Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2024

Thơ suông lập nghiệp văn nhân hão huyền

Thơ suông lập nghiệp
văn nhân hão huyền

Nhà thơ Lương Định sinh ngày 27.5.1957 tại làng Bó Mạ, xã Đồng ý, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ông học và tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa (1977 – 1982).
Lương Định từng làm phóng viên Báo Lao động & Xã Hội thường trú tại Văn phòng phía Nam (TP.HCM) từ 1993 đến lúc nghỉ hưu (5.2017) và sống tại TP. HCM.
Ông có thơ đăng từ thời sinh viên Khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Bài thơ đầu tay “Mùa thu dưới lũng” xuất hiện trên Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội tháng 6.1981. Từ đó đến nay ông đã sáng tác hàng trăm bài thơ và xuất bản 4 tập thơ riêng: “Tương tư” (1991); “Núi và hòn đá lẻ” (1995); “Dòng sông khao khát” (2001); “Hồn núi” (2020). 
Nhà thơ Lương Định đã được nhận Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Núi và hòn đá lẻ” (1995); Giải C của Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Dòng sông khao khát” (2001); Giải Khuyến khích của Hội Văn học – Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Hồn núi” (2020).
VỚI PHÚ YÊN
“Hoa vàng trên cỏ xanh”
Xứ sở bình yên quá
Thêm một miền đất lạ
Ta lần đầu phiêu du
Mê hồn Ghềnh Đá Đĩa*
Tuyệt tác của trời ban
Xanh thẳm đầm Ô Loan
Thủy mặc tranh huyền thoại
Theo em về Tuy An
Ngoảnh lại thời xa ngái
Hồn người xưa giử lại
Đàn đá giờ âm vang
Sông Đà và núi Nhạn*
Tháp cổ ngàn năm soi
Cánh chim nào lẻ bạn
Phiêu bồng chiều đơn côi
Tàu xuyên đêm Đại Lãnh*
Ngọn Hải Đăng* dẫn đường
Dẫn mịt mùng bão biển
Luôn cập bờ yêu thương
Những con tàu không số
Chìm sâu lòng Vũng Rô*
Bãi bờ xanh mộ gió
Cốt hồn ngoài khơi xa
Xuân Đài* vịnh chiều buông
Hoàng hôn phơi vàng sống
Làm sao mà nắm níu
Biển với trời mênh mang
Ngược Vân Hòa cao nguyên
Dã qùy hoa rực rỡ
Mùa nối mùa không lỡ
Thu cuối ngày đông sang
Ta một lần Phú Yên
Gió và mưa lành lạnh
Tiếng chuông chùa Đá Trắng*
Vang vọng vào thinh không
* Các địa danh ở Phú Yên
ĐẾN PHÚ YÊN NHỚ NGYỄN MỸ
(Tưởng nhớ nhà thơ, liệt sĩ Nguyễn Mỹ)
Tôi đã đến quê ông
Phú Yên tràn nắng gió
Từng đàn chim giăng bay về núi Nhạn
Sông Đà Rằng in bóng tháp Chăm pa
Uy nghi và trầm mặc
Vang vọng trong lòng những câu thơ cháy bỏng
“Cuộc chia ly màu đỏ” *
Trưa một ngày sắp ngả sang đông” *
Bỗng hiện về những năm tháng khốc liệt chiến tranh
Bao người vợ tiễn chồng dằng dặc cuộc chia ly
Không thể đếm đong bao nhiêu giọt nước mắt
Bao nhiêu cuộc chia ly không ngày gặp mặt
Nhưng với ông và cả thế hệ ông
“Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ” *
Cháy trong thơ như ngọn lửa hồng
Vượt Trường Sơn ông mãi cuộc chia ly
Gặp ơi bông chuối đỏ tươi đỉnh đèo cao vẫn gọi
Ông tự tin sự diệu kỳ “như màu đỏ ấy” *
Tiếp sức ông bom đạn, sốt rừng
Giờ Tuy An đang rộ mùa dâu đỏ
Gần nửa thế kỷ rồi đất nước bình yên
Trà My ơi đâu mảnh đất ông nằm
Ngôi mộ ấy chỉ là ngôi mộ gió
Đồng đội đắp lên tưởng nhớ khói nhang ông
Thịt da đã hóa phì nhiêu đất Quảng
Hồn thiêng hóa sao trời đêm lấp lánh Tuy An
“Cuộc chia ly” luôn “chói ngời sắc đỏ” *
Nén nhang lòng xin thắp bái vọng ông
TỬ VI NGẪM NGHĨ
Văn Xương, Văn Khúc* tử vi
Luận ra vận số đôi khi thất thời
Khiếu thơ một chút lộc trời
Trải bao lận đận nên người thật may
Cháy hết mình cho đắm say
Sợ gì trả giá đọa đày xác thân
Tha hương dấn bước phong trần
Thơ suông lập nghiệp văn nhân hão huyền
Mơ gì lưu dấu tuổi tên
Mà sao canh cánh nỗi niềm trần ai
Từng qua cái hạn tam tai
Mới hay đời cũng gặp vài vận xui
Có đắng cay, có ngọt bùi
Đủ đầy cung bậc buồn vui kiếp người
Tử vi mệnh số định rồi
Nắng mưa sao tránh gầm trời bao la
Tử vi ngẫm nghĩ phận ta
Chiếu thơ trời phú, đào hoa trời đày
“Cây càng lặng, gió càng lay”
Đời ta liệu đã hết ngày bão giông?
NHỚ HOÀNG CẦM
Nhớ đôi lần vỉa hè Trần Hưng Đạo
Được rót rượu làng Vân cạn chén cùng ông
Tóc bạc trắng mắt xa xăm hoài niệm
Ông ngồi say Kinh Bắc
Se se Hà Nội cuối ngày thu
Rưng rưng Men đá vàng *
Ngậm ngùi sông Đuống
Tranh Đông Hồ * màu sắc vẫn tươi nguyên
Cỗ bài tam cúc * tình em – chị
Lá Diêu Bông * hư ảo mãi đi tìm
Ổi vườn xưa chín hái còn thơm
Nhưng rồi thời gian như gió mây
Em ngày một lớn, chị theo chồng
Cỗ bài tam cúc không bày nữa
Ngóng về sông Đuống nỗi đau quê
“Đa tình trong máu từ lên tám
Thi sĩ giời hành phận trớ trêu”
Lời ông nghèn nghẹn ngang hớp rượu
Nhớ ngày cưới chị khóc nhìn theo
Vài ba chén rượu góc vỉa hè
Hiện về năm tháng những thị phi
Yêu ông còn sợ ông hệ lụy
Nói chi uống rượu với bình thơ
Nhớ ông bái vọng trời kinh Bắc
Linh ứng mong tìm được Lá Diêu Bông
* Tên tác phẩm và những ý thơ của cố thi sĩ Hoàng Cầm
MÃI LỜI ĂN NĂN
(Tưởng niệm Cha 28 năm rời trần gian)
Dâng lên “lễ mọn lòng thành”
Nhang đèn bông trái con dành Cha đây
Chín phương trắng xóa trời mây
Ở đâu Cha hỡi ngày ngày con trông
Biết rằng: “có có không không”
Mà sao tan nát cõi lòng Cha ơi
Âm – Dương cách biệt mấy mươi
Trong mơ cầu được nói cười cùng Cha
Nhớ thời giáp hạt tháng ba
Cha tìm búng báng núi xa núi gần
Đường trần lầm lụi bước chân
Cha mong con được yên thân học hành
Khát khai con có phận danh
Một đời tâm sức Cha dành cho con
Bốn mùa quanh quẩn núi non
Cho thỏa chí, cho con phiêu bồng
Suối khe giờ đã hòa sông
Những điều ngày ấy cha mong chưa thành
Long đong phận, hư ảo danh
Sống đời con chỉ thiện lành đạo con
Bạc đầu chữ hiếu chưa tròn
Cha ơi con sẽ mãi còn ăn năn
LỜI CA NÀO XOA DỊU ĐƯỢC NỖI ĐAU
Khi trở trời vết thương đau nhức nhối
người thương binh già vừa uống rượu vừa ôm đàn hát
tự ru mình
hy vọng bớt cơn đau
Tôi láng giềng hơn mười năm thân thiết
nghe tiếng đàn giọng hát biết ông đau
những lúc ấy tôi đành ngồi bất lực
không cách nào gánh bớt được cho ông
Nghe ông hát biết lòng đang khắc khoải
dù ca từ không một chữ bi thương
cuộc chiến tranh ùa về trong ký ức
đồng đội ông nằm lại dọc Trường Sơn
Ông trở về sau ba lần phẫu thuật
đầu còn găm một mảnh đạn tới giờ
bao trận đánh có trận quên trận nhớ
lúc trở trời ôm đàn hát bâng quơ
Nhưng tôi biết trái tim ông nhức nhối
bài ca nào xoa dịu được nỗi đau.
31/8/2023
Lương Định
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tuổi chớm thu

Tuổi chớm thu Dòng nắng ấm rửa trôi màu lá cũ lá không vàng để mùa bước vào thu ào cơn mưa run lẩy bẩy trên cành gió đan vuốt … sợi thu và...