Chiều nay sương khói lên khơi...
Trong những ca khúc đầy
tâm trạng hoài hương, mang nỗi buồn man mác như: Làng tôi (Chung
Quân), Hướng về Hà Nội(Hoàng Dương), Quê mẹ (Thu
Hồ), Làng tôi (Văn Cao), Ngày về (Hoàng
Giác)... thì Thuyền viễn xứ của Phạm Duy dù có buồn nhưng giai điệu khác hẳn:
lạ hơn, sang trọng hơn...
Bạn thân của tôi, nhà
báo Trần Thanh Bình, có một giọng hát khá tốt cho nên trong những lúc ngà ngà
cuộc bia thường được đề nghị hát giúp vui (không đề nghị... cũng hát), và hầu
như lúc nào anh cũng cất lên: “Chiều nay sương khói lên khơi. Thùy dương rũ bến
tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giang thuyền qua xứ người. Thuyền
ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa. Hò ơi, giọng hát thiên thu.
Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về...”(Thuyền viễn xứ). Giọng hát nghiệp dư
của Trần Thanh Bình chỉ cỡ đó, nhưng cũng đủ làm xuyến xao tâm hồn người nghe,
nói chi được thưởng thức tiếng hát của những danh ca như Thái Thanh, Sĩ
Phú.
Bài thơ của một cô gái
Thế nhưng, nhiều người
chỉ biết Thuyền viễn xứ là của Phạm Duy chứ chẳng mấy ai để ý
rằng đây là một ca khúc phổ nhạc, dù trên bìa bản nhạc (thời đó, từ đầu thập
niên 1940 cho đến 1954 trong toàn quốc, cả Cao Miên, và từ 1954 đến 1975 ở miền
Nam, những bản nhạc được xuất bản dưới hình thức in rời bằng giấy cứng khổ lớn
in 2 mặt, gấp lại ở giữa), Thuyền viễn xứ được cả hai nhà xuất bản Tinh Hoa và
Á Châu ấn hành đều ghi rõ: nhạc: Phạm Duy, thơ: Huyền Chi.
Huyền Chi là bút danh
của Hồ Thị Ngọc Bút, sinh năm 1934 tại Từ Sơn (Bắc Ninh), theo gia đình vào Nam
từ trước năm 1954. Lúc mới vào Nam (1948-1949), cô ở với chị gái tại Đà Lạt,
sau đó về Sài Gòn (1950) vừa đi học vừa phụ mẹ trông nom sạp vải ở chợ Bến
Thành. Bài thơ Thuyền viễn xứ là một trong 22 bài thơ nằm trong tập thơ Cởi mở
của Huyền Chi xuất bản năm 1952, trong thời gian cô sinh hoạt với một nhóm văn
nghệ sĩ trẻ và làm thư ký tòa soạn chuyên trách mục thơ cho Tạp chí Phụ Nữ của
bà Nguyễn Thị Lan Phương. Và đây là nguyên văn bài thơ Thuyền viễn xứ,
mà tác giả là một cô gái 18 tuổi:
Ra khơi sương khói một
chiều/Thùy dương rũ bến tiêu điều ven sông/Lơ thơ rớt nhẹ men lòng/Mây trời pha
ráng lụa hồng giăng ngang/Có thuyền viễn xứ Đà Giang/Một lần dạt bến qua ngàn
lau thưa/Hò ơi! Câu hát ngàn xưa/Ngân lên trong một chiều mưa xứ người/Đường về
cố lý xa xôi/Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang/Sau mùa mưa gió phũ
phàng/Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa/Lệ nhòa như nước sông Đà/Mái đầu
sương tuyết lòng già mong con/Chiều nay trời nhẹ xuống hồn/Bao nhiêu sương khói
chập chờn lên khơi/Hai bờ sông cách biệt rồi/Tần Yên đã nổi bốn trời đao
binh/Ngàn câu hát buổi quân hành/Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa/Biết bao
thương nhớ cho vừa/Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương/Chiều nay trên bến muôn
phương/Có thuyền viễn xứ lên đường... lại đi...
Duyên văn nghệ
Tuy lời thơ có vẻ... cổ
phong (vốn là chuẩn mực vào thời đó) nhưng vẫn toát lên một nỗi buồn man mác.
Bố cục bài thơ cũng rất “chắc tay”, hồn thơ tinh tế. Tập thơ vừa in xong tại
nhà in Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo thì tình cờ Huyền Chi gặp nhạc sĩ Phạm
Duy khi ông đến thăm bà Đào (chủ nhà in). Cô ký tặng nhạc sĩ tập thơ Cởi mở.
Cũng nghĩ là chút duyên văn nghệ thế thôi, bởi đó là lần gặp gỡ duy nhất giữa
hai người. Vậy mà người được tặng tập thơ đã chọn một bài thơ lục bát rất...
truyền thống trong tập thơ ấy để phổ thành ca khúc. Điều đáng nói là nhạc sĩ
Phạm Duy đã trổ tài “phù thủy” khiến trong ca khúc phổ thơ của ông, khó ai tìm
thấy bóng dáng của thể loại lục bát. Đã vậy, đoạn giữa được chuyển qua âm giai
trưởng nghe vừa xa vắng, vừa rạo rực mênh mang: “Nhìn về đường cố lý, cố lý xa
xôi. Đời nhịp sầu lỡ bước, Bước hoang mang rồi. Quay lại hướng làng, Đà Giang
lệ ướt nồng. Mẹ già ngồi im bóng. Mái tuyết sương mong con bạc lòng...”.
Trong quyển Hồi
ký Phạm Duy (tập 3, ấn bản 2008), tác giả viết: “Gần hai năm đã trôi
qua kể từ khi tôi bỏ vùng quê vào Hà Nội, rời miền Bắc vào miền Nam, lo ổn định
nơi ăn chốn ở và thu xếp công kia việc nọ ở Sài Gòn... Vào thời điểm này (trước
cuộc di cư 1954), Huyền Chi, một cô em bán vải ở chợ Bến Thành đưa cho tôi phổ
nhạc bài thơ nhan đề Thuyền viễn xứ. Bài thơ này nói lên tâm trạng một người
Bắc Việt phải rời bỏ bến Đà Giang để vào sinh sống tại miền Nam. Phổ nhạc xong
bài thơ nhớ miền viễn xứ, trong tôi lại nổi dậy sự viễn mơ của bài Bên cầu biên
giới năm xưa, tôi bèn soạn bài Viễn du...”.
Huyền Chi lập gia đình
với giáo sư Trần Phụng Tường vào năm 1954, và theo chồng ra Phan Thiết, nơi ông
đang dạy Pháp văn ở Trường trung học Phan Bội Châu. Ở đây bà mở hiệu sách Bút
Hoa và dạy Anh văn.
Nguyễn Phước Thị Liên,
một cựu học sinh của Trường trung học Phan Bội Châu, đã “vẽ lại” chân dung của
Huyền Chi như sau: “Huyền Chi là một phụ nữ đẹp, tài sắc vẹn toàn. Cô có nước
da trắng khỏe, dáng người cao, gương mặt tươi, miệng cười hiền hậu dễ mến, tà
áo dài màu thiên thanh đài các trong những chiều lộng gió, khi thầy cô sánh vai
giữa thành phố Phan Thiết, đã làm xao xuyến bao tâm hồn nữ sinh lúc bấy giờ...”
(Kiến Thức Ngày Nay số 768 tháng 12.2011).
Sau 1975, gia đình bà
Huyền Chi chuyển vào Sài Gòn. Bà hiện vẫn còn sống tại đây, còn chồng bà - ông
Trần Phụng Tường mất năm 2010. Trong 7 người con của hai ông bà có 4 người hiện
ở Việt Nam, 3 người ở nước ngoài. Chắc chắn những người con ở xa quê này cũng
sẽ có tâm trạng như mẹ của mình vào hơn nửa thế kỷ trước, khi: “Chiều nay gửi
tới quê xưa. Biết là bao thương nhớ cho vừa. Trời cao chìm rơi xuống đời. Biết
là bao sầu trên xứ người. Mịt mờ sương khói lên hương. Lũ thùy dương rủ bóng
ven sông. Chiều nay trên bến muôn phương. Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên
đường...” (Thuyền viễn xứ).
Thuyền viễn xứ - Phạm Duy
Thái Thanh
eva airline vietnam
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
phòng vé korean air tại tphcm
tìm vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich