Cảm hứng thiên nhiên trong thơ
văn Trương Hán Siêu
Đinh Thị Phương Dung - Nguyễn Thị Hồng Vân
SV Ngữ văn khóa 08 - Đại học Văn Hiến
Thơ văn trung đại thường
mượn hình ảnh thiên nhiên để bày tỏ tình cảm, tư tưởng. Trong Lịch sử
văn học Việt Nam (tập 2), Bùi Văn Nguyên viết: Một điểm đặc
biệt trong thơ văn đời Trần là cảnh trí thiên nhiên muôn hình vạn trạng: Có thể
nói thiên nhiên hiện hình hầu hết dưới ngòi bút của các thi sĩ. Thi sĩ yêu
thiên nhiên, mô tả thiên nhiên và cũng có khi ký thác ở đó một ít tâm sự của
mình, hoặc vui, hoặc buồn tùy lúc, tùy nơi. [3, 79 - 80].
Khi tìm hiểu về thơ văn Trương Hán Siêu, chúng
ta cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của hồn thiêng sông núi Đại Việt. Ngoài tình
yêu nước và niềm tự hào dân tộc vốn có của một nhà Nho chân chính, trong ông
còn có cái chất lãng mạn của một thi sĩ. Chính vì vậy, yêu nước với ông còn là
tình yêu với thiên nhiên sông núi, ông gần gũi với thiên nhiên, cây cỏ, ông
nhìn ngắm và cảm nhận thiên nhiên tạo vật để có thể hoà mình vào đất nước đẹp
tươi mà ông tự hào. Ông họa hồn mình vào cảnh để cảnh trở nên một thực thể
sống, để có thể hiểu hết những thi vị của non sông quê hương.
1. Tác giả Trương Hán Siêu
Trương Hán Siêu ( ?- 1354) tự Thăng
Phủ, hiệu Độn Tẩu, Người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh phủ Trường Yên
(sau là xã Phúc Am huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) là người chính trực, bài
bác dị đoan, có tài văn chương và chính sự, vua gọi bằng thầy chứ không gọi
tên. [2, 380].
Ông xuất thân là môn khách của
Trần Quốc Tuấn, về sau ngài tiến cử ông với triều đình, năm Hưng Long thứ mười
sáu (1308), Trần Anh Tông cho làm chức Hàn lâm học sĩ. Dưới các triều đaị từ
Anh Tông (1293 - 1314) đến Dụ Tông (1341
- 1370) ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng. [4, 730].
Các tác phẩm của ông hiện còn lại không nhiều, gồm 17 bài thơ: Cúc
hoa bách vịnh(Vịnh hoa cúc còn 4 bài), Hoá Châu tác
(Thơ làm ở Hoá Châu), Dục Thuý sơn (Núi Dục Thuý sơn), Quá
Tống đô (Qua kinh đô nhà Tống). Về văn xuôi ông có 2 bài:Khai
Nghiêm tự bi ký (Văn bia chùa Khai Nghiêm) và Dục Thuý
sơn linh tế tháp ký(Bài ký tháp linh tế núi Dục Thuý sơn), hai bài
đều được viết bằng chữ Hán. Riêng hai quyển Hoàng triều đại điển và Hình
thư soạn chung với Nguyễn Trung Ngạn, bài biểu Tạ trừ Hàn lâm
viện trực học sĩ được dẫn trong Đại Việt sử ký toàn thư vàKiến
văn tiểu lục hiện nay vẫn lưu lạc và chưa tìm thấy.
Thơ văn Trương Hán Siêu đậm chất yêu nước
và lòng tự hào về lịch sử với những chiến công oai hùng của dân tộc ta, ở đó là
những suy tư của bản thân ông trước thời thế hiện tại. Và hơn hết, ở đó còn là
bức tranh thiên nhiên muôn màu muôn vẻ mang đến cho độc giả nhiều xúc cảm khác
nhau.
Cảm hứng về thiên nhiên, với sự đẹp đẽ
thơ mộng làm tâm hồn nhạy cảm của người thi sĩ thăng hoa, do đó, hiếm có thi sĩ
nào có thể thờ ơ trước vẻ đẹp của một thiếu nữ đang xuân thì mang tên: Thiên
nhiên.Với Trương Hán Siêu cũng vậy, ông đi nhiều nơi và biến mình thành một lữ
khách để có thể cảm nhận cảnh đẹp non sông như những bậc tiền nhân xưa kia.
Nhưng với ông, trong tình yêu thiên nhiên không đơn giản chỉ là việc thưởng nguyệt
xem hoa, là túi thơ bầu rượu mà đó là một tình yêu mang nỗi niềm khát khao. Ông
muốn hoà mình vào thiên nhiên để có thể cảm nhận đầy đủ mọi cung bậc tuyệt vời
của tạo hoá
2. Một thiên nhiên
thơ mộng, tươi đẹp
Thiên nhiên trong mắt Trương Hán Siêu đều
là cái hữu thực, không chỉ là cảnh trí giăng bày ra trước mắt, mà nó chính là
cái đẹp mà thiên nhiên tạo dựng qua ngàn đời. Như chính ông phô bày trong vai
một người "khách" ở bài Bạch Đằng giang phú, hầu
như cả một đời, ông đã coi lẽ sống của mình là ngược xuôi đi tìm đến mọi danh
lam thắng cảnh. Con sông Bạch Đằng hiện hữu ra trước mắt, nó mềm mại đắm mình
trong sương khói mờ ảo, tất cả như ngừng đọng trước thời gian bất diệt và đâu
đây chỉ còn lại yên tĩnh thanh bình cùng người lữ khách:
"Khách hữu:
Quải hãn mạn chi phong phàm;
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên Tương;
Cửu Giang, Ngũ Hồ; Tam Ngô, Bách Việt,
Nhân tích sở chi; mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân - Mộng giả sổ bách,
Nhi tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã."
(Khách có kẻ,
Giương buồm giong gió khơi vơi;
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt;
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người qua đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân - Mộng chứa vài trăm trong dạ đã nhiều,
Mà tráng chí tứ phương vẫn còn tha thiết.)
(Bạch Đằng giang phú)
"Khách có kẻ" trong Bạch
Đằng giang phú là nhân vật trữ tình, và đó không ai khác mà chính là
Trương Hán Siêu. Xưa nay, tác giả các bài Phú thường gắn mình vào nhân vật
"Khách" để có thể đứng ở cương vị một người thưởng thức mà
giãi bày tâm tình.
Chín câu đầu cho thấy "khách"
với tâm hồn phóng khoáng, "chơi vơi" theo cánh buồm, làm bạn
với gió trăng qua mọi miền sông nước, sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn
thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần.Đêm thì "chơi trăng mải miết",
ngày thì "gõ thuyền chừ Nguyên Tương, lần thăm chừ Vũ Huyệt".
"Khách" đã đi nhiều và
biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ
Hồ, Tam Ngô, Bách Việt... Tất cả đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh
mông và dường như đều đã được "khách" biết đến. Tất cả đã nói
lên một cá tính, một tâm hồn: Yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm
niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình
rằng: "Nơi có người qua, đâu mà chẳng biết", bản thân đã
đi rất nhiều nơi và biết nhiều chỗ.
"Hung
thôn Vân - Mộng giả sổ bách,
Nhi tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã."
Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp
mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và "tráng
chí bốn phương" mới có thể "giương buồm...lướt bể" đi
tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh ở Trung Quốc.
Thế mà "Khách" đã "chứa vài trăm trong dạ",
tức đã thăm thú nhiều lần, đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự, nhưng
dường như bấy nhiêu vẫn chưa đủ, vẫn chưa thoả lòng của "khách"
và vẫn còn rất tha thiết với bốn phương trời.
Phần đầu bài phú với ngôn từ, lời lẽ
khoáng đạt nhẹ nhàng khiến cho độc giả cảm nhận được rằng vịthi sĩ đang rất thư
thái thả mình, để cảm nhận vẻ đẹp của non nước hữu tình. Từ đó nói lên cốt cách
kẻ sĩ: Chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ "nhàn" làm trọng,
gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường ở đời mà hướng tới cái thanh cao thuần
khiết.
Nhưng liệu rằng Trương Hán Siêu đã đi hết
qua các danh lam thắng cảnh trên chưa hay chỉ là sự tìm hiểu, hiểu biết qua
sách vở, qua những dòng lịch sử ? Hay có lẽ đó chỉ là cách phô diễn quen thuộc
có tính chất ước lệ để tác giả gían tiếp nói về cái chí khí của mình, để nhấn
mạnh hơn đặc điểm thích du ngoạn của nhân vật "khách". Có lẽ
chính vì vậy mà thiên nhiên như cái đích tìm kiếm của ông.
"Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường chí viễn du.
Thiệp Đại - Than khẩu; tố Đông - Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang, thị phiếm thị phù"
(Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, nổi trôi mặc chèo.)
Đến giữa con sông, vị thi nhân thả con thuyền
mình theo nhẹ trôi làn nước, mặc cho mái chèo bồng bềnh, như muốn đắm mình
trong dòng chảy thời gian. Ông bắt chước "thú tiêu dao" của Tử
Trường tức Tư Mã Thiên, một nhà viết sử nổi tiếng của Trung Quốc trước khi bắt
tay cầm bút đã đi khắp mọi nơi đầu sông cuối bể nhằm nuôi dưỡng tình cảm và thu
nhận kiến thức. Trương Hán Siêu giong thuyền "Qua cửa Đại - Than, ngược
bến Đông - Triều/ đến sông Bạch Đằng", ngược xuôi khắp mọi nơi và dừng
chân cảm nhận vẻ đẹp sơn thủy hữu tình nơi đây.
Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh có lẽ chỉ
mang tính tượng trưng ước lệ, hư ảo thì đến đây mới là địa danh thực, hiện hữu
trước mặt. Tác giả đã đưa ra một cái tên Bạch Đằng, một con sông đang hiển hiện
trước mắt với tất cả vẻ đẹp và sức thuyết phục, một con sông mang rất nhiều màu
sắc.
"Tiếp kinh ba ư vô tế,
Trảm chiêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc; phong cảnh tam thu."
(Lớp lớp sóng kình muôn dặm
Xanh xanh đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc: phong cảnh ba thu.)
Bằng ngòi bút điêu luyện tác giả
như đang dần vẽ lên một bức tranh phong cảnh hữu tình tuyệt đẹp làm đắm say
lòng người. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng từ láy "lớp lớp",
"xanh xanh" để hoạ lên con sông Bạch Đằng mềm mại với cái màu
dịu dàng xanh mướt của núi non xung quanh. Tất cả vẻ đẹp như lớp lớp, tầng tầng
nối tiếp nhau không bao giờ dứt. Trước mắt người "khách" bây
giờ con sông Bạch Đằng cùng trời nước mây núi đã hoà làm một tạo nên vẻ đẹp
lung linh thơ mộng.
Các câu chữ mượt mà lắng đọng
trong khung cảnh "nước trời một sắc", rồi bất chợt, như quay
ngược dòng thời gian, trong mắt tác giả không còn là con sông mượt mà sắc hương
mà là:
"Chử địch ngạn lô; sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trần giang; khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc; trữ lập ngưng mâu."
(Bờ lau xào xạc, bến lách đìu hiu
Sông chìm giao gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu.)
Khung cảnh bỗng chốc biến đổi, bức tranh
thơ mộng thay thế bằng cảnh sầu thương của một thời, "khách"
đứng lặng hồi lâu rồi như chìm về dòng quá khứ năm xưa:
"Thử
Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã."
(Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng
nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.)
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.)
Thì ra Bạch Đằng hiện diện trước
mắt không phải chỉ chứa đựng vẻ đẹp trữ tình man mác gợi bao nhiêu nỗi niềm cho
du khách, mà nó còn tiềm ẩn cả vẻ đẹp hào hùng, dữ dội của hai trận thắng oanh
liệt trong hai thời đại. Quả một bức tranh sóng đôi của lịch sử đất nước chống
xâm lăng, một bức tranh vừa đẹp vừa tình những cũng không kém phần oanh liệt
hào hùng.
Trương Hán Siêu đã lột tả con sông
với hai màu sắc, hai vẻ đẹp khác nhau. Ở đó không chỉ là vẻ đẹp mang sự gợi
tình, làm lắng đọng lòng người, cũng không chỉ là những lớp sương khói hư ảo
với những nét cổ kính hoang sơ mà còn là sự oai hùng một thời, là nhân chứng
sống, là bức tranh lịch sử về hai cuộc kháng chiến oanh liệt của nước nhà. Và
phải chăng ở đây tác giả cũng đã thấy được sự đồng điệu với Tử Trường, du lịch
thăm thú mọi nơi không chỉ để ngắm nhìn vẻ đẹp thơ mộng của tạo hoá, không chỉ
để ngắm hoa thưởng trăng mà còn là để hướng về cội nguồn, hướng về lịch sử để
từ đó ngợi ca những trang vàng của lịch sử nước nhà.
Cùng một mạch suy nghĩ,
Trương Hán Siêu từng viết trong bài Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký rằng: "Ngô
hương đa thắng cảnh, thiếu thời du lãm, túc tích đãi biến..." (Quê
ta nhiều cảnh đẹp, thuở thiếu thời dạo chơi in dấu chân hầu khắp). Dấu chân
ấy đi nhiều nơi, để thoả mãn thú "tiêu dao" để đưa tầm nhìn
vượt lên rất xa, qua khỏi con mắt thế tục để tìm thấy mối tương quan giữa tạo
tác của thiên nhiên và sự hiện diện của con người, đó như là một sự bổ sung,
tiếp nối, qua lại giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, cái chốc lát và cái trường
tồn theo năm tháng:
(...Từ một tấc đến
một thước, từ một thước đến một nhân, một bước tiến thêm một bước, một tầng cao
thêm một tầng. Tới lúc tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp
của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hóa...) (Băng Thanh, Huệ Chi
dịch)
Trong con mắt Trương Hán siêu bây giờ,
mọi thứ như hoà làm một, ngọn tháp trên núi Dục Thuý cao sừng sững, như in vào
nên trời xanh, hoạ thêm cho vẻ đẹp non sông. Ông tin rằng, mọi sự biến diệt cứ
diễn ra theo quy luật của dòng thời gian, nhưng theo đó con người sẽ không bao
giờ chịu đầu hàng để cho hóa công đào thải theo quy luật tang thương dâu bể vốn
có:
"Y, hậu thử giả hựu kỷ bách
niên, phủ ngưỡng biến diệt, trùng hữu phát dư trường khái, ninh vô Nhu đẳng bối
sổ nhân, hà khả tất dã!"
(Than ôi! Mai sau mấy trăm năm nữa, chốc lát
cảnh tượng biến đổi; nếu lại có kẻ buông lời than thở như ta lẽ nào không có
vài người như sư Nhu xây dựng lại? Việc ấy không đoán trước được.)
Ông đã có tầm đứng của một tư cách
kép: một triết nhân và một thi nhân, có tư duy triết lý quyện lẫn với cảm xúc
trữ tình:
"Nhược phù thúy nghiễn thương ba, giang không
tháp ảnh, nhật mô biêu chu, phiêu nhiên kỳ hạ, thôi bồng ngạo nghễ, dát thuyền
huyền nhi ca Thương lang, tố Tử Lăng nhất ti chi thanh phong, phỏng Đào Chu Ngũ
chi cựu ước; thử cảnh, thử hoài, duy dư dữ thử giang sơn tri chí"
(Non xanh nước biếc, bóng tháp in dòng, lúc
chiều tà buông chiếc thuyền con lênh đênh dưới núi, nâng mái bồng nhìn quanh
ngạo nghễ, gõ mạn thuyền ca khúc Thương Lang, thử sợi dây câu tìm phong cách
thanh cao của Tử Lăng, dạo chơi Ngũ Hồ hỏi ước cũ của Đào Chu thì cảnh này tình
này duy có ta với non sông này biết nhau mà thôi.)
Cảnh đẹp sơn thủy hữu tình hiện ra trước
mắt, phơi bày sự thanh bình, êm dịu, non xanh nước biếc bóng tháp in dòng thật
lung linh huyền ảo. Giờ đây, vị thi nhân cũng nhẹ nhàng thả mình trong buổi
chiều êm ả với thuyền con câu cá. Ánh chiều tà phảng phất, như nhuộm thêm vẻ
lung linh, huyền ảo của ngọn tháp sừng sững oai nghiêm kia, như khẳng định mình
trong núi non đất nước. Trước vẻ đẹp ấy, Trương HánSiêu học thú vui của Tử
Lăng, "thử sợi dây câu tìm phong cách thanh cao" để vứt bỏ mọi
thứ lại sau lưng, để đắm mình trong thanh bình êm ái. Dường như cảnh đẹp này,
tình này chỉ có ông "với non sông biết" với nhau mà thôi.
Xưa nay, thiên nhiên luôn là người bạn tri âm
tri kỷ của các vị thi sĩ nói chung cũng như Trương Hán Siêu nói riêng, vì vậy,
thiên nhiên trong ông mang một vẻ đẹp trong sáng, hữu tình. Ở đó là vẻ đẹp oai
hùng kỳ vĩ của đất trời Đại Việt, là cảnh núi sông, gió mây, là chiếc thuyền
con in dòng bóng nước cùng tất cả vẻ đẹp mà đất mẹ đã tạo dựng để tô đậm thêm
cho cảnh sắc nước nhà.
Trong bài Dục Thuý sơn, một
lần nữa Trương Hán Siêu lại phóng bút vẽ nên ngọn núi xanh mướt hữu tình:
"Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi..."
(Sóng in bóng tháp bồ đề
Mở toang cửa động liền kề chân mây...)
(Trần Văn Giáp dịch)
Sông, núi, mây trời như hoà làm
một, chân mây liền kề sông nước, có lẽ nào nơi đây là bậc thang giao hoà giữa
trời và đất, giữa cảnh thần tiên và trần thế. Tất cả đan xen nhau tạo nên bức
tranh thuỷ mặc tuyệt đẹp, có lẽ non sông gấm vóc hữu tình cũng chỉ đến nhường
này mà thôi:
Nước non Non Nước như thơ,
Ai về Dục Thúy chẳng ngơ ngẩn lòng
Ai về Dục Thúy chẳng ngơ ngẩn lòng
Trên thì núi, dưới thì sông
Cúc vàng còn đó, hương nồng còn đây
Cúc vàng còn đó, hương nồng còn đây
Theo sử sách, Trương Hán Siêu chính
là người đặt tên cho núi Non Nước là núi Dục Thuý và ông chính là người khai
thác ra vẻ đẹp mà tạo hoá đã ban tặng cho nơi đây. Bài thơ Dục Thuý sơn được
tác giả khắc hoạ vào đá như một công trình điêu khắc tuyệt vời, đây cũng chính
là nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thi nhân sau này đến đây thưởng ngoạn
ngao du và làm thơ.
3. Một
thiên nhiên dịu buồn, sâu lắng
Đứng trước con sông Bạch Đằng, tác giả
như quay ngược thời gian để trở về với quá khứ. Từ miêu tả trữ tình cảnh thiên
nhiên đất trời thơ mộng, "khách" chuyển sang tự sự, ngôn ngữ
sống động biến hoá hẳn lên, cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên
dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng:
"Giang biên phụ lão, vị ngã hà cầu?
Hoặc phù lê trượng, hoặc trạo cô châu.
Thử Trùng Hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã"
(Bạch Đằng giang phú)
(Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu.
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau.
Vái
ta mà thưa rằng:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.)
Nơi đây đã bao lần quân thù tan tác bỏ
chạy, đầu hàng trước một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường. Oai phong là thế, hào
hùng là thế, tưởng chừng như mọi vật còn trường tồn mãi mãi, thế mà phút chốc,
tất cả tan biến, chỉ còn lại sự cô quạnh hiu vắng cùng thiên nhiên sông nước
với con người mang nặng tâm tư:
"Chử ngạn lô: sắt sắt sâu sâu,
Chiết kích trần giang: khô cốt doanh khâu."
(Bờ lau xào xạc bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô.)
Thực tại phũ phàng, giờ đây tất cả chỉ
còn lại tro tàn của cuộc kháng chiến oanh liệt khi xưa. Hai bờ sông, lau lách
xào xạc mang một vẻ đìu hiu buồn bã, và trong cái không gian mờ ảo như hiện lên
bãi chiến trường xưa kia đang phơi bày những "giáo gãy",
"xương khô" mọi thứ tiêu điều biết bao. Phải chăng tất cả đều
đã bị lớp bụi thời gian phủ lên mất rồi, vị thi nhân chỉ còn có thể thốt lên
rằng:
"Thảm nhiên bất lạc, trữ ngập ngừng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu!"
(Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Mà nay dấu vết luống còn lưu.)
Một tâm trạng buồn, thương tiếc, một cảm
xúc "đứng lặng giờ lâu" của "khách", tất cả
đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc đối với nhân dân,
với những anh hùng khi xưa đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của
dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung "Uống nước nhớ nguồn"
xuất phát từ tâm hồn đồng cảm nơi tác giả.
Hiện tại và quá khứ cứ đan xen
nhau, khiến thi nhân như rơi vào trạng thái mơ màng, bâng khuâng. Sự vấn vương
ở đây có chút gì đó làm lòng người nặng trĩu khi nghĩ đến dòng chảy của thời
gian và thói vô tình dễ quên của người đời. Những âm hưởng trữ tình đối lập
trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm, rồi bất giác, tác giả nhận ra
rằng, sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái
đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ
tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, vì lẽ đó mà đâu đây
trên con sông "dấu vết luống còn lưu" lại với hậu thế cho đến
ngày hôm nay.
Vẻ đẹp thiên nhiên dưới con mắt Trương Hán Siêu
không phải lúc nào cũng một màu xanh tươi mát, không phải lúc nào cũng bồng
bềnh lãng du cảnh thần tiên và không phải lúc nào cũng oai nghiêm hùng vĩ, mà
nó còn thoáng đượm một màu sắc buồn dịu nhẹ. Trong bài Hoá Châu tác ông
viết:
"Ngọc kinh hồi thủ ngũ vân thâm,
Linh lạc tàn sinh khổ bất câm (cấm).
Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt
Hải thiên thảo mộc cộng sầu ngâm."
(Ngoảnh lại năm may phủ đế đô,
Hồn tàn bao xiết khổ bơ vơ.
Thôi đành cõi rậm vùi xương bệnh,
Cây cỏ chung sầu cũng hoạ thơ.)
(Hoa Bằng dịch)
Như đã nói ở phần trên, bài thơ này được
sáng tác lúc ông làm chức Chiêu dụ đại sứ Hoá Châu, nay là đất thuộc Bình - Trị
- Thiên. Lúc này ông mang trong mình trọng bệnh, phải chăng vì thấy trước cảnh
"ngày tàn" của mình và sự suy vong đang diễn ra của triều đại
hưng thịnh một thời nên trong mắt vị thi sĩ lãng tử ngày nào, đất trời giờ đây
chỉ còn lại một màu tiêu điều ảm đạm của cỏ cây xơ xác. Phải chăng thiên nhiên
như đang đồng cảm, đang "chung sầu hoạ thơ" cho số kiếp của vị
thi nhân nên đã khoác lên mình một màu áo ảm đạm u hoài. Như cảm thấu điều ấy,
ông đã có sự chuẩn bị trước cho mình cái "chốn hoang vu để chôn vùi nắm
xương ốm yếu", lời thơ nhẹ nhàng mang tâm sự u hoài, đượm buồn biết
bao.
Bên cạnh việc miêu tả vẻ đẹp của đất trời
đại việt, Trương Hán Siêu còn miêu tả những khung cảnh đất nước Trung Quốc
trong lần ông phụng mệnh đi sứ.
"Cấn nhạc Thần tiêu thất cố ky,
Mang mang yên thảo một hồ li..."
(Qua Tống đô)
(Núi cấn cung thần đã mất rồi,
Mênh mông cỏ biếc cáo chồn chui.)
(Đào Phương Bình dịch)
Đứng trước phong cảnh mênh mông bao
la, thiên nhiên như tác nhân gợi lên nỗi niềm tâm sự với thi sĩ. Tác giả ngậm
ngùi trước bức tranh đẹp xưa kia giờ chỉ còn một màu hoang sơ, tiêu điều, cung
Cấn núi Thần đã biến mất mà thay vào đó là cảnh đồng hoang mênh mông khiến lòng
người dấy lên niềm cảm thương, tiếc nuối.
Kết luận
Thiên nhiên trong thơ văn Trương
Hán Siêu không cầu kỳ, kiêu sa ước lệ như thơ Đường Trung Quốc mà đó là những
hình ảnh rất bình dị, nhẹ nhàng và gần gũi với nhân dân ta. Bức tranh thiên
nhiên mà ông họa nên cũng là những bức tranh tậm trạng của chính bản thân ông
về thời thế. Cảnh và tình luôn hài hoà làm một, tạo nên những câu chữ nhẹ nhàng
nhưng mang đầy ý nghĩa sâu lắng.
Bên cạnh tình yêu nước và tự
hào dân tộc, thơ văn Trương Hán Siêu còn thể hiện một tình yêu tha thiết với
thiên nhiên đất trời. Ngòi bút tài hoa của ông như vẽ lên những khung cảnh
thiên nhiên với núi sông thật thơ mộng thướt tha, với những vùng quê bình yên
dịu dàng lãng mạn nhưng cũng không kém phần hùng vĩ với dòng sông Bạch Đằng một
thời oanh liệt cùng nhân dân, với những ngọn núi cao sừng sững mà đất trời ban
tặng cho núi sông Đại Việt mà tô điểm trên đó là những ngọn tháp oai nghiêm do
con người tạo dựng, như gián tiếp khẳnh định sức mạnh của dân tộc ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), (1998), Thơ văn Lý - Trần,
quyển thượng, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Ngô Sĩ Liên (1967), Đại Việt sử ký toàn thư, (bản
in Nội các quan bản - Mộc bản khác năm Chính Hòa thứ 18), tập 2, Hoàng Văn Lâu
dịch và chú giải, Hà Văn Tấn hiệu đính, tái bản 2004, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Bùi Văn Nguyên (chủ biên), (1989), Lịch sử văn học Việt
Nam, (tập 2), (thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII), Giáo dục, Hà Nội.
4. Trần Mạnh Thường (2008), Các tác giả văn chương Việt
Nam, tập 2,Văn hoá, thông tin.
5.
http://baoninhbinh.org.vn/news/46/2DE209/Nui-Non-Nuoc-va-sac-vang-hoa-cuc.
6. http://songvan.net/Thread-Nui-tho-Duc-Thuy.
phamngochien.com
đặt vé máy bay eva airline
vé máy bay đi mỹ khoảng bao nhiêu
korean air vietnam office
vé máy bay đi mỹ bao nhiêu tiền
vé máy bay đi canada giá bao nhiêu
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich