Mối thần cảm với Nhạc sĩ Phạm Duy
Trong cuộc đời tôi có một
chuyện kì lạ: đó là “mối thần cảm” hay cũng có thể gọi là một thứ “mối tình
câm” của tôi với nhạc sĩ Phạm Duy. Mối tình ấy xuất phát từ sự say mê và ngưỡng
mộ tột bực của tôi đối với những nhạc phẩm của ông ngay từ lúc tôi còn lả
một thiếu niên, từ đó dẫn đến việc tôi yêu mến ông vô hạn độ. Thế nhưng số
phận khắt khe đã chia cách tôi với ông như hai thế giới xa vời đến nỗi ròng rã
suốt nửa thế kỉ khát khao nhưng tôi chưa một lần được gặp mặt ông, thậm chí tôi
đã tuyệt vọng nghĩ rằng trong kiếp này tôi không thể nào gặp ông được, và đó sẽ
là một nỗi buồn thống thiết trong lòng tôi.
Sự
thật là ngay từ lúc còn học tiểu học, tôi đã bị quyến rũ bởi những bài hát
thuộc dòng tân nhạc Việt Nam, đến nỗi tôi lập tức không chú ý nữa những làn
điệu cổ như Hành vân, Lưu thuỷ, Xuân nữ, Sa mạc… mà hàng ngày bố tôi vẫn
gảy đàn bầu, đàn nguyệt và hát. Hẳn là tôi có duyên với dòng tân nhạc ra
đời từ những năm 1937–1938 trước khi tôi ra đời chừng năm năm. Thời kì đầu tiên
của tân nhạc từ khoảng 1937 đến 1945 được gọi là âm nhạc tiền chiến,
mặc dù còn non trẻ nhưng đã có một hình hài nghệ thuật thật diễm lệ,
đáng yêu và đã phản ánh được những tâm tư tình cảm chân thật và tuyệt đẹp
của con người đương thời. Do đó nền nhạc ấy đã có được một giá trị đặc
biệt và một sức sống vượt thời gian.
Nhạc
Phạm Duy cũng ra đời từ thời tiền chiến đó, nhưng thật sự phát triển bồng bột
trong thời kì kháng chiến chống Pháp (từ 1947 trở đi), tạo được một diện mạo
riêng hết sức đặc sắc. Trong số những bài hát mà tôi được biết vào những năm
tôi còn thơ trẻ có khá nhiều bài hát của ông như Ru con, Nương chiều, Chiến sĩ vô danh, Về miền
Trung, Khối tình Trương Chi, Chú Cuội, Tiếng đàn tôi, Xuất quân, Nhạc tuổi
xanh, Đường về quê, Tiếng hát thương binh, Tiếng hát trên sông Lô, Ngày trở về,
Bà mẹ Gio Linh, Quê nghèo, Gánh lúa, Nhớ người ra đi, Nợ xương máu, Tình kĩ nữ…Những
bài hát của Phạm Duy như có ma lực, đã rót vào trí não non nớt của tôi một
tiếng nói mách bảo tôi rằng đó không phải là những bài hát bình thường mà
là những tuyệt tác của một tài năng lỗi lạc.
Giờ
đây sau nửa thế kỉ, tôi bỗng cảm thấy dường như có một đấng siêu nhiên nào đó
đã chơi với tôi một trò chơi trí tuệ: thử thách năng lực
thẩm định của tôi về nhạc của Phạm Duy, về sự khác biệt giữa nhạc Phạm Duy với
nhạc của những nhạc sĩ khác. Thế rồi khi bước sang tuổi thanh niên, trong
tôi đã chín muồi một kết luận: trong thế kỉ 20, nền âm nhạc Việt Nam chỉ có
hai nhạc sĩ thiên tài, đó là Phạm
Duy với
lâu đài âm nhạc to lớn trong đó có nhiều kiệt tác, và Đặng Thế Phong để lại đời vẻn vẹn ba tác phẩm Đêm thu, Con thuyền không bến, Giọt mưa thu nhưng đều là những kiệt tác “kinh nhân” (làm
người ta phải kinh sợ). Tôi
đã cảm nhận được một dấu hiệu của thiên tài ấy: chỉ trong âm nhạc của
hai nhạc sĩ này mới ẩn chứa cái hồn
thiêng của
trời đất, sông núi, quỷ thần và con người, còn nhạc của những người
khác thì chỉ có những hình ảnh thật của cuộc sống trần thế mà thôi.
Để chứng minh, tôi xin dẫn ra đây bài hát “Chiến sĩ vô danh” mà Phạm
Duy viết từ thuở ông mới bước chân vào làng nhạc (về phần âm nhạc,
bài hát này mang âm hưởng nhạc cổ Việt Nam, tuy dung dị nhưng tuyệt
hay):
Mờ
trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng
Núi
cây rừng lắng tiếng nghe hình dáng của người anh hùng
Lạnh
lùng theo trống dồn
Trên
khu đồi nương im trong chiều buông.
Ra
biên khu trong một chiều sương âm u
Âm
thầm trên khói mù.
Bao
oan khiên đang về đây hú với gió
Là
hồn người Nam nhớ thù…
Khi
ra đi đã quyết chí nuôi căm hờn
Muôn
lời thiêng còn vang
Hồn
quật cường nguyền mang đến phút chiến thắng
Sầu
hận đời lấp tan.
Gươm
anh linh đã bao lần vấy máu
Còn
xác xây thành, thời gian luống vô tình.
Rừng
trầm phai sắc
Thấp
thoáng tàn canh, ôi người chiến sĩ vô danh!
Bài
hát kì diệu này đã khắc hoạ được chuẩn xác hình ảnh người chiến
sĩ Việt Nam từ thời thượng cổ đến giờ, trong đó chất bi thương và
chất hào hùng hoà quyện với nhau một cách nhuần nhuyễn. Hơn nữa,
trong sự hi sinh tự nguyện và thầm lặng của người chiến sĩ toát lên
phẩm chất người cao cả và một ý nghĩa qúa đỗi thiêng liêng khiến
chúng ta xúc động cảm thương đến tận đáy lòng. Đó là hình ảnh
người chiến sĩ trong cuộc đời này, nhưng cũng là hình ảnh linh thiêng
của người chiến sĩ trong cõi trời đất. Bởi vậy, “Chiến sĩ vô danh”
không thuộc diện những bài hát dùng để biểu diễn trên sân khấu, mà
mang tính cách một bài tụng
ca vong hồn những người chiến sĩ đã khuất trong một buổi lễ cầu siêu. Tôi nghĩ rằng,
chỉ riêng một bài hát này thôi cũng đã đủ khiến tên tuổi nhạc sĩ
Phạm Duy trở thành bất hủ.
Nhạc
của Đặng Thế Phong cũng thế. Thật đáng kinh ngạc, trong một cuộc cắm
trại của nhóm Scout, chàng nhạc sĩ thiếu niên lang thang một mình
trong đêm và viết những lời ca của bài hát Đêm
thu như
thế này: “Vườn
khuya trăng chiếu, hoa đứng im như mắc buồn. Lòng ta xao xuyến lắng nghe
lời hoa… Cành sương nặng trĩu ru bóng êm trong ánh vàng, màn đêm buông
xưống mái im triền miên. Bóng
cô đơn dường thao thức mãi trong đêm nặng sầu thương, hồn vương…Đêm lắng
buồn, tiếng thu như thì thầm trong hàng cây trầm mơ…Làn gió lướt tới
cuốn đưa hồn ta phiêu diêu theo mây trắng trôi lờ lững. Ngàn muôn tiếng
réo rắt côn trùng như than như van mơ hồ trong gió lan. Trăng xuống dần
cỏ cây thêm âm thầm, đông buồn trong ánh sao. Như chiếu nhìn mắt ta bao
lạnh lùng, lay hồn ta rồi tan…
Ngay
từ lần đầu biết đến bài hát này cách đây hơn 30 năm, tôi đã có cảm
tưởng rằng Đặng Thế Phong là một Schubert1của Việt
Nam, bởi giữa hai ông có một sự đồng điệu cao độ. Những lời thơ
huyền diệu trên đây của Đặng Thế Phong cho thấy tuy sống dưới trần
thế nhưng 80% bản chất của ông vẫn là… người
trời (trong
khi đó ở Phạm Duy, theo tôi, tính người
trời ít
hơn rất nhiều, bởi ông chỉ là một người
trầnphát triển đến đỉnh cao). Phải chăng chính vì thế mà Đặng
Thế Phong sớm được Trời gọi về trời khi ông mới có 23 tuổi đầu?
Đối
với một mẫu người mạnh mẽ, giàu tiềm năng, phức tạp, gồ ghề và
luôn bay lượn ở “ngoài vòng cương toả” như Phạm Duy thì, phi một “cặp
mắt thần”, mọi quan sát, nhìn nhận về ông chẳng méo mó cũng phiến
diện. Thẩm định được Phạm Duy xưa nay vẫn là cả một thách thức lớn
đối với những tay hiếu biện. Chẳng thế mà đến tận những ngày gần
đây, bên cạnh đa số ý kiến đồng thuận công nhận Phạm Duy, vẫn còn có
một vài lời lẽ mang tính phản bác và phủ nhận ông. Tuy nhiên đến
phút chót, chân giá trị của Phạm Duy đã được tất cả những người
thật sự có lương tri và trí tuệ của thời đại khẳng định. Có thể
nói giờ đây về căn bản Phạm Duy đã trở lại đúng vị trí xứng đáng
của ông trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam.
Là
một nghệ sĩ thật sự có bản lĩnh nên mặc dù bị dòng thác của thời cuộc không
ngừng xô cuốn, Phạm Duy luôn giữ được cái “thiện căn” của mình, luôn trụ
vững trên lập trường của một người hát rong trung thực, không bao giờ để cho
một thế lực nào thao túng.
Việc
làm vĩ đại nhất của Phạm Duy là mang hết tài năng và tâm huyết để
thực hiện lí tưởng nghệ thuật: khắc hoạ chân dung dân tộc, đất nước
và đồng bào của ông với một tình yêu không gì sánh nổi. “Tình ca”
là bài hát điển hình chứng minh cho nhận định ấy:
Tôi
yêu tiếng nước tôi
Từ
khi mới ra đời! Người ơi!
Mẹ
hiền ru những câu xa vời.
À
à ơi! Tiếng ru muôn đời…
Tiếng
nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui,
Khóc
cười theo mệnh nước nổi trôi! Nước ơi!
..........
Tôi
yêu đất nước tôi
Nằm
phơi phới bên bờ biển xanh.
Ruộng
đồng vun sóng ra Thái Bình
Nhìn
trùng dương hát câu no lành...
Đất
nước tôi! Dãy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn!
Đất
miền Tây chờ sức người vun! Đất ơi!
Đất
nước tôi!
Núi
rừng cao miền Bắc lửa thiêng,
Lúa
miền Nam chờ gió mùa lên! Lúa ơi!
…………
Tôi
yêu bác nông phu
Đội
sương nắng trên bờ ruộng sâu!
Vài
ngàn năm đứng trên đất nghèo,
Mình
đồng da sắt không phai màu…
Tấm
áo nâu!
Những
mẹ quê chỉ biết cần lao;
Những
trẻ quê bạn với đàn trâu! Bé ơi!
Tôi
Yêu biết bao người:
Lí,
Lê, Trần… và còn ai nữa?
Những
anh hùng của thời xa xưa!
Những
anh hùng của một ngày mai…
Tôi
khâm phục Phạm Duy, nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên xác định được ba thành
tố căn bản làm nên một dân tộc: tiếng nói, địa dư và con người. Và ông
đã đi rất sâu vào ba chủ đề đó bằng ba đoạn lời ca nêu trên. Với nội
dung hàm súc như thế và với giai điệu dân tộc tuyệt vời, Tình ca xứng
đáng “được treo giải nhất chi nhường cho ai” trong những ca khúc viết
về tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, bài hát ra đời vào
năm 1954 đã làm nức lòng nhân dân cả nước và ai nấy đều thừa nhận
đó là một kiệt tác hiếm có.
Tôi
đồng ý với quan điểm cho rằng trong thế kỉ XX (giai đoạn Tiền chiến) ở Việt Nam
xuất hiện một cặp bài trùng gồm một thiên tài âm nhạc là Phạm Duy
và một thiên tài thơ là Nguyễn Bính. Nhạc và thơ của họ giống nhau ở
chỗ đều có mối liên hệ thiêng liêng với trời đất và với linh hồn sâu xa
của dân tộc, đều đi sâu đến tận cùng để phát hiện và trình bày một
cách tuyệt vời bức chân dung chân xác nhất, tinh tế nhất và rung động
nhất về đất nước, về dân tộc và về người nông dân Việt Nam ngàn năm
sống bằng nghề trồng lúa nước. Phải chăng trời đất và tổ tông linh
thiêng đã “hữu ý” sinh ra họ để hoàn thiện hình tượng nghệ thuật độc đáo của một xứ
sở có tên là Việt Nam trên
trái đất này?
Chính
nhờ vào cái
thiên lương, cái minh triết do
trời ban phát mà Phạm Duy có khả năng nhìn thấy được chân tướng của cuộc
sinh tồn đang diễn ra lúc thì thanh bình lúc thì thác loạn, phân biệt
được cái đúng và cái sai, cái đẹp và cái xấu, cái vĩnh hằng và
cái nhất thời. Không chỉ thế, trời đất còn chung đúc trong ông một tài
năng siêu việt về âm nhạc và về ngôn ngữ nghệ thuật, một tình yêu nồng
nàn với quê hương, đất nước và con người Việt Nam. Nhờ tất cả những nhân
tố quý báu ấy, ông đã định hướng một cách chuẩn xác cho sự nghiệp âm nhạc
của mình, đã phấn đấu không mệt mỏi suốt một cuộc đời và đã đi
tới đích.
Tuy
ngưỡng mộ Phạm Duy nhưng tôi không bao giờ tâng bốc ông lên mức “con người
toàn thiện”. Theo tôi, ông không phải là một triết gia, một nhà bác học, một
nhà đạo đức, một bậc thánh hiền. Ông chỉ là một nghệ sĩ hát rong,
một đứa con đích thực của trời đất mang trong bản thể đầy đủ “tính
chất” hơn so với một số người khác. Tính “đa dạng về chất” ấy thể
hiện ở chỗ ông hội tụ trong mình đủ cả thiên tài, tiên cốt lẫn tục cách. Có
thể nói, thượng vàng hạ cám của cõi trần, trong con người Phạm Duy
đều có cả (gần giống với tính toàn
giác của
Thượng Đế), và chính chúng đã làm cho ông trở nên đầy ắp. Những
người chê bai ông, không sao hiểu được ông chính vì họ… bị thiếu khá
nhiều “tính chất” vốn rất phong phú nơi ông.
Chính
“tính đa dạng về chất” ấy đã hun đúc tạo ra một Phạm Duy có sức
mạnh thể chất và tinh thần sung mãn. Chỉ là một con người đơn lẻ giữa
một cuộc đời đầy dãy khó khăn và những biến động khôn lường, vậy
mà với vẻn vẹn vài chục năm ngắn ngủi, ông đã kịp tạo dựng được một
lâu đài âm nhạc đồ sộ, tuyệt vời và bất hủ. Một kì tích phi thường như
thế, phải mấy trăm năm người ta mới có thể được chứng kiên một lần.
Sự
thẩm định khái quát nói trên của tôi có thể là một điều “lạ lẫm” đối với
một số người nào đó, nhưng với tôi đó là sự phán đoán nghiêm túc của trí
tuệ, và không chỉ thế, nó còn là một thần cảm. Vì vậy tôi chỉ trình bày
với tính cách một nhận định cá nhân để mọi người tham khảo chứ không tranh
luận với ai để rồi… nát việc. Chúng ta đều biết, ở đời ai nấy đều
có vốn liếng và phúc phận riêng, đều có quyền tự do suy nghĩ, thẩm định
và giữ nguyên quan điểm của mình. Rồi thực tiễn lịch sử sẽ đưa ra lời phán xét
cuối cùng, đúng như câu danh ngôn “chân lí không thể bị đốt cháy” hoặc
câu thơ của Nguyễn Trãi: Văn
như vị táng dã quan thiên (Văn
chưa tàn lụi cũng do trời).
Hiện
nay ở Việt Nam có một hiện tượng: khá nhiều người đánh giá nhạc Phạm
Duy thấp hơn nhạc Văn Cao. Tôi xin trình bày quan điểm của mình như sau:
Tôi
thừa nhận Văn Cao là một nhạc sĩ rất mực tài hoa với nền tảng văn hoá cao
nhất mà thời đại “giao lưu văn hoá Đông – Tây” của ông đã đạt tới. Tuy
nhiên ông chưa phải là một nhạc sĩ thiên tài. Chỗ khá mờ nhạt trong nhạc
của ông là thiếu một nền tảng tư tưởng căn bản và một cội nguồn tình
cảm sâu xa, và do đó thiếu một định hướng tổng quát cho sự nghiệp âm
nhạc của mình. Các tác phẩm của ông đều rất hay, nhưng dàn trải khá
tản mạn trên nhiều đề tài khác nhau, không quy tụ về một cái đích
chính yếu nào. Trong khối tác phẩm của ông, ta thấy có đủ thứ: nhạc
mơ mộng lãng mạn, nhạc lịch sử, nhạc tráng ca, nhạc quân đội, nhạc
ca ngợi lãnh tụ, nhạc kháng chiến, nhạc về công nhân, về sản xuất,
thi đua (nhưng rất ít nhạc viết về nông dân và nông thôn Việt Nam) v.v…
Về
bản chất, Văn Cao thuộc mẫu nghệ sĩ lãng mạn, có ít nhiều màu sắc
thoát tục, lí trí và tình cảm không thật sự tập trung nên thiếu độ
sâu sắc. Ông thường sống và sáng tác bằng những cảm xúc nhất thời,
không thật sự thiết tha gắn bó với cuộc sống kể cả với tình yêu. Ông
luôn nổi trội về tài năng nhưng lại thiếu một niềm đam mê lớn lao và
mãnh liệt. Vì vậy nhạc của ông thiếu chất men nồng cháy, thiếu một ngọn
lửa bỏng, và sau những cảm hứng bồng bột nhất thời, có thể rơi vào
trạng thái hững hụt, thậm chí thất vọng. Vì trong thiếu một sự hứng
khởi thật sự và bền lâu, ông thường sống trong buồn nản, cô đơn, day
dứt, hoài cổ. Ông tự thừa nhận mình giống như chàng Trương Chi bất
hạnh ngày xưa.
Nhìn
chung, nhạc Văn Cao luôn có chất lượng nghệ thuật cao nhưng lại chưa đạt
tới tầm vóc nhạc huyết lệ, thứ nhạc đề cập tới số phận của con người, của
dân tộc, của đất nước. Nhạc ông chỉ lướt trên bề mặt của thời cuộc,
không chú tâm tìm đến những miền sâu xa, nơi chứa chất cái hồn Việt ngàn
năm. Do đó nhạc ông thiếu vắng hình ảnh của quê hương và con người Việt
Nam truyền thống (nhất là người nông dân) với sự lao động “nhọc nhằn mà
vui”, với cái nghèo muôn thuở, với những nỗi đắng cay tủi cực và
những vẻ đẹp vẻ buồn chân chất.
Vì
thiếu hụt một sự minh triết cần thiết, ông giống một con thuyền trôi
nổi trên dòng đời, có lúc rơi vào bế tắc. Nghĩ đến ông, ai cũng trân
trọng và phục nể tài năng siêu việt của ông, nhưng ai cũng mủi lòng
thương xót ông. Vinh quang của ông nằm ở chữ “tài” chứ không nằm ở
chữ “hùng” vả chữ “tầm”. Bản trường ca “Sông Lô” được coi là tác phẩm
vĩ đại nhất của ông, theo tôi là minh chứng cho một tài năng âm nhạc sung
mãn hơn là cho tầm
vóc nghệ sĩ trên
đỉnh cao của thời đại.
Phạm
Duy khác Văn Cao ở chỗ ông đích thực và chỉ là nghệ sĩ của cuộc sống trần
gian. Những tố chất tạo nên con người và do đó tạo nên tác phẩm của ông là
máu–thịt–da–xương–tình–hồn được chiết xuất từ bản thân ông và từ cuộc
sống, chứ không phải là gió–sương–khói–ráng–mộng tưởng từ nơi xa xăm đưa lại.
Ông giống như một đứa trẻ khoẻ mạnh, háu ăn và hiếu động, chỉ thích lăn vào
lòng mẹ để đòi bú sữa và đòi sống thật sự. Chính vì được nung đúc trong
ngọn lửa thiêng “hồn dân tộc”, gắn bó máu thịt với Mẹ quê hương, với nông
thôn Việt Nam nên, khác với Văn Cao, trong ông sớm chín muồi ý tưởng chọn dân ca Việt Nam làm chất liệu căn bản cho toàn bộ âm nhạc của
mình – một chọn lựa hết sức minh triết đã đem lại cho ông những thành công vang
dội. Và một điều tối quan trọng về phương diện nội dung của âm nhạc:
chính vì ông sáng suốt bắt được đúng cái mạch nguồn Việt Nam muôn thuở, hay nói cách khác, cái hồn vĩnh cửu của Việt Nam – chứ không phải chỉ là một dòng chảy nhất thời
hoặc cái bề nổi luôn bất định của nó – nên âm nhạc của ông mới có được cái
dung lượng dồi dào tưởng chừng vô tận như thế, đồng thời luôn đẫm đìa hơi thở
nồng nàn, nóng hổi của cuộc sống (nhất là cuộc sống thôn quê Việt Nam) đến
thế.
Chẳng
hạn bài Bà
mẹ quê tuy
hết sức dân dã, cụ thể đến từng chi tiết, nhưng đã khiến chúng ta xúc động
sâu sắc:
Vườn
rau xanh ngát một màu, có đàn gà con nương náu…
Mẹ
quê vất vả sớm chiều nuôi một đàn con chắt chiu!
Bà
mẹ quê! Gà gáy trên đầu ngọn tre;
Bà
mẹ quê! Chợ sớm đi chưa thấy về…
Chờ
nụ cười son và đồng quà ngon…
Trời
mưa ướt áo mẹ già
Mưa
nhiều càng tươi bông lúa…
Trời
soi bốc khói sân nhà
Nắng
nhiều thì phơi lúa ra.
Bà
mẹ quê! Đêm sớm không nề hà chi;
Bà
mẹ quê! Ngày tháng không ao ước gì.
Nhỏ
giọt mồ hôi vì đàn trẻ vui…
Miệng
khô nhớ bát nước đầy,
Nhớ
bà mẹ quê xưa ấy…
Mùa
đông manh chiếu thân gầy,
Cháu
– Bà ngủ thiu giấc say.
Bà
mẹ quê! Chân bước ra đời rồi xa;
Bà
mẹ quê! Từ lúc khói hương xoá nhoà,
Chúng
ta dễ dàng cảm nhận được có cái gì lắng sâu và u ẩn nhưng sao mà thiêng liêng
như trời đất chung đúc trong bà mẹ quê không ai biết đến, nghèo khổ, chân
chất, nâu sồng ấy.
Trong
tác phẩm âm nhạc trường thiên “Mẹ Việt Nam” (cũng hàm ý Tổ quốc và
dân tộc Việt Nam) được sáng tác vào năm 1964, Phạm Duy đã khắc hoạ
một lần nữa chân dung của Mẹ ở tầm vĩ mô. Vượt lên tầm cao tư tưởng,
ông đã nhận chân được hình ảnh toàn bích của Mẹ. Ông không chỉ thấy
Mẹ xinh đẹp, Mẹ hạnh phúc với cha, Mẹ như lúa xanh tươi, Mẹ là biểu trưng của đức
hạnh cao quý nhất của loài người, mà còn thấy Mẹ trong những trạng huống bi
thương như “Mẹ bỏ cuộc chơi”, “Mẹ trong lòng người đi”, “Mẹ hoá đá”, “Mẹ chết
dưới đáy sông” không khác gì thiếu phụ Nam Xương thuở xưa… Ông cũng
tinh tường nhìn thấy cái nguyên do sâu xa gây ra những bi thương ấy cho
Mẹ. Tất cả chỉ vì những
đứa con điên cuồng của mẹ (hàm ý những người cùng mang dòng máu Việt): bên
cạnh lòng yêu Mẹ, chúng còn giống như những dòng sông mải mê theo đuổi những
tham vọng, những mục tiêu riêng, và chia rẽ mỗi đứa một ngả, rồi xa lìa Mẹ
đến nỗi quên mất đường trở về. Trong một tình huống gay cấn kịch liệt
nào đó, chỉ vì dục vọng không kiềm chế được, thậm chí chúng đã nhẫn
tâm vùi chôn chính Mẹ của mình! Thật đúng như một câu cổ ngữ nổi tiếng: “Cha mẹ chết vì con bất hiếu”. Nhưng cuối cùng thì Phạm Duy vẫn tin rằng mẹ là
trời đất, là trùng dương mênh mông sẽ tha thứ cho những đứa con nông nổi. Rồi
đến khi chúng tỉnh ngộ và biết hối hận, mẹ sẽ lại đón chúng trở về trong lòng
mẹ rộng lớn như trùng dương bao la.
Có
thể nói, bằng lương tri và bằng sự nhìn nhận đúng đắn mang tầm lịch sử mấy
ngàn năm ấy, Phạm Duy đã xây dựng thành công và chuẩn xác hình ảnh dân tộc Việt
Nam tươi đẹp, diệu kì nhưng cũng đầy đau thương và bi kịch.
Sau
đây tôi xin trình bày sâu hơn về chân giá trị âm nhạc Phạm Duy.
Về
khối lượng và chất lượng tác phẩm:
Ngay
từ lúc mới xuất hiện (trước sau mốc 1940), nhạc Phạm Duy đã sớm tỏ
ra đặc sắc. Hai bài được sáng tác sớm nhất là Tiếng thu (phổ thơ Lưu Trọng Lư) và Cô hái mơ (phổ
thơ Nguyễn Bính) đã ghi lại dấu ấn về một tài năng âm nhạc mới nảy
sinh. Cả hai bài ấy sau này đều được xếp vào danh sách những bài
hát vượt thời gian.
Suốt
những năm dài tiếp sau đó, Phạm Duy liên tục tung ra đời những bài ca
được đánh giá cao, thậm chí thuộc diện những bài ca bất hủ như: Chiến sĩ vô danh, Nhạc tuổi xanh, Nương
chiều, Bên cầu biên giới, Nhớ người ra đi, Bà mẹ Gio Linh, Đường về
quê, Nhớ người thương binh, Gánh lúa, Tiếng hát trên sông Lô, Người về,
Ngày trở về, Tiếng đàn tôi, Khối tình Trương Chi, Chú Cuội, Bà mẹ
quê, Em bé quê, Quê nghèo, Thuyền viễn xứ, Hẹn hò, Tình ca, Tình hoài
hương, Tiếng sáo thiên thai, Về miền Trung, Ông trăng xuống chơi, Phố
buồn, Tuổi ngọc, Tuổi hồng, Ngày xưa Hoàng Thị, Giọt mưa trên lá,
Đừng xa nhau, Giết người trong mộng, Bài ca sao, Đưa em tìm động hoa
vàng, Ngậm ngùi, Viễn du, Xuân hành, Xuân ca…
Về
phương diện lời
ca:
Đối
với loại nhạc ca
khúc, lời ca chiếm một vị trí quan trọng không kém so với giai
điệu. Công tâm mà xét, khá đông nhạc sĩ Việt Nam thuộc các thời kì
khác nhau đều có khả năng tốt trong việc soạn lời ca cho các bài hát
của mình. Điều đó chứng tỏ họ không chỉ là nhạc sĩ mà còn là thi
sĩ nữa. Trong số các nhạc sĩ ấy, Phạm Duy nổi lên là một người
soạn lời ca hay nhất và giàu ý tứ vào bậc nhất. Tôi khẳng định rằng
tài năng viết lời ca của Phạm Duy có thể được coi là một hiện tượng
xuất chúng trong nền âm nhạc Việt Nam cổ kim. Và điều đó đã làm
tròn đầy ý nghĩa của danh hiệu “thiên tài” mà ông xứng đáng được tôn
vinh.
Phạm
Duy đã đặt lời ca hoặc phỏng dịch lời ca của nhiều tác phẩm âm nhạc
thế giới hay đến mức làm sửng sốt ngay cả những nhà thơ nhà văn cự
phách đương thời. Tôi xin trích dẫn một vài dòng của phần lời ca ông
viết cho bản Le
beau Danube bleucủa Johann Strauss (bản nhạc giao hưởng này vốn không lời):
Một
dòng xanh xanh, một dòng tràn mông mênh, một dòng nồng ý biếc, một
dòng sầu mấy kiếp, một dòng trời xao xuyến, một dòng tình thương
mến, một dòng còn quyến luyến, một dòng nhớ quay về miền đời lúc
mơ huyền…Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu cười giòn tiếng
người, đẹp lòng sớm mai, những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui,
thả ý thắm theo người chở gió về xuôi…Sông về sông dào dạt ý. Hát
tang bồng trôi tàu mà đi. Ai giang hồ sau nghìn hải lí, kết tình duyên
nơi đâu đó ghé qua kinh kì? Ôi tóc em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng
lòng đời! Ôi mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai... Sông về
sông cười giòn tiếng, yêu mối tình bên bờ thành Viènne. Đôi giang hồ
quay về bờ bến, ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao thiên đường…
Tất
cả mọi người thưởng thức nhạc Phạm Duy đều bị chinh phục hoàn toàn
bởi những lời ca viết bằng tiếng mẹ đẻ nhuần nhị, chất đọng những
ý những tình vô cùng tinh tế và sâu sắc. Chính những lời ca thấm
thía hoà quyện với giai điệu tuyệt vời đã khiến nhạc Phạm Duy trở
thành chủng loại nhạc trữ tình đích thực, thậm chí là nhạc “huyết
lệ” đầy sức lay động, điều mà các nhạc sĩ đạt tới chỉ đếm được
trên đầu ngón tay.
NHỮNG
LỜI CA VIẾT VỀ ĐẤT NƯỚC, QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM:
Đất
nước tôi! Dãy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn! Đất miền Tây chờ sức người vươn!
Đất ơi! Đất nước tôi! Núi rừng cao Miền Bắc lửa thiêng. Lúa Miền Nam chờ gió
mùa lên! Lúa ơi! Tôi yêu những sông trường! Biết ái tình ở dòng sông
Hương; Sống no đầy là nhờ Cửu Long; Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong…
Quê
hương tôi có con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên đồng vuông vắn, lúa
thơm cho đủ hai mùa. Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê.
Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng
nâu trên đường bước dồn. Lửa bếp nồng, vòm tre non, làn khói ấm hương
thôn. Quê hương ơi, bóng đa ôm đàn em bé, nắng trưa im lìm trong lá,
những con trâu lành bên đồi nằm mộng gì chờ nghe tôi thổi khúc sáo
chơi vơi…
Về
miền Trung! Miền thuỳ dương bóng dừa ngàn thông, thuyền ngược xuôi suốt
một dòng sông dài…
Làng
tôi không xa kinh kì sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có luỹ tre
còm tả tơi!... Làng tôi luôn luôn vương vài đám khói, những mái tranh
buồn nhớ người, xơ xác điêu tàn vì ai? Bao giờ em trở lại vườn dâu
hỡi em! Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang…
Chiều
ơi! Lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, ới
chiều! Chiều ơi! Lúc chiều về là lúc yên vui, qua đường mòn ngửi lúa
thơm hơi, ới chiều! Chiều ơi! Lúc chiều về mọc ánh trăng tơ, cho ngày
mùa bài hát nên thơ, ới chiều! Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u,
cô nàng về để suối tương tư, ới chiều…
NHỮNG
LỜI CA VIẾT VỀ CON NGƯỜI, NHẤT LÀ NGƯỜI DÂN QUÊ VIỆT NAM:
Ruộng
khô có những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người
bừa thay trâu cày…Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy, thấp thoáng bóng
người bên ngòi tát nước với giọt mồ hôi… Chiều rơi thoi thóp bên vài
luống khoai, hiu hắt tiếng bà mẹ cười, vui vì nồi cơm ngô đầy!... Nửa
đêm thanh vắng không một bóng trai, có tiếng o nghèo thở dài, vỗ về
trẻ thơ bùi ngùi… Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi! Để cho cô con
gái không buồn vì gió đông… Bao giờ cho lúa về đầy sân, lúa ơi! Để
cho anh trai tráng được gần người gái quê…
Tôi
yêu bác nông phu đội sương nắng trên bờ ruộng sâu! Vài ngàn năm đứng trên
đất nghèo, mình đồng da sắt không phai màu… Tấm áo nâu! Những mẹ quê
chỉ biết cần lao; những trẻ quê bạn với đàn trâu, bé ơi!
Bóng
người thấp thoáng cuối đường thanh vắng bước đều quang gánh nặng
vai... Tiếng người ơi ới qua làn nắng mới vui chân đi tới phiên chợ
mai…Lão bà tóc trắng, kĩu kịt quang gánh, môi trầu tưới đám cỏ xanh…Có
nàng xay lúa, quyến tròn thương nhớ, thương chàng dãi nắng dầm mưa…
Ngày
trở về anh bước lê trên quãng đường đê đến bên luỹ tre… Mẹ lần mò ra trước ao
nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ…
Ai
có nghe tiếng hát hành quân xa, mà không nhớ thương người mẹ già, chờ
con lúc đêm khuya, người con đã ra đi vì nước… Ai có nghe tiếng hát
hành quân xa, mà không nhớ thương người vợ hiền, ngồi may áo cho con,
chồng ra lính biên cương… Ai có nghe tiếng hát hành quân xa, mà không
nhớ thương đàn trẻ nhỏ, đùa trong nắng ngây thơ cùng nhau hát líu lo
ngoài ngõ…Nhưng mỗi khi dưới mái nhà mênh mang, ngừng chân nắm tay mẹ
hỏi rằng: “cha chúng con đâu, về mua bánh cho con, mẹ ơi!”.
Chiều
khô nước mắt dâng sầu, thương thân thiếu phụ khóc đầu hài nhi.
Mẹ
ơi, chuông chiều nào la đà, nhớ tới những linh hồn vắng nhà. Một vòng hương
trắng xoá, tình nồng trong thương nhớ, gửi người chiến sĩ chết trong xa mờ…
Em
ơi, xích lại gần đây nào, nhớ tới những duyên và số nghèo. Trời làm cơn mưa
bão, tình người như tơ liễu, buồn vì ai đó khóc ai trong chiều…
Con
ơi, tiếng cười nở chan hoà, nhớ tới biết bao trẻ thiếu nhà. Ngoài đường trời
đông giá, một đàn chim nhỏ bé, gọi về chia sớt miếng cơm khoanh cà.
Trăng
soi sáng ngời treo trên biển trời. Tình ơi! Một đàn con trai nhủ đàn con
gái ra ngồi nhìn trăng. Ra nghe chú Cuội ngồi gốc cây đa, Cuội ơi! Để
trâu ăn lúa, nhìn mây theo gió, miệng ca bồi hồi…
Ai
bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ…Ngồi mình trâu phất
ngọn cờ lau và miệng hát nghêu ngao…Vui thú không quên học đâu, nằm
đồi non gió mát…
Nói
đến nhạc sĩ Phạm Duy không thể không ghi nhận tấm gương lao động đáng khâm phục
của ông: trong bất kì cảnh ngộ nào của bản thân cũng như của đất nước, không
bao giờ ông ngừng sáng tác. Khi chất nhựa của tuổi thanh xuân theo quy luật tự
nhiên vơi cạn dần đi, ông liền tìm cách bổ sung bằng những khám phá mới của trí
tuệ và những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Ông đã viết những cuốn hồi kí
được nhiều người đánh giá cao, những bài hát thổ lộ tâm tư của ông lúc cuối đời
về tình yêu buổi xế chiều, về phút giã từ dương thế, về cuộc phiêu du của linh
hồn sau khi thoát tục, về cõi tâm sâu thẳm của con người. Chúng ta hãy đọc
những dòng ca từ sau đây của bài hát “Bàn tay” ám chỉ bàn tay của số phận đối
với một kiếp người:
Bàn
tay đưa anh ra khỏi lòng người
Một
đêm kêu lên hơi thở tuyệt vời
Bàn
tay êm ái, ôi bàn tay khoan khoái
Nhạc
ru tiếng khóc trần ai.
Bàn
tay đưa anh đi gặp cuộc đời
Một
xuân bao dung ai cũng là người
Bàn
tay vun xới, ôi bàn tay đưa lối
Dọc
đời, thơ hát đầy vơi…
Bàn
tay ôm anh trong cuộc tình đầy
Một
thu sang, tim anh nở tròn ngày…
Một
mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa
đông khăn tang mây bỏ đường dài
Bàn
tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ
lùng tay khép làn mi.
Những
bài ca lặn sâu vào cõi tâm tư như vậy, hình như tôi chỉ gặp trong những ca khúc
của Phạm Duy và một nhạc sĩ khác là Trịnh Công Sơn, bởi họ là những con người
có một thế giới nội tâm mênh mang vô tận…
Có
phải Thượng Đế đã cảm thông với “mối tình câm” quá ư sâu nặng của tôi nên
người đã ban cho tôi một ân huệ: vào năm 2000 tại Sài Gòn, tôi đã được gặp
gỡ thần tượng của mình – nhạc sĩ Phạm Duy bằng xương bằng thịt – người con ưu
tú mà Mẹ Việt Nam đã rứt ruột đẻ ra nhưng lại phải sống xa Mẹ đằng đẵng như một
kẻ lưu vong. Tôi coi cuộc tương ngộ với nhạc sĩ Phạm Duy là một “cuộc gặp gỡ
định mệnh” của hai con người không thể nào lại không có quan hệ gì với nhau khi
cùng sống trong một thời đại trên cõi đời này.
Sáng
hôm ấy, lòng háo hức tôi đến khách sạn Continentale để tìm gặp ông. Tôi đã gặp
may: ông đang ngồi với nhà văn Vũ Hạnh và nhà báo Phương Chi. Hai người này
vốn có thiện cảm với khả năng âm nhạc của tôi nên khi tôi bước tới thì
họ bỗng hồ hởi reo lên vui mừng chào đón tôi và nhường chỗ cho tôi ngồi sát
bên nhạc sĩ Phạm Duy. Không lời nào tả xiết niềm sung sướng của tôi khi được
gặp mặt nhân vật huyền thoại của mình. Chao ôi! Quả thật Thượng Đế đã ưu ái ban
cho người nhạc sĩ thiên tài tuổi đã bát tuần này một vẻ đẹp hoàn hảo của một
trí thức Phương Đông với mái tóc bồng bồng trắng xoá, nét mặt đôn hậu và miệng
cười tươi tắn dễ thương.
Không
để cho ông phải thắc mắc về một chàng thanh niên lạ mặt (tôi biết dưới mắt ông,
tôi chỉ là một chàng trai trẻ), sau cái bắt tay đầu tiên, tôi bèn mở đầu ngay:
–
Anh Phạm Duy, em đã mong ước từ mấy chục năm nay rồi nhưng mãi đến hôm nay mới
có duyên được gặp anh và mang đến cho anh một số điều bí mật.
–
Ồ, thế kia à? – Phạm Duy cười và tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe.
–
Trước hết, em đến đây không phải để lấy đi năng lượng của anh làm anh mệt, mà
là cung năng lượng cho anh làm anh khoẻ và vui.
–
Rất cảm ơn!
–
Em xin tặng anh ba cuốn sách do em biên soạn và vừa mới xuất bản. Em là người
biên soạn sách văn học Việt Nam. Đó là bí mật thứ nhất.
Vừa
nói tôi vừa rút trong cặp ra từng cuốn một trao cho ông, đó là những tuyển thơ
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Tôi thấy ông mở to cặp mắt
và mỉm cười tỏ vẻ rất thích thú với những tác phẩm kinh điển đó.
–
Bí mật thứ hai: em có viết cho anh một bức huyết thư. – Tôi bèn giở lá thư và
đọc cho ông nghe. Ông tỏ ra ngạc nhiên với những nhận định mạnh dạn của tôi,
chẳng hạn tôi khẳng định ông và Đặng Thế Phong là hai nhạc sĩ thiên tài của
Việt Nam.
–
Bí mật thứ ba: em là người từ rất lâu rồi mang khát vọng kế tục dòng âm nhạc
của anh. Còn một người nữa, theo em cũng kế tục nhạc của anh nhưng có lẽ ông ta
không thừa nhận điều ấy: đó là Trịnh Công Sơn. Em thấy nhạc Trịnh Công Sơn là
một dòng nhánh bắt nguồn từ dòng sông cái Phạm Duy (nhạc sĩ Phạm Duy gật đầu
tỏ ý thừa nhận). Để chứng minh rằng em là người kế tục nhạc của anh, em xin
tiết lộ điều này: tạp chí Tài
Hoa Trẻ xuân
Canh Thìn (em mang theo đây) đã in bài hát “Tình xuân” em viết từ hồi còn rất
trẻ. Quả thật anh và em đều là số “Sao Quả tạ”.
–
Thế à? – ông hỏi vẻ ngạc nhiên.
–
Đúng vậy anh ạ. Em sinh năm 1943, bài “Tình xuân” viết năm 1966 lúc em mới 23
tuổi, vậy mà mãi đến năm 2000 bài hát ấy mới được giới thiệu trên đài
truyền hình Sài Gòn (do ca sĩ Trần Đình hát) và đăng tải trên tờ
tạp chí này.
–
Vậy là chậm mất 34 năm! – Phạm Duy nhẩm tính rất nhanh và nói.
–
Vâng, họ chưa đánh giá được thứ nhạc trữ tình mới lạ ấy nên chậm chấp nhận.
Hôm nay em xin tặng anh hai bản nhạc “Tình xuân” và “Trời đã lạnh rồi”, anh
mang về Mĩ xem kĩ xem đó có phải đúng là trường phái nhạc Phạm Duy không?
Sau
đó tôi hát nhỏ nhưng nét bài “Trời đã lạnh rồi” (phổ thơ Chế Lan Viên) cho
ông nghe. Ông chăm chú theo dõi, và khi tôi hát xong, ông nói:
–
Bài hát hay!
Nhân
cao hứng, tôi hát tiếp luôn bài “Tình xuân”. Đây là bài hát “tụng ca tình yêu”
nồng cháy bậc nhất của tôi được sáng tác cho mối tình đầu với nàng Thu Lê trước
khi chúng tôi cưới nhau khoảng một năm:
Em
có nghe nhựa sống
Đang
mơn mởn trên cành
Khi
xuân về toả nắng
Giữa
đất trời ngát xanh?
Trái
đất ta diễm lệ
Bởi
mùa xuân huy hoàng
Cuộc
đời ta tươi sáng
Bởi
tình yêu dịu dàng…
Phạm
Duy lắng nghe nét nhạc hừng hực của bài hát và tỏ vẻ xúc động mạnh. Tôi nói:
–
Em ước mơ sau này người Việt Nam chúng ta khi nhảy valse sẽ chọn bài nhạc này.
Phạm
Duy bất giác gật đầu.
Từ
trong thâm tâm, tôi đã đoán rằng bài hát này nhất định sẽ gây ấn tượng cho nhà
nhạc sĩ gạo cội. Bởi tôi nắm khá vững về phong cách nhạc của ông và của dòng
nhạc tiền chiến nói chung: tất cả những bài hát trữ tình đều du dương hoặc tha
thiết hoặc sầu muộn, và nếu như có một bài hát vui tươi thì nó cũng chỉ ở mức
tưng bừng rộn rã chứ không bao giờ có thể lên đến mức nồng cháy. Vì vậy nhạc
tiền chiến là thứ nhạc chủ yếu mang màu xanh, chỉ thỉnh thoảng mới có màu
hồng và hầu như không hề có màu hồng rực của những tình cảm cháy bỏng và mãnh
liệt. Có lẽ nhạc sĩ Phạm Duy đã bị bất ngờ trước một bài hát Việt nồng cháy mà
hiếm khi nào ông nghe thấy nên ông mới xúc động mạnh như thế. Tôi nói
tiếp:
–
Còn đây là bí mật thứ tư: đó là chuyện của riêng em với anh. Ở Miền Bắc
suốt mấy thập kỉ qua, nhạc của anh hầu như không còn được ai nhắc nhở
đến. Nhưng có một người vẫn tiếp tục say sưa chơi nhạc Phạm Duy: đó là em. Từ
năm 1976 đến nay em đã hát, tự đệm guitare và thu vào băng những bài này của
anh.
Tôi
bèn đưa hai cuốn băng cassette cho ông xem liste với những bài Quê nghèo, Tình hoài hương, Tình ca, Thuyền viễn
xứ, Về miền Trung, Khối tình Trương Chi, Nương chiều…
–
Nhiều Phạm Duy quá! – ông xác nhận và cười vui vẻ.
–
Cuối cùng, em không muốn làm mệt anh nên chỉ xin hát tặng anh một vài đoạn nhạc
của anh…
Tôi
bèn mang hết nhiệt tâm hát diễn cảm bài “Bên cầu biên giới” mà tôi đánh
giá là một bài hát đặc sắc thuộc thể loại trầm tư rất khó viết.
Ngừng
đây soi bóng bên dòng nước lũ,
Cầu
cao nghiêng dốc trên dòng sông sâu.
Sầu
vương theo sóng xuôi về cuối trời,
Một
vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa.
Người
đi chưa hết hương sầu lữ thứ,
Hồn
theo cánh gió quên tình xa xưa.
Tuổi
xanh như lá thu rụng cuối mùa,
Mộng
về đêm đêm khát vừng trán ngây thơ.
“Em
đến bên tôi một chiều khi nắng phai rồi,
Nắng
ngừng bên chiếc cầu biên giới.
Xa
xa thoáng đàn trầm vô tư,
Đâu
đây dáng huyền đền duyên xưa.
Bên
cầu biên giới,
Tôi
lặng nghe dòng đời từ từ trôi.
Sông
nước xa xôi,
Mây
núi khắp nơi không tỏ một đôi lời…
Ôi
giấc mơ qua mộng đời phiêu lãng giang hồ,
Sống
trong lòng người đẹp Tô Châu;
Hay
là chết bên dòng sông Danube những đêm sáng sao.
Nhưng
đường quá xa vời,
Hương
trời vẫn mê mải,
Đời
tôi sao vẫn còn biên giới!
Lòng
tôi sao vẫn ngừng nơi đây?
Ôi
dòng tóc êm đềm!
Ôi
bể mắt đắm chìm!
Đời
phong sương cũ,
Chỉ
là thương nhớ
Mộng
bền năm xưa,
Chỉ
là mơ qua”!!!
–
Anh hát tốt thật! – Phạm Duy thốt lên sau khi tôi hát xong.
Rồi
ông nói với Duy Minh:
–
Con nói các chú mang máy ảnh chụp cho bố và chú Kiều Văn một kiểu để kỉ
niệm.
Có
thể nói, chỉ trong vòng gần nửa giờ, tôi đã thực hiện xong khúc dạo đầu của một
cuộc gặp gỡ thế kỉ, và tôi cảm thấy vô cùng thoả mãn.
Sáu
bảy năm đằng đẵng trôi qua sau cuộc gặp gỡ ấy.
Nhưng
rồi đến một ngày tôi nghe tin ông đã về hẳn Việt Nam và công ti Phương Nam
đã mua bản quyền những tác phẩm âm nhạc cùng những sản phẩm văn hoá khác (như
những cuốn hồi kí) của ông. Ngoài ra còn có một giai thoại khá thú vị là công
ti VITEX đã xin mua bản quyền mười nốt nhạc trong bài hát “Tình ca” với giá 100
triệu đồng để làm nhạc hiệu của công ti! Tôi thuộc bài hát này và luận ra 10
nốt nhạc đó là:sol–sol–do–si(b)–sol–mi(b)–fa–sol–mi(b)–do.
Sự
kiện nhạc sĩ Phạm Duy, sau một thời gian dài vắng bóng, nay lại được trở về tổ
quốc, tác phẩm lại được “tái xuất giang hồ”, theo tôi chính là một giải kết của
trời đất, của hồn thiêng sông núi nhằm khẳng định một chân lí chứ không đơn
giản là một cuộc hồi hương thông thường. Phạm Duy nhất thiết phải trở về với
“Mẹ Việt Nam không son không phấn” của ông. Ôi! Phạm Duy, đứa con đích thực là
của mẹ, đứa con hiểu đến tận cùng cõi lòng từ ái nhưng đau thương vô hạn của
mẹ, đứa con mà mẹ đã bỏ qua cho nó những khuyết tật nhỏ nhặt để yêu thương nó,
hài lòng về nó, và gửi gắm ở nó bao nhiêu hi vọng tốt lành! Đứa con ấy không
trở về sống nốt quãng đời sau chót của nó trong lòng mẹ và không được chết
trong lòng mẹ thì nó còn biết sống và chết ở đâu? Cho nên phải chăng chính Mẹ
Việt Nam thiêng liêng vô hạn đã dang rộng cánh tay đón đứa con ấy vào lòng để
che chở, an ủi và chăm sóc nó? Phải chăng vì suốt một cuộc đời, Phạm Duy đã yêu
thương mẹ hết tấc lòng nên cũng được mẹ yêu thương rất nhiều? Thiết tưởng đó
chính là lời giải đáp sâu xa nhất về hiện tượng “Phạm Duy trở về nước” từng làm
xôn xao dư luận trong những năm đầu của thế kỉ XXI.
Việc
Phạm Duy trở về tổ quốc đã giải toả cho tôi một nỗi lo, thậm chí là một nỗi
đau nhức nhối. Không lẽ một thiên tài như Phạm Duy lại bị đời xua đuổi? Không
lẽ đứa con xiết bao yêu dấu của Mẹ Việt Nam mà Mẹ thiêng liêng vĩ đại không
thể cưu mang? Không lẽ những kiệt tác thuộc về dân tộc lại bị chính dân tộc
lãng quên, ruồng bỏ? Nếu những điều đó xảy ra thật trong vận hội mới của
đất nước ở thế kỉ XXI này thì tôi chỉ còn biết ngửa cổ lên trời mà than
rằng: “Không còn trời đất nào nữa!”.
Nhạc
sĩ Phạm Duy trở về, trên thực tế đã gây ra những làn sóng xáo động trong xã
hội. Có rất nhiều người mừng vui nhưng cũng có người cho rằng ông… không xứng
đáng được trở về tổ quốc Việt Nam của họ! Khá nhiều người biết danh tiếng Phạm
Duy nhưng không trả lời được câu hỏi: “Cái điều chính yếu nhất khi
nói đến nhạc sĩ Phạm Duy là điều gì?”. Họ thường nói những chuyện
ngoài lề mà cố tình quay mặt đối với sự nghiệp âm nhạc kì vĩ ông
đã cống hiến cho đất nước và dân tộc.
[Những
người này cảm thấy gì khi được biết cái tin sau đây: nhân kỉ niệm lần thứ 224
ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du, tạp chí Xưa
và Nay, Hiệp
hội Unesco Hà Nội cùng
phối hợp tổ chức (tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam, Hà Nội chiều 2/1/2009) đã
mời nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện về tác phẩm “Minh hoạ Truyện Kiều” của ông.
Báo
Thể thao & Văn hoá ngày 3/1/2009 đưa tin:
Với
mái tóc bạc trắng và chất giọng trầm ấm, nhạc sĩ Phạm Duy đã đăng đàn nói về
tác phẩm này trong khoảng 2 tiếng đồng hồ trong một khán phòng chật kín người.
Ông đã dẫn dắt câu chuyện về sự nghiệp sáng tác của mình như sau: “Tôi là người
rất may mắn, suốt 60 năm hành nghề đã viết ra hầu hết các loại ca cho các giai
đoạn của đời người, từ ru con cho tới tuổi lọt lòng, học sinh, sinh viên ca cho
tuổi đi học, thanh niên ca cho tuổi vào đời, tình ca cho tuổi yêu đương, hội ca
cho những ngày hội, nhạc lễ cho các đình chùa hay giáo đường. Và khi con người
vĩnh biệt cuộc đời, tôi còn soạn tang ca để tiễn đưa tha nhân về nơi chín suối…
Bây giờ vào lúc cuối đời với tác phẩmMinh hoạ Truyện Kiều, dù chưa được
hoàn tất nhưng tôi rất sung sướng được đem ra hầu chuyện quý vị, anh chị em. Là
nghệ sĩ lúc nào cũng muốn bảo tồn phát huy âm nhạc dân tộc, bây giờ tôi muốn
kết thúc sự nghiệp của mình bằng sáng tác dựa trên một tác phẩm vô cùng Việt
Nam, đó là Truyện Kiều”. Vừa giới thiệu ý tưởng sáng tác, thuyết minh điểm nhấn
nhá trong từng chương hồi, vừa chỉ huy bộ phận kĩ thuật bật đĩa, một mình nhạc
sĩ Phạm Duy cũng đủ để biến buổi nói chuyện thành một live show tràn đầy cảm
hứng âm nhạc…(N.M).]
Một
ngày đầu xuân Đinh Hợi (2007) tôi đến thăm lại người nhạc sĩ già tại nhà riêng
của ông ở phố Lê Đại Hành với mục đích tiếp tục cuộc gặp gỡ định mệnh đã
khởi đầu từ bảy năm về trước. Từ trên lầu, ông xuống thang gác và bước đi chầm
chậm ra tiếp tôi. Tôi thú vị thấy ông ăn mặc nâu sồng như một lão nông hay
một thầy chùa khiến ông rất nền nã.
Việc
trước tiên tôi tặng ông bốn tác phẩm tâm đắc của tôi là “Thơ trữ tình và
Trường ca Lê Đan”, “Những gương mặt tiêu biểu thi ca Việt Nam”, “Cùng khốn một
tình yêu” và “Những dòng tâm tưởng” để ông được thưởng thức hương vị của một
nhánh văn hoá đã xuất hiện trong khoảng hai thập kỉ vừa qua mà ông chưa được
biết. Ngồi ngắm ông giở những cuốn sách đó ra xem, tôi nhận thấy mặc dù đã già
nhưng ông vẫn còn khá minh mẫn, gương mặt vẫn đẹp đẽ, da vẫn hồng và mắt vẫn
tinh bởi ông đọc sách không cần kính. Phần nào ở con người ông đã toát lên dấu
hiệu của sự… bất tử. Tôi phi lộ với ông:
–
Bác Phạm Duy, em nhận thấy có một cái duyên kì lạ đã kéo dài cả nửa thế
kỉ để hôm nay em lại được ngồi đàm đạo với bác một lần nữa. Em có cảm
tưởng rằng Thượng Đế đã xâu chuỗi các lứa con của mình đang ở rất xa nhau thành
một khối thống nhất. Vì vậy mà họ đã chọn chung một hướng: sống để phụng sự đất
trời, chân lí, dân tộc, đất nước. Những đứa con ấy luôn tỏ ra có một bản lĩnh
vững vàng trong suy nghĩ, hành động và sáng tạo. Họ chính là type người của muôn đời.
–
Thế à? – Phạm Duy đột ngột hỏi lại với vẻ ngạc nhiên.
–
Thưa bác, chắc chắn vì mối đồng cảm đó mà từ khi mới chập chững bước vào con
đường âm nhạc, em đã chọn trường phái nhạc Phạm Duy làm mẫu mực. Vào những năm
1957–1958, em bắt đầu học sáng tác nhạc bằng cách riêng: nghiên cứu những bản
nhạc của bác. Em đã đặc biệt đi sâu phân tích cấu trúc và cách phát triển giai
điệu của bài “Về miền Trung”, nhờ đó em “khui” ra được những bí quyết căn bản
để sáng tác một bản nhạc.
Rồi
để chứng minh rằng tôi là kẻ hậu bối của ông, tôi liền hát bài “Khi mùa lúa
chín”. Đó là bản tình ca đầu tiên của tôi mang màu sắc đồng quê được sáng tác
năm 1962 nhân dịp học sinh lớp tôi về nông thôn ở huyện Thuỷ Nguyên gặt lúa
giúp nông dân:
Chiều
chiều tựa bóng bờ tre,
Nhìn
đồng lúa chín ngát hương.
Hương
bay khắp trời ấm tình làng quê,
Ôi
bông lúa vàng tháng ngày ta ước mong!
Hò
ơi! Lúa về cho xóm làng vui, cho tình thiết tha…
Hò
ơi! Đêm nao dưới ánh trăng vàng
Cùng
cô con gái bên làng hò vui!
Ta
về ta nhớ mối tình quê hương.
Có
lẽ nhạc sĩ Phạm Duy dễ dàng nhận ra mặc dù là bài hát có một diện mạo độc lập
nhưng nó khá gần gũi với “air” nhạc Phạm Duy, cho dù nó còn nguyên cái vẻ
non nớt của một tác phẩm đầu tay. Non nớt nhưng bài hát ấy là một kỉ niệm
ngọt ngào trong cuộc đời tôi. Trước hết, tại nhà chị nông dân mà tôi ở nhờ
trong kì lao động, khi chị nằm trên võng dỗ cho con ngủ, tôi đã hát tặng chị.
Chị đã thật sự xúc động bởi giai điệu quê hương và lời ca trữ tình của nó nên
sau khi tôi hát xong chị đã nói một câu mà tôi sẽ nhớ mãi:
–
Năm nay lúa má nhà chị bị thất bát, nhưng được nghe bài hát tả cảnh được mùa
rất hay mà em sáng tác, chị không còn thấy buồn rầu gì nữa.
Lời
nói đó là phần thưởng cao nhất đối với tôi trong thuở ban đầu tôi võ vẽ sáng
tác nhạc. Còn điều thứ hai: bản nhạc ấy tôi viết cho mối tình thầm kín của lòng
tôi với cô nàng Thu Lê mà lúc ấy tôi chưa dám ngỏ với cô, và chính cô hôm ấy, ở
giữa cánh đồng lúa, đã khích lệ tôi hãy gắng sáng tác cho xong để… hát cho cô
nghe!
Vâng,
tôi chính là học trò vắng mặt của nhạc sĩ Phạm Duy từ mấy chục năm về trước mà
ông không hề biết. Trong niềm biết ơn và nỗi vui mừng tràn ngập, tôi nói:
–
Thưa bác Phạm Duy, đối với em, việc bác trở về một cách bình yên như thế này
là cả một sự kì diệu của số mệnh khiến em chợt nhớ đến câu thơ tuyệt vời của cụ
Nguyễn Du:
Trời
còn để đến hôm nay,
Tan
sương đầu ngõ, vén mây giữa trời.
Rồi
tôi tiếp tục cuộc giao lưu với ông bằng việc “bói thơ” – một thói quen độc đáo
của tôi lâu nay:
–
Bác Phạm Duy, bây giờ em sẽ mở ngẫu nhiên cuốn thơ trữ tình này của em đến một
trang bất kì và đọc bài thơ ở trang đó cho bác nghe xem sao nhé.
Tôi
mở ra thì trời ơi, trúng phải bài “Tình yêu của những vì sao” khiến tôi bàng
hoàng. Đó chính là bài thơ ứng như hệt vào cuộc gặp gỡ định mệnh của tôi với
ông, bởi vì bài thơ ấy được viết với một ý nghĩa sâu sắc mà tôi ấp ủ trong lòng
đã từ lâu: sự gặp gỡ và kết giao khắng khít của các nhân tài trên thế giới.
Ơi
những vì sao
Trên
bầu trời thẳm
Ngắm
nhau xa vời
Yêu
nhau thầm lặng!
Chợt
cơn bão tố
Chao
đảo vũ trụ
Mắt
sao hoảng hốt
Dõi
nhìn chơi vơi…
Đốt
mình rực cháy
Bạn
ơi có thấy?
Bão,
không thấy nhau
Chòm
sao run rẩy…
Bất
ngờ bão tan
Nhìn
nhau trong suốt
Ngọc
gieo đáy nước
Lửa
sao rực trời.
(1971)
–
Bác Phạm Duy, em thật sự lấy làm ngạc nhiên chứng kiến những bước đi kì lạ của
cuộc đời bác. Em có cảm tưởng rằng bác có được một vị thần hộ mệnh từng giờ
từng phút dẫn đường cho bác.
–
Có lẽ thế chăng…
–
Vâng, bác đã hành động hình như không phải theo những phán đoán của lí trí mà
theo linh cảm của bác. Chẳng hạn cuộc trở về thành vào năm 1951, cuộc di cư vào
Nam năm 1952 và những hoạt động âm nhạc sôi động ở mảnh đất đó, rồi cuộc di cư
sang Mĩ vào năm 1975, và cuối cùng là cuộc hồi cư về nước sau năm 2000 hiện
nay. Em cảm thấy bác có một số mệnh tương tự số mệnh của thi nhân Lí Bạch thuở
xưa. Ông luôn ở phía trên cao của cuộc đời nên những búa rìu và tên đạn của
cuộc đời không chạm tới chỗ ông được. Có lần ông bị bọn đình thần buộc tội và
bắt đi đày, nhưng ông đang trên đường đi đến nơi đày ải thì lại có lệnh ân xá!
Do kịch liệt chống lại bọn phản loạn An Lộc Sơn nên ông bị chúng bắt giam.
Nhưng khi biết người bị bắt chính là tiên thi Lí Bạch thì An Lộc Sơn lập tức hạ
lệnh tha ngay!
Có
điều, mặc dù danh tiếng của bác thì ai cũng biết, nhưng không mấy người hiểu
được bác. Nhạc của bác hay như thế mà ít có người nào thuộc trọn vẹn được một
bài hát của bác. Người ta không biết bác thuộc đẳng nào trong loài
người. Phần đông chỉ hiểu bác là một nhân vật có tài. Ít ai biết
rằng bác sinh ra đời để lãnh sứ mạng phụng sự cho Mẹ Việt Nam, cho người Việt.
Em nhận ra điều đó bởi vì em nhận thấy nhạc của bác hàm chứa hầu như toàn bộ
đất đai của tổ quốc ta và toàn bộ cuộc sống (kể cả những ngóc ngách
sâu kín nhất) của người Việt.
Nhân
cơ hội được giao tiếp với một bậc thầy trong làng nhạc, tôi muốn bộc bạch nỗi
day dứt về hiện trạng của nền âm nhạc đương thời:
–
Bác Phạm Duy, em cảm thấy nền âm nhạc Việt Nam hiện nay đang rơi vào tình
trạng mất hướng và bế tắc. Những nhạc sĩ có thực tài rất hiếm, đồng thời
họ thiếu một tầm tư duy đủ để định hướng cho âm nhạc của mình. Vấn đề “viết
cái gì?” là cả một chuyện nan giải đối với họ. Chính vì vậy mà những
thứ nhạc thời thượng rẻ tiền hoặc nhạc nhái nhạc ngoại mới có cơ hội
xuất hiện tràn lan đến thế. Thứ nhạc quay về với dân ca cổ truyền thì hầu như
không có chút sáng tạo nào nên hết sức mờ nhạt. Một vài nhạc sĩ cố gắng tìm
lối thoát bằng việc khai thác nhạc Tây Nguyên, nhưng thứ nhạc này thực
ra chỉ là nhạc của một địa phương (cũng như nhạc của các vùng rẻo
cao khác trong nước ta) chứ không thể đại diện cho nền âm nhạc Việt Nam
hiện đại. Bác suy nghĩ gì về hiện tượng đó?
–
Anh nói đúng. Bây giờ mà khôi phục nguyên xi nhạc cổ truyền là sai lầm, mà từ
bỏ nhạc dân tộc để làm nhạc ngoại lai như hiện nay lại càng sai lầm lớn. Tôi
thấy về văn học, hoặc nhất là về hội hoạ, ở ta đã có những tiến bộ khá rõ.
Nhưng về âm nhạc thì quả là đáng lo…
–
Em cho rằng nền âm nhạc Việt Nam trong tương lai không thể khác được: nó
chính là sự phát triển và nâng cao vượt bực trên cơ sở nền tân nhạc đã
ra đời và ngự trị nhạc đàn trong những thập kỉ 40 – 50 và những năm sau
đó. Nền âm nhạc tương lai ấy nhất thiết phải tổng hợp thành công cả hai tính
chất: một là tính cổ điển hoặc hiện đại quốc tế, hai là tính dân tộc. Nghĩa
là mỗi nhạc phẩm khi được trình tấu, người ngoại quốc nghe sẽ thấy nó mang tầm
quốc tế, còn người Việt nghe sẽ thấy có tính chất dân tộc rõ ràng. Thưa bác,
đã từ lâu em sáng tác theo khuynh hướng ấy và nhận thấy nó đúng, cho dù
hiện nay chỉ có một mình em theo đuổi nó.
Và
để chứng minh, tôi hát cho ông nghe bài “Chiều Hồ Gươm” (vài năm sau, nhạc
sĩ Doãn Nguyên, Đài tiếng nói Việt Nam, đã phối âm và dàn dựng bài
hát này trong chương trình kỉ niệm 1000 năm Thăng Long):
Chiều
Hà Nội êm đềm gió mát,
Đây
Hồ Gươm lưu dấu rùa thiêng.
Làn
nước xanh in vừng mây thắm,
Gái
Việt Nam áo dài bay soi nước muôn màu.
Chiều
lặng tờ Tháp Rùa im bóng,
Đắm
hồn trong thương nhớ ngàn đời.
Hồ
nước xanh như còn nhắc nhở:
Giống
tàn tham, lũ ngoại xâm, bay sẽ tơi bời!
Ôi
Hồ Gươm, trái tim Hà Nội,
Trĩu
nặng tình người từ thuở ngàn xưa!
Ôi
Hồ Gươm nỗi yêu trọn đời,
Thắm
nồng tim tôi có thuở nào phai?
Tôi
thầm cảm ơn nhạc sĩ Phạm Duy đã yên lặng theo dõi từng nốt nhạc, từng
lời ca của bài hát mang một sắc thái khá mới lạ đối với ông.
Sau
đó, để giao lưu với tôi, ông mở máy giới thiệu một số ca khúc ông viết trong
những thập kỉ gần đây mà tôi còn ít được biết đến. Tôi lắng nghe qua
giọng ca của Tuấn Ngọc. Tuy nhiên tôi nhận thấy nhạc của giai đoạn này mặc dù
hoàn chỉnh về mặt kĩ thuật (sáng tác, phối âm, phối khi rất tốt) nhưng
lại quá thiên về triết lí mà thiếu đi cái chất nồng nàn, máu huyết, sống động
luôn đầy ắp trong những kiệt tác ngày trước của ông. Tôi mạnh dạn trình bày
suy nghĩ của mình:
–
Bác Phạm Duy, theo quan niệm của em, âm nhạc không mang chức năng diễn đạt lí
trí và mô tả hiện thực cuộc đời. Về bản chất, nó không phải bộ môn lí luận,
cũng không có chức năng tự sự (kể chuyện). Nó
đích thực là bộ môn nghệ thuật hoàn toàn trữ tình.
Nó là tiếng thổn thức hoặc reo ca của con người trước thiên nhiên và
cuộc sống. Dù nó có đề cập tới một vấn đề lí trí hay diễn tả một hiện thực
thì đó cũng chỉ là phương tiện nhằm tới mục đích biểu đạt tâm tư, tình cảm,
cảm xúc của con người trước cuộc sống mà thôi. Chẳng hạn nhạc sĩ Johann Strauss
sáng tác bản Le beau Danube bleu không phải để miêu tả dòng sông Danube mà để
nói lên tình yêu tha thiết của người dân nước Áo với dòng sông ấy. Bác viết bài
“Về miền Trung” không phải để miêu tả miền Trung mà để nói lên tình thương da
diết của bác với miền Trung nhiều thống khổ. Hoặc bài “Nhớ người ra đi” của bác
không phải để tả cuộc ra đi của người lính mà là để nói lên tình cảm thương nhớ
sâu sắc của mẹ với con, vợ với chồng, con với cha trong cảnh chia li vì chiến
tranh.
Nhạc
sĩ Phạm Duy bất giác gật đầu tỏ ý công nhận.
–
Bác Phạm Duy – tôi nhấn mạnh – cho nên em xin bác đừng nên coi nhẹ và quên lãng
những tác phẩm thời kì đầu của bác. Thực ra đó chính là những kiệt tác “lấp
lánh thiên tài” của bác trong nền âm nhạc Việt Nam. Cho dù chúng mang
chất liệu âm nhạc bình dân giản dị và kĩ thuật chưa thật hoàn thiện nhưng
chính chúng mới thật sự trường tồn với thời gian2.
Ba
giờ đã trôi qua mà câu chuyện của tôi với nhạc sĩ Phạm Duy vẫn còn chưa vãn.
Nhưng đã đến lúc phải chia tay, chợt một ý tưởng nảy ra, tôi nói:
–
Trong số rất nhiều văn nghệ sĩ xuất hiện từ thời tiền chiến cùng với bác, có lẽ
chỉ bác là có được một đoạn vĩ thanh tuyệt hảo. Nó làm nên sự toàn bích về cuộc
đời và sự nghiệp của một nhà văn hoá đích thực.
Nhạc
sĩ Phạm Duy tỏ ra rất tâm đắc với những lời nói đó, ông đáp:
–
Hoàn toàn đúng, có được một đoạn vĩ thanh như vậy, đó là hạnh phúc rất lớn của
cuộc đời tôi. Có lẽ đó là kết quả của lối sống thiên về tự nhiên và chân thật
của tôi. Tôi không bao giờ cho phép mình bị ràng buộc bởi cái nợ áo cơm để rồi
phải đánh mất tự do của mình. Nhưng tôi thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của
những người anh em: nếu họ khước từ những sự ràng buộc thì ai nuôi họ?
Câu
nói chân thực của ông chạm mạnh vào chỗ nhạy cảm trong suy nghĩ của tôi. Thật
là kì lạ: một sinh linh giữa trời đất bao la này chẳng lẽ không có cách nào tự
nuôi sống được mình hay sao mà lại cần phải… có người nuôi?
–
Có lẽ bác nói đúng – tôi đáp – cho nên thi sĩ Xuân Diệu đã phải thốt lên rằng
“Cơm áo không đùa với khách thơ”. Một câu thơ nghe thật cám cảnh!
–
Anh biết không: lúc tôi sang Mĩ tôi chỉ có vẻn vẹn 20 dollars. Nhưng tôi đâu có
chết đói, tôi đã cố gắng làm việc và mỗi ngày một giàu lên, thậm chí tôi có thể
trở thành triệu phú. Nhưng tôi vốn không màng danh tiếng, cũng không chạy theo
tiền bạc, trái lại tiền bạc đã chạy theo tôi. Bây giờ cũng thế, xã hội đánh giá
và sử dụng tác phẩm của tôi như thế nào là tuỳ họ, tôi không đặt ra yêu cầu nào
cả. Tôi hoàn toàn thanh thản. Tôi chỉ cảm thương cho một số bạn bè cũ của tôi
đến lúc cuối đời đã không có được sự thanh thản đó.
–
Theo em, tất cả những điều đó đều là minh chứng cho luật nhân quả. Sự thiếu
hụt về tầm vóc tư tưởng, sự thiếu bãn lĩnh và sự non yểu về nhân cách là
nguyên nhân khiến cho nhiều người có tài năng thật sự vẫn bị sa lầy, bị phí
hoài cuộc đời vào những chuyện vô bổ và vô nghĩa, đến phút chót mới nhận
ra rằng mình bị lầm lạc và chẳng làm được một cái gì đáng giá cho đời.
Trên đời này chỉ có những bậc chân nhân và những chân giá trị mới có thể
trường tồn sau muôn vàn sóng gió và thử thách mà thôi. Có một dẫn chứng
rất điển hình về vấn đề này, đó là câu chuyện về cuộc đời nhạc sĩ Đức vĩ
đại Jean-Sébastien Bach, không hiểu bác đã được nghe chưa?
–
Chưa.
–
Bach là nhạc sĩ thiên tài đã tổng hợp tinh hoa của âm nhạc truyền thống các
nước Ý, Pháp và Đức và nâng cao chúng. Ông là bậc thầy lớn của nghệ thuật âm
nhạc và là tác giả của rất nhiều tác phẩm âm nhạc xuất sắc thuộc đủ các thể
loại. Thế nhưng đương thời không ai đánh giá được tài năng của ông. Chính vì
thế sau khi ông chết thì âm nhạc của ông hoàn toàn bị rơi vào lãng quên. Mãi
nửa thế kỉ sau, các nhạc sĩ kiệt xuất như Handel, Mozart, Beethoven mới nghiên
cứu và vô cùng ngưỡng mộ âm nhạc của bậc tiền bối vĩ đại. Từ đấy nhạc của Bach
sống lại và ngày càng được cả thế giới yêu chuộng, kính trọng, tán thưởng. Vô
hình trung, Bach đã sống và xử thế đúng như triết lí của Trang Tử ở Phương Đông Chí nhân vô kỉ, thần nhân vô công, thánh nhân vô
danh3. Bach đã thanh thản náu
mình vào im lặng vĩnh viễn nhưng lịch sử đã trả lại sự công bình cho ông.
Bác
Phạm Duy, em rất cảm phục những ý nghĩ khiêm tốn lạ thường của bác. Bác nói
rằng ít nhất bác cũng để lại cho đời được một bài hát “Tình ca”. Nhưng em là
người chơi nhạc của bác đã lâu, em biết rõ một điều rằng bác đã để lại cho đời
rất nhiều tác phẩm khác không hề thua kém bản “Tình ca” chút nào. Em luôn tin
rằng lịch sử đã, đang và sẽ đem lại sự công bình cho âm nhạc của bác.
Tôi
cảm thấy những lời nói trung thực ấy của tôi đã làm vui lòng người nhạc sĩ già.
Cuộc
gặp gỡ của tôi với nhạc sĩ Phạm Duy hôm ấy có lẽ xứng đáng với tên gọi “cuộc
gặp gỡ định mệnh” của hai con người làm văn hoá thuộc hai thế hệ kế tiếp nhau
trong thế kỉ XX: thế hệ đàn anh ra đời trong những năm 1917-1921, và
thế hệ đàn em ra đời trong những năm 1942-1944. Trong quan hệ hiếm có
đó chứa đựng mối thần cảm của tôi nảy sinh ngay từ những ngày tấm
bé đối với người nhạc sĩ vĩ đại, chứa đụng một cái duyên kì bí
tựa như cái duyên của Chung Tử Kì với Bá Nha thuở xưa. Có biết bao
nhiêu là đồng cảm trong tim và trong óc khiến câu chuyện của hai chúng
tôi diễn ra sôi nổi và khó dứt, tưởng chừng khiến thời gian cũng
phải “gượm bước trên đường vô biên”4…
Cuối
tháng 6/2008 khi bài viết trên đây căn bản hoàn thành, tôi mạnh dạn mang đến
trao cho nhạc sĩ Phạm Duy để ông xem xét. Bấy giờ tôi đã thận trọng đặt ra hai
tình huống: một là nó sẽ làm nên một sự đột khởi mới mẻ trong tâm trí người
nhạc sĩ lão thành, hai là nó sẽ rơi vào im lặng như một viên sỏi rơi xuống vực
sâu.
Khoảng
vài tuần sau tôi lại đến thăm ông thì ông nói:
–
Tôi đã đọc bài viết của anh vài ba lần. Tôi kính trọng toàn thể nội dung bài
viết đó. Tôi có một người bạn lâu năm hiện ở Mĩ tên là Trần Văn Ân, có thể biết
nhiều về tôi hơn anh. Sau khi đọc bài viết của anh, tôi đã gửi cho ông ta. Nếu
có hồi âm của ông ta, tôi sẽ chuyển cho anh để anh tham khảo.
Ít
ngày sau tôi được đọc một email của Trần Văn Ân gửi Phạm Duy như sau:
“Dear
ông Phạm Duy,
Hôm
nay tôi mới có thì giờ đọc bài của Kiều Văn… Tôi muốn tóm tắt mấy điều suy nghĩ
sau đây:
1-
Kiều Văn có một vài nhận định rất đúng và rất mới về chân dung Phạm Duy, khác
với nhiều người viết về Phạm Duy vì hầu hết đều nhìn Phạm Duy theo lối “đường
mòn” routine… Cái điểm độc đáo và đúng nhất là so sánh Phạm Duy với một chú bé
háu ăn và thèm bú sữa mẹ…
2-
Việc so sánh với Nguyễn Bính và Đặng Thế Phong là irrelevant vô nghĩa.
3-
Tôi rất muốn trao đổi với Kiều Văn về Phạm Duy. Ông ta có vẻ còn đủ say mê và
thời giờ để nghĩ và viết về Phạm Duy. Tôi thành thực nói với ông rằng nhiều
người kể cả tôi hay Thi Vũ, Xuân Vũ cũng vẫn chưa ra khỏi cái đường mòn khi
viết về ông.
4-
Việc nên làm bây giờ là giúp ông ta hoàn tất cuốn sách viết về Phạm Duy. Tôi
sẵn sàng tiếp tay với Kiều Văn làm việc này với sự phụ giúp của ông nữa.
5-
Việc này rất cần vì cho tới bây giờ, viết về Pham Duy đã có nhiều người nhưng
chưa có cuốn sách nào viết được đầy đủ về Phạm Duy (vì Phạm Duy quá lớn. Tôi
không nịnh ông đâu).
6-
Việc này là một nhu cầu của lịch sử văn học và nghệ thuật VN. Tuy nhiên có lẽ
phải chờ khi nào ông đã ra đi thì cuốn sách đó mới có thể cho ra đời được.
7-
Mong ý kiến của ông. Tôi sẽ có mặt ở VN sau một thời gian nữa và sẵn sàng dành
thì giờ cho Kiều Văn.
Trần Văn Ân”
Bức
thư hồi âm ấy của một người ở nơi xa mà tôi chưa hề quen biết đã xoá đi trong
tôi một nỗi hồ nghi. Không phải tôi hồ nghi về năng lực tư duy của mình mà hồ
nghi về khả năng có được sự đồng cảm và thông hiểu của những người khác đối
với tôi. Khổng Tử từng nói “người nông dân dù biết cày cấy nhưng không thể
đoan chắc là sẽ được mùa”. Thế nhưng rốt cuộc giữa tôi với nhạc sĩ Phạm Duy và
những bạn bè thiết cốt lâu năm của ông đã đạt tới sự hiểu biết lẫn nhau thật
đáng vui mừng. Giấc mơ từ thuở xa xưa của tôi về cuộc hội ngộ với nhạc sĩ Phạm
Duy, ngờ đâu do sự chuyển vần huyền diệu của trời đất, cuối cùng đã hoàn toàn
trở thành sự thật, thỏa mãn khát vọng cháy bỏng của tôi về tình yêu của những vì sao trên thế gian này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét