Vết thù trên lưng ngựa hoang - Phạm Duy - Ngọc Chánh
Sầu đau cắt trên lưng ngựa hoang
Một vết đau không hề biết nói
Một vết đau không bao giờ khỏi
Khi mộng đời phút chốc hóa điêu tàn
Mang vết thương rong ruổi thảo nguyên đời
Trái tim non trẻ bây giờ già cỗi
Xác thân trượt dài trên dốc thời gian mòn mỏi
Vết thương giờ thành sẹo-đau khôn nguôi
Đồng loại vô tình...cuộc đời ngoảnh mặt
Ngựa hoang buồn...nỗi buồn được - mất
Được một cuộc tình nhưng rồi để mất
Nên vô tình để lại vết thương đau
Gánh cuộc đời...oằn lưng...lê bước
Ân huệ phải chìa tay xin - mất đi niềm kiêu hãnh
Rồi đau lòng vì đời chỉ cho bất hạnh
Ngước mặt nhìn đời , nghĩ thân phận mà đau
Ai xóa dùm tôi vết thương sầu...
Trên lưng ngựa hoang...vẫn xót xa mong ai
Cho tấm lòng nhưng không phải lòng thương hại
Bản Nhạc Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang xuất
xứ từ tác phẩm cùng tên của nhà Văn Duyên Anh.
Nhân vật chính trong tác phẩm này mang tên là
Hoàng, đờn guitare rất giỏi nên có biệt danh là Hoàng guitare, Hoàng là một
thành viên cốt cán của một băng du đãng thời bấy giờ, sau đó muốn hoàn lương,
về mở lớp dạy đàn, nhưng đồng bọn cũ không muốn vậy, vẫn muốn lôi kéo anh vào
những việc bất chính. Và để rồi một hôm, đẻ giải quyết một vài khó khăn trong
cuộc sống, Hoàng đã nhận lời làm một vụ cuối cùng và bị lộ, những phát đạn oan
nghiệt cắm sâu vào lưng Hoàng như những vết thù đời không bao giờ xoá được và
cũng chấm dứt kiếp ngựa hoang.
Trước đây, bài hát Ngựa Hoang (Nhạc sĩ: Phạm
Duy) được làm Nhạc nền cho phim, do tài tử Việt Nam là Trần Quang đóng, (Còn em
út của Trần Đại do hề râu Thanh Việt đóng vai phụ). Câu chuyện phỏng theo nhân
vật Trần Đại – biệt danh là Đại Cathay, trùm du đãng Sài Gòn – có lần đụng độ
với Thiếu tá Long, cảnh sát trưởng Sài Gòn – Gia Định
Có thể bài hát Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa
Hoang cũng được viết để đề cập đến tay anh chị trùm du đãng Mã Thầu Dậu ở Chợ
Lớn (Vì họ Mã cũng là ngựa?). Ngày xưa, có rất nhiều tay anh chị như Dzũng
ĐaKao, tướng cướp Bạch Hải Đường,… bắt chước Anh hùng Lương Sơn Bạc, hay Robin
Hood, họ là những Anh hùng cô thân độc mã, hào hoa, giang hồ mã thượng, lấy của
người giàu chia cho người nghèo… Họ lúc nào cũng ra tay nghĩa hiệp (Nên nhớ là
Đại Cathay, Bạch Hải Đường…không có trấn lột, cướp giựt, buôn lậu, xì ke – ma
tuý, á phiện…), đa số là con nhà giàu, trừ Đại Cathay xuất thân nghèo khổ, ghét
đi lính, sống nhờ tiền bảo kê ở các nhà hàng, sòng bạc, vũ trường…
Chuyện khác lại kể rằng Bạch Hải Đường một lần
đi hút thuốc phiện thì gặp một nhà Thơ. Bạch Hải Đường đã kể về cuộc đời hắn
cho nhà Thơ nghe. Nghe xong chuyện của hắn nổi hứng làm luôn một bài thơ Ngựa
Hoang. Vì bài thơ đó hay và lạ cho nên Nhạc sỹ Phạm Duy phổ nhạc và lấy tên là
Ngựa Hoang
Nhân vật Đại Cathay đã tạo dựng chỗ đứng của
mình trong giới giang hồ thật khác biệt. Ở đó sự liều lĩnh không được đánh giá
cao bằng lối sống “Tình nghĩa” đáng để suy ngẫm. Đại tuổi thìn (1940), cha là 1
tay Anh hùng hảo hán ở Cầu Muối, sau năm 1945, tham gia kháng chiến, trở thành
lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bất mãn, bỏ vào chiến khu rừng
Sát đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương. Mồ côi Cha, Đại không
thể sống với Dượng ghẻ, bỏ học, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự
nuôi thân.
Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư
Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ. Tại đó có 1 rạp chiếu
bóng tên là Cathay, nên đàn em đặt tên là Đại Cathay. Vào tù ra khám như cơm
bữa, ở các trại Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm Chín Ngón,
Hắc Quảy Quảy, Hòa Áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ.
Say này Đại Cathay thâu tóm luôn địa bàn của Tám Lâu, Bảy Si (anh vợ Năm Cam –
ông trùm sòng bạc sau này)… Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại
Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng
dè, sợ hãi.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết
định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo
người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại
Cathay khiến cảnh sát hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng
bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành
phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức tìm cách mua chuộc hắn, rồi cũng
thất bại.
Năm 1966 một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ
xuất xứ đã đụng nát chiếc xe của Đại úy Cảnh sát Trần Kim Chi trên đường đi
công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai
nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng
chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi. Tháng 8.1966, với tội danh “Du đãng
đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày
28.11.1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo
Phú Quốc.
Tháng 1 năm 1967 Đại Cathay trốn trại rồi mất
tích luôn.
Huyền Thoại Đại Cathay
Ngày ấy, truoc 1975, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam cũ phải sợ một tên du đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát.
Ngày ấy, truoc 1975, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam cũ phải sợ một tên du đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát.
Hình ảnh của Đại Cathay với mái tóc bồng bềnh,
quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điều thuốc, Zippo, … Những gì mà Đại
Cathay đã tạo dựng chỗđứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt.Ởđó sự
liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống “tình nghĩa” đáng để suy ngẫm…
Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin
cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng… không
biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai
cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự,
lúc lại là Trần Văn Trự… Mẹ của Đại Cathay cũng khá… nhiều tên, lúc là Hương,
lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay
thường tự nhận, gã là một thằng… con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.
Kì thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo
tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh
thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một
tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia
kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào
chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức
Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần
cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay la Đoàn
Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một
vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học
chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù
khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất “lì đòn”, những đức tính được
“thừa kế” đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ.
Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn
trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.
Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị
bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ
lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng
nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con
riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang
vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là
xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ. Tại đó
có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy
ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại
cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng
mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết
rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực
trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm “tên đất” vào sau tên
cúng cơm để trở thành Đại Cathay, “đại ca” đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm
1954 lúc Đại mới 14 tuồi.
Trở thành “anh chị”, Đại được quyền sống mà
không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao
cho đàn em “đi làm” mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba
Binh, Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba
Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là
những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc
và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được
cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho
mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may
bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới,
đánh đập như những tên “chăn chíp” tham lam khác mà còn lấy của đứa “trúng
mánh” cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời “anh Đại”. Tình trạng
đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.
Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót
cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều
lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người
của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các công cò bót quận Nhì
xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn trơ trơ
không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà phú lít lại
đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt
đàn em của đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai
bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức
chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không
chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung
quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi
nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không
khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại
tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.
Ở miền Nam trước 1975, có bốn nơi được coi là
“lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại
địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện
sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những
tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa
vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du
thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên
kia cầu Trình Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam
giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu
có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng
sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao
công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái
chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự,
trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy
cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số
phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm
cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm
du đãng, bụi đời.
Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này
đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hang vào ra như cơm bữa, Đại Cathay
được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại
lần đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm chín
ngón, Hắc quảy quảy, Hòa áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn
giang hồ.
Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng
liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng
– vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.
Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở
khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực
này đón tiếp Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa,
sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội,
quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải – vốn có hạng
trong nghề dao búa – đều bị Đại Cathay qui phục về dưới trướng.
Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì
toàn bộ khu vực Cầu Mống – Dân Sinh – Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu
Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài
vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu
bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng
thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới
trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn “hàng mã”,
sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai.
Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn
quân đập lộn, Tám Lâu đâm “chịu” Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua,
Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần
nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy
hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng… Tám Lâu cũng thường đưa
Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi để làm quen với các tay
anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công
Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.
Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải
thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh
Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc
qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào “thu thuế” giật bà con thiểu thương chợ vựa Cầu
Muối, Tám Lâu không cản nổi.
Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh
thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất:
- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm
viện, đám này mới ngán!
Tám lâu gạt phắt:
Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh,
Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường
nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân
Đồn “chém bậy” vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn
bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến
Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh,
băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước
với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình “trải đệm”, bất
ngờ “luộc” băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả
xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là
làm, Đại Cathay đã xỉ cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám
bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.
Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn “tài ba”
của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn
quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý,
Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu
thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê
tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò
rượu…trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác
phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.
Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong
trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu
tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các
nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay
tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí… giả trong khoản ăn chơi.
Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn
em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế,
trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc
classic bản Sayonara rất “não nùng”)… và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ
trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã-
trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư
hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại
Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu
Muối.
Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì
dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung… Mở nữa e không cạnh tranh
nổi, Hoàng Sayonara vẽ:
- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng
lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người
buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.
Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy
Si (anh vợ Năm Cam – ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi
nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại
mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà.
Hắn mua của Hùng đầu bò một chiếc Traction – 15, chiều chiều cho đàn em lái đi
khắp các ngả đường vứt lên từng xấp “phơi” đề cùng với hàng cọc tiền chở về.
Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm
1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết
nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1,
quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen
Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em
tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy
làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.
Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu
được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là
kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm
hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh
em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành
Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là
những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các “vu”, Đại Cathay
cũng làm quen, “chơi chịu” được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi
khác.
Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại
Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng
dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm “lừng lẫy” khác không ưa gì Đại Cathay,
đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại “chơi kèo
trên”, giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định “hội đồng” diệt
Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê
Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo – chủ vũ
trường – có thêm Hùng phốc và Luân – 2 giang hồ cộm cán khác cùng hỗ trợ, mời
Đại đến “bàn công việc”. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế
Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào
chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình
mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non,
Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều
lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh
Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay
mới nguôi giận, đồng ý “hòa giải”. Danh xưng “Tứ Đại giang hồ” ĐẠI – TỲ – CÁI –
THẾ bắt nguồn từ đó.
Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất
lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội
miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra
bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa
làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi
lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét,
làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn
cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù
lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ
ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ
trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận
trượng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng
bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao.
Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết
định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo
người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm.
So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc
Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm –
Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ
phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút… đều do giới này
quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam,
chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng
lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, “Con ngựa điên” đã bán đứng một số cơ sở
kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là “cơ sở kinh tài của
Diệm – Nhu”. Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt
tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp
Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy… nhằm củng cố địa vị “Vua Hắc Đạo” của mình.
Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ – Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng
dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.
Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán
tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết
được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng
Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào
Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng
thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn.
Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:
- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay
bén mảng xuống Chợ Lớn.
Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay
đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ
Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân
lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo,
không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã
Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ
tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn
đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định
đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em “chiến đấu” nhất, trong đó có Ba Thế
và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê
ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các
tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều.
Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại
nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và
vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy,
giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén
mảng. “Con ngựa điên” phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà
hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị “trải
điệm” nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế
ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ
ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ
khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ
Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu
vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm
“dzách bạc hồ hãn” (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm
phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống.
Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng
lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại
Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả
chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ
khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh
tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra
trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ…
Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại
Cathay khiến cảnh sát hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng
bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành
phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức chính phủ VNCH tìm cách mua
chuộc hắn.
Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên
tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ – có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng
đến. Kỳ phủ dụ:
- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là
luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng
lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán.
Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.
Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những
ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:
- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình
chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại
làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?
Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt:
- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực
của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu
cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.
Đại Cathay vẫn ngổ ngáo:
Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo
Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra
ngoài vòng pháp luật”, tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở
bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt
giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội
hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án
và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn
chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách
mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của
tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho
Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:
- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty
cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt
hết đám lưu manh du đãng.
Đại Cathay từ chối:
- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay
lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì
thân bại danh liệt.
Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:
- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh
phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.
Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và
đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ
vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc
Loan nổi đóa:
- Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không
giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!
Đại Cathay trả lời:
- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh
cho các băng khác được.
Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi
như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ
chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn.
Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.
Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh
của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu
Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng
này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon
chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm
giữ.
Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường
xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một
“mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại
Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng
lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm
ba chiếc.
So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại
và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm
củng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn
nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và
đám đàn em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”.
Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó
có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo
đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ
níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng,
cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng – xộc
vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave
nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn liên tục vọng sang tiếng cấu
véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu,
cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng
thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:
- Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên
này ngồi không, coi sao đặng?”
Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất
mặt:
- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu
chậm phải uống nước đục, trách gì?
Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt
lên báng súng:
- Đừng chơi quê tụi này chớ!
- Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này
băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích
lệ, Hải Súng tiếp: – Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này
không thích!
Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn
xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:
- Không thích cũng bắt!
Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không
rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối
thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc
súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay
hét lên:
- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây.
Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp
xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới,
xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải
và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín
ngón gào lên:
- Anh em rút đi, để tôi lo!
Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ
chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng
tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay
khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra
đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn
lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội
đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng,
đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.
Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo
đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn.
Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà
hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng,
Đại Cathay mới ngỏ ý:
- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi
vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…
Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng
thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:
- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời
tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.
Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại
Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:
- Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận
thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự
nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận
tâm làm gì.
Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng
còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một
chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của
Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên
lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng
được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim
Chi.
Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm
than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, với tội danh
“Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác,
ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại
đảo Phú Quốc.
Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính
xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo
nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị
thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”.
Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm
trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương
Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp
vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm,
đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:
- Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi
mình đặt lại tên cho nó đi.
Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng
có học đề xuất:
- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt
tên đó.
Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là
“Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”.
Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo,
Trại “Cửu Sừng” chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu
trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như
Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh
tưa, Quẩy Thầu Hao… sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn
– Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất
lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở
thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.
Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng
nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm
trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường
Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn,
biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh
trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
Đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân
nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo
cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác
sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ
sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền.
Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ
lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con
rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam
màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tông, trong chợ
Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỉ niệm.
Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh
của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo
lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu
đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc
xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho
Đại Cathay mang về phòng.
Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về
phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong
đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác
làm ngơ khi Đại bỏ trốn.
Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em
trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến
phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón –
gã đệ tử thân nhất – ở lại. Đại nói với cả đám:
- Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả
lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại,
mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.
- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho
mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.
Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô
bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng
nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày
7/1/1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.
Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn
trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ
hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp
vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì
kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế
hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng. Đến đây, không ai còn tận
mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất
tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.
Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng :
Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn
tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay.
Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt
ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến
giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ
bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng
cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do
thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại
và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ
tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Việt Cộng để đổ vấy
cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho Việt Cộng. Diệt xong, toán biệt kích
dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận.
Ngựa hoang nào dẫm nát tơi bời
Đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời
Ngựa phi như điên cuồng
Giữa cánh đồng dưới cơn giông
Vì trên lưng cong oằn
Những vết roi vẫn in hằn
Một hôm ngựa bỗng thấy thanh bình
Thảm cỏ tình yêu dưới chân mình
Ân tình mở cửa ra với mình
Ngựa hoang bỗng thấy mơ
Để quên những vết thù
Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục
Giòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt
Ngựa hoang quên thù oán căm
Từ nơi tối tăm về miền tươi sáng
Ngựa hoang về tới bến
sông rồi
Cởi mở lòng ra với cõi đời
Nhưng đời ngựa hoang chết gục
Và trên lưng nó ôi
Bấm vào đây để nghe xem
hàng không eva airline
đại lý vé máy bay đi mỹ
hang may bay han quoc
vé máy bay khứ hồi đi mỹ giá rẻ
đặt vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch