đến giờ, tôi chưa
hề động tới dây leo. Và lo nhất là môn vác bao cát nặng hai mươi ký lô chạy
bộ một trăm mét. Bao cát quá to so với vóc dáng ốm o, nặng
chưa đầy bốn nhăm ký, lại đói ăn lâu ngày, tôi lo không vượt qua
được kỳ sát hạch… Vậy mà rồi ông thầy thể dục cũng chấm cho tôi đỗ. Mãi
sau này tôi mới biết, thầy chấm thi cho tôi lần ấy là người quen của ông
Ký Mật. Trước khi tôi dự thi, ông Ký Mật đã gửi gắm tôi cho thầy. Sự
cưu mang và hướng nghiệp ban đầu này khiến tôi ghi nhớ suốt
đời và trở thành người thân thiết trong gia đình.
Với học bổng trường Công chánh 800 đồng một tháng, cuộc sống
của tôi bắt đầu dễ chịu. Tôi lao vào học với quyết tâm hết năm học thứ ba
sẽ đạt điểm trung bình trên 14/20 để được xét tuyển lên học kỹ sư. Và rồi mong
ước của tôi đã thành tựu. Tôi được học kỹ sư, vừa đi học vừa
lãnh lương cán sự 5.200 đồng một tháng. Đó là những ngày tháng huy hoàng nhất.
Hằng ngày có người mang cơm tháng đến tận phòng. Quần áo lúc nào cũng là ủi tươm
tất. Dư tiền, tôi sắm một chiếc xe máy hiệu Peugeot 103 đi học.
Những ngày chuẩn bị lãnh bằng kỹ sư công chánh, tôi có niềm hạnh
phúc mới. Một buổi chiều, khi tôi kết thúc đợt đi thực tế ở
Bà Rịa, vừa đi xe đò về tới bến xe Miền Đông, thì Thu Uyên ào đến. Nàng mặc bộ
ký giả màu thanh thiên, tóc cặp bồng, đẹp đến mê hồn.
- Anh lên đồn điền với em. Ngày mai sinh nhật em mà anh
không nhớ ư?
Tôi tròn mắt định bảo: "Sao anh không nhớ.
Nhưng phải hai tháng nữa cơ. Năm kia, anh và Tạ Đôn cùng dự sinh nhật em
ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Quên sao được!". Thu Uyên như đoán được ý
nghĩ của tôi, nàng đặt bàn tay lên miệng tôi, bàn tay sực nức
mùi nước hoa Pháp thượng hảo.
- Thì cứ coi như sinh nhật. Em muốn chúng mình có một chuyến picnic nhớ
đời.
Thu Uyên gọi taxi. Bẩy giờ tối chúng tôi đã lạc
trong rừng cao su mịt mùng. Đồn điền của ông chú ruột Uyên có một ngôi nhà
sàn bằng gỗ, dáng dấp biệt thự nằm giữa một vườn cây sầu riêng và
cam, bưởi. Ông chủ đồn điền có dinh cơ ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới về nghi cuối
tuần.
Như đã chuẩn bị sẵn, Uyên dẫn tôi vào căn đại sảnh
mà vợ chồng người gác vườn đã dọn dẹp ngăn nắp, trên chiếc bàn tròn lớn
phủ nhung màu huyết dụ có một bình hoa lay ơn Đà Lạt trắng muốt, hai chiếc ly
cao chân và một chai Remy Martin còn trong hộp.
- Tạ Đôn đâu? Chỉ có mình anh với em thôi ư? -
Tôi nhìn Uyên, như không hiểu.
- Anh Đôn có giấy nhập học trường sĩ quan Đà Lạt. Ba em đang
quyết tâm quân phiệt hoá toàn gia đình em rồi. Chỉ vài năm nữa anh Đôn sẽ
đeo lon cấp tướng. Nếu đúng như lời anh em ông Diệm nói, thì Đôn sẽ là kẻ tiên
phong Bắc tiến để tiêu diệt Chủ nghĩa cộng sản.
- Không nói chuyên chính trị… Anh cảm thấy hình như hôm nay
em có chuyện gì?
- Chuyện của anh và em, hai kẻ phiêu bạt từ chân trời phương
bắc. Đêm nay anh có dám uống say với em không?
Uyên mở rượu, rót ra hai ly. Nàng nhìn tôi, mắt long
lanh một thứ ánh sáng kỳ lạ. Thứ ánh sáng như muốn hút lấy tôi, như
đau đớn khắc khoải nếu bị tôi khước từ.
- Vọng ơi hãy uống cạn với em ly này.
Không đợi tôi có hưởng ứng hai không,
nàng ngửa cổ, uống hết ly rượu. Tôi nhìn thấy một đường gân xanh mờ bỗng nổi
hằn trên cần cổ mảnh de và trắng nõn của nàng, đường gân giần giật đầy kích
đông. Tôi như bị nàng thôi miên, cũng ngửa cổ ực một hơi.
Uyên lại rót tiếp, lần này thì đầy tràn hai ly.
- Thôi Uyên - Tôi níu tay nàng, định đỡ lấy ly rượu.
- Đừng cản em. Nếu không muốn uống nũa thì anh có thể về.
Uyên lại ngửa cổ uống cạn ly. Rồi một ly
nữa, một ly nữa. Tôi giật lấy chai rượu. Cũng là lúc Uyên quẳng chiếc ly
xuống sàn nhà, đổ gục vào lòng tôi, khóc nức nở. Chưa bao giờ tôi thấy
thương Uyên như lúc này. Tôi hít thật mạnh hương thơm từ tóc nàng, từ người nàng
toả ra. Tôi đỡ nàng xuống đi văng. Đột ngột Uyên vòng tay ôm chặt lấy tôi, vít
cổ tôi và áp môi nàng vào môi tôi. Ôi, nụ hôn đầu đời. Có vị ngọt ngào của trái
đầu mùa, lại có vị mặn của nước mắt. Người tôi run lên. Tôi hoảng hốt
nhìn quanh, như phản xạ của kẻ ăn trộm sợ người khác bắt gặp. Nàng lại rướn người
lên, ghì đầu tôi, vừa hôn vừa cầm tay tôi đặt vào ngực nàng.
Như bị điện giật, tôi sợ hãi rụt tay lại. Quen nhau đã mấy
năm nhưng chưa bao giờ tôi dám cầm tay nàng, chưa bao giờ gần nàng như thế này.
Có lẽ vì tôi quá tự ti, quá tôn thờ nàng. Tôi yêu nàng vì một tình
yêu dè dặt của một kẻ nghèo khó trước nàng công chúa kiêu kỳ. Nhiều lần
tôi tự ví mình như chàng Trương Chi, còn nàng như con quan thừa tướng chốn
lầu tây. Cũng có lẽ vì tôi còn quá trẻ, còn đang dồn sức cho chuyện học hành, lập nghiệp.
Tôi dè sẻn gìn giữ tình cảm của mình, và thầm nhủ
rằng, khi nào đỗ bằng kỹ sư, có nghề nghiệp, công thành danh toại rồi, tôi sẽ
ngỏ lời cầu hôn nàng.
Nàng là mối tình đầu, là kỷ niệm của Hà Nội, của những
năm tháng xa xăm trên đất Bắc. Tôi ấp ủ, tôn thờ nàng như một biểu tượng hơn là
một thực thể hiện hữu.
Sau phút cuồng nhiệt, người nàng bỗng chùng xuống.
Nàng nói trong nghẹn ngào:
- Vọng ơi em không muốn sống nữa.
- Làm sao? Hãy nói cho anh biết đi. Em đang có tất
cả mà…
- Chỉ có anh là kẻ vô cảm… Anh thật đáng thương… Hãy mang em
đi khỏi Sài Gòn. Đi thật xa…
- Hãy đợi anh lấy xong tấm bằng kỹ sư công chánh.
Anh sẽ đi nhận công tác ở một nhiệm sở…
- Lúc đó thì em chẳng còn là của anh nữa rồi…
- Là của ai? - Tôi thảng thốt như thoáng nhận
ra mối nguy cơ.
- Ba em đang muốn gả em cho con trai ngài tỉnh trưởng Bà Rịa.
- Có phải cái anh chàng đeo lon thiếu uý mới tốt nghiệp trường
võ bị Thủ Đức mà có lần em đã giới thiệu với anh đó không?
- Anh ta đấy. Hồi ấy em vô tư, thấy anh ta cũng hay hay.
Tưởng anh ta chỉ đến làm thân thế thôi. Nào ngờ anh ta bày binh bố trận để
quyết chiếm đoạt em…
- Vậy là em đã… - Vòng tay tôi chợt rời khỏi
nàng. Tôi như cảm thất đất dưới chân mình sụp đổ.
Nàng đã bị hắn chiếm đoạt rồi ư? Bao giờ? Vậy mà tôi tôn thờ
nàng còn hơn cả Đức Mẹ đồng trinh…
Thu Uyên như đọc thấy mối ngờ vực của tôi,
nàng vòng tay ra sau lưng. Mãi sau này tôi mới biết đó là động tác nàng
mở dây xu chiêng. Tôi cảm thấy hơi thở nàng gấp gáp, cảm thấy
bầu vú thiếu nữ của nàng áp vào ngực mình.
- Anh đừng quá ngốc. Nho chẳng còn xanh như
anh tưởng nữa đâu…
Câu nói xa xôi ấy, sau này tôi mới hiếu như một tín hiệu mời gọi,
nhưng lúc đó tôi lại hiểu theo cách khác. Tôi
rã rời hai tay, như không còn sức để ôm nàng.
- Kìa anh… Anh không thương em ư? - Uyên như chồm
lên người tôi.
- Đừng em… - Tôi đấy nàng ra
- Chúng mình hãy giữ mình cho đến khi nào chúng mình
là chồng vợ…
Nàng bỗng sững lại. Đôi mắt đau đớn nhìn tôi như một kẻ ở hành
tinh xa lạ nào. Rồi nàng bỗng bật khóc, nhổ vào mặt tôi và
vùng chạy ra ngoài trời đêm.
Tôi biết từ giây phút ấy, tôi đã vĩnh viễn mất
nàng.
°°°
Sau khi nhận bằng kỹ sư Công chánh loại ưu,
đầu năm 1959 tôi được bổ nhiệm làm phó ty công chánh Mỹ
Tho. Một năm sau, do làm tốt công việc nới rộng quốc lộ 4,
tổ chức thi công công trường và việc xếp đặt biển báo khoa học,
tôi được cấp trên tín nhiệm đề nghị đi làm trưởng ty
công chánh Bình Long.
Tiếp quản một cơ ngơi nghèo nàn, tạm bợ, cư xá nhân
viên là những dãy nhà lụp xụp, tôi không an lòng. Vận động anh chị em trong ty
cùng bỏ công sức, huy động nhân viên chặt cây rừng, làm nhà ngay hàng thẳng lối,
nền tráng xi măng, mỗi nhà đều có hố xí tự hoại, có bếp riêng, có vườn rau, ao
cá, các nhân viên như được đổi đời, cuộc sống tràn trề sinh lực. Để đời
sống nhân viện đỡ buồn tẻ nơi núi rừng héo lánh, tôi vận động anh chị em xây dựng
một câu lạc bộ mang tên Lâm Viên.
Khách bước vào công ty, thấy ngay một quán hàng sạch đẹp trong
đó có quầy bán thức ăn, nước giải khát với giá rẻ bằng nửa giá chơ,
có nhiều cây trái do đồng bào tặng như bưởi, chôm chôm, chuối, mít… được mời khách
miễn phí. Kế đó là bàn pingpong, phòng đọc sách báo. Sau quán,
còn có một phòng hớt tóc miễn phí dành cho nhân viên và gia đình. Con em trong
cư xá đầu tóc luôn gọn đẹp. Một cuộc sống văn hoá thực sự làm mọi
người yêu thương gắn bó với nhau.
Những năm tháng ở Bình Long ngày ấy thật thanh bình. Nhà
trưởng ty là một ngôi biệt thự trên sườn đồi nhìn xuống một thung
lũng xanh mướt tiêu và cà phê. Biết bao đêm tôi nằm trằn trọc nhớ
thầy u, anh em quê Bắc. Tôi lấy từ trong đáy va ly tập
thơ "Thời của Thánh Thần" của anh Vỹ tôi ra ngắm
nghía, đù tôi đã thuộc làu làu. Đề nguôi nỗi nhớ quê hương, tôi thường rủ gia
đình ông Ký Mật, gia đình Tạ Đôn, mẹ con Nhu và các bạn bè lên choi. Ngày
nghỉ, tôi có thể lái xe Jeep từ An Lộc về Sài Gòn, dừng nghỉ tại quán
nhậu Chơn Thành hoặc Lai Uyên ăn tối. Trong khung cảnh an bình, tôi càng không
nguôi nhớ Thu Uyên. Giá đêm ấy tôi hiểu tâm trạng nàng, tôi dám dũng cảm
giành giật lấy tình yêu thì bây giờ tôi đâu phải ôm mối hận… Người con gái ấy
đã bước ra khỏi đời tôi như cơn lốc xoáy. Đám cưới của nàng với anh chàng
thiếu uý tổ chức ngay nửa tháng sau đó. Tôi ốm một tuần. May mà rồi cũng
gương dậy sau cuộc chôn chặt mối tình đầu.
Chẳng bao lâu chiến cuộc lan tràn. Quân giải phóng đã áp sát
thị xã An Lộc. Con đường 13 nối Sài Gòn với Lộc Ninh trở thành con đường bất
an.
Cống Tham Rớt trên Quốc lộ 13, nơi giáp ranh hai tỉnh Bình
Phước và Bình Long bị sập.
Cầu đúc Cần Lê ba nhịp, dài 38 mét nối tỉnh lị An Lộc với quận
lị Lộc Ninh bị phá.
Lênh cấp trên chỉ thị cho tôi bằng mọi giá phải chữa cống
Tham Rớt, bắc cầu Cần Lê để ngăn chặn Việt cộng xâm nhập.
Tôi cưỡi xe Jeep tới hiện trường. Cầu Cần Lê
gãy theo hình chữ V đầu cầu vểnh lên khỏi mặt đường một mét. Để tái lập
lưu thông cấp thời, chúng tôi kê chuồng heo cao bẩy mét từ giữa lòng suối và
dùng con đội để đưa sàn cầu về vị trí ban đầu Sau đó, cầu Eiffel được
ráp lên trên sàn cầu bê tông.
Những sáng kiến làm cầu, đường, sân bay của tôi mỗi
ngày thêm nhiều, thêm mới, được Bộ giao thông Công chính đặc biệt chú
ý.
Chỉ nghiên cứu qua sách vở, chúng tôi đã hoàn tất một phi trường L19 ở
tỉnh lỵ An Lộc theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật của Nha căn cứ Hàng
không.
Cầu Nha Bích trên quốc lộ 14 bị phá sập nhịp giữa. Nước sông
sâu và chảy xiết không thể làm giàn giáo theo phương pháp lắp ráp
thông thường, tôi quyết định ráp cầu Eiffel trên bờ và đưa
vào vị trí bằng cần cẩu trực thăng. Lưu thông
gián đoạn không quá ba ngày.
Càng làm việc, tôi càng muốn làm chủ mọi công nghệ,
phương tiện, giải quyết mọi sự cố dù khó khăn đến đâu, vì
thế tôi càng khát khao học hỏi. Tôi ao ước được đi
tu nghiệp tại Mỹ, đất nước có nền khoa học nhất thế giới.
Tôi muốn xem tận mắt phương pháp thi công đường trên nền đất yếu,
làm cầu bê tông dự ứng lực, làm cầu cáp, cầu dây văng, đường
ngấm. Biết rằng đi Mỹ học tôi sẽ mất chức trưởng ty mà nhiều
người đang mong thế chỗ, rồi còn biết bao bất trắc khắc khi trở về, vậy mà
đầu năm 1965 tôi vẫn liều lĩnh nộp đơn xin đi tu
nghiệp Hoa Kỳ.
Sáu tháng tu nghiệp trên đất Mỹ, tôi
đã đến các bang: Louisiana, New Orleans, Iowa,
Indiana, Wisconsin và học hỏi được bao điều về khoa học,
công nghệ. Chỉ riêng điều này ở Mỹ là tôi không
thích: ấy là thói kỳ thị chủng tộc. Người da đen buộc phải sử dụng cầu
tiêu riêng; nhà hàng làm cửa riêng dành cho người da màu và chó. Tôi bỗng nhớ đến
cậu bạn Lê Đoàn hồi còn ở Hà Nội. Đoàn khinh bỉ nước mẹ
Đại Pháp đã bòn từ cục phân bắc ở nước thuộc địa. Giữa Pháp và
Mỹ có sự giống nhau về bản chất thực dân.
Trong thời gian tu nghiệp ở Mỹ, tôi nhận liền được
mấy lá thư của Lê Thuỳ Miên. Cô lẽ vì những là thư của nàng
đã thức tỉnh tình quê hương xứ sở, hình ảnh mái nhà Việt đầm
ấm thân thương, khiến tôi đã từ chối một vài hợp đồng nhận
làm việc với mức lương cao khước từ sự quyền rũ của nước
Mỹ để trở về.
Những lá thư của Miên đã khiến tôi nhìn cô học
trò nhỏ ngày xưa với ánh mắt khác hẳn. Đón tôi ở phi trường, nàng lộng
lẫy như một hoa hậu. Bất giác tôi chạnh nhớ đến Thu Uyên. Ngày từ Hà
nội bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Uyên cũng trong sáng, tràn trề
hạnh phúc như Miên bây giờ.
- Em lo đến thắt lòng. Chi sợ anh bỏ em để ở lại nước Mỹ…
- Miên ào đến bên tôi, nói trong hơi thở gấp. Và nàng bỗng đột ngột dùng lại mặt
đỏ bừng và thấy mình mắc cỡ.
Câu nói ấy đã thổ lộ hết tình yêu của nàng đối với tôi.
Sau này, trong đêm tân hôn, Miên thú nhận với tôi rằng, nàng yêu tôi
ngay từ ngày tôi là thầy giáo phụ đạo cô bé lớp ba. Rằng suốt mười một năm qua,
tôi là thần tượng duy nhất mà nàng tôn thờ. Rằng nàng sẽ không sống nổi,
rất có thể nàng sẽ ra cầu Bình Lợi nhảy xuống sông Sài Gòn tự tử
nếu tôi ở lại nước My.
Tôi vòng tay ôm Miên và bó hoa trên tay nàng.
Không kìm được hạnh phúc, tôi ghé sát, hôn nhẹ nơi
gáy, phía sau tai nàng. Thích thú như một cô bé,
nàng nghẹo đầu rồi đột ngột rướn người hôn rất nhanh vào
môi tôi.
Chúng tôi tổ chức lễ cưới sau đó một tháng.
Năm sau, Miên sinh cho tôi con gái đầu lòng: Nguyễn Lê
Kỳ Vân. Và hai năm sau nữa là bé gái Nguyễn Lê Kỳ Vỹ.
°°°
Sau khoá tu nghiệp từ Mỹ về nước, tôi gặp khá nhiều rắc rối về
động viên. Ông đổng lý văn phòng Bộ hỏi tôi:
- Anh có muốn đi Ty không?
- Dạ, có.
Ông Đổng lý nhìn tôi gật gù, gõ gõ tay xuống bàn rất
lâu.
Đợi mãi, không thấy tôi có những hành động tiếp theo, ông bên
ghi tên tôi với chức vụ "nguyên Trưởng Ty" và gửi danh sách
sang Bộ Quốc phòng.
Nhờ thế lực, sự vận động và chạy chọt của bố vợ tôi, ông
Ký Mật, giờ đã là Dân biểu Lê Huy Mật, tôi được hoãn quân dịch, sau
đó được bổ nhiệm Trưởng ty Công chánh Phước Tuy.
Như có duyên nợ với Bình Long, sau sáu năm lăn lộn với những
tuyến đường ác liệt miền Đông: quốc lộ 15, tính lộ 23, 44 những con
đường thường xuyên bị Việt Cộng băm nát, năm 1972 tôi lại trở về An Lộc.
Nơi đây không còn vẻ thanh bình, thơ mộng như ngày đầu tôi nhậm chức trưởng
ty nữa. Sau trận Việt cộng đánh tiêu diệt hơn hai
nghìn lính Mỹ của sư đoàn Anh cả đỏ ở Bàu Bàng cuối năm 1965, Thủ Dầu Một,
Bình Long, Phước Long trở thành vùng chiến địa nóng bóng. Quốc lộ 13 khét tiếng
là con đường máu.
Không dưới bốn lần tôi đã chết hụt trên những cung
đường Lai Uyên, Bàu Bàng, Chơn Thành, Tân Khai. Có lần xe đang đi thì
mìn nổ ngay trước mặt. Có lần tôi lọt giữa trận địa phục kích. Xe Jeep bị
lật, bốc cháy, tài xế trúng thương, còn tôi bị đất đá vùi kín.
Và số phận thật trớ trêu, sau nhiều năm biệt tăm tích, tôi gặp
lại Trương Phiên, ông Đồn trưởng bốt làng Động quê
tôi, ngay trên vùng đất tử thần. Tuần đầu nhận chức Đại tá
Tỉnh trưởng Bình Long, Trương Phiên liền gọi tôi lên tư dinh của ông.
Cái nước Việt hoá cũng chỉ bé như lòng bàn
tay - Trương Phiên mở đầu cuộc gặp gỡ - Đọc hồ sơ, biết ông
là con trai thứ ba cụ Lý Phúc làng Động, tôi mừng lắm. Thì ra chúng ta
là người cùng chiến hào. Ông có biết cụ Lý Phúc thân phụ ông đã chết
vì tay cộng sán như thế nào không? Trí phú địa hào, đào tận gốc,
trốc tận rễ. Trước khi rút khôi bốt làng Động, tôi đã cảnh báo trước với thầy
ông và ông Chánh Hội Thiện điều này, và khuyên họ hãy đi
theo chúng tôi, nhưng họ không nghe. Kết cục thật là bi thảm. Cuộc cải
cách ruộng đất là một cuộc tắm máu. Tôi thương cụ Lý Phúc vô
cùng…
Đã từng nghe phong thanh thầy tôi bị chết vì đấu tố trong cải
cách ruộng đất của Bắc Việt, nay nghe Trương Phiên nói, tôi càng
tin đó là sự thật. Thực tình tôi không có ấn tượng và kỷ niệm gì về
ông Đồn trưởng Trương Phiên. Ngày ấy tôi thường đi trọ học. Thảng hoặc về nhà,
gặp thầy tôi đánh tổ tôm với ông Đồn trưởng, tôi cứ tự đặt câu hói: Tại sao ông
Đồn trưởng lại có khuôn mặt hao hao giống Cục. Chỉ có điều thằng Cục
em tôi hiền lành, còn ông Đồn trưởng thì có vẻ ác và xảo quyệt. Hai
mươi năm rồi, bộ mặt Tây lai ấy tuy già đi nhiều nhưng vẫn bất hảo như thế.
Nghe nói, với thành tích chống cộng điên cuồng, năm 1972 Trương Phiên
đã được phong chuẩn tướng, nhưng do thua trận liểng xiểng ở Vùng
chiến thuật I, ông ta bị giáng chức và điều đi làm Tỉnh trưởng Bình Long.
- Bộ Công chánh và Bộ Quốc phòng đánh giá rất cao năng lực
và thành tích của ông - Trương Phiên chuyển câu chuyện - Vì thế tôi
rất vui khi có ông là cộng sự. Công việc của ông là bầng mọi giá
phải đảm bào giao thông cho các cuộc hành binh tìm diệt của Quân
đội Quốc gia, phải luôn thông suốt mạch máu Quốc lộ 13 và ngăn chặn sự xâm
nhập của Việt Cộng từ căn cứ Lộc Ninh và phía nam Cao nguyên Trung phần…
- Thưa ngài Tinh trưởng, tôi sẽ làm hết phận sự.
- Không chỉ phận sự mà phải thật trung thành và mẫn cán với
Chính phủ Quốc gia, ông Trưởng ty ạ. Bọn Cộng sản đang cơn giãy chết. Hiệp định Paris đang
tạo thế cho chúng ta cô lập và tiêu diệt hết bọn Việt cộng. Ông có mường
tượng tới ngày chúng ta Bắc tiến, tôi và ông sẽ trở về làng Động của ông trong
hào quang chiến thắng không?
Những lời huênh hoang của Trương Phiên chưa ráo
mép, thì mười ngày sau tỉnh lỵ An Lộc oằn mình dưới hoả lực
và cuộc tấn công vũ bão cửa quân Giải phóng.
Trước ngày cuộc tồng tiến công vào tỉnh lỵ xảy ra,
tay chân của Đại tá Tinh trưởng Trương Phiên đã bắt được
sáu trinh sát đặc công Việt Cộng. Trong số các chiến sĩ
giải phóng ấy, có một anh lính, vừa gặp, tôi đã sửng sốt, tưởng
như đó là em Cục của tôi. Ấy là một đêm mưa. Những đêm mưa bao
giờ tôi cũng thấy cô đơn và bất an. Chiến cuộc quá dữ
dội, buộc tôi phải để vợ con ở Sài Gòn. Mấy năm nay tại nhiệm
sở, chỉ có mình tôi và vợ chồng chú Tám Báu lái xe.
Tám Báu có bố mẹ là người Bắc đi phu đồn điền từ năm 1936, từ lâu tôi
biết vợ chồng chú có cảm tình với Việt Cộng. Có đêm
không ngủ, tôi thường thức Tám trở dậy, kêu đi kiếm mồi nhậu cho đỡ
buồn.
Cơn mưa kéo dài nửa tiếng đồng hồ, sấm rền như
đại bác và chớp loè như rạch nát bầu trời. Hình như
trong tiếng sấm có cả tiếng súng và tiếng lựu đạn rất gần
nghe như ở chỗ con suối cạn, khiến tôi cảm thấy bất an. Trùm chiếc
áo mưa, tôi bấm đèn pin, đi xuống nhà Tám Báu.
- Ủa, con tưởng anh Tâm nhà con lên chô ông Ty? - Vừa thấy tôi,
vợ Tám Báu đã hốt hoảng la lên - Ảnh vừa lên trên thiệt mà.
Tôi vừa định quay lên thì có tiếng chó sủa, tiếng lính bảo an la
hét, tiếng đạn nổ chiu chíu qua đầu, tiếng những bước chân chạy rầm rập
bên phía con suối cạn. Hai bóng đen từ dưới vườn tiêu bỗng vụt vào nhà. Tôi nhận
ra chú Tám Báu đang kéo lê một người bị thương.
- Con xin ông… ông về đi. Nguy hiểm lắm… Xin ông đừng nói gì
nhé. Coi như ông hổng biết gì chuyện anh Tám nhà con nhé… - Tôi bị người đàn
bà đẩy dúi dụi về nhà.
Vừa cởi áo mưa, chưa kịp định thần thì tụi lính bảo
an đã kéo chật căn phòng tôi ở. Tên nào cũng ướt rượt, lấm lem, mặt
mũi hằm hằm.
- Ông Ty có chứa chấp thằng Việt Cộng nào thì
đưa ra - Gã đeo mai thiếu uý sần sộ.
- Việt Cộng nào dám vào nhiệm sở Ty Công chính? -
Tôi nói cứng.
- Rõ ràng có hai thằng chạy vào hướng này - Gã thiếu uý
hất hàm ra hiệu cho lính lục soát khắp nhà.
Tôi lắng tai về phía nhà Tám Báu, lo lắng.
Bỗng có loạt súng nổ. Rồi tiếng vợ con Tám Báu la ré lên. Tôi
biết, Tám Báu và anh chiến sĩ giải phóng nguy rồi.
Ngày hôm sau, không khí tử thần bao trùm phố xá. Tiếng loa
nhà binh ra rả rêu rao về chiến tích vừa bắt và tiêu diệt gọn tiểu
đôi trinh sát Việt Cộng xâm nhập tỉnh lỵ An Lộc. Tôi cố lắng tai, tưởng
như mình nghe nhầm:
- Đặc biệt, cùng với sáu cộng quân, còn có cả tên Tám
Báu, lái xe cho Trưởng ty Công chánh Bình Long, một điệp viên
nguy hiểm của Việt Cộng nằm vùng. Theo lênh ngài Đại tá Tỉnh trưởng,
ngay chiều nay, toà án binh tiền phương sẽ xứ bắn tên Việt Cộng theo
quân luật…
Để nắn gân và chơi đòn cân não, ngay buổi sáng, Tỉnh trưởng Trương
Phiên cho gọi tôi lên tư dinh.
- Tôi rất lấy làm tiếc về trường hợp tên lái
xe của ông - Mặt Trương Phiên đằng đằng sát khí, đôi mắt
ánh xanh màu nòng súng - Nó đã dắt Việt Cộng vào thám thính các khu bố
phòng của ta. Rất may là nó không khai một lời nào về ông Trưởng Ty. Đó cũng là
một niềm an ủi đối với tôi, người đã từng quen biết thân phụ của ông…
- Tôi cũng rất bất ngờ, thưa ngài Tỉnh trưởng.
- Trong chiến tranh, mọi điều có thể xảy ra -
Giọng Trương Phiên bỗng rờn rợn - Chiều nay, tôi muốn giao cho ông Ty
một nhiệm vụ.
- Nhiệm vụ gì, thưa ngài?
- Bây giờ còn bí mật - Trương Phiên nhún vai, cái
nhún vai rất Tây như được di truyền từ tổ tiên lại - Ông Ty phải đi
theo tôi để tận mắt hiện trường và có kế hoạch thực thi nhiệm vụ.
Chiếc xe Landcruise đưa Trương Phiên và tôi đến
một khu đất trống phía cuối tỉnh lỵ. Đây là vạt đất trồng cao su vừa chặt
hạ. Mắt tôi hoa lên, người tôi muốn ngất xỉu khi chợt nhận ra giữa
bãi đất đỏ nâu như màu máu khô là bẩy người bị chôn ngang thân, theo một hàng
ngang, chỉ nhô lên phần đầu và vai. Người ở ngoài cùng có cái đầu muối
tiêu là Tám Báu, còn lại là sáu chiến sĩ giải phóng, người nào cũng bị
tra tấn làm cho khuôn mặt thâm tím biến dạng, nhưng mắt ai cũng mở trừng trừng
nhìn chúng tôi đầy căm thù.
- Ông Ty có nhận ra thằng tài xế trung thành của
ông không? - Trương Phiên liếc nhìn tôi tự đắc một cách đểu giả
khi xe dừng lại cách hàng người bị chôn chừng hai chục mét - Không ngờ
quân tôi đã tóm được tên cáo già Việt Cộng nằm vùng, kẻ đã
dẫn bọn cộng quân thám thính các khu bố phòng cửa ta. Còn cạnh thằng tài xế của ông
là thằng lỏi Việt Cộng mới từ Miền Bắc xâm nhập, suýt được Tám
Báu cứu thoát. Bị tử thương nhưng nó cứng đầu và tỏ ra nguy hiểm nhất bọn. Hớ
hớ… Nó giấu quê quán, nhưng nghe giọng, tôi biết thằng này quê
làng Động của ông đó. Nó bảo mẹ nó bị bom Mỹ giết, nó phải trà thù. Nó căm thù
cả tôi, cả ông Ty… Vậy thì nó phải chết một cách đau đớn… Chiều nay ông sẽ
có một nhiệm vụ là phải điều hai chiếc xe ủi Kamasu của Ty
Công chính đến đây để ủi bẩy cái đầu Cộng sản này cho
chúng không còn có đất nảy nở…
Trương Phiên vừa bước vừa xoè hai bàn tay với
những ngón to bè, như hai chiếc xe ủi dàn hàng ngang tiến. Tôi nổi gai hết người.
Tôi như không còn nghe được tiếng gì nữa khi ánh mắt tôi vừa chạm
vào gương mặt anh lính giải phóng bị chôn sát Tám Báu. Trời ơi, tôi có nhầm không? Gương
mặt trẻ măng vừa hao hao như gương mặt Tỉnh trưởng Trương Phiên,
vừa giống như gương mặt Nguyễn Kỳ Quặc, em tôi, ngày tôi xa nó để vào
Nam.
Trời đất bỗng nghiêng ngả, rồi tối sầm. Tôi ngã đổ vật trên
bãi đất, không biết gì nữa.
Chương 17
những mảnh đời
Cái buổi sáng bị ngất xỉu khi nhìn thấy bẩy chiến sĩ quân giải
phóng sắp bị Thương Phiên hành hình, là một bước ngoặt trong cuộc đời Nguyễn Kỳ
Vọng.
Vừa tỉnh dậy sau khi được sơ cấp cứu, Vọng đã nói với người
phụ tá:
- Hãy truyền đạt ý kiến tôi với ngài Đại tá Tỉnh trưởng: Phải
dừng ngay trò hành quyết dã man thời trung cổ lại. Ty Công chánh kiên quyết phản
đối và sẽ có tờ trình gửi Chính phủ về hành động man rợ này. Chúng ta sẽ tố cáo
với toà án Quốc tế.
Có lẽ vì những động thái quyết liệt của Trưởng ty Công chánh
mà Trương Phiên đã phải chùn tay. Ngay chiều ấy, bẩy chiến sĩ giải phóng đã được
đào lên. Nghe nói chính tên ác ôn khát máu sau đó đã tự tay hạ sát họ. Lại có
người bảo cả bẩy người đã được giải thoát, vì ngay đêm ấy quân giải phóng đã ào
ạt tràn vào tỉnh lỵ An Lộc.
Nguyễn Kỳ Vọng về Sài Gòn trị bệnh. Cũng lại nhờ sự can thiệp
của nhạc phụ - dân biểu Lê Huy Mật, Vọng được chuyển về Trung ương, kết thúc mười
bốn năm lăn lộn ở những cung đường máu lửa dưới cơ sở.
Cơ quan mới của Vọng là Tổng cục Kiều lộ, thuộc Bộ giao thông
Công chánh. Do có nhiều thành tích công tác, giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, lại
là tác giả của nhiều cuốn sách kỹ thuật, như "Phương pháp kiểm kê cầu đường",
"Tính khả thi của Dự án LT50", "Xử lý nền đất yếu trong công nghệ
cầu đường"…, Vọng được tăng ngạch trật cao hẳn so với các bạn đồng khoá: Kỹ
sư Công chánh đặc hạng, cộng với mười lăm huy chương danh dự. Không chút đắn
đo, ông Đổng lý Văn phòng đề cử kỹ sư đặc hạng Nguyễn Kỳ Vọng làm Phụ tá Giám đốc
Nha kế hoạch kiêm Trưởng ban phần vụ kế hoạch, Tổng Cục kiều lộ. Nơi đây, Vọng
sẽ có cái nhìn tổng quát về toàn bộ ngành giao thông vận tải.
Vậy mà, chưa ở yên cương vị mới được nửa năm, thời cuộc đã
thay đổi. Chính quyền Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ.
Đêm 30 tháng tư năm 1975, khi ba mẹ con Miên hốt hoảng co rúm
bên nhau quanh những va ly, đồ đạc đã sắp, sẵn sàng di tản, Nguyễn Kỳ Vọng đóng
chặt cửa phòng tắm, dưới ngọn nến bập bùng như ma trơi, lặng lẽ đốt từng giấy
khen, từng huy chương, bằng tưởng lệ, rồi cả những cuốn sách và những tài liệu,
bản thảo… Mỗi lần ngọn lửa bùng lên, tim Vọng thắt lại. Sự nghiệp gây dựng hơn
hai mươi năm nay đã tan như khói.
Mấy ngày sau Vọng ra trình diện, tiếp tục làm việc tại cơ
quan cũ. Không có tắm máu. Không có tra khảo cùm kẹp. Chỉ một không khí dò xét
nặng nề. Nha kế hoạch Tổng Cục kiều lộ được đổi thành Phòng kế hoạch Cục Cầu đường
thuộc Bộ Giao thông. Ông Huỳnh Út, tuỳ phái cũ của Vọng, trở thành xếp của Vọng
về mặt tư tưởng. Út vốn kính trọng Vọng về nghề nghiệp và đức độ, nên đối xử với
anh phần nào vẫn giữ vẻ khiêm tốn, khoan hoà. Út cắt cử Vọng làm những việc đơn
giản như nhận lãnh và phân phối bó rau, miếng thịt, những đồ tiếp tế thường
ngày.
- Hôm nay anh Vọng rút thăm được miếng nạc hay miếng mỡ? - Đó
là những câu xã giao mà anh Út chứng tỏ sự quan tâm đối với vị lãnh đạo cũ.
- Dạ thưa thủ trưởng, miếng mỡ ạ.
Được ba lạng mỡ, Vọng mừng như vớ được vàng. Nó giúp vợ con Vọng
đỡ kêu ca cằn nhằn vì sống quá kham khổ.
Một hôm Huỳnh Út đưa cho Vọng tờ giấy triệu tập và nhìn anh với
cái nhìn của người sắp từ giã một tử tù.
- Có lệnh mời anh đi học tập cải tạo tập trung. Tôi đã báo
cáo với thượng cấp rằng anh chỉ là một chuyên gia kỹ thuật mà không hiểu sao họ
vẫn đưa anh vào danh sách.
Vọng hiểu, cải tạo tập trung là dành cho nguỵ quyền, cấp
trung ương từ Chánh sự vụ trở lên, cấp địa phương từ Trưởng ty trở lên. Nghe
nói diện tập trung này rồi sẽ điều hết ra Bắc, nhẹ nhất cũng giam giữ cải tạo
vài ba năm.
Buổi sáng tiễn Vọng đi trình diện cải tạo tập trung, Miên và
hai con Kỳ Vân, Kỳ Vy khóc như Vọng sắp chết. Cùng đi với Vọng đến trường Gia
Long có Huỳnh Út, cán bộ cơ quan tháp tùng. Út an ủi:
- Anh cứ yên tâm cải tạo thành khẩn. Chị với hai cháu ở nhà
đã có cơ quan chúng tôi lo.
Ngồi trước bàn giấy ở phòng trình diện là một ông có thân
hình gầy rạc như que củi, yết hầu lộ như mỏ diều hâu, cặp mắt trắng dã to lạ
thường.
- Anh cấp bậc gì?
- Dạ, thưa cán bộ, tôi là phụ tá giám đốc.
Ông cán bộ gầy rạc nhìn Vọng rồi khoát tay:
- Anh không ở diện học tập trung. Tôi cho phép anh về học tập
tại chỗ.
Vọng toá mồ hôi, tưởng như vừa được tháo vòng treo cổ.
- Chắc là ông cán bộ này là thuộc cấp của anh cả Khôi nên ưu
ái với mình? Nhất định là anh Khôi đã bảo lãnh cho mình - Vọng thoáng nghĩ
nhanh như vậy. Sau này, Vọng mới vỡ lẽ ra rằng, ở ngoài Bắc, phụ tá tức là thư
ký, là người giúp việc cho Giám đốc, không thuộc hàng lãnh đạo. Ông cán bộ chưa
biết rằng trong Nam phụ tá tương đương với Phó Giám đốc.
Trở lại cơ quan, Nguyễn Kỳ Vọng nhanh chóng chiếm được lòng
tin của lãnh đạo, sự vì nể của mọi người. Phần vì công tác chuyên môn quá
chuyên nghiệp, thành thục, phần vì cả cơ quan đã biết Vọng là em trai của đồng
chí Chiến Thắng Lợi.
Vọng tham gia viết bài cho đặc san Cầu Đường của Cục, đánh
giá về tình hình cầu đường miền Nam, về các giải pháp kỹ thuật chuyên ngành.
Đáng chú ý nhất là bài nghiên cứu có tính học thuật "Ivanov hay Aashto?"
phân tích một cách khách quan những mặt mạnh mặt yếu của cả hai quy trình quy
phạm. Nhiều người dù bảo thủ đến đâu cũng phải nhận ra rằng, nên
theo phương pháp Aashto, một phương pháp tiên tiến hiện đại cả thế giới
phương Tây đang áp dụng. Bài chuyên luận này của Vọng, phải chờ hơn hai mươi
năm sau các chuyên gia cầu đường Việt Nam mới thực sự thừa nhận tính chất tiên
phong của nó.
Có một câu chuyện vui, đậm tính bi hài. Ấy là bản báo cáo tổng
kết nhân dịp Đại hội thi đua cuối năm của Cục. Công việc này là của anh Khuất Sỹ
Hào, chuyên viên báo chí tuyên truyền. Thấy Vọng nắm vững tình hình cầu đường
miền Nam, anh Hào đùn đẩy cho Vọng viết báo cáo tống kết. Bán báo cáo dầy hai
mươi lăm trang đánh máy, khổ giấy A4, trong đó có nhiều đoạn trích nguyên văn lời
phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều đoạn biến báo hạ chỉ
tiêu, hoặc "do hoàn cảnh khách quan, thiên tai bão lũ, nhưng với quyết tâm
nỗ lực vượt bậc, chúng ta vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch"…
Ông Cục trưởng đọc nguyên văn, không chữa một dấu chấm, dấu
phẩy. Lâu lâu ông dừng lại nhấp ngụm nước rồi tự vỗ tay trước. Cả hội trường vỗ
tay theo vang dội. Huỳnh Út ngồi cạnh Vọng, ngáp dài liên tục rồi ngủ gật. Tiếng
vỗ tay làm anh giật nảy mình, đứng dậy giơ tay hô lớn "quyết tâm" làm
cả hội trường cười ồ.
Sau đại hội, cán bộ Cục kháo nhau:
- Đồng chí nào thảo diễn văn hay thế?
- Đồng chí "nguỵ"… - Khuất Sỹ Hào đưa mắt về phía Vọng,
khiến ai nấy cùng trố mắt nhìn.
Sau "thành tích" viết báo cáo tổng kết, thật quá bất
ngờ, Nguyễn Kỳ Vọng được Cục chỉ định ra Hà Nội họp bàn kế hoạch.
°°°
Ngoài mẹ, người mà Vọng mong ngóng được gặp mặt trong lần trở
về quê này là anh trai Nguyễn Kỳ Vỹ. Ngày 30 tháng tư, Vọng quyết không di tản
chính là vì mẹ và anh Vỹ. Vọng tin rằng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ nhất định sẽ cùng
đoàn quân giải phóng tiến vào Sài Gòn. Không thể nào khác được, anh Vỹ sẽ có mặt
trong đoàn quân tiên phong.
Anh không thể sống kiếp đời nô lệ
Nàng thơ ơi, đừng níu giữ chiến bào
Trống đồng giục, gọi trai Phù Đổng
Rũ bùn bay tới triệu vì sao…
Nhờ những câu thơ của anh trai mình mà Vọng vẫn giữ được đạo
lý cốt cách sống cho tới bây giờ. Tập thơ "Thời của Thánh Thần",
suốt bao nhiêu năm, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Vọng vẫn giữ bên mình như một
báu vật. Kỳ lạ thế, mỗi lần nghĩ đến Vỹ, Vọng lại nhớ cái hôm ở Hà Nội, Tạ Đôn
đến dúi vào tay anh tập thơ "Thời của Thánh Thần" và nhìn anh với
bộ mặt rất nghiêm trọng: "Có đúng nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ là anh trai của Toi
không? Người ta đồn hai ông anh lại là Việt Minh. Tập thơ này hay nhưng sặc mùi
cộng sản".
Trong cái đêm hoảng loạn trước khi Sài Gòn thất thủ, khi vừa
gạt nước mắt vừa đốt hết những văn bằng, tài liệu, thì Vọng vẫn quyết giữ lại tập
thơ của anh trai mình. Đây là bùa hộ mệnh, là chứng chỉ của tình máu mủ ruột
rà.
- Vỹ đi đâu?
Vọng hỏi anh cả Khôi, anh chỉ nói chú ấy vẫn đang công tác, sức
khoẻ bình thường. Đồng chí Chiến Thắng Lợi hình như không muốn nhắc đến Vỹ. Ông
trả lời qua loa và cố tình lảng tránh.
Vọng hỏi bà Cử Phúc và Cục. Cục bảo: "Nghe nói anh ấy
đang được giao một trọng trách đặc biệt". Còn bà Cử Phúc chỉ lắc đầu buồn
bã: "Mẹ Khiêm nó bảo nhà con đi công tác nước ngoài dài hạn. Chẳng biết có
đúng không?"
Vỹ đi đâu?
Còn ba ngày nữa Vọng phải đáp tàu về Nam, kịp triền khai kế
hoạch công tác của Cục. Anh tìm đến nhà cô giáo Khiêm vào một buổi chiều se lạnh.
Khiêm không còn ở căn phòng tầng hai hiệu may Phúc Hoà phố
Lương Văn Can nữa. Hỏi thăm mãi, người ta mới chỉ cho Vọng căn nhà cấp bốn lợp
ngói ta trong ngõ sâu ngoằn ngoèo, sau một cái chợ cóc ngập ngụa đầy rác và nồng
nặc mùi cống rãnh.
Một bà cụ tóc bạc trắng mặc chiếc áo bông Tàu màu mận chín đã
sờn ngồi trước cửa ngôi nhà có một khoảng sân hẹp đang lúi húi ngồi chẻ rau muống.
Những sợi rau muống chẻ rơi xuống chiếc chậu thau nước, cuộn lại, xoắn vào nhau
như những bối bòng bong.
- Dạ thưa cụ, cho cháu hỏi nhà chị Khiêm… - Vọng đợi mãi,
không thấy bà cụ ngẩng lên, đành dè dặt hỏi.
Bà già chậm rãi ngước cặp kính trắng nhìn khách.
- Phải đấy. Cháu Khiêm đi dạy học. Mời ông vào trong nhà. Tôi
là mẹ cháu Khiêm.
Lần đầu tiên Vọng gặp bà Ba Yên nên anh không hề biết bà Phan
Thị Hà Yên, chủ nhiệm trường tư thục Đất Việt ngày nào, giờ đã thành một bà già
mắt mờ, tóc bạc.
Trong khì bà Ba Yên sờ soạng tìm ấm tích pha trà, Vọng tò mò
nhìn quanh căn phòng. Đập vào mắt anh là tấm bài vị mới trên chiếc tủ đứng kê
làm ban thờ. Trên đó, một bình hoa huệ tươi nguyên như vừa ngắt từ ngoài vườn.
Trước bát hương đang leo lét ba cây nhang nhả khói, là ảnh một anh bộ đội chừng
hai mươi tuổi, rất đẹp trai, đôi mắt trong veo, ve áo lấp lánh một ngôi sao
binh nhì.
Linh tính như báo cho Vọng biết, căn phòng vừa có một đám
tang.
- Dạ thưa cụ, anh bộ đội nhà ta…
Vọng chưa kịp hỏi hết câu, bà Ba Yên đà sùi sụt:
- Cháu Khánh, con trai tôi, em cô Khiêm đấy ông ạ. Tôi mới nhận
giấy báo tử cháu mười ngày nay… Cháu hy sinh ở thành cổ Quảng Trị. Cho đến giờ
vẫn không tìm thấy xác…
Vọng xin phép thắp một nén nhang.
- Dạ, con là Vọng, em trai anh hai Vỹ. Con không biết nhà ta
mới có chuyện buồn nên không có được một chút hương hoa…
- Tôi có nghe cháu Khiêm nhắc nhiều về cậu. Cậu Vọng thật diễm
phúc, có đi có về. Chứ em Khánh thì thật tội nghiệp…
Câu chuyện của người mẹ như một vết thương tháo vộí băng, tứa
máu ròng ròng.
°°°
Đó là năm giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc ác liệt. Nông
trường Quan Chi, nằm khuất sau dãy núi Tam Đảo, trở thành mục tiêu của từng đàn
máy bay phản lực. Hội trường Nông trường bộ biến thành những hố bom sâu hoắm.
Ngay sau trận bắn phá, ba mươi tám lá đơn tình nguyện viết bằng máu gửi lên tỉnh
đội. Trừ bốn nữ và ba nam yếu sức khoẻ, ba mươi mốt chàng trai Hà Nội ở nông
trường Quan Chi cùng lên đường nhập ngũ một ngày. Họ được phiên chế vào đại đội
tình nguyện Thủ đô, huấn luyện cấp tốc để chi viện cho mặt trận Đường Chín.
Trong số những người trai Hà Nội ấy, có Đào Phan Khánh, Lê Đoàn, Hoàng Họp,
Nguyễn Văn Nức…
Đào Phan Khánh được tranh thủ về thăm mẹ hai ngày. Anh thương
mẹ tới mức, về nơi sơ tán, cả buổi chỉ đứng núp sau bụi tre lên nhìn mẹ. Giáp mặt
mẹ rồi, nhìn thấy gương mặt xiết bao thân yêu máu thịt, nhìn thấy từng sợi tóc
mai chớm bạc của mẹ mà chỉ thầm nuốt nước mắt, không dám gặp.
- Chị Khiêm ơi, hay em viết lá thư tạ lỗi, khi em đi rồi chị
hãy đưa cho mợ - Khánh cùng cô người yêu Võ Thu Hạnh đến năn nỉ chị gái - Em chỉ
lo gặp mợ, hoặc là em không đủ sức ra đi, hoặc là khi biết tin em ra mặt trận,
mợ sẽ quỵ mất.
Khiêm nhất định không chịu.
- Em phải gặp mợ. Nếu em tình nguyện ra trận thì chị và anh Vỹ
sẽ cố tìm cách an ủi mợ. Em đi chuyến này sinh tử bất kỳ, không thể coi thường…
Hai mẹ con gặp nhau trong nước mắt. Nhưng bà Ba Yên không ngã
gục. Bà mua gà, gạo nếp cái hoạ vàng, đồ xôi gà ép con ăn rồi gói vào ba lô bắt
Khánh mang theo. "Nước có giặc, tài trai phải đi cứu nước. Nhà mình là phần
tử bị ghi sổ đen vì có người di cư vào Nam mà con cũng được cấp trên tin tưởng
cho ra mặt trận, âu cũng là đồi hoạ lấy phúc… Mợ chỉ mong con chân cứng đá mềm,
cầu Trời Phật phù hộ cho con tránh khói mũi tên hòn đạn". Lời dặn của mẹ,
là hành trang theo Khánh lên đường.
Những ngày Khánh luyện tập ở Phú Bình, ở Trung Dã, cứ hai tuần
bà Ba Yên lại mang ruốc thịt, ruốc cá, thịt kho mặn, muối rang, đường sữa lên
thăm con một lần. Bà đi bằng đủ mọi phương tiện. Tàu hoả, xe khách, xe tải, thậm
chí cuốc bộ hàng chục cây số. Thỉnh thoảng Hạnh được nghỉ học, hai mẹ con lai
nhau bằng xe đạp. Mỗi lần thấy mẹ lên thăm, anh em cùng đơn vị lại trêu Khánh:
"Em Chã ơi, mợ lại mang sữa lên cho em bú tí kìa…". Thấy các bạn trêu
chọc dữ quá có lần Khánh gắt với mẹ: "Thôi, mợ đừng lên nữa. Con lớn rồi,
đâu còn là đứa trẻ. Mợ cứ đi như thế này thì ốm mất"…
Ngày Khánh giã từ Hà Nội vào chiến trường, đơn vị tập kết ở
ga Giáp Bát, sau đó chuyển quân bằng tàu hoả. Hạnh đến báo tin, bà Ba Yên vơ vội
mấy bộ quần áo cho vào túi xách, giắt theo tất cả tiền vàng rồi bắt Hạnh đưa ra
ga tàu.
Con tàu ra mặt trận thờ hồng hộc, chuyền bánh ken két trên đường
ray trong đêm trăng suông. Hạnh vứt xe đạp bên một nhà kho, vừa chạy theo đoàn
tàu vừa réo tên Khánh gọi khản cổ. Bà Ba Yên vấp ngã cạnh một đống đá. Một anh
lính nhảy vội xuống bế bà ra xa đường ray rồi hối hả chạy, bám lấy cửa toa đu
người lên.
- Em đưa mẹ về đi. Sáng mai bọn anh cho thằng Khánh nó về với
mẹ…
- Gắng ở nhà mà nuôi con… Mọi tiêu chuẩn chiến trường anh đã
để lại nhà rồi. Hôn cái nào…Thương quá…
- Mẹ ơi, chúng con tạm biệt mẹ. Đuổi hết giặc Mỹ, chúng con sẽ
về…
Đoàn tàu ì ạch như con cuốn chiếu khổng lồ trườn về phía những
chớp lửa cuối trời.
Một tháng sau, nghe tin Khánh đang đóng quân ở phía bắc cầu
Hàm Rồng, bà Ba Yên lại khăn gói lên đường. Lần này bà rủ thêm hai bà bạn có
con cùng đơn vị với Khánh. Ba người đàn bà lẽo đẽo theo con đến tận Vinh, khi đại
đội tân binh Hà Nội bỏ đường quốc lộ, theo xe ngược Tân Kỳ, hoà vào dòng người
xe trên đường mòn Hồ Chí Minh, thì họ mới trở về.
Những năm tháng chờ đợi của người mẹ dài dằng dặc. Chi trong
mấy tháng, tóc bà Ba Yên đã trắng đầu. Trường cấp một Thiền Quang, nơi có gian
phòng của hai mẹ con ở tầng sát mái bị bom Mỹ đánh sạt nóc. Khiêm đón mẹ về ở
cùng. Rồi chị nhường căn gác hai hiệu may Phúc Hoà cho cửa hàng mậu dịch, chuyển
về ở trong ngõ hẻm. Mấy năm đầu, khi Hạnh còn học nốt những năm cuối trường Đại
học Y, cô thường tranh thủ từ nơi sơ tán về chăm sóc mẹ. Nhưng rồi đến lượt bác
sĩ Hạnh cũng xung phong ra hoả tuyến. Hạnh âm ỉ một mong ước sẽ được gặp Khánh
nơi chiến trường.
Ba mươi mốt chàng trai Hà Nội của nông trường Quan Chi nhập
ngũ ngày ấy, sau năm 1975 chỉ có ba người trở về.
Lê Đoàn, bạn thân của Khánh, là một trong ba người may mắn
đó. Anh mang về cho mẹ Khánh hai tấm ảnh đã ố vàng, kẹp trong một túi ni nông
nhỏ. Đó là ảnh bà Ba Yên và ảnh Võ Thu Hạnh. Đoàn bảo, trước khi vượt sông Thạch
Hãn vào chi viện cho thành cổ Quảng Trị, Khánh đưa Đoàn giữ hộ hai tấm ảnh này,
hẹn khi về sẽ lấy lại. Không ngờ đó là chuyến đi cuối cùng của Khánh…
- Cậu có nhìn thấy tấm ảnh nhỏ ở góc tấm ánh cháu Khánh trên
ban thờ kia không? - Bà Ba Yên đứng dậy, Vọng cũng đứng lên, cùng đến bên ban
thờ - Đây là ảnh cháu Võ Thu Hạnh, vợ chưa cưới của Khánh, do anh Đoàn mang từ
mặt trận về…
Vọng nhìn người con gái trong ánh và chợt thấy cô hao bao giống
Miên thời thiếu nữ. Cũng đôi mắt trong veo, mơ mộng. Hình như tất cả những cô
gái đang yêu đều có ánh nhìn như thế.
- Cháu Hạnh sau khi đỗ trường Y, cứ một mực đòi đi chiến trường.
Cháu bảo tôi: "Con vào với anh Khánh mẹ ạ. Nhất định chúng con sẽ gặp nhau
trong ấy. Ai ngờ đó cũng là lần tôi gặp Hạnh cuối cùng. Đoàn bác sĩ quân y của
cháu vào khu Năm, cũng là nơi quê cha Quảng Ngãi. Cháu Hạnh đã hy sinh khi đang
cấp cứu các thương binh trong một căn hầm dã chiến…
Vọng thắp thêm ba nén nhang và đứng lặng trong nỗi đau những
giọt nước mắt của người mẹ đang lan chảy sang mình.
°°°
Có tiếng lao xao ngoài ngõ. Nhà văn Châu Hà vừa bấm còi xe vừa
nói oang oang:
- Có khách nào đến thăm nhà mình phải không mẹ Yên ơi?
Cô giáo Khiêm dắt xe đạp đi sau. Châu Hà lai thằng Phong trên
chiếc Honda 67 nổ oạch oạch vào nhà. Vọng quay ra, mắt hướng về phía người đàn
bà gầy mảnh, nhưng vẻ đài các đoan trang của nàng khiến anh biết đó là Khiêm.
- Dạ chị, em chào chị. Em là Vọng…
- Trời ơi, chú Vọng! Tôi cứ ngờ ngợ từ ngoài ngõ. Phong, con
chào chú đi. Chú Vọng em ruột của bố từ Sài Gòn ra đó…
Vọng vòng tay ôm xiết thằng cháu ruột, cảm động trào nước mắt.
Thằng Phong đang học lớp mẫu giáo lớn. Bốn tuổi, nhưng còi cọc như đứa lên ba.
- Cháu giống anh Vỹ như hai giọt nước chị ạ.
- Cháu là Nguyễn Kỳ Phong. Cháu gái chú, là Nguyễn Trinh Mai
đi học cũng sắp về. Còn đây là nhà văn Châu Hà, tức Đà Giang, một người rất nổi
tiếng, bạn chí thân của anh Vỹ nhà tôi…
Không khí gia đình bỗng trở nên ấm cúng thân mật. Bà Ba Yên lẳng
lặng xuống bếp sắp cơm. Khiêm nói nhỏ với Châu Hà nhờ tiếp Vọng rồi lấy xe đạp
ra chợ mua thức ăn.
Giờ thì Châu Hà lại trở thành nhà văn Đà Giang thuốc lào của
ngày xưa. Anh kéo từ trong túi xà cột ra chiếc điếu cày bé xíu nạp thuốc rít
sòng sọc.
- Ông Vọng không biết tôi, nhưng tôi thì biết quá rõ ông, biết
từ những ngày đầu vào tiếp quản Sài gòn. - Châu Hà muốn chủ động xoá đi những mặc
cảm ở Vọng, liền thao thao một hồi - Thấy tên ông trong ban lãnh đạo Tổng Cục
Kiều lộ, tôi nghĩ bét ra ông này cũng phải tập trung cải tạo ba năm. Phụ tá
giám đốc Nha kế hoạch, tức là phó giám đốc, có đúng không? Ở Bộ giao thông Công
chánh, Nha kế hoạch Tổng cục kiều lộ là nơi quyền sinh quyền sát. Ông hàm tương
đương với tỉnh trưởng, thuộc loại nguỵ quyền chóp bu. Tôi nói với ông Văn Quyền
bạn tôi, khi anh Lợi sai đi tìm ông: "May ra đồng chí Chiến Thắng Lợi
thương tình anh em máu mủ mới cứu được kỹ sư công chánh Nguyễn Kỳ Vọng khỏi bị
đi tù. Tội ông này là nối giáo cho giặc. Ta phá cầu đường thì ông ấy bắc cầu lại
sửa đường lại cho địch đánh ta. Bây giờ gặp ông ở đây, không bị tù đày, lại được
trọng dụng cho làm cán bộ Cục cầu đường thì đúng là chỉ có đồng chí Chiến Thắng
Lợi mới đổi đen thành trắng, đáo tội thành công thế này được.
- Dạ, cũng nhờ hồng phúc họ Nguyễn Kỳ nhà tôi, nhờ công lao của
anh cả Khôi…
- Ông Chiến Thắng Lợi muốn cứu ai thì người đó dẫu có tội tày
đình vẫn trắng án như thường. Chỉ riêng thằng Vỹ bạn tôi là ông ấy ghét. Ghét đến
muốn xúc đất đổ đi. Lạ thế. Anh em với nhau mà như mặt giăng mặt giời, thậm chí
còn như quân thù quân hằn - Châu Hà thừ người, sau một mồi khói thuốc, không hiểu
vì say thuốc hay vì chuyện gì mà hai khoé mắt anh bỗng rỉ nước - Tôi vừa lên
thăm Vỹ. Thương nó quá. Nó mắc bệnh phù thũng và người cứ ngơ ngẩn như nhiễm chứng
tâm thần…
Đang ngồi, Vọng bỗng nhỏm dậy, nhìn Châu Hà ngơ ngác.
- Dạ, sao bảo anh Vỹ tôi đi công tác đặc biệt nước ngoài? Anh
vừa nói lên thăm anh Vỹ ở đâu?
Đến lượt Châu Hà nhìn Vọng tròn mắt kinh ngạc:
- Hoá ra ông chưa biết gì? Ông không biết anh Nguyễn Kỳ Vỹ của
ông đi đâu à? Trời ơi, tôi tưởng đồng chí Chiến Thắng Lợi phải nói với ông chuyện
này từ lâu rồi chứ? Ông Lợi bảo với ông là thằng Vỹ nó đi công tác nước ngoài
à?
- Dạ không. Mẹ tôi và chú Cục nói thế.
Châu Hà vò nhàu mái tóc. Tưởng như anh muốn dứt phăng mớ tóc
thưa thớt trên vầng trán đang hói dần.
- Lẽ ra tôi không nên nói với ông câu chuyện này. Thằng Vỹ bạn
tôi nó hay nói thế nào nhỉ. Phải rồi. Đời không đáng cái tổ trì. Một cái tổ trĩ
thì không bao giờ được phô ra trước quan khách. Chính tôi cũng vô cùng kinh ngạc
và đau xót khi vừa từ chiến trường ra liền nhận được tin thằng Vỹ bị…
- Kìa, anh Châu Hà, đừng nói với chú ấy…
Tiếng Khiêm bỗng cắt ngang câu chuyện. Mặt Khiêm xanh mét,
như không còn giọt máu. Chị đánh rơi chiếc túi đi chợ, làm mấy bìa đậu phụ vỡ
tung ra, trắng xoá trên nền nhà.
- Đành phải cho ông ấy nhìn rõ một sự thật - Giọng Châu Hà
méo xệch - Tôi sẽ kể cho cả nhà nghe tôi vừa lên gặp thằng Vỹ như thế nào. Phải
bằng mọi cách cứu nó ra khỏi trại cải tạo. Ông Chiến Thắng Lợi không làm thì
tôi làm. Tôi sẵn sàng tặng lại cho Vỹ tấm huân chương Thành Đồng và mấy tấm
huân chương Giải Phóng của tôi. Cả mấy cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Văn học
Giải phóng nữa. Phải cứu nó, kẻo nó chết thì uổng…
Châu Hà đấm ngực thùm thụp và khóc nấc lên.
Chương 18
kẻ ngoài cuộc
Rời hiệu sách quốc văn, Vỹ đứng mãi bên vỉa hè, đọc ngốn ngấu
như nuốt từng dòng tập tuỳ bút "Đường lớn ta đi" của nhà
văn Châu Hà. Tập sách vừa ra khỏi nhà in, giấy rơm vàng xỉn, nhưng thơm phức
cái mùi của chữ nghĩa, mà chỉ "những con mọt sách", những người sống
chết với văn chương như Vỹ mới cảm nhận hết. Châu Hà, chính là cái gã nhà văn
Đà Giang thuốc lào, cóc cáy quê mùa như một bác nông dân, không ngờ lại là cha
đẻ của những áng văn chiến trường khét mùi khói súng, hừng hực lửa, máu và da
diết tình yêu, lý tưởng. Cái bút danh Châu Hà, chính Vỹ đã tặng Đà Giang hôm
hai thằng nằm với nhau đêm cuối cùng trên gác xép, trước ngày Đà Giang vào mặt
trận.
- Thằng Du San nó sẽ lấy bút danh Xuyên Sơn. Nó bảo nó không
dạo trên núi mà nó sẽ đi xuyên núi. Tao muốn lấy lại cái tên cúng cơm cũ: Mai
Văn Nhạ.
- Tên ấy cũng được. Nhưng đã chôn đi rồi thì còn bốc mả lên
làm gì? - Vỹ nói thủng thẳng - Quê mày có sông Châu Giang, ký bút danh Châu Hà
vừa có nghĩa là sông Châu, vừa có nghĩa là viên ngọc của đất Hà Nam danh giá nhất
ông Cò. Cố mà giữ lấy tình quê. Từ Đà Giang đến Châu Hà là dòng chảy của một
thiên tài…
Đà Giang ôm chầm lấy Vỹ.
- Tao phục mày. Bút danh ý nghĩa lắm. Tao nguyện sẽ sống và
viết đế xứng với cái tên Châu Hà.
Không có dòng chữ nào Châu Hà gửi từ chiến trường ra mà Vỹ
không đọc ngốn ngấu. Đọc với tình yêu, sự ngưỡng vọng, háo hức và cả nỗi ghen tị,
tủi hờn. Đã biết bao đêm Vỹ nằm như con tôm luộc, ghé chiếc đài bán dẫn Xiong
Mao sát tai, lắng nghe như nuốt từng lời giọng Tuyết Mai đọc những truyện ngắn,
bút ký, những bài thơ viết từ chiến trường của Châu Hà, Trần Nhân Ảnh và những
bạn văn chương thân thiết của anh. Có lần vừa nghe, Vỹ vừa lặng lẽ khóc. Khóc
vì tự hào, kiêu hãnh có một lớp nhà văn bạn bè trưởng thành, vì tủi hờn khi
mình bị vứt ra khỏi lề thời cuộc, trở thành kẻ vô tích sự.
Nhớ nhất một đêm mưa, Vỹ đang nằm bên Khiêm, nhưng tai vẫn
dán vào chiếc Xiong Mao để nghe tin tức đài BBC về tình hình chiến sự. Bỗng một
giọng nói quen quen khiến Vỹ tung chăn ngồi vục dậy.
- Giọng thằng Du San em ạ. Nó đổi bút danh là Xuyên Sơn. Vào
chiến trường Quảng Đà được ba tháng, không chịu được bom đạn, gian khổ, xin
chiêu hồi, liền được phong hàm trung tá tâm lý chiến, suốt ngày ra rả kêu gọi
anh em đồng chí về với chính phủ quốc gia. Để xem thằng phản bội này nó sủa thế
nào - Vỹ kéo Khiêm dậy, vặn đài to hết cỡ.
- Tôi viết "Xương trắng Đất Việt" với nỗi buồn đau
vô hạn của một kẻ cầm bút có lương tâm khi tận mắt chứng kiến hàng triệu người
trai đang tuổi thanh xuân phơi phòi, chỉ vì nghe bọn cộng sản Bắc Việt xúi giục
mà đi vào cuộc nồi da nấu thịt đang tay xả súng bắn vào những người đồng bào miền
Nam ruột thịt của mình. Ôi, nước Việt mến yêu, biết bao xương trắng từ thuả Trịnh
- Nguyễn phân tranh đã chất thành dải Trường Sơn hùng vĩ. Giờ đây xương trắng
con dân Đất Việt lại chất ngất cao thêm tới chín tầng mây…
- Đ. m. Văn chương chó ghẻ. Mẹ cha thằng chiêu hồi!
Vỹ ném chiếc đài xuống đất vỡ tan. Từ hồi lấy nhau, lần đầu
tiên Khiêm thấy Vỹ chửi tục và phẫn nộ đến thế.
Vỹ xoá tên Du San khỏi bộ nhớ. Nhưng anh không bỏ sót một mẩu
báo, một tác phẩm nào của Châu Hà. Cuốn "Đường lớn ta đi" này
là tập hợp những bài Châu Hà đã gửi ra đăng trên nhiều báo và tạp chí. Đọc lại,
nhưng không thấy cũ, vẫn thấy cuồn cuộn một dòng chảy, hừng hực một hào khí. Vỹ
mua cuốn sách này là để tặng giáo sư Trần, nhà triết học và người thầy tư tưởng
mà anh thường lui tới và xin thỉnh giáo.
Giáo sư Trần là một nhà khoa học nhân văn có khuynh hướng cộng
sản từ những ngày du học ở Paris. Năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, ông xin theo
về. Bác Hồ bảo: "Bác phân công chú ở lại, tiếp tục học hỏi, tích luỹ kiến
thức. Bác muốn chú phải trở thành một triết gia Macxit hàng đầu…". Thế là
giáo sư Trần ở lại Paris thêm vài năm nữa. Năm 1951, ông nhận được chỉ thị của
Bác Hồ về nước, rồi lên Việt Bắc, tham gia kháng chiến. Sau năm 1954, ông công
tác ở Viện Mác-Lênin, từng dịch và hiệu đính nhiều tác phẩm kinh điển của Các
Mác và Anghen. Thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, rồi Chủ nghĩa xét lại ở Liên Xô, ông
không được tin dùng. Nhưng với Vỹ và nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, sức hút của
giáo sư Trần vẫn như một tảng nam châm cực mạnh. Ông như một đỉnh núi mà những
kẻ hành hương như Vỹ thường muốn hướng tới, để được hít thở một chút khí trời
trong khiết và cao siêu.
Hà Nội những ngày sau khi Mỹ tuyên bố ném bom hạn chế từ vĩ
tuyến 19 trở ra, đã nhộn nhịp và đông đúc hơn. Một vài trường đại học, chuyên
nghiệp, một số cơ quan sơ tán. tận vùng núi xa, thiếu thốn, kham khổ quá, đã rục
rịch chuyển dần về các huyện ngoại thành. Đạp xe từ căn hộ tầng hai khu tập thể
của giáo sư Trần về nhà, Vỹ thấy lâng lâng một cảm hứng muốn được sáng tạo. Anh
ngầm muốn tranh đua cùng với Châu Hà. Nhất định anh sẽ hoàn thành trong năm nay
cuốn tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng" mà anh vừa khởi thảo.
Đang đi, bỗng một người đàn bà từ ngõ phố lao ra đâm sầm vào
xe Vỹ. Lực đâm khá mạnh khiến cả hai cùng ngã.
- Dở người. Làm thơ hay sao đấy? Đang đi thì đâm vào người
ta.
- Tôi xin lỗi. Chị có sao không? - Vỹ bỏ xe, đỡ người bị ngã
dậy. Thoáng nhìn thấy bộ mặt sát tận xương và đôi mắt ngùn ngụt lửa, anh tưởng
vừa chạm vào mạch điện…
- Ối giời ôi! Đền tôi đi? Vỡ lòi xăm. Vành cong số tám thế
này - Người đàn bà mếu máo rồi lu loa lên - Ông giết tôi rồi! Ối bà con đường
phố ơi, có anh công an nào không đấy? Chiếc xe tôi đi mượn của người ta…
Lời kêu cứu của nạn nhân như có phép thần. Một anh công an
như đứng trực sẵn, liền xuất hiện.
- Không được na nối nên giữa phố xá như thế - Giọng
nói trầm đục lẫn lộn n và l khiến Vỹ rùng mình - Có việc gì mời hai người về đồn
công an giải quyết.
Vỹ nhìn đồng hồ. Sắp đến giờ cửa hàng dầu hoả đóng cửa. Chiếc
can nhựa anh buộc sẵn sau xe vẫn không việc gì.
- Đồng chí công an ơi, chuyện vặt trên đường, để chúng tôi tự
thu xếp với nhau. Tôi sẽ đền tiền để chị sửa xe mà…
- Ông định lừa tôi rồi chạy làng chứ gì? Cái ví lép kẹp của
ông liệu có mua nổi một cái nan hoa? Cái xe của người ta được tiêu chuẩn phân
phối, xếp hàng mấy đợt mà chưa được phân chiếc xăm - Tiếng người đàn bà xoe xoé
- Không lôi thôi gì hết. Đề nghị anh công an cứ cho chúng tôi vào đồn.
Sau này, Vỹ mới biết cuộc đụng xe đạp với anh chỉ là một màn
kịch. Và người đàn bà mặt sát xương xoe xoé đòi ăn vạ, chỉ là một diễn viên
nghiệp dư. Vừa dẫn Vỹ vào trong đồn công an xong là chị ta chuồn cửa sau ra về.
Để có cớ lục soát chiếc túi xách của Vỹ, nhất là khi anh vừa có cuộc gặp gỡ ở
nhà giáo sư Trần, thì không diệu kế gì hơn là bố trí một cuộc va quệt, cãi cọ
trên đường. Vỹ bỗng sực nhớ đến trường hợp mất tích của hai người bạn anh trên
đường phố gần đây. Dịch giả V. đang đạp xe trên đường Hàng Bài thì bị một chiếc
com măng ca đỗ xịch, bắt cóc lên xe. Rồi nhà văn B. ở Hải Phòng, cũng bị bắt
trong trường hợp tương tự. Cái tin đồn: "Đang có cuộc thanh trừng chính trị,
tiêu diệt tận gốc bọn xét lại hiện đại âm mưu chống Đảng, lật đổ chính quyền"
chắc đang ứng vào Vỹ chăng?
- Đề nghị anh cho xem giấy tờ - Một anh công an khác, mũi khoằm
như mỏ quạ, không đeo quân hiệu, nhưng đeo băng đỏ, ngồi ở phòng trực ban, có vẻ
như cấp trên của anh công an nói ngọng, chỉ tay xuống ghế mời Vỹ ngồi, mặt lạnh
như kem.
Vỹ răm rắp làm theo.
- Nguyễn Kỳ Vỹ. Nơi công tác: Nhà xuất bản Bình Dân. Cái tên
này nghe quen quá - Nhà chức trách đọc như đánh vần, rồi liếc nhanh chiếc xà cột
bên người Vỹ, chuyển giọng đột ngột - Đề nghị anh cho xem túi xách.
- Báo cáo đồng chí. Chỉ là mấy cuốn sổ cá nhân…
- Chúng tôi hoàn toàn tôn trọng đời sống cá nhân. Nhưng nhiệm
vụ buộc phải làm, mong anh thông cảm.
Chiếc túi được lộn mề gà. Gói thuốc Bông Lúa và bao diêm. Chiếc
bút máy Trường Sơn. Tài liệu gì nữa đây? Một cuốn sổ ghi chép. Chữ viết loằng
ngoằng, gạch xoá như mật mã, rất đáng nghi. Đây rồi. "Chủ nghĩa Hiện thực
vô bò bến", 32 trang đánh máy. Ái chà, ảnh gì mà đẹp thế này? Phim à? Lại
cả bài viết giới thiệu hàng loạt phim Liên Xô: "Người với người là bạn",
"Số phận một con người", "Bài ca người lính", "Người
thứ 41"… Toàn phim xét lại, xoá nhoà ranh giới đấu tranh giai cấp. Đây nữa.
Tập thơ "Váy Đình Bảng". Sao lại đưa váy vào thơ? Đồi truỵ hết
chỗ nói rồi.
- Anh Vỹ ạ - Anh mũi khoằm nheo mắt, chỉ để lọt hai luồng tia
sáng rất nhỏ nhưng sắc lạnh dọi chiếu vào mặt Vỹ - Anh đang giữ những tài liệu
nguy hiểm cấm lưu truyền, phát tán. Chúng tôi buộc phải làm biên bản và giữ
anh…
Vỹ sững sờ. Anh nhỏm hẳn dậy như vừa ngồi phải đinh.
- Sao lại thế? Tôi là một nhà thơ. Tập tài liệu này là một
nghiên cứu triết học, tôi vừa mượn của giáo sư Trần… Còn đây là bản thảo các
bài báo và bản thảo tập thơ chưa hề công bố của nhà thơ Bùi Việt. Không có gì
phản động. Với tư cách nhà văn, tôi cam đoan như vậy.
- Với tư cách những người làm công tác an ninh, chúng tôi lại
thấy có những dấu hiệu vi phạm an ninh quốc gia, anh Nguyễn Kỳ Vỹ ạ. Chúng ta
đang trong hoàn cảnh chiến tranh, những thế lực phản động thù địch đang tìm mọi
cách chống phá lật đổ nhà nước Xã hội chủ nghĩa…
- Nhưng tôi phản đối việc khám người vô cớ. Các đồng chí đã
xâm phạm tự do cá nhân…
- Đề nghị anh không được phát ngôn tuỳ tiện. Anh đang là người
phạm pháp. Thứ nhất, anh gây rối trật tự trên đường. Thứ hai, anh đang cất giữ
tài liệu cấm lưu hành. "Chủ nghĩa Hiện thực vô bờ bến", ngay cái tên
đã đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội. Còn tập thơ "Váy Đình Báng" thì
chúng tôi biết quá rõ tác giả của nó. Bùi Việt đang bị quản thúc. Tất cả các
bài thơ của ông ta đang bị cấm in và lưu hành. Chúng tôi vừa nhận được nguồn
tin có người đang muốn chuyển tập thơ này ra nước ngoài…
Một cái phẩy tay nhẹ. Anh công an nói ngọng từ phòng bên liền
mang tờ biên bản đã chuẩn bị sẵn sang để trên bàn.
- Anh đọc và ký vào đây - Người đeo băng đỏ đẩy tờ biên bản đến
trước mặt Vỹ.
Vỹ cố giữ bình tĩnh, đọc lướt trang giấy đã viết sẵn.
- Tôi muốn gặp cấp trên của các đồng chí. Tôi cực lực phản đối
việc giữ, khám người và tờ biên bản có tính áp đặt này. Tôi là một công dân,
nhưng đồng thời là một nhà văn, tôi đề nghị các đồng chí nên khách quan và
trung thực.
Trong khi Vỹ đang cố kìm giữ và tìm lời diễn đạt thì một tờ
giấy in sẵn, có dấu đỏ tươi được anh chiến sĩ trực ban đưa đến trước mặt người
chỉ huy.
- Vì sự bất hợp tác với cơ quan chức trách, cố tình không ký
biên bản khi có dấu hiệu phạm tội, chúng tôi buộc phải ký lệnh tạm giữ anh Nguyễn
Kỳ Vỹ và khám xét nơi ở và làm việc để thực hiện công việc điều tra. Đề nghị
anh Vỹ đứng lên nghe đọc lệnh.
Chỉ một tích tắc nữa thì Vỹ đổ gục. Đầu óc anh choáng váng, mắt
như có màng kéo tối sầm. Chân Vỹ run, bủn rủn. Nhưng rồi Vỹ gắng gượng, đứng dậy.
Tiếng viên sĩ quan tuyên đọc lệnh như tiếng sấm, tiếng súng,
từ rất xa vọng lại, lùng bùng trong tai Vỹ.
°°°
Cuộc khám xét nơi làm việc của Vỹ ở Nhà xuất bản Bình Dân và ở
căn gác hai hiệu may Phúc Hoà cũ kéo dài suốt một buổi chiều. Không một ngóc
ngách nào bị bỏ sót. Không một tài liệu, một cuốn sách nào không được săm soi kỹ
lưỡng dưới những con mắt nghiệp vụ tinh tường. Tang chứng đáng giá nhất phục vụ
cho công tác điêu tra là những cuốn sổ ghi chép, những bản thảo, thư từ, ảnh kỷ
niệm… Đặc biệt đáng chú ý là bản thảo tiểu thuyết Vỹ đang viết dở: "Chân
trời hoang tưởng".
Rất nhiều năm sau, và có thể cho tới cuối đời, hình ảnh khiếp
đảm và đau đớn của mẹ con Khiêm trong cái buổi chiều đại hoạ ấy vẫn không làm
sao dứt khỏi đầu óc Vỹ. Nàng và đứa con gái tội nghiệp, lúc nép bên nhau như những
sinh linh nhỏ bé không còn khả năng tự vệ, không được ai che chở, đang bị dồn
đuổi vào nơi hang ổ cuối cùng; lúc ngây dại đẫn đờ không còn chút sinh lực,
không có khả năng cứu giúp. Vỹ không dám nhìn vào hai cặp mắt hoảng loạn ấy. Vỹ
nhục nhã đau đớn đến cùng cực vì vôn đã vô tích sự, chưa một ngày mang lại hạnh
phúc cho vợ con, giờ lại gieo thêm tội lỗi, tai hoạ.
Nếu không có những người đang thừa hành công vụ, có lẽ Vỹ đã
ôm chầm lấy Khiêm và con gái, oà khóc. Nhưng lạ thay, khi chiếc còng số tám bập
vào hai cổ tay anh, Vỹ bỗng thấy cứng cỏi và có chút ngạo đời, anh hất mái tóc
đang xoà trước trán, nói với vợ giọng cứng cỏi rồi bước ra khỏi nhà.
- Không sao đâu… Anh đi rồi lại về. Em gắng an ủi và chăm sóc
bé Mai nhé…
Chiếc xe màu rêu đít vuông như chiếc hòm kín bịt bùng chở Vỹ
đi đâu, đi bao lâu, anh cũng không biết nữa. Từ đây Vỹ quên dần cảm giác thời
gian và không gian. Lẫn lộn giữa hiện tại và quá khứ. Mờ mịt không thấy tương
lai.
Suốt hai ngày đầu trong căn phòng như chiếc quan tài, chiều
ngang chừng hai mét, chiều dài ba mét, có ô kính bằng bàn tay phía trên đủ hắt
một chùm ánh sáng từ ngoài vào, Vỹ lúc nằm xoài trên chiếc phản nhớp nháp vì đủ
loại mồ hô người lâu ngày, lúc ngồi gục mặt trên hai đầu gối, lúc lại nằm
nghiêng như con tôm luộc. Suất cơm cá khô để chỏng chơ. Tập giấy và chiếc bút
bi vẫn nguyên chỗ cũ. Người ta khuyên anh thành khẩn khai hết tội lỗi, kể hết
quá trình tha hoá, phản cách mạng, từ khi còn học ở Liên Xô, rồi theo nhóm Nhân
văn Giai phẩm, theo Chủ nghĩa xét lại, câu kết với bọn phản động chống phá cuộc
kháng chiến chống Mỹ và xây dựng Chủ nghĩa xã hội…
Cho đến ngày thứ năng thì cuộc hỏi cung bắt đầu.
- Anh cho biết họ tên?
- Báo cáo cán bộ, Nguyễn Kỳ Vỹ.
- Ngày tháng năm sinh? Quê quán.
- Báo cáo cán bộ, sinh ngày… tháng… năm…, tại làng Động, huyện
Phương Đình, tỉnh Sơn Minh.
- Nghề nghiệp, nơi làm việc?
- Báo cáo cán bộ, đi bộ đội rồi viết văn.
- Viết văn không phải là nghề nghiệp. Anh nói lại.
- Báo cáo cán bộ, làm biên tập tại Nhà xuất bản Bình Dân.
- Vì sao anh bị bắt, vì tội gì?
- Báo cáo cán bộ, đang đi, tôi bị đụng xe đạp, rồi bị giải về
đồn…Tôi không biết mình bị bắt vì tội gì.
- Anh hãy nghiêm chỉnh. Không ai vô cớ bắt anh. Anh cố tình
ngoan cố. Trả lời lại cho thành khẩn. Anh bị bắt vì tội gì?
- Báo cáo cán bộ. Thực tình tôi không hiểu bị bắt vì tội gì.
Đề nghị cán bộ cho biết…
Nhà chức trách mũi khoằm bỗng đập bàn. Rõ ràng ông không thể
kiên nhẫn được nữa. Người thư ký ở bàn bên giật mình, đánh rơi chiếc bút.
- Anh định hỏi cung lại chúng tôi phỏng? Anh quá biết tội lỗi
tày trời của mình, nhưng lại cố tình quanh co. Cho anh trả lời lại! Anh thấy
mình bị bắt vì tội gì?
Vỹ cúi mặt. Nhà chức trách đọc rõ vẻ lì lợm, sắt đá qua vành
môi cắn chặt của Vỹ.
- Anh Nguyễn Kỳ Vỹ. Hãy nhìn thẳng cán bộ và trả lời câu hỏi.
- Báo cáo cán bộ. Tôi không có tội.
Chiếc đồng hồ treo tường điểm tích tắc nặng nề. Không khí
trong phòng tưởng như nén lại, ngột ngạt.
- Tôi cảnh cáo anh - Nhà chức trách xô ghế đứng dậy - Tôi cho
anh tiếp tục suy nghĩ. Nếu anh muốn được khoan hồng để trở về với vợ con thì phải
thành khẩn. Tội anh to hơn anh tưởng rất nhiều đấy anh Nguyễn Kỳ Vỹ ạ.
Câu cuối cùng nhà chức trách gằn qua kẽ răng, rồi hất hàm cho
anh cảnh vệ đưa Vỹ đi Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, kịch bản diễn ra vẫn y
nguyên như cũ. Lại những câu hỏi và những câu trả lời như lần trước.
Lần thứ tư, Vỹ được dẫn tới một căn phòng khác, rộng hơn. Có
thêm hai người nữa. Một thư ký ngồi ở bàn bên, cạnh anh thư ký cũ, có máy ghi
âm và một chồng sổ sách tài liệu.
Ngồi trước bàn lớn giữa phòng, cạnh người mũi khoằm là một
người mang hàm đại tá, có gương mặt thư sinh, trán hói, đeo kính trắng, rất khó
đoán tuổi. Người mũi khoằm lại đưa ra những câu hỏi thủ tục ban đầu. Và Vỹ vẫn
một mực không nhận tội.
Người đeo kính trắng bất ngờ đưa ra một cuốn sổ.
- Anh Vỹ có nhận ra cuốn sổ này không?
Vỹ bỗng tròn xoe mắt khi nhìn thấy cuốn sổ tay bìa màu đô mà
anh tưởng đã đánh rơi ở bến phà sông Công khi anh đi cùng Hạnh lên thăm Khánh ở
nông trường Quan Chi năm nào. Trời ơi, sao cuốn sổ ghi chép của Vỹ lại nằm ở
đây? Bằng cách nào? Ai đã vớt nó dưới sông lên?
- Anh ngạc nhiên lắm phải không? Cuốn sổ tay này ghi những gì
chắc anh còn nhớ? Anh có muốn chúng tôi đọc lại bản nháp lần đầu bài thơ "Tiếng
hát nhân dân" của anh không?
"Chữ Đồng Tử trầm mình lội ngược sông Hồng
Từ thuở Âu Cơ đến giờ vẫn khố
Đồng hợp tác chỉ toàn rơm với rạ
Máu đỏ bầm chứ đâu phải phù sa?
Khi cho in trên "Giai phẩm Bốn mùa" anh đã sửa hai
câu cuối thành " Sóng cuồn cuộn chay tận cùng xứ sở/ Máu đỏ bầm chứ đâu
phải phù sa?" Miệng lưỡi thâm độc quá, nhà thơ ơi. Còn đây nữa,
rất nhiều những câu thơ phản động của các đồng chỉ Nhân văn Giai phẩm mà nhà
thơ Nguyễn Kỳ Vỹ của chúng ta đã chép trong sổ tay. Nào là: "Tôi đi
giữa phố giữa nhà / Mà không thấy phố thấy nhà / Chi thấy mưa
sa trên nền cờ đỏ" Nào là: "Đem bục công an đặt giữa
tim người" Phản động hết chỗ nói. Nhà thơ ơi, đáng lẽ chúng tôi đã cho bắt
anh ngay từ những ngày ấy…
Vỹ bất ngờ. Vì cuốn sổ như có phép thăng thiên, độn thổ, lọt
vào tay các nhà chức trách. Vì cái giọng đọc diễn cảm và cách nói giễu cợt rất
có duyên của ông đại tá.
- Chưa hết đâu - Vị đại tá tiếp tục - Chúng tôi sẽ dành riêng
một buổi để nghe anh nói về người đồng chí tên là Sécgâyêvích, anh đã hẹn gặp ở
Đại sứ quán Liên Xô, cùng những tài liệu về Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản
Liên Xô, mà anh đã dịch và truyền bá… Hôm nay hãy nói về văn chương… Những tư
liệu mới nhất mà chúng tôi có trong tay càng cho thấy nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ đã
trở thành người đứng ngoài cuộc, hoàn toàn thờ ở xa lạ với cuộc chống Mỹ cứu nước
của toàn dân tộc. Chưa nói tới việc lưu hành tập thơ "Váy Đình Bảng" của
Bùi Việt, một nhân vật của nhóm Nhân văn không chịu hối cải, hay phát tán tài
liệu ra nước ngoài để đài báo của địch lợi dụng công kích, bêu xấu chế độ ta.
Nguy hiểm hơn là Bùi Việt và một vài phần tử đang có khuynh hướng sáng tác suy
đồi, đi ngược lại phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa mà toàn giới
văn nghệ sĩ đang lấy làm kim chỉ nam cho đường hướng sáng tác của mình. Hiện thực
vô bờ bến là hiện thực gì? Garôdi là ai? Rõ ràng là một sự phủ nhận Chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, xoá nhoà đấu tranh giai cấp, thủ tiêu chủ nghĩa xã
hội. Người dịch tài liệu này là ai? Có phải người từng tranh luận rồi kết thân
với Jean-Paul Sartre, kẻ đã ly khai Đảng Cộng sản Pháp, đi theo chủ nghĩa hiện
sinh? Chúng tôi đã từng cảnh báo giới văn nghệ sĩ rằng giáo sư Trần là một nhân
vật đặc biệt nguy hiểm. Ai đã đưa anh đến với giáo sư Trần?
- Báo cáo cán bộ, tự tôi đến. Tôi coi giáo sư là người thây
triết học…
- Đó mất lập trường quan điểm từ chỗ đó. Ăn phải đạn bọc đường
từ chỗ đó, nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ ạ - Vị đại tá bắt đầu tỏ ra thích thú khi thấy
Vỹ đã bị cuốn vào câu chuyện - Còn đây nữa, hai câu thơ đề tựa cho cuốn tiểu
thuyết "Chân trời hoang tưởng" đang viết dở, đặc biệt đáng
lưu ý: "Tôi khóc những chân trời không có người bay/ Lại khóc những
người bay không có chân trời"(1).
- Báo cáo cán bộ, không phải thơ của tôi. Đây là câu thơ rất
hay của một nhà thơ bậc đàn anh. Tôi mượn làm lời đề tựa.
- Của ai vậy?
- Báo cáo cán bộ. Thơ nháp trong sổ tay, dạng bản thảo, tác
giả chưa công bố, vì thế xin được coi như bí mật cá nhân.
- Nhà văn Nguyễn Kỳ Vỹ đã nhầm lẫn quá rồi. Đối với cách mạng
thì không có gì là cá nhân cả. Mọi bí mật riêng tư đều thuộc về tổ chức, về tập
thề. Vì chế độ chuyên chính vô sản, mọi công dân đều phải có nghĩa vụ hy sinh mọi
cái riêng, mọi toan tính cá nhân. Câu thơ ấy là của ai?
- Báo cáo cán bộ, tôi đọc trộm từ một cuốn sổ tay…
- Của ai? Chúng tôi muốn biết tác giả của hai câu thơ này.
Đây là thơ cực kỳ phán động… Nếu anh trung thực khai báo, anh sẽ được khoan hồng…
- Báo cáo, xỉn miễn cho tôi trả lời câu hỏi này…
Biết vừa chạm vào tảng đá ngầm, mặt vị đại tá đang lạnh tanh
bỗng nhếch một nụ cười:
- Không sao… Thì ta hãy tạm gác chuyện này lại. Tôn trọng tự
do cá nhân mà… Chúng tôi đành phải tự tìm ra tác giả. Chỉ xin nói với anh Vỹ rằng
đây là hai câu thơ ám chỉ, các anh dùng biểu tượng hai mặt để công kích Chủ
nghĩa xã hội. Chân trời là gì? Chân trời hoang tưởng là thế nào? Người bay là
ai? Các anh không thể dùng biểu tượng ba bốn mặt để che giấu dã tâm của mình được
đâu. Bọn Nhân văn Giai phẩm từng rêu rao là những chiến sĩ đấu tranh cho tự do
sáng tạo, tự do nghệ thuật. Chúng thiếu chân trời, bức bối ngột ngạt vì thiếu tự
do, dân chủ. Chúng rêu rao Chú nghĩa xã hội là một trại lính. Đấy, biểu tượng
hai mặt chính là ở chỗ đó Chúng vừa kích động trực tiếp, vừa bóng gió xa xôi.
Vỹ bàng hoàng vì sự diễn giải và suy diễn của vị đại tá.
- Bây giờ ta bàn đến tiểu thuyết "Chân trời hoang
tưởng".
- Tôi rất thắc mắc, tại sao nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ bỗng nhiên lại
chuyển sang viết văn xuôi nhỉ? Anh chán thơ rồi à?
- Báo cáo cán bộ, tôi vẫn làm thơ. Tôi coi thơ như một tháp
ngà nghệ thuật. Nhưng không phải lúc nào mình cũng tới được.
- Một tháp ngà nghệ thuật. Rất hay. Nhưng còn tiểu thuyết?
- Báo cáo cán bộ, nếu ví thơ như một tháp ngà thì văn xuôi
nói chung và đặc biệt là tiểu thuyết, như một dãy núi. Tiểu thuyết là những khẩu
đại pháo của nền văn học. Một nền văn học vạm vỡ và đồ sộ phải có những đỉnh
cao tiểu thuyết…
- Thế "Truyện Kiều" của thi hào Nguyễn Du thì sao?
Thi ca chẳng lẽ lại kém tiểu thuyết hay sao? - Vị đại tá lại thấy hứng thú khi
đụng chạm đến những vấn đề học thuật.
- Báo cáo cán bộ, Truyện Kiều chính là bộ tiểu thuyết bằng
thơ. Một thi phẩm tiểu thuyết kiệt tác. Nguyễn Du phải dùng tới hơn ba ngàn câu
thơ mới sáng tạo nổi nàng Kiều và bức tranh xã hội thời nàng sống. Thơ là những
khúc tình ca và bi ca. Phải tiểu thuyết mới đủ khả năng bao chứa những vấn đề
xã hội rộng lớn…
- Và nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ phải chuyển thành nhà văn, phải
dùng đến tiểu thuyết "Chân trời hoang tưởng" để công kích,
bôi nhọ, tiến tới xoá bỏ chế độ Xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của
chúng ta?
- Báo cáo cán bộ, đây có lẽ là một kiểu đọc văn bản hết sức lệch
lạc…
- Thôi, anh đừng nguy biện, đánh tráo khái niệm - Vị đại tá
nhìn đồng hồ, và đột ngột nổi nóng. Hình như ông sực nhớ tới cuộc hẹn ở nhà
hàng trên đường Cổ Ngư trưa nay - Hình tượng nhà báo Phan trong tác phẩm, bỏ
toà soạn về nuôi chó cảnh, suốt ngày đàm đạo, tâm sự với đàn chó, nhằm mục đích
gì? Tại sao anh cho cô Nhuỵ, con một địa chủ bị ta xử hồi cải cách ruộng đất,
yêu Phan, rồi kể hết về cuộc đấu tố cha để khuyên Phan dựng lại thành tiểu thuyết?
Mỗi câu nói của vị đại tá lại khiến Vỹ nổi gai, ớn lạnh dọc sống
lưng. Hoá ra ông ta đã đọc kỹ những trang viết bằng đủ thứ mực, những dòng nguệch
ngoạc, gạch xoá nhằng nhịt mà tưởng chỉ Vỹ mới đọc nổi. Và ông ta không chỉ đọc
mà còn ghi nhớ, nghiền ngẫm, săm soi, tìm kiếm xem phía sau những dòng chữ ấy
chứa ẩn điều gì?
- Báo cáo cán bộ, đây là một tác phẩm văn học… Vả lại tác phẩm
này vẫn đang ở dạng bản nháp, chưa công bố, nó vẫn thuộc về bí mật cá nhân, nên
chưa thể bàn xét…
Vị đại tá lại nhìn đồng hồ. Qua gần hai tiếng trực tiếp hỏi
cung phần tử hậu Nhân văn Giai phẩm, kiêm Xét lại hiện đại, sắc mặt ông đã đổi
màu. Nó chuyển từ trắng xanh sang đỏ lựng, rồi tím tái. Nguyễn Kỳ Vỹ quả là một
nhân vật rất nguy hiểm, nhưng nói chuyện với y thật thú vị.
°°°
Suốt một tháng trong phòng tạm giam, nhà chức trách vẫn không
kết được tội Vỹ. Vỹ kiên quyết không ký biên bản. Vỹ đòi phải mở một phiên toà
công khai để xử anh theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật.
Đài BBC và một vài hãng thông tấn nước ngoài, như Reuters,
UPI, AFP… đã đánh hơi thấy vụ bắt giam Vỹ, đưa tin một cách méo mó và sai lệch.
Một buổi sáng, Vỹ được đưa lên chiếc xe đít vuông có thùng
kín bịt bùng đến một nơi xa thành phố. Bằng trực cảm và kinh nghiệm, Vỹ nhận ra
chiếc xe đang đi trên những con đường trải sỏi vùng trung du, thỉnh thoảng lại
gặp một ổ voi, một vũng nước, cũng có thể là xe đang đi qua những hố bom.
Chừng hai giờ sau, chiếc xe dừng lại, Vỹ biết, xe đang dừng
bên một hồ nước, dưới những đồi thông, vì tiếng reo vi vút của thứ lá kim trong
gió, không lẫn được. Quả nhiên, khi ra khỏi thùng xe, Vỹ ngỡ ngàng vì một vùng
cảnh quan thơ mộng, sơn thuỷ hữu tình. Người ta dẫn Vỹ đến một căn nhà lợp lá cọ,
nép dưới tán thông xanh tốt, nửa nổi trên mặt đồi, nửa chìm dưới lòng đất, có hệ
thống giao thông hào, hầm chữ A xung quanh rất kiên cố. Thật ngạc nhiên, đón Vỹ
trong căn phòng biệt thự thời chiến ấy lại chính là anh trai của Vỹ, đồng chí
Chiến Thắng Lợi.
- Em gầy quá!
Đó là câu nói đầu tiên của ông Lợi khi hai anh em giáp mặt
nhau. Vỹ cảm thấy độ rung của hai bàn tay to nặng đặt lên vai Vỹ. Vỹ nhìn thấy
hai ngấn nước trong khoé mắt người anh trai của mình. Ông xúc động và thương Vỹ
thật lòng.
- Chú có biết anh đau lòng biết bao khi gặp chú trong hoàn cảnh
này không?
Đến lúc hai anh em ngồi đối diện bên chiếc bàn rộng, có trà,
thuốc lá, kẹo và bánh ngọt, thì Vỹ lại thấy những lời của Lợi không còn chân thật
nữa rồi. Kỷ niệm về lần gặp gỡ đầu tiên tại Ban X, nơi Lợi làm việc, sau khi Vỹ
bị trục xuất khỏi Liên Xô về nước, khiến Vỹ nhớ ngay đến cuộc tranh luận nẩy lửa
giữa hai người. Lần này thì Vỹ không muốn cãi nhau với ông anh trai nữa. Vô bổ.
Còn gì mà tranh cãi? Hai thế giới tâm hồn khác nhau. Hai phạm trù đạo đức, phạm
trù sống khác nhau. Hai đường thẳng song song, chỉ có thể gặp nhau ở vô cùng…
- Hôm chú đụng xe, các đồng chí công an gọi cho anh ngay. Anh
nghĩ chỉ vài tiếng đồng hồ rồi chú lại về…
- Em cũng nghĩ thế…
Câu chuyện giữa hai anh em thật khó khăn. Ngay cả cuộc gặp gỡ
này, cũng khó khăn lắm ông Lợi mới thu xếp nổi. Sẽ chẳng còn là một con người
theo đúng nghĩa của nó, chứ không nói chi đến bổn phận một ông anh trai, quyền
huynh thế phụ, nếu Lợi không có một cuộc dàn xếp để, hoặc là cứu tội cho em
mình, hoặc là để Vỹ và gia đình họ mạc biết rằng, ông đã làm hết sức. Trước khi
đến đây, Lợi cũng đã xin ý kiến Anh Tư và tổ chức. Lợi muốn bảo lãnh, nếu có thể.
Nhưng ý Anh Tư có vẻ kiên quyết lắm. "Ông cha mình đã dạy rồi: Thương cho
vọt cho roi. Trị thằng Vỹ tức là dằn mặt cả một phe nhóm chống đối, là giữ yên
một mảng hậu phương, không để kẻ địch lợi dụng. Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót,
Mao Chủ tịch từng dạy như thế". Lợi biết không còn cách nào cứu Vỹ hơn
cách Vỹ tự cứu mình. Ông còn biết, chính Vỹ đang là thứ thuốc thử đối với ông.
Ông đang bị Văn Quyền theo dõi từng ngày. Có hai vụ ông đã bị hớ với Quyền. Một
là cuốn sổ ghi chép của Vỹ do Sành lấy trộm của vợ nộp cho Quyền. Quyền giả vờ
như cánh hẩu với Lợi, đưa riêng cho Lợi biết, nhưng lại ngầm sao chụp lại và
báo cáo với đồng chí Tư Vuông để thử xem Lợi có dám ém nhẹm đi không? Vụ ấy Lợi
cứ chần chừ mãi, phải đợi Anh Tư nhắc. Hai là, việc Lợi xin cho Lê Kỳ Chu, con
trai Phó Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh Đào Thị Cam, không những không phải ra mặt trận
mà còn được sang Liên Xô học kỹ thuật tên lửa. Hai tử huyệt ấy, Văn Quyền vẫn
ngầm găm lại đấy. Ai biết Quyền sẽ lật đổ Lợi lúc nào? Cho nên, chỉ cần ông tỏ
ra mềm yếu, đặt tình anh em lên trên những nguyên tắc của tổ chức, chắc chắn sẽ
bị trả giá…
- Cái lần Văn Quyền đưa cuốn sổ ghi chép của chú cho anh, mấy
lần anh định tâm sự với chú…
- Hoá ra anh cũng đã biết hết cả rồi…
Sau lần Anh Tư chỉ thị cho đăng bài bút ký "Sau luỹ tre
làng" trong chuyến đi thâm nhập thực tế của chú, anh đã mừng…
- Ai ngờ chứng nào vẫn tật ấy, phải không anh?
- Anh không nghĩ đó là ý thức hệ, là quan điểm lập trường, mà
đơn thuần chỉ là phương pháp tư duy, cách tiếp cận hiện thực. Văn nghệ sĩ các
chú bồng bột và thiên về trực cảm, thiếu sự dẫn dắt của lý trí, đặc biệt là lý
tưởng.
- Vì thế mới có anh và em. Anh làm quan, còn em thì làm giặc!
- Đừng nghĩ thế. Chú là kẻ ngoài cuộc thì đúng hơn. Chú ngây
thơ về chính trị. Chú tự tách mình ra khỏi dòng chảy cuồn cuộn của cách mạng.
Trong khi hàng triệu chàng trai cô gái xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, trong khi
hàng nghìn nhà văn, nghệ sĩ, trí thức tình nguyện khoác ba lô ra trận, hát cho
đồng bào tôi nghe, sáng tác phục vụ công nông binh, trong khi hàng chục triệu
người thắt lưng buộc bụng, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người,
sẵn sàng dỡ nhà để làm đường cho xe qua, pháo qua, sẵn sàng hy sinh thân mình để
đường thông cầu thông… thì một nhóm phần tử văn nghệ ly khai ra rả đòi tự do
sáng tác, đòi dân chủ và công bằng, nguy hiểm và phản động nhất là đòi quyền
lãnh đạo…
Chiến Thắng Lợi nói sa sả hơn tiếng đồng hồ. Ông độc diễn thì
đúng hơn. Ông nói về hai con đường, về giai đoạn quá độ, về quy luật tất yếu của
lịch sử, về sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản… Cứ nghe ông nói thì Mỹ, Nhật,
Anh, Pháp… sắp chết đến nơi. Liên Xô, Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc đang ở giai
đoạn Chủ nghĩa xã hội phát triển, mọi người đang làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu. Chủ nghĩa xã hội đang nhỡn tiền thành thiên đường của nhân loại…
Vỹ nhìn ông anh một cách thương hại. Ông là người học trò cấp
một rất xuất sắc, nhưng không bao giờ vươn tới được tầm kiến thức đại học. Với
ông, chủ nghĩa Mác là bất biến, trong khi thế giới biến đổi từng giờ. Trong khi
cả thế giới tư bản phương Tây đã vận dụng chủ nghĩa Mác để tự điều chỉnh chính
nó, trong khi các nước Bắc Âu như Đan Mạch, Phần Lan, Thuỵ Điển đang thực hiện
lý tưởng nhân đạo của Mác trên đất nước họ một cách hài hoà, thì các nước Đông
Âu lại biến học thuyết Mác thành một thứ giáo điều, khô cứng, biến Chủ nghĩa xã
hội thành một đại công xã đầy quan liêu, hình thức và tẻ nhạt… Sao ông Lợi lại
nỡ lấy những bài rao giảng trong các lớp tuyên huấn cho cán bộ cấp xã để nói với
Vỹ? Chả lẽ Vỹ lại đốp chát thẳng vào mặt ông anh ngu tín, giáo điều và ảo tưởng
rằng, em cam đoan với anh, chỉ hơn chục năm nữa là những hình tượng sáng chói ấy
của ông anh sẽ sụp đổ. Bởi cuộc sống không cho phép ai xây dựng lâu đài trên những
ảo tưởng, sự độc đoán áp đặt, lối hô hào đạo đức giả… Nhưng thôi, ích gì? Lợi
đang thoả mãn vì quyền lực, đang là công cụ của quyền lực. Tự nhiên Vỹ không
còn hứng thú tranh luận, như muốn ngủ gật.
- Anh có thể bảo lãnh được cho chú, với một điều kiện - ông Lợi
kết thúc bài lên lớp hơn một tiếng đồng hồ.
- Điều kiện gì hả anh?
- Chú phải thành khẩn ký vào biên bản nhận tội. Tội hùa theo
kẻ xấu gây rối, chia rẽ, đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội. Tội sáng tác và truyền
bá tư tưởng chống Đảng, chống chế độ…
- Thôi, anh về đi…
Vỹ uể oải chực đứng dậy, nhưng chưa kịp thì đã bị đồng chí
công an ở phía sau tưởng Vỹ có biểu hiện manh động, liền áp sát dằn xuống ghế.
- Nhờ anh nói với nhà em và chị Là, nếu u có hỏi thằng Vỹ thì
bảo nó đi công tác nước ngoài. Anh nhớ dặn cả chú Cục. Tuyệt đối không để cho u
biết em phải đi…, anh nhé. Tội người già lắm…
Ông Lợi thở dài bất lực. Không có cách nào cứu thằng em bướng
bỉnh và bất trị này được.
Một tuần sau, Nguyễn Kỳ Vỹ có lệnh điều đi trại T5.
Chú thích:
(1) Thơ Trần Dần.
Chương 19
k27
Châu Hà là người bạn duy nhất lên thăm Vỹ ở trại cải tạo.
Không phải Vỹ không có bạn. Những người bạn từ thuở bộ đội Cụ
Hồ, những người bạn văn chương thân thiết như Châu Hà cũng có đến hàng chục.
Nhiều người yêu quí Vỹ tới mức sẵn sàng chia cửa xẻ nhà. Nhiều người tình nguyện
làm đệ tử, có thể tửu phùng tri kỷ suốt đêm, có thể mang vác điếu đóm cho anh tới
bất cứ buổi bình thơ, nói chuyện văn chương nào. Nhưng giờ thì người ta sợ liên
luỵ. Giá Vỹ mắc căn bệnh hiểm nghèo, thậm chí bệnh xã hội nan y, lây nhiễm như
ho lao, hủi, dịch hạch… người ta cũng sẵn sàng đến thăm, thậm chí vận động,
quyên góp tiền bạc để Vỹ và vợ con vượt qua cơn hiểm nghèo. Nhưng "căn bệnh
chính trị" Vỹ đang quàng vào người thì bạn bè thân thiết đến mấy cũng đành
lảng tránh. Dây vào "con hủi chính trị" như Vỹ, không những toi đời
mình, mà còn khuynh gia bại sản, tan tành tương lai sự nghiệp của cả vợ, con, họ
hàng ruột thịt.
Có hai người đàn bà, không phải bạn bè của Vỹ, nhưng dám liều
theo Khiêm lên thăm Vỹ hồi anh chuyển về trại giam K27 là những trường hợp ngoại
lệ. Đó là Nguyệt và chị Là.
Đi thăm em chồng, nhưng lại sợ ông Lợi ngăn cấm, chị Là nói dối
về thăm quê trên Định Hoá, rồi bảo Khiêm đưa lên K27. Chắc chị đã chuẩn bị cho
chuyến đi kỳ công lắm, nên khi giáp mặt Vỹ ở nhà chờ, chị vừa lau nước mắt vừa
lấy trong tay nải ra một bọc túi ni-lông gói nhiều lần giấy báo, nặng tới ba ki
lô, khiến Khiêm cũng phải ngạc nhiên.
- Ruốc thịt nạc thăn với ruốc bông cá quả đấy. Thứ này để lâu
ăn dần. Tôi mua tem phiếu thịt của người ta, mua cá quả ở chợ Long Biên rồi
thuê người trên phố Chả Cá làm hộ. Không phải phiếu bìa B của ông cán bộ tập kết
làm thơ tặng tôi đâu chú Vỹ ạ. Ông ấy tình nguyện trở về quê chiến đấu từ năm
ngoái rồi.
Ba cân ruốc ấy, Là và Khiêm năn nỉ mãi, ông quản giáo mới cho
Vỹ mang vào phòng giam. Nhưng ngay hôm sau, bọn đầu gấu trong trại đã trấn sạch.
May mà chúng thương và nể Vỹ tha cho anh một trận đòn xăng tan.
Nguyệt theo lên với Khiêm một lần khác, vào dịp Quốc khánh
2-9. Giống như chị Là, Nguyệt cũng phải nói dối chồng rằng đi thăm người em ruột
trên Tuyên Quang. Sành bây giờ đã là chủ tịch phường. Căn nhà phố Huế với Tổ hợp
cắt tóc Cờ Đỏ nhờ sự giúp đỡ tận tình của Văn Quyền, đã hoàn toàn thuộc quyền sở
hữu của vợ chồng Sành. Từ ngày Nhà xuất bản Bình Dân sáp nhập với các nhà xuất
bản khác, Nguyệt chuyển sang Xưởng phim Đèn chiếu, giữ chân tạp vụ. Lên thăm Vỹ,
Nguyệt chỉ muốn gặp để nói về cuốn sổ ghi chép của anh.
- Thấy ông Sành nhà em nói anh bị bắt là từ quyển sổ ấy, em
ân hận quá - Nguyệt nói với Vỹ, như con chiên thú tội trước Đức Cha bề trên,
nói trong giàn giụa nước mắt - Chỉ tại em thích đọc những bài thơ của anh nên
em mới đem về nhà. Ai ngờ cái lão Sành nhà em giấu đi, mang nộp cho ông Văn Quyền.
Tội ở em. Em giết anh không dao rồi anh Vỹ ơi…
Nguyệt nói, Vỹ mới biết Quyền đã ngấm ngầm theo dõi anh từ dạo
ấy. Cho tới giờ Vỹ vẫn chưa hiểu Quyền thù ghét Vỹ về chuyện gì? Đố kỵ tài năng
ư? Ghen ghét vì Khiêm ư? Hay thù hận vì quan điểm lập trường giai cấp?
- Được lên thăm anh lần này để nói rõ nguồn cơn với anh là em
vợi đi nỗi ân hận - Nguyệt lau nước mắt, rồi liếc nhanh người quản giáo, dúi
vào tay Vỹ một tờ giấy gấp nhỏ tí như chiếc khuy áo - Anh còn nhớ ông Hiệu
không? Nhà báo Hữu Hiệu ấy mà?
- Hiệu tổ trĩ thì làm sao quên được. Tưởng ông ấy nghỉ hưu rồi?
- Vâng. Về quê, trở lại nghề bốc thuốc của ông nội rồi. Thỉnh
thoảng bác ấy vẫn ra Hà Nội cất thuốc, có ghé chỗ em. Biết em sắp lên thăm anh,
bác Hiệu gửi cho anh toa thuốc chữa bệnh trĩ gia truyền. Bác ấy bảo, với anh
thì chẳng cần giấu bí quyết gì. Sau khi ra tù, bài thuốc này đủ giúp anh kiếm sống,
chẳng cần phải viết lách văn chương gì cho nó nhọc xác, mà lại dễ mắc tù đày.
Bác ấy cũng đề phòng trong này anh ăn uống kham khổ, dễ bị trĩ. Người thật thà
như đếm. Bác ấy viết thế nào em vẫn để y nguyên, không suy suyển một chữ nào
đâu…
Vỹ chợt nhớ câu anh từng nói với ông Hiệu: "Đời không
đang một cái tổ trĩ". Bây giờ thì phải nói khác. "Cái tổ trĩ thật ứng
đáng ở đời". Đúng thế không, bác Hiệu? Vỹ thấy lòng ấm nóng tình người.
Bài thuốc trĩ của ông Hiệu, không ngờ đã giúp Vỹ trở thành thầy
lang của trại. Do ăn uống kham khổ, gạo hẩm, cá khô lại thiếu rau, nhiều người
trong trại táo bón, rồi sinh trĩ. Vỹ chữa cho mấy người khỏi. Có vị giám thị,
tên Bản, từ chiến trường ra, mắc trĩ nặng, được Vỹ chữa khỏi, cảm động lắm. Để
trả ơn cho Vỹ, ông Bản đã cho Vỹ một đặc ân mà Vỹ phải mang ơn suốt đời.
Số là tết năm ấy trời rét căm căm. Ở vùng núi đá này, có ngày
nước đóng váng, sắp thành bằng. Đúng hai mươi ba tháng chạp âm, ngày ông Táo
lên chầu trời, Vỹ lên rẫy trồng bí ngô, bị cảm lạnh. Rồi sốt rét đùng đùng. Chỉ
một mảnh chăn chiên, không đủ ấm. Vỹ nằm co ro trong phòng giam, răng đánh cầm
cập, môi lưỡi khô sác, sưng vù. Các phạm nhân trong trại, ai cũng thương Vỹ,
dành cho Vỹ những miếng thịt hiếm hoi trong suất cơm tù, có người nhường hẳn mảnh
chăn bông cho Vỹ đắp.
Đúng lúc ấy thì Khiêm vượt ba trăm cây số đường núi lên thăm
chồng. Chị mang theo một túi xách nặng đầy bánh chưng, giò, chả, kẹo bánh, thuốc
lá, đường, sữa… mà gia đình và bè bạn dồn hết phần tem phiếu để lo cho Vỹ một
cái tết.
Nội quy của trại, phạm nhân chỉ được gặp người thân một buổi ở
nhà chờ, dưới sự giám sát của quản giáo. Ngay cả vợ lên thăm chồng cũng chỉ được
trò chuyện vãn nhau qua khung cửa sắt. Nhưng lần này, giám thị Bản đã giải quyết
cho Vỹ như một trường hợp đặc biệt ngoại lệ. Bởi Vỹ đang ốm, rất cần người chăm
sóc. Giám thị Bản giải thích với mọi người thế.
Nhưng ý tứ sâu xa của sự hào phóng này là Vỹ đã giúp Bản khỏi
bệnh trĩ. Bản lại là người yêu thơ văn, rất thích tập thơ "Thời của Thánh
Thần". Trong số những phạm nhân ở trại, Vỹ là người tù mà ông luôn có những
ứng xử đặc biệt. Ông hiểu được nỗi oan khuất và tấn bi kịch của đời Vỹ trước thời
cuộc. Trong con người Bản vẫn sẵn tiềm chứa lòng trắc ẩn.
Đêm ấy, trong căn nhà lá của trạm xá trại cải tạo, là một đêm
kỳ diệu. Rét thấu xương. Gió vật vã trên tán lá rừng như có hàng đàn trăn gió
trườn qua. Nhưng thật lạ, gian nhà lá chỉ tù mù một ngọn đèn dầu mà như có sức
nóng của một bếp than hồng. Chỉ mới gặp Khiêm, được nắm bàn tay nàng, soi vào mắt
nàng, là cơn sốt rét trong người Vỹ lui ngay. Vỹ cảm thấy khoẻ mạnh, bừng bừng
sinh lực.
- Con Mai thế nào? Có học được không? Con có nhớ anh không? Cứ
bảo con là anh đi công tác xa cho con nó khỏi tủi… Hai bà mẹ của chúng mình nữa?
U đã biết anh lên trên này chưa? Mợ có khoẻ khỏng? Anh chỉ thương bà ngoại con
Mai vất vả!
Bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Khiêm chưa trả lời câu này, Vỹ đã
hỏi câu khác. Cuống cuồng, Khiêm cứ gật lia lịa, cứ nhìn Vỹ như người đói con mắt.
- Chỉ chậm lên tàu mười lăm phút là có thể em vĩnh viễn không
gặp anh đêm nay - Khiêm ngả cánh tay cho Vỹ gối đầu, tay kia vòng ôm anh trong
lòng, như ôm ấp đứa con. Nàng kể cho anh nghe chặng đường lên thăm chồng - Máy
bay B52 đang rải thảm Hà Nội, Hải Phòng. Ních-xơn tuyên bố sẽ cho Việt Nam trở
lại thời đồ đá anh ạ. Tàu vừa đi khỏi thì nhà ga bị đánh bom. Còn bao nhiêu người
đang chờ tàu. Sáng qua nghe đài nói, hơn một trăm người bị bom Mỹ giết hại…
- Anh ở trên này hoá ra lại yên ổn. Suốt mấy năm nay chẳng biết
tiếng máy bay là gì - Vỹ nói một câu như người ngớ ngẩn, nhưng nước mắt anh lại
chảy ướt cánh tay Khiêm.
- Trước khi lên đây, em đến gặp bác Lợi, hỏi xem liệu bao giờ
thì anh được tha. Bác ấy bảo, việc ấy là tuỳ thuộc ở anh. Chỉ cần anh viết bản
khai, thành khẩn nhận tội đã trót dại theo bọn phản động chống phá cách mạng…
Vỹ bỗng đẩy Khiêm ra.
- Em gặp bác ấy làm gì? Phí nhời. Anh không muốn nhắc đến ông
ấy.
- Đừng cực đoan thế anh. Anh em ruột thịt, làm sao mà bỏ nhau
được? Chắc bác ấy cũng bị dằn vặt lắm. Anh ở trong này bác ấy cũng chẳng sung
sướng gì… Mà thôi, không nói đến chuyện ấy nữa. Chẳng có cơ hội nào vợ chồng
mình được ở với nhau thế này…
Nghe giọng hờn dỗi của Khiêm, tim Vỹ thắt lại. Anh vòng tay
ôm xiết lấy người nàng.
Lâu quá rồi, hơn hai năm rồi, Vỹ không gần vợ. Cứ tưởng gặp
nàng, như tất thảy những lần xa nhau lâu ngày, Vỹ sẽ ôm ghì lấy nàng, như con
thú gặp con mồi, như con đực gặp con cái chồm lên mà cắn xé, ngấu nghiến, cho
thoả cơn thèm khát Vậy mà lần này, một cơ hội trời cho hiếm có. Một nghĩa cử đầy
nhân đạo và tình người mà chỉ vị giám thị giàu lòng vị tha và đầy quyền lực như
Bản mới dám ban phát cho vợ chồng Vỹ, thế mà Vỹ có thể để tuột khỏi tay mình. Vỹ
hoảng sợ khi mơ hồ nhận ra mình không còn khả năng chăn gối. Ôm riết Khiêm vào
lòng, nhưng Vỹ vẫn không dám để nửa dưới của anh chạm vào người nàng. Vỹ vừa tự
ti vừa sợ hãi phải thú nhận sự bất lực của mình. Đó sẽ là bí mật cuối cùng của
Vỹ Anh không muốn nàng thất vọng, đau khổ. Đời thằng đàn ông, nhục nhã nhất là
sự bất lực. Mà Vỹ, ngót bốn mươi tuổi, đâu phải đã già? Ý nghĩ đau đớn ấy cứ
chà xát trong lòng Vỹ. Liệu Khiêm có hiểu và thông cảm rằng anh vẫn còn chưa dứt
trận ốm? Rằng thiếu dưỡng chất, sinh khí đàn ông cũng yếu đi nhiều. Ôi giá như
nàng ở bên Vỹ thêm một hai đêm nữa…
- Kìa, anh. Sao mà khóc? Ở bên em, anh không thấy hạnh phúc
ư?
Nàng hôn môi Vỹ, uống hết những ngấn nước mắt đang chảy trên
má anh. Đôi môi nàng, mềm ấm và thơm mùi trái chín, ấp lên môi anh. Cảm giác tê
mê, ngọt ngào quyến rũ của đầu lưỡi nàng làm anh bủn rủn. Với tất cả tình yêu,
sự sung mãn và thèm khát của người đàn bà bấy lâu gìn giữ, kìm nén, người đàn
bà đang độ phì nhiêu nhất, đắm đuối nhất, nàng đang giúp anh hồi sinh lại. Rồi,
như có phép màu, như con rắn có khả năng tự lột xác, nàng trườn khỏi những vải
vóc đang mặc trên người. Một tấm thân mềm mại, căng nở, ấm nóng, trẻ trung đến
ngỡ ngàng thoắt làm Vỹ bừng bừng sinh lực. Ánh sáng ngọn đèn dầu không đủ cho Vỹ
nhìn thấy thân thể nàng, nhưng anh cảm nhận thấy làn da ngà ngọc và những đường
cong bất hủ còn gợi cảm và tuyệt mỹ hơn cả mười năm trước. Rồi cũng những động
tác thuần thục và dìu dàng, nàng cởi bỏ hết vải vóc trên người Vỹ. Anh như lột
xác, khắp người bừng bừng hưng phấn, khắp người trưởng nở, cương cứng.
- Em thèm một đứa con. Em sẽ sinh cho anh một thằng cu Vỹ con
- Nàng lùa lưỡi vào tai Vỹ, giọng ngạt đi vì ham muốn.
Hai tay nàng, cặp vú căng mọng của nàng, cả cặp giò thon thả
của nàng, cùng hoà nhịp mơn trớn, khích lệ anh trong một vũ điệu tuyệt vời của
nữ thần tình ái. Như con mãnh thú, Vỹ trườn lên người nàng, đi xuyên suốt người
nàng.
Tấm ván ghép run lên bần bật. Vỹ nghe rõ tiếng những khớp
xương mảnh dẻ của nàng kêu răng rắc như có thể gãy vụn dưới sức nặng và sự cuồng
bạo của anh.
Tiếng sấm trái mùa, rồi mưa rừng ào ào đổ xuống. Gió gầm rít
trên tán cây, mái nhà, cùng tiếng mưa sầm sập như dàn hoà tấu vĩ đại của thiên
nhiên khiến tiếng rên rỉ trong những cơn khoái cảm tột cùng của nàng mang đậm
màu sắc hoang dã và lính thiêng như thuở hồng hoang.
Cái ý nghĩ mình có thể chết được rồi bắt đầu nảy sinh trong Vỹ
sau cái đêm thần tiên ấy. Như một người đã đạt đến đỉnh điểm của tình yêu và hạnh
phúc, Vỹ thấy mình không còn lý do gì để tồn tại trên cuộc đời này. Vỹ đã làm
xong mọi công việc của một kiếp người.
Rất nhiều đêm Vỹ nằm chong mắt nhìn lên trần nhà.
Hình ảnh thầy anh, ông Cử Phúc, trong bộ quần áo trắng, treo
ngược xà nhà, cứ chập chờn, ám ảnh. Thầy anh tự huỷ trong sự bi phẫn, bị dồn đuổi,
trong áp lực nhục nhã của kẻ sỹ Nhưng anh thì khác. Anh sẽ tự giải thoát trong
nỗi ê hề thừa mứa của bữa tiệc đời sống, trong sự kiệt cùng của sự hữu hạn đời
người. Chim ưng đã bay đến tận cùng của giới hạn bầu trời, chỉ còn cách đâm đầu
xuống biển. Tôi khóc những chân trời không có người bay. Giờ thì Vỹ không khóc
được nữa. Không cần khóc nữa. Vỹ sẽ tự giải thoát.
Vỹ lặng lẽ kiếm tìm một dải lụa, hay một sợi dây dù.
Nhưng rồi, mọi dự định của Vỹ bỗng nhão ra, mủn đi, tựa hồ
như chính sợi dây bằng tơ tằm hay nilông kia bị ngâm vào a xít. Ấy là khi Vỹ nhận
được thư của Khiêm. Nàng hoan hỉ và sung sướng báo tin đã có thai. Đứa con mà
nàng ao ước đến cháy bỏng đã được kết trái trong cái đêm mưa gió bên nhà lao giữa
rừng.
"Em tin mình sẽ đẻ con trai. Bé nghịch lắm. Hơn cà anh nữa
cơ. Em định đặt tên con là Nguyện Kỳ Phong, anh đồng ý không? Cơn gió kỳ lạ:
Anh đã thổi vào em một cơn xoáy lốc. Suốt đời em nằm trong vòng xoáy của anh.
Không thể thoát được Có con, em càng yêu và thương anh bội phần…"
Một người vợ như thế, còn mong gì hơn? Phải tìm mọi cách sống
để trả ơn nàng. Vỹ chế giễu sự bạc nhược, hèn hạ, sự trốn chạy trách nhiệm và
nghĩa vụ làm người trong những ngày qua của mình. Vỹ viết thư về thú nhận với
Khiêm và mong nàng tha thứ, mong nàng vì anh mà giữ gìn sức khoẻ, nuôi dạy các
con…
Từ ngày có bé Phong, Vỹ bỗng trở thành một người trầm lặng.
Anh sống giữa đám phạm nhân nhộn nhạo và ô hợp như một cái bóng âm thầm. Hết giờ
làm lao công ngoài trại, Vỹ thường hay nán lại bên các bờ suối, tha thẩn bên
các bụi cây để kiếm tìm một loại thảo dược, một thứ rễ cây nào đó. Về trại, Vỹ
ngồi một góc, tìm một xó xỉnh và trầm ngâm suy nghĩ hàng giờ. Bằng một trí nhớ
kỳ lạ, Vỹ hình dung lại những hộc thuốc bắc của thầy ngày xưa với hàng trăm đầu
vị: trần bì, cam thảo, cát cánh, xuyên khung, đỗ trọng, thảo quả, kỳ tử, quế
chi, khổ qua… Vỹ sẽ tìm lại những bài thuốc gia truyền thầy thường dùng ngày
xưa. Tất nhiên, bài thuốc chủ đạo của Vỹ sẽ là bài thuốc trĩ mà ông Hiệu đã tặng.
Vĩnh biệt văn chương. Vĩnh biệt nàng thơ với độc dược đầy tính Vulnérable của
nàng. Vỹ sẽ trở về nghề thuốc gia truyền của thầy để độ thế và tìm kế sinh
nhai, nuôi con Mai, thằng Phong và đỡ đần Khiêm…
Nhưng khi đã quyết tâm khai tử một khát vọng, một hoài bão mà
cả đời người đam mê, theo đuổi, dường như Vỹ cũng dần đánh mất mình. Anh trở
nên chậm chạp và lười nhác, nhiều lúc như kẻ không hồn. Cái lõi ở bên trong đã
khác thì cái vỏ bên ngoài cũng thay đổi.
Bốn năm tiếp theo,Vỹ sống như kẻ cầm hơi, như kẻ mộng du.
Gương mặt Vỹ như phù nề, bạc phếch, có lúc bì bì, tựa như một quả bòng héo.
- Thôi chết rồi. Mày bị bệnh phù thũng rồi, Vỹ ơi?
Đó là tiếng kêu thương của Châu Hà khi hai người bạn vừa chạm
mặt nhau ở gian nhà chờ của trại. Châu Hà nhìn bạn chằm chằm, rồi anh bật khóc
hu hu. Bao năm ở chiến trường, từng mấy lần ôm xác đồng đội, đào hố chôn đồng đội,
nhà văn mặc áo lính chỉ nuốt nước mắt vào trong, nhưng lần này, Vỹ vẫn còn sống
sờ sờ, đang cười nhăn nhở với Châu Hà đó mà anh lại ngỡ rằng bạn anh đang rất gần
cái chết. Đau xót và thương đến thắt lòng.
- Mai Văn Nhạ đây. Đà Giang hay là Châu Hà cũng là tao đây!
Mày có nhận ra không hở Vỹ?
Ngơ ngác và hồ nghi, Vỹ vẫn nhoẻn một nụ cười vô hồn. Bộ mặt
Vỹ thật ngô nghê, đần độn.
- Hở Vỹ? Mày không nhận ra thằng bạn chí cốt của mày ư? Đà
Giang, Châu Hà. Nhà văn Châu Hà…
- Nhận ra rồi… Tưởng nhà văn Châu Hà đã đi theo thằng chó ghẻ
Du San?
- Mày điên rồi. Mặc mẹ thằng phản bội Du San. Nó không đáng
được nhắc tên ở đây. Nó khác chúng ta một trời một vực. Nó là bóng tối mà chúng
ta là ánh sáng…
- Mình cũng là ánh sáng à? Nói năng lạ đấy. Mình tưởng ông
cũng chôn mình xuống địa ngục rồi…
- Vỹ, mày nói kiểu gì thế? Không yêu mày thì tao đã chẳng tìm
đến đây. Này, tao hỏi, mày phải nói thật. Mày có bị đánh đập, tra tấn không?
Vỹ nhòm vào mặt Châu Hà rất lâu. Như cân đong đo đếm một cái
gì.
- Đấy là thời Pháp. Bây giờ thời dân chủ, ai lại tra tấn,
hành hạ…
- Vậy vì sao mày ốm thế? Thiếu ăn hay bị bệnh gì?
- Ông không nhớ câu thơ Chế Lan Viên à? Cả dân tộc đói nghèo
trong rơm rạ. Hớ hớ… Xưa như thế, nay vẫn còn như thế. Bộ đội các ông còn không
có ăn thì bọn tù chúng mình làm sao no được.
- Thằng này tù thành tinh rồi. Trả lời bạn mà như nói với
giám thị trại giam - Châu Hà nửa khóc nửa cười.
- Đừng cười giễu thế. Miệng ông giờ đã có gang có thép rồi…
Nhà văn Châu Hà đang nổi như cồn. Tôi đọc ông thấy đã lắm. Tụi học trò trong
nhà trường đang học ra rả từng áng văn của ông. Sướng thật. Ông phùng thời. Còn
tôi thì bất phùng thời. Tôi quên hết văn chương rồi ông ạ. Đang học nghề bốc
thuốc. Để chữa cái bệnh phản động bán nước hại dân…
Châu Hà quay đi, không nỡ nhìn bạn. Mồm Vỹ méo xệch. Hai hốc
mắt rỉ nước. Thoắt cái, Vỹ lấy cùi tay chùi nước mắt, rồi tự nhiên chết lặng, mắt
nhìn vào chốn mung lung.
Châu Hà muốn nói với bạn bao nhiêu chuyện, hỏi han những điều
mà suốt chặng đường lên đây anh nung nấu, bồn chồn. Vậy mà từ lúc đó, Vỹ đổi
tâm tính, như kẻ vô cảm, dửng dưng. Thậm chí Vỹ cứ lơ đãng quay mặt đi không muốn
tiếp chuyện.
Hết giờ tiếp xúc. Giám thị Bản nói với Châu Hà:
- Dạo này phạm nhân Vỹ không được khoẻ. Bác sĩ nói phạm nhân
Vỹ mắc căn bệnh trầm cảm. Đồng chí có thể nghỉ lại nhà khách của trại. Mai phạm
nhân Vỹ khoẻ, chúng tôi lại bố trí để đồng chí gặp gỡ.
Châu Hà lấy khăn chấm nước mắt, nhìn theo cái dáng lòng khòng
chậm chạp của bạn khuất sau cổng trại, lắc đầu buồn bã.
- Tôi phải về Hà Nội ngay chiều nay. Có điều này tôi muốn nhờ
các đồng chí giúp đỡ.
- Đồng chí cứ nói. Với nhà văn Châu Hà, chúng tôi sẽ làm hết
sức mình.
Châu Hà lấy hết trong ba lô những thứ mà anh mang cho Vỹ, đặt
lên bàn. Rất nhiều thuốc bổ tân dược, nhân sâm, nhung hươu, lại thêm một chai
rượu hổ cốt nữa.
- Tôi nói điều này các đồng chí có thể không tin. Nhưng với
tư cách một người lính đã qua nhiều thử thách chiến trường, một người cộng sản
cầm bút, tôi cam đoan rằng Vỹ là người tốt một người yêu nước, thậm chí theo
tôi đó là một tài năng, một tài sản quốc gia… Sức khoẻ cậu ấy đang có vấn đề.
Trước mắt cần được bồi dưỡng để chống sự suy sụp. Tự cậu ấy không thể chăm sóc
mình được. Tôi nhờ các đồng chí trong bệnh xá trại giúp tôi bồi bổ cho cậu ấy bằng
những thứ thuốc này - Châu Hà móc các túi áo quần, lấy hết số tiền mà anh có,
đưa cho Bản - Đây là số tiền lương mà tôi không tiêu đến. Nhờ các đồng chí hằng
ngày mua thêm thức ăn để cho Vỹ phục hồi sức khoẻ.
Giám thị Bản đưa tay ngăn lại.
- Chúng tôi nhận quà và thuốc của đồng chí để chuyển cho phạm
nhân Vỹ. Còn tiền thì không thể. Đây là nguyên tắc của trại… Chúng tôi hứa sẽ cố
gắng thực hiện những điều mà đồng chí gửi gắm…
Chiếc Uoat đưa Châu Hà về Hà Nội trong buổi chiều xám xịt. Suốt
chặng đường hơn ba trăm cây số, nhà văn ngồi như hoá đá.
Gần mười năm ở chiến trường, nhiều khi đối diện với cái chết,
nhiều tháng đói quay quắt, đến rau tàu bay, củ chuối rừng cũng không kiếm đâu
ra, ba lần vào viện dã chiến, cắt nửa mét ruột… vậy mà chưa bao giờ anh gục
ngã, thối chí. Lúc nào anh cũng có thể viết. Dưới địa đạo. Trên cánh võng giữa
rừng. Dưới làn pháo sáng địch. Bên ngọn đèn cầy… Viết như một nhu cầu tự thân,
như một thôi thúc, một niềm hứng khởi vô bờ, như một nhiệm vụ thiêng liêng trước
Nhân dân và Tổ quốc. Thế nhưng, vừa ra khỏi cuộc chiến, vừa hưởng cuộc sống hoà
bình, Châu Hà đã đụng phải một thực tế ngổn ngang phức tạp.
Sự trớ trêu đầu tiên, cái nghịch lý đầu tiên mà Châu Hà gặp
là vụ nghi án văn chương của Vỹ. Bằng trực cảm và chiêm nghiệm của người cầm
bút, anh tin rằng Vỹ là người bị oan ức bị quy chụp bởi một lối hành xử thô thiển
ít văn hoá, thiếu bề dầy nhân văn. Đây cũng chính là căn bệnh vĩnh cửu của quyền
lực. Rất hiếm người nắm quyền lực lại chấp nhận quanh mình có kẻ giỏi phản biện,
thích tranh luận, dù anh ta luôn đứng về lẽ phải, thuộc về nhân dân. Những nhà
văn hoá lớn như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát… là những ví dụ. Phải nhiều chục năm sau, hàng thế kỷ sau, lịch sử mới nhận
ra đóng góp lớn lao của họ trong tiến trình phát triển của văn hoá, văn minh
dân tộc.
Nguyễn Kỳ Vỹ, cũng như Châu Hà, những người cầm bút chân
chính, nếu không đóng vai những người phản biện tài ba, mà chỉ là một người hát
thánh ca trong một dàn đồng ca vĩ đại thì phỏng có giúp ích gì thêm cho bước tiến
xã hội, đóng góp vai trò gì vào động lực của đời sống?
Châu Hà đã thành thật nói tất cả những điều gan ruột ấy với đồng
chí Tư Vuông ngay sau chuyến lên trại giam thăm Vỹ.
- Đồng chí nói rất hay - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên chắp hai tay trước
ngực, mắt lim dim lắng nghe Châu Hà hồi lâu, rồi mỉm cười không ra giễu cợt,
cũng không hẳn hoàn toàn tán đồng. Nếu không phải là Châu Hà, người hùng văn
chương chống Mỹ, tiếng tăm nổi như cồn, tên tuổi lừng lẫy hơn nhiều tư lệnh
quân đoàn, chính uỷ mặt trận, thì đời nào ông chịu cho ngồi đối diện để thao
thao giảng giải về văn hoá, nhân văn như thế này.
- Mấy anh văn sĩ thời thượng dễ mắc bệnh hoang tưởng - Đồng
chí Tư Vuông thầm nghĩ - Tưởng văn chương cũng là một thứ quyền lực, văn chương
ngang bằng chính trị. Nhầm to rồi. Huyễn hoặc mình mà làm gì? Nguyễn Trãi ngày
xưa cũng chỉ là một con tốt trên bàn cờ chính trị. Dẫu có sang sông rồi cũng chỉ
là quân tốt. Lễ phong thần ở đền Đồng Cổ, Lê Lợi xếp cho chức Hành khiển, ở
hàng gần áp chót. Sau áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo, phẩm trật đến thế
là ân oán giang hồ đã xong. Tốt đã qua sông rồi, gần bằng xe pháo mã rồi, còn
mong gì nữa? Muốn bắt sỹ tượng, muốn thịt tướng ư? Còn lâu nhé. Quá hăng máu vịt,
thối tốt như chơi. Vì thế mới có chuyện Nguyễn Trãi về Côn Sơn ở ẩn. Mới có đại
bi kịch Lệ Chi Viên. Kẻ sỹ mọi thời đều chỉ như cái dải áo trên tấm long bào.
Chứ làm gì mà hoắng lên? Cái dải áo mà vướng thì cắt, bị bẩn thì bỏ. Chính trị
là thế. Chuyên chính vô sản lại là thứ chính trị cao nhất, triệt để nhất. Mao
Chủ tịch dạy: "Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót". Bài học của Tào Tháo vận
dụng vào thời nay đấy. Tào Tháo đi xa rồi, vẫn không yên tâm, sợ Lã Bá Sa phản
bội, bèn quay lại giết cả nhà người vừa cưu mang, cứu sống mình.
- Câu chuyện Tào Tháo xưa, người sau cho là gian hùng, bất
nghĩa. Nay có thể ví như sự cảnh giác cách mạng - Đồng chí Tư Vuông nói - Mác
cũng đã dạy: "Vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ
khí", tức là không thể nói suông với kẻ thù. Buông lỏng chuyên chính vô sản
là tự sát. Đồng chí là nhà văn cách mạng, chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn
hoá, càng phải quán triệt sâu sắc luận điểm này…
- Dạ thưa anh. Tôi nói điều này, nếu không phải, xin anh bỏ
qua…
- Đồng chí cứ nói - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên xem đồng hồ - Còn ba
mươi phút nữa: Hôm nay mình mời cơm nhà văn của chiến trường cơ mà. Cứ thoải
mái trao đổi. Mình thực sự muốn dân chủ, nói thẳng nói thật…
- Anh cho phép thì tôi xin thưa. Tôi thừa nhận khả năng bách
chiến bách thắng của chúng ta. Nhưng hình như còn một khả năng mà chúng ta chưa
dám thừa nhận. Đó là khả năng hoài nghi, khả năng biến những con người tài
năng, tâm huyết thành nạn nhân của những cuộc thanh trừng, thành những phế nhân
về tư duy và nhận thức, thành những kẻ ngoài cuộc…
- Ví dụ? - Đồng chí Tư Vuông bỗng ngồi thẳng dậy, đôi mắt
kính loang loáng chĩa thẳng vào Châu Hà.
- Ví dụ khẩu hiệu "Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận
rễ" trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, mà điển hình là cải cách ruộng đất.
Theo thống kê tuyệt mật mà tôi được biết, bẩy mươi phần trăm huyện uỷ viên, tỉnh
uỷ viên toàn miền Bắc đã bị xử bắn, bị thanh trừng trong cải cách ruộng đất. Bẩy
mươi tám phần trăm địa chủ cường hào đại gian đại ác là thành phần bị quy sai,
oan khuất, trong đó rất nhiều người có công với cách mạng, là ân nhân của cách
mạng… Và cụ thể nhất, ví dụ trường hợp của tác giả "Thời của Thánh Thần"
nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ. Vỹ nó có tội gì mà phải bày đặt ra một cuộc bắt bớ hạ cấp
thế? Chúng ta có pháp luật, có toà án. Có tội sao không mở phiên toà? Hãy công
khai với tất cả bàn dân thiên hạ, với thế giới, một tên phản quốc đi. Rút cục,
Vỹ bị tù gần sáu năm trời mờ mịt không biết vì tội gì. Thời đại văn minh bây giờ
đến một chiếc máy bay rơi từ tít tầng trời chục ngàn mét, người ta còn tìm bằng
được hộp đen để truy nguyên nhân, huống như một con người bằng xương bằng thịt
với bằng cứ sờ sờ giấy trắng mực đen. Tôi lo rằng, chính chúng ta mới đang là một
cái hộp đen lớn, âm u và đầy bí hiểm. Một nền dân chủ chân chính không bao giờ
nắm trong bóng tối… Tôi đề nghị anh, với cương vị và uy tín của mình, hãy đưa vụ
án Nguyễn Kỳ Vỹ ra công lý…
Lẽ ra phải vặn cổ cái gã đang ngồi đối diện. Đáng ra phải gọi
một cú điện thoại để công an mang còng số tám lôi đi. Nhưng đồng chí Tư Vuông lại
nuốt nước bọt, ngả người trên ghế tựa, mắt lim dim sau cặp kính. Ông hiểu rằng
bây giờ đã khác hồi Nhân văn Giai phẩm. Không dễ chụp mũ, không dễ áp đặt. Chỉ
cần ông tỏ thái độ, ngay ngày mai cả giới văn nghệ; cả mạng truyền thông toàn cầu
sẽ lu loa lên rằng ông chà đạp văn nghệ, phỉ báng nhà văn. Với lại, mình mời
người ta đến nhà ăn cơm để nói chuyện. Người ta thành thực, tất nhiên, một sự
thành thực quá khích, thậm chí xấc xược, thì cũng phải đành thể tất… Thôi được,
tạm thời không tranh luận. Tôi lắng nghe anh. Tôi dân chủ với anh. Nhưng anh bạn
người hùng của văn học chống Mỹ kia ơi, đừng đi quá giới hạn cho phép. Không có
dân chủ quá trớn đâu nhé!
- Chuyện cải cách ruộng đất cũ rồi - Nhà thơ Ngô Sỹ Liên
khoát tay như xua đi một vật cản vô hình trước mặt - Chính Bác Hồ mình đã khóc
trước đồng bào về những sai lầm không muốn có. Nhắc lại, là để thấy khả năng tự
sửa chữa của chúng ta. Thánh thần cũng còn có khuyết điểm. Người cộng sản như
mình, như ông, cũng có lúc lỗi lầm chứ? Sai thì sẽ sửa. Nhưng không thể hữu
khuynh, lơ là cảnh giác cách mạng. Về trường hợp Nguyễn Kỳ Vỹ thì lại khác. Ông
không hiểu đằng sau văn chương còn có chuyện gì đâu. Chỉ đơn thuần văn chương
thì dại gì mà bắt? Văn nghệ sĩ mà làm chính trị mới là mối nguy. Bên an ninh họ
sẽ cho ông biết chỗ nào có vi trùng… Cuộc chiến càng ác liệt thì hậu phương
càng phải dọn cho sạch. Mình không chuyên văn nghệ, thơ chỉ là tay trái, là cảm
hứng nhất thời, nhưng mình hiểu vũ khí văn nghệ. Những viên đạn bọc đường tưởng
ngọt ngào vô bổ, nhưng đừng chủ quan. Nó có thể phá huỷ cả một tổ chức, một thể
chế, phá huỷ toàn bộ thành quả cách mạng. Ông có mường tượng ra đất nước mình sẽ
ra sao không, nếu hồi ấy bọn Nhân văn Giai phẩm làm chủ được tình hình văn nghệ?
Tập hợp được toàn bộ lực lượng vàn nghệ sĩ? Một cuộc Bắc tiến chắc chắn sẽ xảy
ra. Mỹ Diệm ở miền Nam, văn nghệ sĩ phản động ở miền Bắc… Sẽ có tắm máu…
- Thưa anh, đó là khả năng hoài nghi…
- Ông đừng ngắt lời mình… Nguyễn Kỳ Vỹ bắt đầu trượt dốc từ dạo
ấy. Không ai đau bằng mình đâu. Đích thân mình viết lời giới thiệu cho tập thơ
"Thời của Thánh Thần" chứ ai? Mình đưa Vỹ lên mây xanh, trở thành
chàng thi sĩ của cách mạng. Nhưng rồi Vỹ nó bạc. Nó phụ mình. Theo đóm ăn tàn,
theo voi ăn bã mía. Có những chuyện ngoài văn chương chỉ bên an ninh họ mới biết
được. Chỉ xét riêng bài thơ "Tiếng hát nhân dân", Vỹ đã xoá sạch công
lao của nó rồi. Con chửi bố mẹ thì là nghịch tử chứ còn gì nữa? Phải dạy cho đến
nơi đến chốn. Biết sợ rồi, thì tha.
Châu Hà thấy ớn lạnh. Không còn hứng thú tranh luận nữa. Đến
một khoảng trời cỏn con sáng tạo, một cái tôi nhỏ bé cũng không có chỗ đứng.
- Cánh nhà văn các ông có thể không thích nói tới hai từ
"chuyên chính", nhưng đó là sự sống còn của cách mạng. Đây là nguyên
lý của học thuyết, phương châm của tổ chức. Ngay cả mình cũng chỉ là công cụ của
học thuyết ấy. Muốn làm khác đi cũng không được. Trong chuyện này đừng trách
Chiến Thắng Lợi. Anh em ruột thịt, tay đăm sao nỡ cầm dao chặt tay chiêu? Có lần
tâm sự với mình, Lợi đã khóc. Mình cũng thương lắm chứ. Nhưng, "Thương em
anh để trong lòng. Việc quan anh cứ phép công anh làm…". Anh Lợi cũng chỉ
là một quân tốt…
Châu Hà định nói "quân tốt trong tay anh" nhưng rồi
kìm lại được. Thoạt đầu khi vừa từ chỗ Vỹ về, Châu Hà định đến gặp Chiến Thắng
Lợi ngay, nhưng sau nghĩ lại thấy thật vô bổ, phí công. Vả lại, anh không muốn
đụng Văn Quyền ở đó. Từ sau khi phát hiện ra việc Văn Quyền thuổng tư liệu của
anh để viết bài phóng sự "Đại quân ta tiến vào Sài Gòn" phát trên Đài
và in trên nhiều tờ báo lớn, thì Châu Hà thực sự khinh bỉ, ghê tởm không muốn
dây với con người ấy.
- Chúng ta, cả ông, cả mình cũng đều là những quân tốt. Thế đấy,
Châu Hà ạ. Trên chúng mình là tổ chức. Còn tổ chức là ai thì làm sao mà chỉ ra
được? Nhà văn Châu Hà cũng phải biết thương chúng mình với chứ.
- Anh nói như thế là trốn tránh trách nhiệm - Châu Hà nhìn thẳng
vào mắt đồng chí Tư Vuông. Đã đến lúc anh phải lật ngửa quân bài - Anh nói với
tổ chức một câu bằng cánh nhà văn chúng tôi phải viết cả đời. Tôi tha thiết cầu
xin anh có ý kiến với cấp trên cho Vỹ được tự do. Hãy cứu lấy một tài năng khi
còn chưa muộn. Hãy cứu lấy một con người. Tôi vừa lên thăm Vỹ về. Cậu ấy có thể
chết trong tù…
Như một chiếc hàn thử biểu, đồng chí Tư Vuông đo được độ nóng
trong người Châu Hà. Cậu ấy đang uất nghẹn. Hãy trông chừng ngọn núi lửa có thể
phun trào trong khoảng khắc Và ông nghĩ ngay đến cách hạ nhiệt:
- Nhà văn làm mình bối rối đấy. Mình thật sự quý và trọng
Châu Hà về nhân cách một nhà văn chân chính, về tình bạn văn chương của ông với
nhà thơ Nguyễn Kỳ Vỹ… Thôi được. Mình sẽ phản ánh ý kiến của ông với cấp trên.
Khi nước đã vô trùng thì tất cả chúng ta đều có thể uống. Thế, hỉ…
Chương 20
những ngày động biển
Châu Hà thu xếp cho Nguyễn Kỳ Vọng một chuyến lên thăm Vỹ. Xe
Vonga đen hẳn hoi. Tổng Biên tập báo Tia Sáng sẽ đích thân lấy xe hộ tống Châu
Hà và Vọng lên K27…
Nhưng rồi một sự cố xảy ra: Điện khẩn của Văn phòng đại diện
phía nam Bộ giao thông yêu cầu kỹ sư Nguyễn Kỳ Vọng phải về ngay Sài Gòn. Bức
điện mập mờ và có vẻ rất nghiêm trọng khiến Vọng vô cùng lo lắng và bối rối.
Có chuyện gì xảy ra? Việc nhà thì Miên phải báo cho anh chứ
sao lại nhờ cơ quan? Vì mối quan hệ ruột thịt giữa Vọng và Vỹ ư? Bên an ninh đã
phát hiện ra chuyện gì về Vỹ và tìm cách ngăn không cho Vọng lên gặp anh trai
ư? Hay có việc hệ trọng liên quan đến một sự cố kỹ thuật cầu đường? Rất nhiều
câu hỏi tình huống được đặt ra, nhưng không có lời đáp.
Vọng về quê từ biệt mẹ và chia tay với vợ chồng Cục.
- Chưa biết khi nào tôi mới trở lại quê được - Vọng nói với Cục
những lời có vẻ như trăn trối - Chú là em Út, nhưng công lao với thầy u và em Hậu
thì cả ba anh em tôi không thể sánh bằng. Nếu không có chú, hương khói thờ tự
đã nguội lạnh từ lâu mà u và em Hậu cũng chẳng biết sống chết thế nào… Tôi là kẻ
đại bất hiếu. Tôi chưa báo đáp u được một ngày. Chỉ còn biết trông cậy ở chú
thím và các cháu…
Vọng lấy hết những gì anh mang theo đưa cho Cục. Mấy lá vàng
con rồng Miên khâu trong chiếc túi vải nhỏ xíu giắt trong người. Hai chiếc nhẫn
mặt kim cương. Chiếc đồng hồ Rado khảm hạt xoàn. Tất cả số tiền còn lại. Chú
thím cầm tạm nhưng thứ này để phụng dưỡng u. Tôi vào sẽ bàn với nhà tôi thu xếp
để hàng tháng gửi thêm cho chú thím. U chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu. Tôi
muốn được rước u vào trong ấy để báo đáp những năm cuối đời. Nhưng bây giờ vẫn
phải trăm sự nhờ chú thím và các cháu… Vọng mang hương ra bãi tha ma cuối làng,
thắp trên mộ ông Cử Phúc, ngồi cho đến lúc chiều tối.
Sáng hôm sau, tinh mơ, anh từ biệt mẹ, ôm lấy bà Cử Phúc như
thể không có ngày gặp lại, rồi lủi thủi rời làng Động.
°°°
Căn nhà của Vọng nằm trong một phố cụt gần bờ kênh Nhiêu Lộc.
Trước năm 1968, đây là khu sình lầy, rác rưởi ngập ngụa. Bằng con mắt của nhà
kinh doanh địa ốc, lại có thế của một dân biểu, ông nhạc Lê Huy Mật đã xây cất
mấy lô biệt thự dành cho thuê, trong đó một căn là của vợ chồng Vọng. Căn biệt
thự hai tầng lầu, sáu phòng, trong một khuôn viên rộng ba trăm bẩy mươi mét
vuông, có vườn hoa cây kiểng. Với một gia đình trí thức trung lưu, một cơ ngơi
như thế là quá lý tưởng. Nơi đây, đã bẩy năm rồi, trở thành tổ ấm của Vọng.
Ngay cả trong những ngày bão táp tháng Tư năm 1975, cách mạng ào về, thành phố
ngập chìm trong khói súng, thành phố náo loạn vì tin đồn về một cuộc tắm máu…,
thì cái tổ ấm của vợ chồng Vọng vẫn không hề vương một mảnh đạn pháo. Khói súng
tan đi, thành phố lại trở về cuộc sống yên bình. Con Vân, con Vy lại đến trường
tiểu học. Miên lại về làm công việc của một y sĩ tại bệnh viện Bình dân. Còn Vọng,
tuy không còn ở vị thế một quan chức, nhưng không phải đi cải tạo, không thuộc
diện nguy quyền tay sai, vẫn có một công việc trong guồng máy mới, thậm chí còn
được tin dùng, trọng dụng.
Thực lòng, đôi khi Vọng vẫn nhớ tiếc những ngày xưa. Nhớ tiếc
với một nỗi đau đớn, mất mát lớn. Bao nhiêu năm đèn sách. Hai chục năm phấn đấu
nỗ lực. Một hàm kỹ sư đặc hạng. Một chức trưởng ty Công chánh, cộng với mười
lăm huy chương danh dự. Một chức Phụ tá Giám đốc Nha kế hoạch kiêm Trưởng ban
phần vụ kế hoạch Tổng cục Kiều lộ… Đâu phải dễ ai cũng có được trong đời?
Nhưng, thế gian biến cải, thương hải tang điền. Vẫn còn lại một công việc, một
gia đình, còn mẹ già, anh em; quê hương yêu dấu với đầy ắp những kỷ niệm thân
thương. Và cao hơn, lớn hơn là một đất nước thống nhất, toàn vẹn. Vậy thì cá
nhân dù mất mát đi phần nào, cũng vẫn là hạnh phúc.
Vọng bằng lòng với hạnh phúc đang có. Chuyến hành hương đất Bắc
sau hơn hai chục năm xa quê biền biệt là niềm sung sướng vô bờ. Nếu không có cú
sốc về Vỹ thì quả là trọn vẹn.
Vọng sẽ đưa Miên và các con về thăm quê. Chuyến hành hương của
cả gia đình có thể sẽ được thu xếp ngay trong dịp Tết năm tới. Sẽ kết hợp đưa
Miên và các con về thăm xứ đạo Ninh Bình, quê cha của nàng. Chính nàng đã bao lần
ao ước được về thăm quê nội, quê chồng. Đất Bắc là cội nguồn của những cuộc
hành tiến phương Nam. Về quê, nàng sẽ thấm thía câu thơ: "Từ thuở mang
gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long".
Với một tâm trạng xốn xang, bồi hồi như thế, máy bay vừa đáp
xuống phi trường Tân Sơn Nhất, Vọng đã gọi taxi về thẳng ngôi nhà thân thuộc của
mình.
Ơ kìa, sao ổ khoá đã bị thay? Sao lại có băng giấy niêm phong
giữa hai cánh cửa? Và kìa, khoảng vườn thần tiên với cây mai thế trăm tuổi và
những chậu kiểng quí hiếm đã biến đâu rồi? Chân Vọng như khuỵu xuống, đứng
không vững. Mồ hôi toá đầy người. Miên và các con đi đâu? Chị Út Chín, người
giúp việc bỏ nhà đi đâu? Có việc gì đã xảy ra với Vân, Vy, với nàng?
Như đã túc trực sẵn để đón Vọng, một người đàn ông trong bộ đồ
màu rêu bạc, chiếc nón nỉ màu lông chuột chụp ngang mặt, từ đâu bỗng xuất hiện.
Đó là ông tổ trưởng dân phố.
- Hoá ra anh còn ở lại? - ông tổ trưởng nhìn Vọng với ánh mắt
hằn học và nói bằng giọng Quảng Trị trầm đục rất khó nghe - Nhà anh đã bị niêm
phong.
- Vì sao, thưa ông? - Khó khăn lắm Vọng mới mếu máo bật ra được
mấy tiếng.
- Kẻ trộm giả làm thợ sửa ống nước đột nhập vào nhà, bắt trói
người giúp việc, cướp hết tài sản. Anh đóng kịch giỏi lắm. Nhưng làm sao che nổi
mắt chính quyền cách mạng và lưới trời nhân dân thiên la địa võng. Vụ trộm là
do vợ chồng anh bày đặt. Tôi biết ngay mà. Bản chất phản động của các anh đâu dễ
thay đổi.
- Tôi thực sự không hiểu… - Đang nói, Vọng bỗng sững lại, lạnh
toát sống lưng khi nhìn thấy khẩu súng ngắn lòi ra cạnh sườn ông tổ trưởng.
- Rồi anh sẽ hiểu. Ngay bây giờ anh theo tôi lên công an để
trình diện và ký nhận biên bản. Cũng may mà tổ dân phố đã phát hiện kịp thời vụ
trộm và giải cứu cho cô Út Chín về quê rồi. Tôi chờ anh đã năm ngày rồi đó. Có
tin nhóm vượt biên của mụ Miên và hai con gái anh đã bị bắt lại ở Vũng Tàu. Nếu
đúng vậy thì nhà anh vẫn còn đại hồng phúc. Mùa này không tàu nào vượt biên
thoát khỏi bọn hải tặc và mồi cho cá biển đâu.
Suốt từ đó Vọng như người mất hồn. Nỗi sợ hãi qua đi nhanh và
thay vào đó là nỗi lo đến hoảng loạn. Khắp các gian phòng, ngổn ngang như một
bãi chiến trường. Đồ đạc, giá sách, chăn màn quần áo bị xới tung. Những con búp
bê của Vân, Vy bị rạch bụng, moi mắt, vứt lăn lóc. Những chiếc gối nhồi bông bị
xé nát, bông gòn bay khắp nhà… Miên và hai con đã trốn đi thật rồi. Kẻ trộm đã
vào hôi của hay mẹ con nàng đã tự phá huỷ? Sao nàng nỡ lừa Vọng về Bắc để mang
các con đi? Vì sao lại gấp gáp và bí mật thế? Ít ra nàng cũng phải đợi Vọng về
để vợ chồng bàn bạc? Hay là đã có kẻ nào chen vào? Ai? Lâu nay nàng vẫn giấu
kín một gã nào đó? Tên vô lại nào đã bảo kê đưa nàng đi?
Vọng muốn phát điên lên. Sự ghen tuông vốn không phải là bản
tính của anh. Từ hồi lấy nhau, chỉ duy nhất một lần Vọng nổi nóng khi cái gã
thiếu tá Võ Nhựt Biền, sĩ quan tổng hành dinh, hay đến nhà ông nhạc, giở trò
chim chuột nàng. Cũng vì lần ấy bị ép uống say, nàng nổi hứng đi cùng xe với hắn
từ khách sạn về nhà. Đã thế, từ lúc thay đồ đi ngủ, nàng không ngớt lời nhắc đến
hắn, ca ngợi hắn. Điên tiết, Vọng tặng cho một cái bạt tai, rồi ôm chăn gối ra
ngủ ngoài đi-văng.
Gã thiếu tá Võ Nhựt Biền sau đó được thăng vượt cấp, lên đại
tá. Và hắn đã chuồn theo quan thầy Mỹ trước ngày quân giải phóng vào Sài Gòn.
Hay là chính Võ Nhựt Biền đã móc nối đưa Miên đi? Và Miên đã
ngấm ngầm chờ cơ hội lừa cho Vọng về Bắc để bán xới theo tình nhân?
Cái ý nghĩ mơ hồ, nỗi lo xa như một ám ảnh, như linh cảm trước
một cái gì đó rất khó nhận biết bắt đầu nảy sinh từ hôm Vọng nhận được quyết định
của cơ quan ra Hà Nội họp, không ngờ nay đã thành sự thật.
Vọng nhớ lại cái đêm hai vợ chồng nằm bên nhau trước ngày anh
lên tàu ra Bắc. Nàng lột trần anh ra, cào cấu, hôn hít, bắt thoả mãn nàng như sẽ
không bao giờ còn được sống bên anh nữa.
- Em biết không thể ngăn được anh trở về thăm mẹ, thăm quê
cha đất tổ. Anh khao khát bao nhiêu nărn rồi… Anh có thể không có em và các
con, nhưng anh không thể bỏ mẹ và quê Bắc…
- Sao em lại nói thế? Anh muốn có tất cả. Cả em, cả Vân, Vy cả
mẹ, cả anh em gia đình và quê hương đất Bắc. Giờ là lúc chúng ta đã có tất cả.
Anh ra thăm mẹ rồi anh lại về…
- Nhưng em thì lại thiếu ba mẹ. Không biết giờ này ba mẹ ở
đâu?
Nàng áp mặt vào ngực Vọng và khóc nức nở. Đúng là nàng đã trải
qua những cơn dày vò, vật vã vì cuộc ra đi của ông bà dân biểu Lê Huy Mật và
gia đình anh trai Lê Huy Mão. Trước ngày tướng Dương Văn Minh đọc bản tuyên bố
đầu hàng trên Đài phát thanh, trung tá Lê Huy Mão còn là Chỉ huy trưởng cảnh vệ
Hành dinh Tổng thống. Ngay trong giờ phút chính quyền Sài Gòn hấp hối, Mão đã kịp
thời đưa bố mẹ và gia đình lên máy bay trực thăng chuồn khỏi đô thành.
- Nhất định anh Mão đã đưa ba mẹ sang Mỹ an toàn. Người Mỹ chẳng
bao giờ bỏ rơi những chiến hữu của họ…
- Giá như khi đó mình theo kịp anh Mão và ba mẹ…
- Ở lại cũng là một cách lựa chọn… Thì chúng mình cũng đang sống
yên ổn đây thôi. Thậm chí cả anh và em đều được chính quyền mới dung nạp…
- Sống thế này mà cũng là được dung nạp ư? Em thấy ngột ngạt
quá. Cả khu biệt thự này giờ đã thuộc về những người phía bên kia. Chúng mình
như những tử tù bị giam lỏng. Bọn trẻ luôn sống trong nỗi khiếp sợ, luôn bị những
ánh mắt hằn học vây bủa. Rồi sẽ bị đưa lên đoạn đầu đài lúc nào không hay…
- Đừng nghĩ thế em. Chúng mình phải thay đổi lại cách nhìn, lối
sống. Em không được bi quan dao động. Em phải khuyên các con tập sống hoà đồng.
Cuộc cách mạng nào cũng phải qua những khoảng giao thời.
- Muốn hoà đồng nhưng đâu có được. Gặp ai trong ngõ phố này
em và các con cũng cúi gập người chào. Nhưng không ai thèm đáp lại. Họ nhổ nước
bọt, quay đi. Em nhục lắm…
- Phải học cách sống với chữ Nhẫn em ạ. Những ngày vừa qua,
đã nhiều lúc anh muốn bỏ việc. Đến nhiệm sở, gặp toàn những bộ mặt xa lạ, nghe
toàn những điều sáo rỗng, giả tạo. Người ta nhìn anh với con mắt nghi kỵ, cảnh
giác, ác cảm. Không ai nghĩ đến chuyên môn, nghiệp vụ, mà chỉ lo tìm được một
căn nhà, kiếm được tí quyền chức, thêm được ô tem phiếu. Có ông còn giả bộ đi
chân đất đến cơ quan để được phân phối một đôi dép nhựa. Có cô sẵn sàng nằm cạnh
nhà cầu để đòi phân cái ga ra ô tô cơ quan làm nhà ở… Nhưng đấy có thể chỉ là
những cá biệt. Rồi cuộc sống sẽ trở lại nhịp điệu bình thường…
Miên nằm như ngủ. Dường như nàng không nghe những điều Vọng
nói. Dường như nàng đang chìm đắm vào một cơn mộng mị. Rồi bất ngờ nàng nhỏm dậy,
xoay người anh lại phía mình.
- Nhỡ khi anh về, không gặp mẹ con em thì sao?
Câu hỏi ấy, cho đến bây giờ Vọng mới nghĩ ra, chứ lúc ấy anh
chỉ ôm xiết lấy nàng và bảo:
- Thì anh sẽ đi tìm. Anh sẽ đi tận cùng trời cuối đất…
°°°
Bây giờ thì Vọng biết tìm mẹ con nàng ở đâu?
Vọng tìm mua tất cả các tờ báo ra trong ngày, đọc không sót một
mẩu tin nào. Những cuộc vượt biên đăng nhan nhản trên các trang báo:
Một vụ vượt biên không thành vừa diễn ra ở Mũi
Nai, Hà Tiên. Chủ tàu và bẩy mươi sáu người, cả người lớn
tre em, bị bắt lại. Ở biển Long Hải, Bà Rịa, một đường dây có tổ chức đã lừa một
trăm mười hai người vượt biên trái phép. Mỗi người phải nộp trước
ba cây vàng. Bọn chúng lừa đưa nhũng người cả tin nhẹ dạ ra phao
số không rồi thả trôi tàu, chuồn về đất liền. Tại Đồ
Sơn, Hải Phòng, tàu Hải quân vừa bắt một tàu chờ năm
mươi chín người, trong đó có mười ba người từ Sài Gòn
ra đang định vượt biên sang Hồng kông…
Có một tin không đăng báo, nhưng đang loan đồn ầm ĩ khắp các
quán cà phê vỉa hè: Một tàu vượt biên bị hải tặc tấn công. Chúng cướp toàn bộ của
cải vàng bạc, hãm hiếp phụ nữ, rồi đánh chìm tàu. Hiện mười bốn xác người trôi
dạt vào Bãi Sau và Bãi Trước thành phố Vũng Tàu. Công an đang thông báo để các
thân nhân ra nhận xác…
Thông tin khủng khiếp này đã phản bác lại cái tin ông to trưởng
dân phố thông báo lúc Vọng vừa từ Hà Nội về. Đúng, nếu mẹ con Miên bị bắt lại
thì là đại phúc cho Vọng. Nhưng đã qua mấy tuần rồi, vẫn bặt vô âm tín. Rất có
thể trong số những xác người dạt vào bờ biển Vũng Tàu kia có mẹ con Miên…
Vọng đến Công an quận, Uỷ ban phường, đến báo cáo thủ trưởng
cơ quan xin được ra Vũng Tàu để tìm vợ con. Nhưng ở đâu cũng một câu trả lời:
Hiện thời công dân Nguyễn Kỳ Vọng không được đi khỏi thành phố.
Không một văn bản, một tuyên bố nào tống đạt đến tay Vọng,
nhưng từ hôm ở Hà Nội về, Vọng như một kẻ bị quản thúc. Người ta mở cửa cho Vọng
vào nhà, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của anh, nhưng lại phải kê biên tất cả những
tài sản, giấy tờ, vật dụng… Tại cơ quan Phân cục Cầu đường nơi Vọng đang làm việc,
cũng diễn ra những buổi tường trình, kiểm điểm tương tự. Cái uy tín chuyên môn,
sự nể trọng về năng lực nghề nghiệp mà Vọng mới giành được, giờ tan như bọt xà
phòng. Không ai dám gần Vọng, bắt chuyện với Vọng.
Ông trưởng phòng kỹ thuật bảo Vọng nộp lại toàn bộ hồ sơ tài
liệu để giao cho người khác. Huỳnh Út ái ngại nói với Vọng:
- Công lao tôi giúp anh hoàn lương thành công cốc. Anh xem có
cơ quan nào họ nhận thì chuyển đi là hơn.
Riêng Khuất Sỹ Hào, người phụ trách thi đua, có lê là người
còn ưu ái ngầm với Vọng. Hào kéo Vọng ra một chỗ khuất nháy mắt thân thiện, rồi
bảo:
- Dù thế nào, em vẫn rất tin năng lực chuyên môn của ông anh.
Đào tạo được một chuyên gia cầu đường như anh còn mệt. Chuyện vợ con, rồi sẽ
nguôi ngoai đi. Vẫn phải tìm cách mà sống ông anh ạ. Với lại anh có cái ô trên
Trung ương là ông anh ruột Chiến Thắng Lợi, thì ngại gì. Thế lực của đồng chí
Chiến Thắng Lợi ngày càng lớn… Nghe nói sắp tới thủ trưởng Lợi sẽ vào chỉ đạo cải
tạo tư bản tại phía Nam… Em đã nói với thủ trưởng cơ quan chuyển anh xuống bộ
phận thư viện. Tha hồ mà đọc sách, nghiên cứu. Rồi có lúc tài năng của ông anh
lại được dùng đến… - Móc túi, mời Vọng một điếu ba số Hào lại bảo - Cùng là dân
Bắc Kỳ, hồi mới gặp, em đã khoái ông anh luôn. Thằng em vẫn tín nhiệm ông anh
viết báo cáo tổng kết, báo cáo thi đua. Có việc là em vẫn nhờ vả ông anh đấy
nhé…
Vọng chán chường, không muốn sống. Những đêm dài dằng dặc
trong căn nhà trống hoang trở thành những đêm của ke phát vãng. Vọng lục tìm
trong mọi xó xỉnh, gầm giường, giũ tung từng chăn đệm, soi từng cuốn sách, khe
nhà, để tìm xem Miên và các con có viết gì để lại. Không một mẩu giấy, một tín
hiệu nào. Kiệt sức, Vọng nằm vật. Hình ảnh gã thiếu tá Võ Nhựt Biền say lả lướt,
ôm eo Miên cứ chập chờn trong ý nghĩ. Có lúc vọng lại thấy hai người không một
mảnh vải trên người đang quằn quại vật nhau trong một khách sạn choáng lộn như
cung điện tận bên bờ biển Los Angeles, Hoa Kỳ…
Đề phòng mình có thể phát điên, Vọng lấy khăn mặt dấp nước đá
ấp lên mặt. Cũng không thoát khỏi hoảng loạn. Sau rồi, Vọng tìm giải pháp khác.
Lần lượt mỗi đêm, Vọng lấy một mảnh quần áo của Miên, của Vân, Vy còn sót lại, ấp
lên mặt mình để tìm lại hơi hướng thân thuộc của vợ con, để triền miên trong nỗi
nhớ thương, xa xót. Những mảnh xiêm y ấy thường đẫm nước mắt Vọng, lùa anh
trong chập chờn, mộng mị.
Thời gian rồi cũng giúp vết thương lên da non. Buồn đau không
thể làm Vọng chết được, thì Vọng phải sống. Cái chữ nhẫn mà suốt bao năm Vọng
thờ phụng thì nay lại được kèm theo một chữ nhục. Nhẫn nhục sống ở khối phố, với
láng giềng, và đặc biệt là ở cơ quan. Vọng ngoan ngoãn như con chiên bị rút
phép thông công, muốn thành tâm sửa mình để sớm được về với nước Chúa. Vọng làm
tất cả mọi điều mà một công chức mẫu mực nhất có thể làm để được tổ chức, cơ
quan tin tưởng, trọng dụng…
Để hằng tháng gửi tiền về cho mẹ như đã hứa với Cục, đồng
lương eo hẹp không đủ, mỗi tháng Vọng lại bán đi một vài đồ vật trong nhà. Chiếc
ti vi màu hiệu Panasonic, loại hiếm nhất mà cả Sài Gòn hồi ấy mới nhập mấy lô
chào hàng. Mấy chiếc quạt cây, quạt trần. Vài chiếc lọ cổ, mấy bộ đĩa sứ quí hiếm
có niên đại Càn Long, Khang Hy. Chiếc xe Volvaghen bụi phủ dày trong ga ra rồi
cũng phải tìm mối bán…
Trong những ngày hoạn nạn này, Khuất Sỹ Hào quả là người bạn
tốt. Hào là người duy nhất trong cơ quan dám ngang nhiên thân thiết với Vọng.
Hào thường đến nhà anh chơi, mang những tài liệu kỹ thuật tiếng Anh để Vọng dịch,
kiếm chút thù lao. Có những chủ nhật, Hào lân la ở chơi cả buổi. Anh săm soi khắp
các ngõ ngách trong nhà, dùng bước chân đo đếm suốt chiều ngang chiều rộng khu
vườn, như thầm toan tính công việc sửa chữa, phân chia lại khu biệt thự.
- Khu đất này của ông anh rất có thể bị thu hồi, nếu ông anh
chỉ sống có một mình - Hào khoát tay chỉ khu vườn, lắc đầu ái ngại - Không kể
hàng bộ thứ trưởng, chánh phó chủ tịch cấp quận, cấp thành phố, nhiều cán bộ
tép riu cấp phòng, ban cũng đang hau háu nhìn ngôi biệt thự này như hổ rình mồi…
Ông anh phải nghĩ đến phương án đề phòng bị cướp nhà. Thiếu gì thứ lí do. Trưng
dụng để làm trụ sở. Đổi cho một căn hộ khác phù hợp với người độc thân. Đưa một
đồng chí nào đó đến ở tạm. Bài học cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở
miền Bắc mấy chục năm trước còn nhỡn tiền đó…
Vọng tái xám mặt. Anh nghĩ đến câu chuyện cộng vợ cộng chồng,
cào bằng giàu nghèo đã từng nghe trước đây. Khuất Sỹ Hào trấn an:
- Cho đến giờ vẫn không có tin tức gì của chị Miên và các
cháu, tức là… Ông anh phải nghĩ đến những rủi ro cao nhất… Tất nhiên vẫn phải
hy vọng ở sự kỳ diệu của Chúa trời - Hào chỉ bức tượng Chúa Jesu trên cây thánh
giá trước ban thờ - Nhưng phải cứu lấy mình trước khi Chúa cứu. Ông anh phải
nghĩ đến một phương án phòng ngừa, bảo mạng. Trước mắt là phải đón bà cụ vào để
có mẹ có con. Anh có điều kiện chăm nom bà cụ, và bà cụ cũng giúp ông anh cơm
nước, giữ gìn sức khoẻ, trông nom cửa nhà…
- Tôi cũng đã có ý định thế… Đây là lúc tôi có thể báo đáp
công lao mẹ…
- Có tin này liên quan đến anh - Hào khum tay trên miệng như
sợ ai nghe thấy - Dư luận cơ quan cho rằng ông anh không yên tâm công tác. Rằng
rất có thể rồi anh cũng theo vợ con vượt biên…
- Chết thật - Vọng sững người.
- Thằng em coi ông anh như anh ruột, nói riêng với anh thôi,
chớ hở ra cho ai biết. Công an đã đến đặt vấn đề với lãnh đạo phải canh chừng
ông anh đó. Một là đề phòng anh làm gián điệp. Hai là đề phòng anh trốn ra nước
ngoài. Vì thế họ quyết không cho ông anh đụng đến các tài liệu kỹ thuật và hạn
chế việc anh đi cơ sở, ra tỉnh ngoài…
Vọng nén tiếng thở dài, mặt tái dại.
- Tôi cũng linh cảm thấy mình luôn bị theo dõi.
- Cho nên ông anh phải đưa bà cụ vào để đánh tan mối nghi ngờ
của tổ chức, chứng tỏ rằng anh thực sự muốn ở lại đất nước. Bà cụ chính là một
cái xiềng giữ anh ở lại. Rồi ngoài phương án đưa bà cụ vào, anh cũng phải nghĩ
tới việc nhập khẩu cho một vài người bà con thân thiết vào để giữ lấy ngôi nhà.
Thằng em nói thế, là đã giãi bày hết gan ruột rồi.
- Vâng. Tôi hiểu. Đúng là như vậy. Tôi không thể bỏ u tôi được
Tôi sẽ viết thư ra ngoài quê để thu xếp đưa u tôi vào.
- Còn một việc nữa - Hào nói tiếp - Dù đón được hay chưa đón
được bà cụ thì ông anh cũng phải có một người đàn bà để an ủi sẻ chia với mình…
Đàn ông chúng mình không ép xác được đâu.
Vọng bỗng ngước nhìn lên cây thánh giá, xua tay hốt hoảng:
- Chuyện này thì… xin đừng nhắc đến. Tôi không dám nghĩ tới…
- Đừng thần thánh hoá điều gì trên cõi đời này, ông anh ạ.
Chung tình, chung thuỷ cũng có dăm bầy đường. Đời mà thiếu vắng đàn bà thì còn
có nghĩa lý gì…
Tưởng Hào chỉ đùa vui thế thôi, nào ngờ, mấy ngày sau, anh
đưa đến nhà Vọng một người đàn bà, không còn trẻ, tuổi chừng ba mươi, nhưng đẹp
như một diễn viên chèo. Đó là Thu Xoan, cán bộ ngành thuế, mới từ Hà Nội vào để
chuẩn bị cho công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Thu Xoan là người làng em. Có chồng là liệt sỹ, hy sinh ở
chiến trường Quảng Trị - Hào ghé tai Vọng thầm thì - Gái một con, trông mòn con
mắt. Nếu ông anh ưng thì em chỉ nói một tiếng là xong…
Vọng lại hốt hoảng xua tay:
- Đừng làm thế. Tôi sẽ có tội với Miên và các con.
- Thì cứ để em Thu Xoan thỉnh thoảng được lui tới chăm sóc
ông anh. Nên chăng thì thiếp với chàng. Chẳng nên ta lại họ hàng với nhau… Ông
anh có mất gì đâu. Với lại, em muốn Xoan giúp anh che mắt thiên hạ. Rằng anh đã
tìm được niềm vui mới. Anh đã yên tâm ở lại, đã toàn tâm toàn ý với cơ quan…
Vọng thầm cám ơn cao kiến của Khuất Sỹ Hào. Nhưng với Thu
Xoan, anh luôn luôn giữ một khoảng cách.
°°°
Từ hồi lấy Miên, Vọng trở thành một con chiên ngoan đạo. Gia
đình Miên theo đạo đã nhiều đời. Vùng quê Ninh Bình của nàng là một xứ đạo toàn
tòng. Trước khi cưới, anh đã đến nhà thờ chịu lễ rửa tội và làm lễ đặt tên
Thánh: Juse Nguyễn Kỳ Vọng.
Vào một chiều chủ nhật, khi Vọng đang hành lễ ở nhà thờ xứ đạo,
thì có một người đàn bà chít khăn che mặt lặng lẽ đến bên.
- Chào anh Vọng. Chắc anh không nhận ra em. Em là em họ anh Tạ
Đôn và chị Tạ Thu Uyên. Anh Đôn đang ở cùng chỗ với chị Miên…
Tiếng nói giọng pha Bắc, rất khẽ nhưng Vọng tưởng như tiếng
loa phóng thanh bên tai. Giật bắn người, Vọng quay nhìn tứ phía.
- Anh bình tĩnh. Chỗ này không tiện nói chuyện. Em phải đi
ngay. Có thư chị Miên gửi cho anh.
Người đàn bà dúi vào tay Vọng một bì thư, rồi thoắt cái đã lủi
đi đâu mất.
Vọng bỏ dở cuộc hành lễ về nhà. Sau khi đóng kỹ các cửa
phòng, anh lấy bì thư ra. Đúng là nét chữ của Miên. Nhưng không có ngày tháng,
không biết gửi từ đâu, bao giờ. Phong bì cũ nhàu, các góc đã sờn.
"Anh thương yêu,
Đưa thư cho anh là một người bạn rất tốt của em. Anh, có thế
nhờ cậy khi cần…
Anh nhận được thư này thì mẹ con em, hoặc đã làm mồi cho cá
biển, hoặc may mắn đã đặt chân đến xứ người. Cầu Chúa. Đức Chúa lòng lành vô
cùng. Chúng con xin gửi trọn đức tin noi nước Chúa.
Mong anh đừng trách và hận em cùng cây con. Em phải giấu anh,
quyết dứt áo ra đi thế này mói mong kéo anh đi theo được Mẹ con em hy vọng một
ngày gần đây nhất sẽ được đón anh nơi xứ người. Khi nào thuận tiện, em sẽ báo
tin.
"Em và các con rất thương anh phải ở
lại giữa những người xa lạ. Vì thế, trước khi đi, em đã trù tính
cho anh mọi điều. Anh có thể bán chiếc Volvnghen,
nhưng nhớ phải xem lại thùng dầu mỡ… tra dầu mỡ thường xuyến cho
xe khôi han rỉ. Và ngay cá ngôi biệt thự nhà mình. Nếu cần sửa chữa, chuyển
đổi cũng chỉ cần nói với bạn em một tiếng…
Cầu chúc cho anh bằng an…"
Đọc xong thư, Vọng đã hiểu ngay những ẩn ý bên trong. Anh xuống
ngay nhà xe. Chiếc Volvaghen lâu nay vẫn phủ bạt im lìm. Cuối ga ra có một
ngách nhỏ đựng đồ nghề sửa xe, dăm thứ phụ tùng và thùng dầu mỡ. Cái nhà kho nhớp
nháp, hôi hám đầy muỗi gián này, hằng năm nay không ai sờ đến. Nếu không có những
dòng thư của Miên, không chừng nó sẽ vĩnh viễn bị bô quên.
Hồi hộp như kẻ tìm vàng, Vọng thận trọng bê thùng mỡ xe ra.
Chiếc thùng sắt tây dung tích năm lít rúm ró và bụi bặm vẫn chứa đầy thứ mỡ
sánh đặc mầu nâu. Vọng khẽ chọc năm đầu ngón tay xuống. Và khắp người anh bỗng
râm ran một niềm kinh hoàng, như chính anh đang sống trong một thế giới cổ
tích. Ngập trong mỡ, chen chúc trong cái hộp sắt tây bẩn thỉu là vàng thỏi, nhẫn,
hạt xoàn, dây chuyền, lập là vòng cổ, vòng tay và đủ mọi thứ đồ trang sức đắt
tiền…
Vọng không tính đếm được từng thứ, nhưng mường tượng được giá
trị của chúng. Một tài sản khổng lồ mà anh và Miên đã chiu chắt bao năm có thể
đủ đóng cả một con tàu vượt đại dương… Tất nhiên để lo liệu cho chuyến vượt
biên và trù tính cuộc sống ở xứ người, mẹ con Miên đã tiêu tốn và mang đi một
phần lớn rồi… Chính Vọng cũng không ngờ Miên, nhờ người cha làm nghề thầu khoán
và kinh doanh địa ốc, đã nối nghiệp, làm đồng tiền sinh sôi nảy nở, tích cóp được
nhiều của cải đến thế. Hoá ra từ hồi lấy anh, Miên đã lặng lẽ làm một người quản
gia, người thủ kho vĩ đại. Hằng tháng Vọng chỉ biết làm việc và đều đặn đưa tiền
lương, tiền thưởng và bổng lộc về cho Miên. Nhưng Miên mới là người giữ của và
làm cho chúng sinh sôi. Bao nhiêu phi vụ làm ăn từ uy tín và vị thế, từ các mối
quan hệ nghề nghiệp và xã hội của Vọng, từ địa vị, kinh nghiệm và mánh lới của
người cha… Tất cả đều do Miên điều hành, do Miên làm nảy nở sinh sôi…
Cứ xem cái cách giấu của của Miên thì đủ biết nàng tinh khôn
và mưu lược đến mức nào. Cho các ông bà cách mạng cứ khám xét rương tủ, két sắt,
bàn thờ. Cứ việc lục tung va ly, quần áo, đồ dùng sang trọng. Các vị không thể
ngờ trong cái hộp mỡ xe vứt lay lắt ngay dưới chân các vị là cả một gia tài mà
cả đời hoạt động cách mạng của các vị, có nằm mơ cũng không có được.
Suốt đêm ấy Vọng hì hụi phân loại kho báu, số thì tiếp tục để
trong thùng mỡ xe, số để trong dầu luôn, số gói trong các túi nilông mang chôn ở
các gốc cây ngoài vườn hay nhét dưới khe, hốc. Phải phân tán đề phòng bất trắc.
Mất chỗ này, còn chỗ khác. Sẽ có rất nhiều việc cần đến tiền, vàng. Để sống yên
ổn với những người cộng sản lại cần phải có rất nhiều tiền, vàng.
Đã đến lúc Vọng báo hiếu được mẹ rồi. Anh viết thư cho vợ chồng
anh Lợi, cho chị Khiêm, cho vợ chồng Cục kể rõ sự tình mẹ con Miên vượt biên và
thiết tha đề nghị mọi người hãy đưa u và em Hậu vào sống với anh. Kèm theo thư
là số tiền đủ mua năm vé máy bay cho hai mẹ con và cả những người tháp tùng.
Chương 21
tìm cha
Đúng vào lúc cấp trên dự định đề bạt đồng chí Chiến Thắng Lợi
giữ chức Bộ trưởng Kinh tế, kiêm Phó trưởng ban Cải tạo tư sản phía Nam, thì có
nhiều đơn khiếu nại gửi lên Tổ chức Trung ương.
Rất nhiều lá đơn nặc danh gần từ nhiều địa chỉ, bưu cục khác
nhau trên khắp ba miền Bắc Trung Nam. Nội dung các đơn thư này, dù viết bằng
nhiều thứ chữ, đánh máy hoặc viết tay, nhưng chung quy lại đều tập trung vào bốn
nội dung:
Thứ nhất: Gần đây lập trường tư tưởng chính trị, quan điểm
giai cấp của đồng chí Chiến Thắng Lợi có nhiều biểu hiện lệch lạc, phẩm chất tư
tưởng sa sút. Cụ thể là đồng chí bị nhóm các nhà văn quá khích Châu Hà, Trần
Nhân Ảnh, Bùi Đào Nguyên… bắt ép bảo lãnh cho em ruột là Nguyễn Kỹ Vỹ ra khôi
trại cải tạo. Việc tha Nguyễn Kỳ Vỹ, một cây bút chống đối, đi ngược lại Chủ
nghĩa xã hội, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ và độc giả cả nước bất bình và phẫn nộ…
Lập trường tư tưởng lệch lạc của Chiến Thắng Lợi còn thể hiện
ở việc đồng chí này đang ra sức vận động để đưa nhà văn Châu Hà về làm Tổng
biên tập báo Văn Chương, một tờ báo có vị trí tiên phong và định hướng
nền văn học cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Châu Hà là một nhà văn có thành tựu
trong hai cuộc kháng chiến, nhưng gần đây mắc bệnh công thần và đặc biệt đang
có khuynh hướng dân chủ đa nguyên cực kỳ nguy hiểm…
Thứ hai: Việc Trung ương định bổ nhiệm Chiến Thắng Lợi
làm Bộ trưởng Kinh tế và đảm trách các hoạt động kinh tế là trái với sở đoản sở
trường của đồng chí ấy. Chiến Thắng Lợi xuất thân gia đình địa chủ kháng chiến,
bản thân là học trò nông thôn đi theo cách mạng, không biết gì về kinh tế.
Không nên lặp lại những trường hợp trái quy luật, như kiểu "Nhà thơ làm
kinh tế, Thống chế đi đặt vòng" trong thời gian gần đây.
Thứ ba: Điều đặc biệt nguy hiểm là Chiến Thắng Lợi đã lừa
dối tổ chức, khai man lý lịch để chui sâu, luồn cao. Lợi là người có truyền thống
hủ hoá. Hồi còn hoạt động trong vùng địch hậu, Chiến Thắng Lợi đã hủ hoá với đồng
chí Đào Thị Cam, vợ của Khu uỷ viên Hữu ngạn Lê Thuyết, có con hoang là Lê Kỳ
Chu. Sau đó, khi lên chiến khu, ngựa theo đường cũ (đúng hơn là dê theo đường
cũ), Chiến Thắng Lợi lại tiếp tục lừa dối tổ chức, hủ hoá với chị Ma Thị Là,
người Tày thuộc địa bàn đóng quân. Sau khi cơ quan phát hiện thấy quan hệ bất
chính này, đã buộc Lợi phải cưới Là. Việc Chiến Thắng Lợi cố tình không báo cáo
với tổ chức mối tình vụng trộm với đồng chí Cam, và đứa con ngoài giá thú Lê Kỳ
Chu là vi phạm lời thề của tổ chức, lừa dối cấp trên và nhà nước.
Thứ tư: Chiến Thắng Lợi đã phạm tội phản bội lại cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân tộc. Đó là trong khi hàng triệu
thanh niên hăng hái tòng quân vượt Trường sơn đi cứu nước, hàng vạn chiến sĩ hy
sinh ngoài mặt trận, thì Chiến Thắng Lợi và Đào Thị Cam đã lợi dụng chức quyền
của mình, như Lý Thông lừa Thạch Sanh ra miếu cho trăn tinh ăn thịt, thế người
khác vào chỗ của con, thu xếp cho con trai ngoài giá thú là Lê Kỳ Chu "B
quay", sang Liên Xô học để bảo mạng và vinh thân phì gia sau này…
Cho mãi tới những năm sau này, khi đã về vườn, tác giả của những
lá thư nặc danh tố cáo Chiến Thắng Lợi mới đột ngột lộ mặt trong một bài hồi ký
đăng trên tờ tạp chí mạng Talaviet của người Việt ở nước ngoài. Còn ngày ấy,
Văn Quyền làm như một kẻ hoàn toàn vô can, thậm chí trước mặt Chiến Thắng Lợi,
Quyền còn tỏ ra hết sức phẫn nộ với những kẻ vu cáo.
- Em đề nghị anh phải báo cáo tổ chức để tìm ra kẻ dã tâm bôi
xấu cán bộ, gây mất đoàn kết nội bộ - Quyền cầm tập đơn thư dầy cộp, đặt lên
trên bàn Lợi, mắt ngân ngấn nước như đang oan ức thay cho sư phụ - Không có ai
biết quan hệ của anh với chị Cam ngoài Châu Hà. Anh còn nhớ cái truyện ký
"Người đẹp Sơn Minh hay sự thật về Ni cô Đàm Hiên" của
Đà Giang viết đăng trên. tạp chí Văn không?
- Thế thì chẳng nhẽ cậu ấy lại tự mâu thuẫn với mình? Cậu ấy
đả kích cả việc mình muốn tiến cử cậu ta vào cái ghế Tổng biên tập báo Văn Chương?
- Anh ơi, thế mới là Châu Hà. Hắn khôn như rận và mưu mô như
Gia Cát. Viết thế là để anh tin hắn thuộc về phe của anh, của Nguyễn Kỳ Vỹ. Viết
thế tức là hắn cũng muốn tự đánh bóng tên tuổi của hắn đấy. Một nhà văn kinh
qua chiến trường, cấp tiến như thế, lại được chính đồng chí Chiến Thắng Lợi và
rất có thể cả đồng chí Tư Vuông đề cử, thì cái ghế Tổng biên tập báo Văn Chương còn
là bé.
- Nhưng còn chuyện thằng Chu đi học Liên xô, làm sao Châu Hà
biết được? Ngày ấy chính tôi thu xếp cho Đà Giang và Hàn Thâm Nho đi chiến trường
mà…
- Cả nhà văn Du San mà sau này là Xuyên Sơn, cây bút chiêu hồi
chống cộng khét tiếng nữa chứ ạ - Mắt Văn Quyền ánh lên tia ma quái - Với Châu
Hà thì có gì mà hắn không biết. Em không hiểu sao Châu Hà đặc biệt ác cảm với
anh. Đi đâu hắn cũng rêu rao: Anh làm Trung ương mà bắt em trai là một nhà thơ
yêu nước đi tù, thì đến Tào Tháo, Gơben sống lại cũng phải gọi bằng đại sư phụ…
- Nếu như vậy thì tay này nguy hiểm thật. Biết thế dạo ấy tôi
đã quyết giữ quan điểm bảo vệ chú. Tôi vẫn cho rằng điều chú sang làm Tổng biên
tập báo Văn Chương là hợp lý hơn cả. Chú là Hội viên nhà văn, từng
có tác phẩm thơ văn xuất bản, lại kinh qua hoạt động chính trị, hoạt động tuyên
huấn báo chí… Nếu Anh Tư chịu nghe tôi…
- Bây giờ có thể đồng chí Tư Vuông sẽ nghĩ lại anh ạ… Nếu anh
tiếp tục đề nghị, tổ chức họ sẽ ủng hộ em chứ không phải Châu Hà. Đây là tờ báo
định hướng văn chương chứ không phải thuần tuý đăng sáng tác văn học, như hồi
nó còn là tạp chí. Em theo dõi tờ báo mấy chục năm, em thuộc từng chuyên mục, từng
phóng viên biên tập viên của nó. Châu Hà làm văn thì được chứ làm báo là hỏng.
Chuyến này thì Châu Hà đã tự vạch mặt mình. Nghe nói hắn muốn cái ghế của anh
chứ không thèm chức Tổng biên tập. Muốn thế hắn phải hạ gục anh. Anh nên nhớ rằng
trong bốn mũi tên nhằm bắn vào anh hắn chỉ cần một mũi tên trúng đích. Ấy là tố
cáo anh lừa dối tổ chức. Đây là tội vi phạm vào lời thề thứ nhất. Không tuyệt đối
trung thành…
Trời lạnh mà mồ hôi Lợi túa ra đầy mặt, ướt hết vệt tóc trước
trán và thái dương. Ông bỗng thấy hiển hiện lại hình ảnh Cam đột ngột đến tìm
ông hơn mười năm trước. Đó là lần đầu tiên nàng báo với ông cái tin họ cùng có
một đứa con trai, kết quả của cuộc tình sét đánh ba ngày vô tiền khoáng hậu ở
phố Phương Đình thời tạm chiếm.
- Tôi chỉ xin anh mười lăm phút thôi - Chị lấy trong túi
xách ra một tấm ảnh chân dung đen trắng khổ bằng bàn tay, đặt trước mặt Lợi -
Anh có nhận ra ai đây không?
- Cam vẫn giữ tấm ảnh tôi ngày ấy?
- Anh lầm rồi. Tôi đã đốt tấm ảnh Nguyễn Kỳ Khôi từ sau ngày
gặp anh ở Phương Đình. Anh nhìn kỹ lại xem. Giống anh lắm phải không? Nó đấy. Lẽ
ra tôi không bao giờ cho anh biết điều này…
Cam bỗng bật khóc. Nhưng rồi chị thanh chóng lấy mùi soa chấm
mắt, cầm lại tấm ảnh, cất vào túi xách.
Người Lợi run như cơn sốt rét rừng ngày nào bỗng ập về. Tiếng
anh méo đi:
- Thật vậy sao? Có đúng là con chúng ta không em? Nó đang ở
đâu?
- Anh hãy bình tĩnh… Tôi đặt tên nó là Lê Kỳ Chu. Họ Lê là
anh Lê Thuyết. Họ Chu của tôi. Chỉ có một chữ Kỳ của anh thôi nhưng ngay chữ
tên đệm ấy, anh cũng đã vứt đi rồi. Tôi biết anh không muốn và không cần có nó.
Nó sẽ là gánh nặng trong cuộc đời cách mạng của anh, thậm chí sẽ là vật cản
trên bước đường anh thăng tiến. Nhưng với tôi, nó là tất cả.
- Tôi hạnh phúc vô cùng, Cam ạ. Linh tính luôn báo với tôi rằng,
giữa tôi và em có ruột sự gắn kết thiêng liêng… Tôi đã từng nói với em, bằng bất
kỳ giá nào tôi cũng lo cho con, nếu chúng mình có chung một giọt máu…
- Không cần phải như thế. Tôi tin, chỉ ít phút nữa, khi bình
tĩnh lại, anh sẽ muốn rút lại đề nghị ấy của mình. Bởi nếu chuyện thằng Chu vỡ
lở ra, hạnh phúc gia đình anh sẽ tan vỡ. Anh sẽ mắc tội man trá với tổ chức.
Anh sẽ mất hết. Có bao nhiêu kẻ sẽ lợi dụng sự việc này để giành lấy chiếc ghế
của anh…
Mồ hôi vã ra trên trán Lợi.
- Cả tôi cũng sẽ mất hết. Chúng ta đều quá hiểu sự nghiêm khắc
của tổ chức… Vì thế chuyện này chỉ riêng anh biết. Tôi đã viết cho anh một lá
thư dài. Nhưng thấy giấy trắng mực đen là quá nguy hiểm nên đã xé đi và buộc phải
đến gặp anh hôm nay.
Lợi như bị những kỷ niệm xưa kéo trĩu xuống. Ông ngồi xo ro,
hai tay vuốt những giọt mồ hôi trên trán.
Văn Quyền thầm bấm bụng cười vì trò đùa ác của mình, nhưng giọng
anh lại méo xệch muốn khóc.
- Anh đau ba thì em cũng đau một. Đây là tất cả đơn tố cáo nặc
danh mà em đã thu lượm được. Xin thề với anh là chỉ mình em biết. Nay em xin đốt
trước mặt anh…
Quyền bật diêm. Ánh lửa xanh lem lém nuốt dần từng con chữ,
như trò ma thuật.
- Dù có đốt tất cả thì cũng không che được tai mắt của tổ chức.
Họ biết hết cả rồi - Lợi như tự nói với mình và phì một tiếng thở dài.
- Năm nay anh có sao La Hầu. Đại hạn vào tháng tám…
- Chú cũng biết tử vi?
- Dạ, em biết sơ qua. Ông thầy Tứ Bạng của em mới thực siêu
phàm. Phu nhân các cụ nhà mình bà nào chẳng đến xin quẻ cho chồng. Tuần trước
em nhờ thầy nói về anh, thầy bảo anh gặp tuổi đại hạn, Kình Dương, Phá Toái
xung chiếu cung Quan, nhưng cung Mệnh lại có Thái Dương, Quốc Ân miếu địa, có
quý nhân phù trợ.
- Tức là rồi sẽ qua?
- Anh cứ kiên tâm chờ đợi. Đừng vội lạy ông tôi ở bụi này. Em
sẽ tiếp tục thu nhặt hết đon thư tố cáo đã gửi. Anh yên tâm đi. Em có chân rết ở
khắp các văn phòng từ Ban tổ chức, Viện kiểm sát, đến Toà án, Tư pháp, Nội vụ.
Em đã thăm dò ông Phó ban Bảo vệ Nội bộ rồi. Đã lên đến vị trí như anh, có bìa
tem phiếu đặc biệt, có chế độ chăm sóc sức khoẻ định kỳ, tức là cái đầu đã được
bảo lãnh bằng kim cương, trừ trường hợp phản bội lý tưởng, phản bội tổ chức như
bọn Nhân văn Giai phẩm, bọn Xét lại… còn chỉ va vấp về tác phong sinh hoạt, lại
biết lỗi lầm, thì bằng giá nào tổ chức cũng bảo vệ tới cùng.
°°°
Văn Quyền đi khỏi, Lợi đóng chặt cửa phòng. Ông quay điện thoại
tới phòng làm việc của bà Cam, lúc này đã chuyển về Hà Nội, trong ban lãnh đạo
Cơ quan Phụ vận Trung ương.
Tiếng chuông đổ liên hồi nhưng không có người nhấc máy. Cam
đi đâu? Vẫn còn giờ hành chính, nhưng ông không muốn gọi tới phòng thư ký trực.
Lật tìm sổ danh bạ, ông gọi về nhà riêng.
Đầu dây bên kia, giọng bà Cam khê nồng, như người đang trong
một cơn ốm nặng.
- A lô, tôi nghe…
- Bà đang ốm phải không? Đã uống thuốc gì chưa? Nếu cần tôi sẽ
cho người đến đưa đi viện.
- Cám ơn, tôi tự lo được…
- Có việc tôi rất cần gặp bà. Chúng ta phải bàn bạc thống nhất
kỹ…
- Tôi cũng đang định gặp ông… Thằng Chu nó vừa làm một chuyện
động trời. Tôi đang sống dở chết dở…
Đang nói, bà Cam bỗng dừng máy. Ông Lợi áp sát ống nghe bên
tai chờ đợi. Hình như chiếc ống nghe vẫn để ngoài bàn phím và tiếng khóc nấc vọng
vào rất rõ.
Chuyện gì đã xảy ra với Cam?
Chiến Thắng Lợi mở tung các cánh cửa. Tiếng khóc của Cam vẫn
đang nấc lên ở đâu đó. Tổ chức đã làm việc với cô ấy rồi sao? Sao Cam lại nói:
"Thằng Chu nó vừa làm một chuyện động trời"? Chu mắc tội gì? Đã làm
gì ảnh hưởng đến mẹ nó?
Lướt nhanh các sự kiện liên quan đến Lê Kỳ Chu gần đây, ông Lợi
thấy yên lòng. Hơn mười năm qua, kể từ cái ngày Cam cho Lợi biết chàng trai Lê
Kỳ Chu ngời ngợi như một hiệp sĩ, chính là giọt máu của Lợi, ông vô cùng mãn
nguyện. Ông luôn theo dõi từng bước đi và thầm chăm sóc Chu với tình cảm và
trách nhiệm một người cha mẫu mực.
Ôi chao, mới đó mà anh con trai cả mang họ Lê của ông đã vào
tuổi tam thập nhi lập, đã vợ con đề huề, và ông đã có thằng cháu đích tôn, dù vẫn
còn trong vòng bí mật. Cho tới bây giờ, cảm giác lần đầu nghe Cam tiết lộ điều
tuyệt mật linh thiêng của hai người, rồi tâm trạng khi tận mắt nhìn thấy giọt
máu của mình hiện hữu thành chàng trai tuấn tú trong đoàn quân sắp ra trận ở
vùng Sơn Tây ấy, vẫn tươi rói, bồi hồi như mới hôm qua. Phải rồi, lúc ấy suýt nữa
thì Lợi không kìm được lòng mình, suýt kêu lên: "Con trai của ta. Ta mới
chính là bố đẻ của con đây". May mà bản lĩnh chính trị dày dạn đã kịp ngăn
Lợi lại. Ông xoài tay ôm chầm lấy đôi vai rắn chắc của chàng tân binh. Tưởng
như dòng máu chảy giần giật trong tấm thân trai căng tràn mười bẩy tuổi đang
truyền sang Lợi. Cảm giác ruột thịt máu mủ bỗng làm mắt Lợi cay xè ông bỗng thấy
biết on Cam vô cùng. Cam thật sâu sắc, biết nhìn xa trông rộng khi quyết bằng mọi
giá giành lại đứa con của mình. Lợi phải biết ơn Cam, ngàn lần biết ơn nàng đã
cho ông giọt máu vô giá này. Nó sẽ phải ở lại hậu phương như nàng mong muốn.
Không ai có quyền cướp đi báu vật quí giá nhất của đời nàng, giọt máu thiêng
liêng mà suốt mười tám năm vì nó nàng đã chịu muôn vàn đắng cay cơ cực.
Nhờ sự can thiệp kịp thời và vô tư của thượng tá Võ Khang ở Cục
Quân lực, Lê Kỳ Chu đã làm một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục, tách khỏi những
đoàn quân điệp trùng màu lá nguy trang rùng rùng xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
để bay sang đất nước thần tiên Xã hội chủ nghĩa.
Mãi mãi sau này, và có thể không bao giờ Lê Kỳ Chu và bất kỳ
ai đó biết được vở kịch "B quay" tài tình đã được ông Lợi, bà Cam dàn
dựng như thế nào. Ngay đến như thượng tá Võ Khang, người trực tiếp giải quyết
cho Chu sang học Liên Xô cũng không thể biết kịch bản này. Và bây giờ chứng
nhân duy nhất của vụ "B quay" ấy cũng đã nằm lại ở chiến trường Quảng
Đà. Thượng tá Võ Khang được Bộ Tổng tham mưu tăng cường cho mặt trận Khu V năm
1970. Và ông đã bị địch phục kích giết hại ngay trên đường về quê, cách căn nhà
nơi ông sinh ra và lớn lên chỉ một con sông nhỏ. Đợt ấy nếu Chu vào chiến trường,
chắc chắn anh cũng sẽ nằm lại, như thượng tá Võ Khang, như hàng chục vạn chàng
trai tuổi hai mươi vượt Trường Sơn đã nằm lại…
Tại Liên Xô, chiếc nôi của Cách mạng tháng Mười, Lê Kỳ Chu được
phân vào học trường đào tạo sĩ quan điều khiển tên lửa. Hai năm sau, thiếu uý
Lê Kỳ Chu theo đoàn tên lửa SAM2 trở về nước. Và trận ra quân đầu tiên của
trung đoàn tên lửa Sông Đà hạ gục pháo đài bay B52 Mỹ ở của ngõ phía tây Hà Nội,
có công lao đóng góp của sĩ quan điều khiển Lê Kỳ Chu.
Với ông Lợi, sự trưởng thành của Chu luôn luôn là niềm kiêu
hãnh ngấm ngầm. Chu bước ra khỏi cuộc chiến chỉ với quân hàm thượng uý, nhưng
đó là tấm giấy thông hành tối cần thiết, là thứ trang sức thời thượng quý giá để
Chu trở lại trường đại học, tiếp tục cuộc hành trình hoàn thiện tri thức còn bỏ
dở. Đã hơn một lần Chiến Thắng Lợi nói với Cam rằng, con trai họ sẽ nằm trong đội
ngũ kế cận của cách mạng, sẽ kế tục con đường mà họ đang đi. Những thập kỷ sắp
tới sẽ là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường ai thắng ai, Tư bản
giãy chết hay Chủ nghĩa xã hội khoa học?
Thời kỳ đấu trí đấu lực bằng trí tuệ và kinh tế. Cho nên, năm
1977, khi thượng uý Lê Kỳ Chu trúng tuyển khoa vô tuyến điện trường Đại học
Bách khoa, thì ông Lợi quên hết vai trò một người cha bí mật, giữa thanh thiên
bạch nhật một ngày nghỉ lễ, đã cưỡi xe Vonga mang một bó hoa lớn đến chúc mừng
hai mẹ con Cam.
- Anh liều quá đấy. Không sợ tai mắt thiên hạ à? - Cam hốt hoảng
và bối rối. Dường như bà đã thấy những ánh mắt đang săm soi hết nhìn Lợi lại
nhìn Chu. Hai người đàn ông đứng cạnh nhau chẳng khác gì hai giọt nước.
- Em sợ gì chứ? Tôi đang muốn công khai cho thiên hạ biết.
Tôi tự hào về con trai mình…
Những lời nói khiến Cam hởi lòng hời dạ. Nhưng rồi bà vẫn phải
tìm cách tiễn Lợi đi nhanh. Bà biết rằng cả sự nghiệp của hai cha con họ còn ở
phía trước.
Cho đến khi Lê Kỳ Chu yêu cô giáo Linh và quyết định cưới vợ
ngay khi còn đang ngồi trên ghế trường đại học, thì những bí mật của ông Lợi,
bà Cam có vẻ như không còn là độc quyền của họ nữa.
Câu chuyện lấy vợ của Chu có vẻ như một sự sắp đặt sẵn của định
mệnh.
Hồi còn là sĩ quan ở trung đoàn tên lửa Sông Đà, do thành
tích bắn hạ pháo đài bay Mỹ, do khả năng diễn đạt và báo cáo trước các hội nghị
điển hình, Chu đã được đại tá Quảng Lạc, Cục trưởng Cục Z, đặc biệt yêu mến.
Chính vì cái tên độc đáo, gợi nhớ đến nhà hát Quảng Lạc của Hà Nội thời Pháp tạm
chiếm, mà toàn quân quen gọi đùa là ông tuồng Quảng Lạc, hoặc là ông tướng Quảng
Lạc, khi ông được phong cấp tướng sau này. Về ông tướng này, trong và ngoài
quân đội có khá nhiều giai thoại. Ông vốn xuất thân làm nghề đạp xích lô ở ngoại
thành Hà Nội. Hồi trước cách mạng, trong một lần đạp xe lòng vòng kiếm khách, bỗng
từ một ngõ hẻm, một người mặc bộ quần áo đũi diềm bâu, đội mũ phớt cháo lòng hớt
hải nhảy lên xe Lạc. "Tôi là Việt Minh, đang bị mật thám đuổi. Anh đạp thốc
lên". Người lạ vừa nói vừa chỉ tay ra hiệu chạy vào một khu chợ. Sau lần cứu
thoát ông cán bộ Việt Minh ấy, Lạc tham gia Trung đoàn bảo vệ Thủ đô, rồi rút
qua sông Hồng lên chiến khu. Trong một lần chỉnh quân đầu hoà bình lập lại, Lạc
nhận ra người cán bộ mà mình cứu giúp năm xưa chính là vị cán bộ cấp cao Trung
ương đến giảng bài. Nhưng Lạc lờ đi xem người cán bộ có nhận ra ân nhân không?
Hoá ra chẳng ai quên ai. Suốt giờ giảng vị cán bộ cứ nhìn Lạc chằm chằm. Giờ giải
lao, đồng chí đến gặp Lạc, nhắc lại câu chuyện cũ. Cả hội trường đổ xô đến nghe
chuyện. Lạc xích lô trở thành cái tên nổi tiếng toàn quân Sau lần ấy, Quảng Lạc
tiến vù vù. Từ Chính trị viên phó tiểu đoàn, ông đi học một lớp chính trị, rồi
được phong vượt cấp, giữa cuộc chiến tranh chống Mỹ đã lên tới chức Phó Cục trưởng.
Không ít người ghen tị với Lạc, nhưng ai cũng phải thừa nhận, mặc dù trình độ
văn hoá có hạn, nhưng Quảng Lạc có trí nhớ thật tuyệt vời. Dường như tất cả những
gì, từ thời Tây đến giờ, hễ đã qua mắt ông đều được ông ghi vào bộ nhớ. Học nghị
quyết, tài liệu dày hàng vài chục. trang, chẳng cần ghi chép gì, ông nhớ vanh
vách.
Cái trí nhớ của tướng Quảng Lạc không ngờ có lần đã đánh
trúng tim đen Chiến Thắng Lợi. Số là lần ấy, tất cả cán bộ cấp cao về học tạp
nghị quyết Trung ương tại Hội trường lởn Ba Đình. Tướng Quảng Lạc ngồi cạnh Chiến
Thắng Lợi.
Suốt buổi, ông chẳng ghi chép gì, chỉ ngồi nhìn Lợi, trầm
ngâm nghĩ ngợi. Vốn tính thẳng ruột ngựa, giờ giải lao, Lạc kéo Lợi xuống quầy
căng tin, gọi hai vại bia hơi và một gói lạc rang rồi vừa cụng ly đánh keng vừa
hỏi thẳng đuồn đuột:
- Này, tớ hỏi thật đằng ấy nhé, đằng ấy có quen thân với cô
Cam, Hội phó Tỉnh hội phụ nữ Sơn Minh không?
- Sao anh lại hỏi vậy? - Mặt Lợi bỗng đỏ nhừ.
- Tớ trông thằng Lê Kỳ Chu ở trung đoàn tên lửa Sông Đà giống
cậu như đúc. Tớ đồ rằng thằng Chu là con của cậu, chứ không phải con ông Lê
Thuyết. Hồi Nhật đảo chính Pháp, tớ cũng từng đạp xích lô cho đồng chí Lê Thuyết.
Con ông Thuyết không có cái mặt ấy. Nói thật nhé. Tớ phục cậu. Cậu mà ngủ được
với cô Cam, Ni cô Đàm Hiên, mỹ nhân Sơn Minh, cũng sướng một đời…
- Tôi chưa hiểu ý đồng chí… - Lợi chống chế yếu ớt.
- Khách sáo, già dối làm chó gì? Tuổi ngần này rồi, tổ chức
không thích, cho về vườn, thì đã làm sao? Tớ đang muốn gả con gái cho thằng Lê
Kỳ Chu, nên mới nói với cậu thế. Nếu thật Chu nó là con cậu, thì chúng mình làm
thông gia với nhau cho vui…
Tưởng chuyện đùa tếu, nào ngờ năm sau, tướng Quảng Lạc gả con
gái Út là cô giáo Quản Thị Linh cho Lê Kỳ Chu, khi anh còn đang theo học khoá kỹ
sư vô tuyến điện.
°°°
Chu lấy con gái tướng Quảng Lạc, như chuột sa chĩnh gạo. Ông
bố vợ thuộc hàng sĩ quan cao cấp, được phân nhà ở trong thành. Khu hoàng thành
cổ từ triều Lý - Trần - Lê, sau ngày giải phóng Thủ đô được chọn làm đại bản
doanh của Bộ Quốc phòng. Ngoài nơi đặt trụ sở các cơ quan đầu não, vùng ven tường
thành được biến thành khu gia binh, còn gọi là khu phố nhà binh. Suốt mấy chục
năm bao cấp, kín cổng cao tường nhà này đi sang nhà khác bằng những ngõ ngách
ngoắt ngoéo, tăm tối, nay tất cả các nhà tướng tá cùng phá bức tường phía sau,
quay một phát, trăm tám mươi độ, đồng loạt thành nhà mặt phố. Vì nhà đông người,
lại thuộc diện tham gia cách mạng từ tiền khởi nghĩa, tướng Quảng Lạc được chia
thêm một lô đất ở sân bay Bạch Mai cũ, ông cùng vợ và con trai Út xây một căn
nhà vườn, nhường căn hộ phố nhà binh cho vợ chồng Linh, Chu. Vậy là bỗng nhiên
vợ chồng Chu có phố mặt tiền. Nhà mặt tiền ra tiền mặt. Nhà mặt phố hơn bố
làm quan. Những câu ca này được lưu truyền từ dạo ấy.
Có lẽ do sự thúc bách của ông bố vợ tướng Quảng Lạc, mà từ
ngày cưới Linh, Lê Kỳ Chu đã âm ỉ một khát vọng là tìm bằng được mộ và quê gốc
của bố Lê Thuyết. Đã mấy lần anh gạn hỏi mẹ, nhưng bà Cam hoặc như lờ đi không
nghe rõ, hoặc là viện lý do gạt phắt:
- Bố mẹ cưới nhau không giá thú. Với lại ngày ấy bố mày có
nói gì đến quê quán?
- Chả lẽ bố con vô sản đến mức "không quê hương
sương gió tơi bời"? Phải có một nơi nào là quê gốc của ông bà cha mẹ chứ?
- Thì mẹ vẫn nghe bố Thuyết mày nói quê gốc ở Thái Bình. Năm
lên mười tuổi ông bà đưa bố mày ra làm cu ly ở mỏ than Hòn Gai. Rồi ông bà cùng
chết vì dịch tả. Bố mày lang thang về Hải Phòng, làm cu ly nhau ở nhà máy đèn…
Chỉ bằng những thông tin sơ sài và ước lệ ấy, Lê Kỳ Chu đã đi
không biết bao nhiêu cửa, lần tìm từ phòng lưu trữ Sở than Hòn Gai, phòng truyền
thống nhà máy điện, nhà máy Xi măng Hải Phòng, Ban tổ chức Trung ương, Ban lịch
sử Đảng bộ Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình… Cho đến khi tưởng đã bế tắc, vô vọng
hoàn toàn, thì một tia sáng rất nhỏ bỗng hé lộ cuối đường hầm. Trong đợt chỉnh
lý lần cuối cuốn "Lịch sử phong trao công nhân đất cảng, Ban biên tập và
Nhà xuất bản Cánh Buồm bỗng lần tìm ra và cho người về xác minh quê gốc đồng
chí Lê Thuyết. Hoá ra tên Lê Thuyết, cũng chỉ là một cái tên giả để hoạt động
cách mạng. Tên thật đồng chí là Hoàng Văn Vẹo, quê quán tại làng Rìa, xưa thuộc
tổng Cồn Cua, tỉnh Thái Bình.
Nhận được thông tin này, suốt một đêm Chu không ngủ. Xúc động,
mừng vui, bồi hồi, xa xót, tự hào, thương tiếc… Đủ các cung bậc tình cảm chen lấn,
hỗn tạp. Anh lén ngồi dậy hôn vợ rồi hôn vào cãi mẩu chim bé tí như quả ớt chỉ
thiên của con trai và thầm nói với con: "Thế là bố con mình sắp tìm được cội
nguồn rồi".
Sáng sớm hôm sau, Chu nói dối vợ về Mường Bi có việc, hôn
chim thằng cu lần nữa, rồi cưỡi chiếc Honda 67 về rủ cậu Quách Liêu đi Thái
Bình. Cậu Quách Liêu, em cùng mẹ khác cha với Cam, giờ làm cán bộ phòng văn hoá
Mường Bi. Dù đã là dân Hà Nội, nhưng Chu vẫn luôn coi cậu Quách Liêu và quê
hương Mường Bi là ruột thịt của mình.
Cái làng Rìa trước kia, từ ngày tiến lên Chủ nghĩa xã hội được
khoác một cái tên mĩ miều là hợp tác xã nông nghiệp cấp cao Tiên Tiến. Hỏi thăm
rất nhiều người, nhưng phải gặp những người già cao tuổi, mới tìm tới được làng
Rìa nằm khuất nẻo bên một nhánh sông đổ ra cửa Diêm Điền.
Xế chiều, hai cậu cháu Chu mới tìm thấy nhà ông Hoàng Văn Vọ,
em trai liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo. Ông Vẹo có người con gái duy nhất lấy chồng đi
khai hoang kinh tế mới trên Nghĩa Lộ, nên bát hương thờ tự để ở nhà ông em ruột.
Nhìn tấm bằng Tổ quốc ghi công ghi tên liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo, tức Lê Thuyết,
hai cậu cháu Chu mừng thầm là đã tìm đúng địa chỉ rồi.
Ông Vọ mới ngoài sáu mươi mà cổ kính, già nua như ông lão tám
mươi tuổi. Cuộc gặp gỡ đột ngột với hai cậu cháu Chu, khiến ông Vọ tưởng như
mình đang gặp những người ngoài hành tinh, tức là câu chuyện của họ hoàn toàn
xa lạ, hoang đường, đến mức nông dân chân chỉ hạt bột như ông mà cũng nổi máu cảnh
giác cách mạng, cho rằng có thể mình đang gặp hai kẻ gián điệp, muốn về hợp tác
xã Tiên Tiến phá hoại phong trào nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn. Ông giả vờ
đi đái sau đống rạ, rồi gọi cô con dâu, ngầm bảo đi gọi ông xã đội trưởng đến để
đề phòng bất trắc.
Chẳng mấy chốc người trong làng đã kéo đến kín đặc cái sân đất
nện. Trẻ con chỉ trỏ, đuổi nhau quanh đống rơm, người già, đàn bà ghé tai nhau
thì thào bàn tán. "Ông Vẹo làng mình có con riêng. Hoá ra trước ngày bị mật
thám bắn ở Cầu Đất Hải Phòng, ông Vẹo đã kịp gửi lại một hạt giống cách mạng".
"Dào ôi, khéo mà lại bé cái nhầm, kẻ ăn ốc người đổ vỏ! Nhà ông Vẹo làm gì
có cái mặt thế kia?" "Gớm, chỉ độc mồm. Không có lửa thì làm sao có
khói. Người ta ngời ngời là thế mà lại thèm đi nhận nhằng à?"…
Trong nhà, cậu Quách Liêu giúp Chu đặt đồ lễ và thắp hương khấn
vái trên bàn thờ.
- Thưa chú, nếu chú đúng là em ruột bố cháu thì cháu sung sướng
vô cùng - Lê Kỳ Chu sau khi nói rõ mục đích chuyến đi, và trình bày hết hoàn cảnh
của mình, liền lấy trong cặp ra một tờ giấy được bọc cẩn thận, kính cẩn hai tay
đưa cho ông Vọ:
- Thưa chú, đây là giấy khai sinh của cháu. Cháu chính là Lê
Kỳ Chu, con trai bố Lê Thuyết, tức là liệt sĩ Hoàng Văn Vẹo…
Mãi rồi ông Vọ cũng vỡ lẽ. Khổ, hoá ra anh này cũng giống như
những người đi tìm đồng đội trên đài. Ông nheo nheo đôi mắt kèm nhèm nhìn ngang
lại nhìn dọc. Anh Vẹo mà có con ngoài giá thú thì phúc đức nhà ông to bằng cái
đình. Khốn nỗi anh Vẹo lấy vợ sớm, từ năm mười bốn tuổi, chị vợ hơn chồng gần
năm tuổi, nhưng hai người chê nhau, mãi mấy năm sau mới có một mụn con gái, là
cái Vặn. Hồi anh Vẹo bị Pháp bắn ở Hải Phòng, cái Vặn mới hai tuổi…
- Đúng, anh tôi đi làm Việt Minh có lấy bí danh là Lê Thuyết.
Bố mẹ tôi có ra Hòn Gai làm cu ly than hai năm, nhưng sau khi anh Vẹo tôi mải
xuống tàu chơi, bị lạc, bố mẹ tôi bèn dắt díu chúng tôi về quê. Được mấy năm,
anh Vẹo tôi về nghe theo lời bố mẹ tôi, lấy vợ. Lấy vợ được vài tháng, anh tôi
chê vợ, lại bỏ nhà đi. Hoá ra anh tôi theo Việt Minh…
- Chỗ này thì không khớp với lý lịch - Chu nói.
- Lý lịch thật của ông anh tôi là thế đấy. Đi làm Việt Minh,
bố ai dám khai thật. Tên là Xoài phải khai là Mít, tuổi Thân thì nói là Dần, bố
mẹ anh em ruột thịt phải khai đã chết hết. Thế, Tây nó mới không mò ra. Tôi
không dám nói sai, chuyện vợ con của ông anh tôi thì không giấu được. Ngoài người
vợ ở quê sau khi anh tôi bị Tây bắn, đã đi bước nữa, lấy chồng bên kia sông,
tôi không thấy nói anh Vẹo tôi có người vợ bé nào.
- Dạ, mẹ cháu lấy bố cháu không có giá thú… Hai người cùng đi
tham gia cách mạng…
- Thế vậy anh sinh năm nào? - ông Võ biết chắc là bé cái nhầm
rồi, mới nghĩ cách hỏi lục vấn.
- Dạ, giấy khai sinh gốc đây ạ. Mẹ cháu sinh cháu năm 1949.
Ông Vọ thừ người, đưa ngón tay nhẩm tính.
- Thế thì cả anh với mẹ anh đều nhầm to rồi. Ngay từ lúc anh
đến, tôi đã biết ngay là có sự nhầm. Họ Hoàng nhà tôi không ai có khuôn mặt như
anh. Anh Vẹo tôi, tức là liệt sĩ Lê Thuyết trên cái bằng treo kia, hy sinh năm
1946 tại Hải Phòng. Giấy chứng nhận liệt sĩ cũng ghi rõ năm anh tôi mất. Làm
sao chết ba năm rồi mà còn đẻ con được?
Câu chuyện đang đến hồi kết thúc thì trưởng công an xã và mấy
dân quân khoác súng đến. Đây là vùng cửa sông, ven biển, nơi các nhóm biệt kích
gián điệp thường xâm nhập, vì thế tuy đất nước thống nhất vẫn phải đề cao cảnh
giác cách mạng, cảnh giác bao nhiêu cũng không thừa.
Trưởng công an xã lừ đừ đi vòng quanh, rồi chiếu tia nhìn sắc
lạnh như màu nòng súng vào hai người lạ mặt.
- Đề nghị các anh cho xem giấy tờ.
Đấy là gáo nước lạnh của nhà chức trách bồi tiếp theo những
phán quyết của ông chú hờ, khiến Lê Kỳ Chu chợt nhận ra tình thế trớ trêu đến
vô duyên và thảm hại của mình.
Mặc dù đã đưa hết các giấy tờ tuỳ thân, lại viện đến nhạc phụ
là tướng Quảng Lạc lừng lẫy, nhưng tối ấy hai cậu cháu vẫn phải nộp mạng cho
đàn muỗi đói như những chiếc B52 Mỹ, thoả sức oanh tạc ở trụ sở uỷ ban xã.
Nỗi đau không có cha, cộng với nỗi đau bị mẹ lừa dối càng
sưng tấy lên, nhức buốt suốt dọc đường hai cậu cháu từ làng Rìa, Thái Bình, về
Hà Nội.
- Mẹ lừa dối con. Mẹ cố tình lừa dối con suốt ba chục năm
nay… - Vừa nhìn thấy bà Cam, Chu đã ôm mặt khóc nấc lên.
Những âm thanh ban đầu còn tắc nghẹn, sau thì ồ ồ như vòi nước
xả hết van. Không phải tiếng khóc của một người đàn ông vừa đến tuổi làm bố, mà
là tiếng khóc của một đứa trẻ đau đớn vì tủi nhục, vì bị lừa gạt.
Bà Cam sững sờ không hiểu có chuyện gì xảy ra. Đến khi nghe cậu
Liêu tường thuật lại toàn bộ cuộc hành trình đi tìm cha của Chu, thì bà cũng ôm
mặt khóc nức nở.
- Vì sao mẹ lại lừa dối con? Vì sao một người cách mạng như mẹ
lại có thể sống trong sự dối trá? Con là con ai thì chỉ riêng mình mẹ biết
thôi. Thế mà mẹ lại giấu giếm. Hay cha con là kẻ phản động? Mẹ sợ bị khai trừ
ra khỏi tổ chức, sợ mất chức mất quyền ư? Vì sao mẹ lại phải nấp dưới một cái
bóng ma? Hoá ra con chỉ là một đứa con hoang. Thế mà mấy chục năm nay con cứ
hãnh diện tự hào vì có một người cha là liệt sĩ là chiến sĩ cách mạng. Thật là
dối trá, lừa đảo. Thật nhục nhã…
Mỗi tiếng đấm ngực thình thịch của Chu lại như nhát búa dội
vào tim bà Cam buốt nhói.
- Mẹ xin con… Con đừng nói nữa… Hãy tha lỗi cho mẹ…
- Thế thì ai tha lỗi cho con, một đứa con hoang đội lốt con một
chiến sĩ cách mạng? Thật là thô bỉ, hèn mạt. Trong khi hàng vạn thanh niên ra
trận, cả lớp bạn bè nằm lại Trường Sơn thì con cố tình khoác áo con liệt sĩ để
B quay, để đi nước ngoài bảo toàn tính mạng. Ôi, sao mẹ không cho con sống một
cách đàng hoàng? Mẹ và tất cả bạn bè đồng chí của mẹ đều hùa nhau đẩy con vào
con đường giả dối…
- Đừng nói thế. Mẹ cấm con không được nói thế - Bà Cam thấy
con trai đã bắt đầu đi quá đà.
- Mẹ còn oan ư? Sao mẹ có thể nhẫn tâm lừa dối tới ba mươi
năm? Ừ, thì con là đứa con hoang đi. Thì đã làm sao? Mẹ có quyền chửa đẻ với bất
cứ ai, miễn là có con. Con đâu cần cầu mong có một người cha làm đến chức này nọ.
Người cha cách mạng hay không cách mạng với con đâu có nghĩa lý gì? Cha con có
thể là một lão nông dân, một cu li xe. Không cần địa vị cao sang, chỉ cần là một
người lương thiện, có danh tính - Chu nhìn thẳng vào đôi mắt ngập nước của mẹ,
ôm lấy đôi vai mẹ mà lắc liên hồi.
Trong cái giây phút đau đớn ấy của đứa con, bà Cam bỗng nhận
ra một luồng ánh sáng cực mạnh chiếu vào tận nơi sâu thẳm nhất tâm hồn mình,
truyền cho bà một nguồn năng lượng kỳ diệu đủ thắng mọi lực cản mà bao năm nay
bắt bà phải im lặng. Dường như bây giờ, khi đứa con đã bóc trần lớp màn bí mật,
không còn gì cần che đậy, không còn gì phải giấu giếm, bà mới bắt đầu sống với
con người thực của mình, nhận ra con người thực của mình. Giống như một thứ quả,
như quả cây sở, cây cao su chẳng hạn, muốn chúng nảy mầm cho một lứa cây mới,
người ta phải đập vỡ lớp vỏ cứng bao bọc, thậm chí phải nhúng chúng vào nước
sôi trăm độ. Bóc trần một sự thật bao giờ cũng đau đớn, cực kỳ khó khăn. Bà Cam
đang tự bóc trần một lớp vỏ che đậy. Bà ngồi bệt xuống đất buông xuôi, như muốn
trút hết những gì mà lâu nay bà vẫn khoác trên mình.
- Cứ phỉ nhổ mẹ anh nữa đi… Tôi là kẻ hư hỏng, tôi đáng bị
nguyền rủa. Tôi hèn nhát và giả dối không dám khai ra người đã ngủ với mình.
Tôi không đáng là một người mẹ…
Thái độ thay đổi của Cam, những lời tự sỉ vả của bà, khiến
Chu bối rối. Trời ơi, sao mẹ bỗng già như một bà lão bẩy mươi thế kia? Anh chợt
nhận ra những sợi tóc bạc quá nhiều trên đầu mẹ. Anh thấy thương mẹ da diết,
anh nhận ra mình đã đi quá đà.
- Kìa mẹ. Con chỉ muốn biết sự thật thôi mà…
- Có những sự thật còn cay đắng hơn nữa mà chỉ mình mẹ biết.
Và mẹ phải chôn chặt trong lòng, có thể phải mang theo xuống mồ…
Bà Cam nói và nước mắt tuôn chảy lã chã. Bà chợt nghĩ tới Cục
đứa con đầu lòng tội nghiệp của bà, một mảng sự thật nữa, cay đắng ê chề nhưng
xa xót, đáng thương vô cùng mà có thể cho tới lúc xuống mồ bà vẫn giấu kín mang
theo. So với Chu, giọt máu hoang mà ngay sau đây bà dám công khai cho tổ chức
và bàn dân thiên hạ biết, thì Cục là một ẩn số của bài toán mà không nhà toán học
thiên tài nào, ngoài bà, có thể giải được. Ngay người cha đẻ nó, Trương Phiên,
đồn trưởng bốt làng Động, kẻ hàng ngày vẫn ra vào đánh tổ tôm với ông Lý Phúc,
hàng ngày chạm mặt thằng bé, cũng không nhận ra được giọt máu của mình. Chuẩn
tướng Trương Phiên giờ đã thành kẻ lưu vong, gia nhập tổ chức Việt Nam phục quốc,
suốt ngày ra rả trên đài BBC kêu gọi Việt kiều lật đổ chế độ cộng sản. Nếu tướng
Trương Phiên biết một mảng sự thật nữa của đời bà Cam bị bóc trần thì sẽ ra
sao? Nếu ngay bây giờ Cục cũng từ làng Động lên đây để bóc trần sự thật, để
phanh phui quãng đời bí ẩn nữa của bà, thì bà làm sao sống nổi? Trời ơi, một
người mang danh cộng sản như bà sao mà nhơ nhớp đàng điếm đến thế?
- Thôi, chị ơi, cháu nó có lỗi. Em xin chị… - Cậu Quách Liêu
xua tay rối rít, ra hiệu cho Chu hãy lánh đi.
Chu quỳ sụp xuống bên mẹ.
- Kìa mẹ. Xin mẹ đừng tự làm khổ mình như thế. Con van mẹ. Nếu
thấy không cần phải nói ra thì mẹ cứ giữ trong lòng…
Bà Cam vấn lại tóc, lau khô nước mắt.
- Giờ thì mẹ đã có thể yên tâm về con… Con đã đủ trưởng thành
để biết một sự thật. Hôm nay có cả cậu Quách Liêu, chị muốn cậu cùng nghe một sự
thật. Chu ơi, con hãy nghe mẹ nói đây. Con là kết quả của một tình yêu. Một
tình yêu không toan tính, không vụ lợi. Con có một người cha cũng đủ cho con tự
hào…
- Mẹ nói đi. Cha con là ai?
- Lẽ ra mẹ đã nói với con từ cái đợt con tập trung trên Suối
Hai để chuẩn bị khoác ba lô vào chiến trường. Nhưng vì nhiều lẽ. Vì mẹ không muốn
công danh sự nghiệp của cha con bị ảnh hưởng. Mẹ không muốn hạnh phúc gia đình
của cha con bị phá vỡ. Lại cũng đúng như con vừa nói, vì mẹ sợ bị khai trừ khỏi
tổ chức, mẹ hèn hạ đến mức sợ mất chức mất quyền… Con có nhớ người đã đến đơn vị
xin cho con đi Liên Xô học không?
- Đấy là bạn cùng tham gia cách mạng với bố Lê Thuyết…
- Bác Lê Thuyết hy sinh từ năm 1946 ở Hải Phòng. Cha con thuộc
lớp đàn em đi theo cách mạng, không thuộc thế hệ bác Lê Thuyết. Năm 1948 mẹ mới
gặp và yêu cha con như một thứ tình yêu ma ám, mê muội. Tên con là Kỳ Chu. Còn
tên thật của cha con là Nguyễn Kỳ Khôi…
Hoàng Minh Tường
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét