Nguyễn Du: Những mỹ nhân trên đường mười năm gió bụi (1786-1796)
Sau ba năm đi giang hồ
Trung Quốc . Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm
1794. Đó là ba năm « Chữ tình chốc đã ba năm vẹn », lưu lại trong Lưu Hương Ký
của Hồ Xuân Hương. Thời gian đó anh Nguyễn Nễ làm quan triều Tây Sơn, tại Thăng
Long. Nguyễn Nễ lên làm quan đã cho dựng lại một phần nào trong khu dinh thự
cha anh, bị bọn kiêu binh đốt phá ở cạnh Giám Hồ, Bích Câu, cạnh Văn Miếu ngày
nay, vì dù sao trong gia đình cũng còn các bà chị dâu, vợ anh Nguyễn Khản và
con. Nguyễn Công con Nguyễn Khản và Nguyễn Thiện con Nguyễn Điều có tham gia
Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp do Tây Sơn lập ra tại Nghệ An. Anh Nguyễn
Điều, tháng 3-1784 đang làm Trấn Thủ Sơn Tây cũng bị giáng chức về Thanh
Chương. Huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Các con và gia đình ông ở lại đây lập chi
Nguyễn Tiên Điền tại đây. Chi họ này ngày nay có khoảng 400 người. Khi nghe
kinh thành thất thủ, ông chịu không nổi, buồn uất thành bệnh mất ngày
31-7-1786. Mộ được an táng xã Đại Đồng, huyện Nam Đàn, Nghệ An, sau được cải
táng về xã Sơn An huyện Hương Sơn.
Có hai bài thơ lưu dấu
vết Nguyễn Du trong thời kỳ này tại Thăng Long là bài Long Thành cầm giả ca.
Nguyễn Du viết năm 1813 khi đi sứ ngang Thăng Long, gặp một người nhạc nữ đã
già tiều tụy nhớ ngày xưa hai mươi năm trước từng gặp nàng trong tư dinh của
anh, và nghe nàng đàn trước các quan Tây Sơn. Bài thứ hai là bài Mộng đắc thái
liên. Viết năm 1805 tại Huế, nhớ ngày xưa từng hái sen ở Hồ Tây với cô hàng
xóm, Nguyễn Du gọi Xuân Hương Hồ Phi Mai là lân nữ. Nguyễn Du ở nơi Gác Tía nơi
câu cá của anh Nguyễn Khản, cạnh đền Khán Xuân của Chúa Trịnh Sâm. Nay là khu
đình làng Nghi Tàm, cạnh Cổ Nguyệt Đường nhà Hồ Phi Mai.
Nguyễn Du, không thích
nhà Tây Sơn, nên khoảng năm 1790-1794 ở Tây Hồ làm Lã Vọng câu cá chờ thời, đi
hái sen với Hồ Phi Mai, lâu lâu đến thăm anh, mang hoa sen tặng anh và các bà
chị dâu Hoa tặng người mình kính, Gương tặng người mình thương và các bà chị
đong tặng cho chú vài đấu gạo, nếp, sống qua ngày. Tương truyền Lã Vọng tánh
tình thẳng thắng không thích cong quẹo, nên người đời đùa : lưỡi câu của ông
cũng thẳng, câu cá để mà vui thú, chứ không cốt bắt cá. Nguyễn Du chắc cũng
thế, không ăn cả ngó sen vì Nguyễn Du lo xa: Hái chớ làm lìa ngó, năm sau sen
chẳng sinh. Tây Hồ có món cá trắm làm gỏi với ngó sen, món ăn vương giả nhà vua
thết đãi bọn kiêu binh. Chỉ vì món ăn này mà bảy kiêu binh bị chém, kiêu binh
nổi giận, dinh thự cha anh bị phá tan thành bình địa, anh Nguyễn Khản phải chạy
trốn, nước không ai quản lý, cả triều đại Lê Trịnh bị sụp đổ. Xưa có chuyện :
một cái móng ngựa bị rớt, làm con ngựa bị què, làm chết một viên đại tướng, làm
thua một trận, làm mất một nước. Một cái móng ngựa làm mất một nước, một món
gỏi cá trắm ăn với ngó sen làm sụp một nhà Trịnh 243 năm, và nhà Lê hơn 300
năm. Nguyễn Du đọc chương Vấn Thiên của Khuất Nguyên, mọi chuyện trong vũ trụ
đều có liên hệ nhân quả với nhau, « một cánh bướm đập cánh ở Bắc Kinh, có thể
trở thành cơn bão ở Paris », nên tóc đã bạc trắng. Không lo sao được khi, một
tổ kiến kia làm để vỡ có ngày, một tàn thuốc đủ thiêu khu rừng hạ. Người thức
giả nhìn xa trông rộng không đợi lúc bị chìm trong dòng nước mới biết có tổ
kiến trên đê, không đợi lúc đất nước cháy thiêu mới thấy lòng dân nóng bức như
khu rừng hạ.
Nguyễn Du có viết ba bài
thơ để tả những mỹ nhân « hồng nhan đa truân » , những nàng Kiều người Việt
Nam: Đó là cô Cầm trong Long Thành cầm giả ca ; Điếu La Thanh ca giả, và bài
Ngô gia đệ cựu ca cơ . Chúng ta thử đi vào tâm tình Nguyễn Du qua bài Long
Thành Cầm giả ca. Bài thơ này là một tuyệt tác trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Bài thơ thật cảm động. Chuyện kể một nàng ca nữ nhan sắc, tiếng đàn nổi tiếng
một thời, Nguyễn Du buổi hàn vi tại Thành Thăng Long (1790-1794), đứng trong
bóng tối nhìn nàng gảy đàn, các quan Tây Sơn đua nhau thưởng tiền lụa nhiều vô
số kể. Hai mươi năm sau Nguyễn Du làm Chánh Sứ đi qua Thăng Long, một người gầy
gò, mặt đen xấu như quỉ, áo vải bạc phếch nhiều mảnh vá trắng. Nghe tiếng đàn
Nguyễn Du nhận ra người xưa. Nguyễn Du bồi hồi không yên khôn xiếc cảm thương
cho sự đổi thay xưa và nay.
BÀI CA NGƯỜI GẢY
ĐÀN Ở LONG THÀNH
Người gảy đàn đất Long
Thành không rõ tên họ là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn Nguyễn (tức đàn
Nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây
Sơn kéo ra, các đội nữ nhạc cũ kẻ chết người bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm
đàn hát rong. Những bài nàng gảy đều là những khúc cung phụng gảy cho vua nghe,
người ngoài không hề biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một
thời.
Hồi còn trẻ, tôi đến
kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ làm quan Tây Sơn ở Bắc Thành từ năm 1790 đến
khoảng năm 1794), trọ ở gần Giám Hồ ( Hồ Gương, cạnh Văn Miếu phường Bích Câu).
Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người.
Nàng nổi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói lời khôi hài,
mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay,
tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong
bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má
bầu, trán gió, mặt gẫy, không đẹp lắm nhưng nước da trắng trẻo, thân hình đầy
đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lú cánh
chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh,
không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến
nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn bè có chê trách cũng không để tâm đến.
Sau đó vài năm tôi dời nhà vào Nam, mấy năm liền không trở lại Thăng
Long.
Mùa xuân năm nay (1813),
tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Thăng Long. Các quan mở tiệc tiễn tôi
ở dinh Tuyên phủ cho nên gọi hết nữ nhạc trong thành, con hát trẻ đến mấy chục
người, tôi đều không biết đến tên. Họ thay nhau ca múa. Rồi nghe vút lên một
cung đàn cầm trong trẻo, nghe khác hẳn các khúc nhạc đương thời. Tôi lấy làm lạ
nhìn người đàn, thì thấy người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen xấu như quỉ,
quần áo toàn bằng vải thô, bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ ở cuối
chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai,
duy nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc
tan tôi đến người chơi đàn, thì ra chính là người gảy đàn ngày xưa đã từng gặp.
Than ôi, người ấy sao đến nổi này. Tôi bồi hồi , không yên, ngẩng lên cúi
xuống. Khôn xiết cảm thương cho sự đổi thay xưa và nay. Đời người trăm năm,
vinh nhục buồn vui khó có thể nào lường được. Sau khi từ biệt, suốt trên đường
đi tôi cảm xúc vô hạn, nên làm bài ca để gửi mối cảm hứng.
Giai nhân Thăng
Long,
Chẳng biết rõ tính
danh.
Thạo đàn Nguyễn
cầm,
Nên trong thành gọi nàng
Cầm là tên.
Nàng học khúc Cung phụng
trong cung vua triều trước,
Khúc nhạc hay như thiên
giới xuống trần gian.
Thuở thanh niên tôi từng
đã gặp nàng,
Bên Hồ Giám trong một
lần dạ tiệc.
Nàng khi ấy tuổi chừng
hăm mốt,
Áo hồng long lanh sáng
mặt hoa đào,
Má long lanh hồng rượu
dễ thương sao,
Tay réo rắt năm cung đàn
nhẹ lướt,
Tiếng khoan như gió rừng
thông tha thướt,
Tiếng trong như đôi hạc
vút trời xanh,
Tiếng mạnh như bia Tiến
Phúc sét đánh tan,
Buồn như Trang Tích nằm
rên ngâm tiếng Việt.
Người say mê nghe không
biết mệt,
Khúc nhạc vua từ đại nội
Trung Hòa,
Quan Tây Sơn trong tiệc
rượu say sưa,
Mảng vui suốt một đêm
không biết chán.
Phía tả hữu tranh nhau
gieo thưởng,
Tiền bạc xem rẻ tựa đất
bùn.
Vẻ hào hoa lấn át bậc
vương tôn,
Bọn niên thiếu đất Ngũ
Lăng chẳng kể.
Ba mươi sáu cung xuân
trần thế,
Đúc chung thành vật báu
đất Trường An.
Bữa tiệc xưa ngoảnh lại
hai mươi năm.
Tây Sơn bại tôi vào Nam
từ thuở,
Gang tấc Thăng Long
không còn thấy nữa.
Huống tiệc vui múa hát
trong thành!
Nay Phủ Tuyên tiễn sứ
cuộc truy hoan,
Các ca kỹ tiệc xuân đều
trẻ tuổi,
Duy có một mái hoa râm
phía cuối,
Bé nhỏ khô khan thần sắc
võ vàng,
Mày bơ phờ không trang
điểm dung nhan,
Nào ai biết người tài
hoa nhất thành thuở trước?
Khúc đàn xưa tôi thầm
rơi nước mắt.
Tai lắng nghe mà xót
lòng đau,
Bổng nhớ xưa hai mươi
năm nao,
Bên Hồ Giám từng thấy
nàng trong tiệc.
Thành quách đổi dời việc
người cũng khác,
Bao nương dâu giờ hóa
biển xanh,
Cơ nghiệp Tây Sơn đều
thảy tiêu vong,
Còn sót lại một người ca
nữ,
Thấm thoát trăm năm là
bao nữa,
Nước mắt rơi thấm áo
lòng thương.
Tôi từ Nam tóc bạc trắng
phong sương,
Trách chi người đẹp đã
tàn phai nhan sắc,
Hai mắt rưng rưng tưởng
về chuyện trước,
Gặp mặt nhau mà chẳng
nhận ra nhau.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Bắc Hành tạp lục, Nhất Uyên dịch thơ.
LONG THÀNH CẦM GIẢ
CA (Phụng sứ thời tác)
Tiểu dẫn: Long Thành cầm
giả, bất tri tính thị. Văn kỳ ấu niên tòng học bát Nguyễn Cầm ư Lê cung Hoa tần
bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kỳ nhân lưu lạc thị triền, hiệp
kỹ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai Ngự tiền Cung phụng khúc, phi ngoại nhân
sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kỹ. Dư thiếu thời, thám huynh đế kinh, lữ túc
Giám Hồ điếm. Kỳ bàng Tây Sơn chư thần, đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ tập.
Kỳ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường, phả năng ca, tác bài hài ngữ,
nhất tọa tận điên đảo, xác thưởng dĩ đại bạch, triếp tận, triền đầu vô toán,
kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu
kiến chư huynh xứ, đoản thân, khóa kiểm, ngạch đột, diện ao, bất thậm lệ, cơ
bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường,
xước xước nhiên hữu dư vận. Tích thiện ẩm, hý lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuôn
trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa
địa thượng, đồng bối phi chi, bất tuất dã. Hậu sổ tài, dư tỷ gia nam qui, bất
đáo Long Thành nhược can nhiên hỹ. Kim xuân, tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh
Long thành, chư công nhục tiễn vu Tuyên Phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc,
thiếu cơ sổ tập, tịnh bất thức danh diện, điệc khởi ca vũ, kế văn cầm thanh
việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc,
sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ thị mạt, bất
ngôn diệc bất tiếu, kỳ trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy ư
cầm thanh trung tự tầng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc
nhân, tức kỳ nhân dã. Ta hồ ! thị nhân hà chí thử đa ! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất
thăng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ khả lượng đa
! Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng:
Long Thành giai
nhân,
Thính thị bất kỳ
thanh.
Độc thiện Nguyễn
cầm,
Cử thành chi nhân dữ Cầm
danh.
Học đắc tiên triều cung
trung Cung phụng khúc,
Tự thị thiên thượng nhân
gian đệ nhất thanh.
Dư ức thiếu thời tằng
nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai
yến.
Kỳ thời tam thất chính
phương niên,
Hồng nhan yểm ái đào hoa
diện.
Đà nhan hám thái tối
nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tùy
thủ biến.
Hoãn như sơ phong độ
tùng lâm,
Thanh như song hạc minh
tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu
toái tích lịch,
Ai như Trang Tích bệnh
trung vi Việt ngâm,
Thính giả mĩ mĩ bất tri
quyện,
Tiện thị Trung hoà đại
nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn tọa
tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất
tri bão.
Tả phao hữu trịch tranh
triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo
thảo.
Hào hoa ý khí lăng vương
hầu,
Ngũ Lăng thiếu niên bất
túc đạo.
Tính tương tam thập lục
cung xuân,
Hoạt tố Trường An vô giá
bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị
thập niên.
Tây Sơn bại hậu dư Nam
thiên,
Chỉ xích Long Thành bất
phục kiến,
Hà huống thành trung ca
vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư
trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai
niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát
bán hoa,
Nhan sấu thần khô hình
nhược tiểu.
Lang tạ tàn mi bất sức
trang,
Thùy tri tựu thị đương
thời thành trung đệ nhất diệu.
Cựu khúc thanh thanh ám
lệ thùy,
Nhĩ trung tĩnh thích tâm
trung bi,
Mãnh nhiên ức khởi nhị
thập niên tiền sự,
Giám Hồ tịch trung tằng
kiến chi.
Thành quách suy di nhân
sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến
thương hải,
Tây Sơn cơ nghiệp tận
tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân
tại.
Thuấn tức năng kỷ
thì,
Thương tâm vãng sự lệ
triêm y.
Nam hà qui lai đầu tận
bạch,
Quái để giai nhân nhan
sắc suy.
Song nhãn trừng trừng
không tưởng tượng,
Chú Thích : Tiến Phúc bi
: bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây chữ viết rất đẹp. Tương
truyền ông Phạm Trọng Yêm đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò
nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản văn bia, bán
lấy tiền. Chưa rập xong một đêm thì bia bị sét đánh vỡ tan.
Trang Tích: Người nước
Việt làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi mọi người : « Tích là kẻ tầm
thường ở đất Việt nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt
nữa không ? ».
Viên ngự thị đáp : «
Phàm người có nhớ nước cũ hay không, thường người tỏ ra lúc ốm đau. Nếu lúc này
ông ta nói tiếng Việt thì tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng Sở. »
Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích rên bằng tiếng Việt.
Trung Hoà : tên một điện
của triều Lê ở Thăng Long.
Triền đầu : lấy khăn
quấn đầu. Đời Đường vua đãi yến, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu làm
vật tặng thương. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa gọi là triền đầu.
Ngũ Lăng : Nơi có lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này bạn hào hoa phú quý
thường ở.
Trường An : đây chỉ
Thăng Long.
Năm 1790-1794 Quan Tây
Sơn Bắc Thành quan Võ có: Ngô Văn Sở, Nguyễn Văn Tuyết, Đặng Tiến Đông, Nội hầu
Lân, Đô đốc Lộc, Đô Đốc Bảo, Đô Đốc Long.. Quan văn có: Ngô Thời Nhiệm, Phan
Huy Ích, Nguyễn Nể, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn..
Năm 1813 Khi Nguyễn Du
làm Chánh Sứ đi sứ sứ đoàn 27 người, quan Bắc Thành Tổng Trấn là Nguyễn Huỳnh
Đức (1810-1814), Phó Tổng Trấn Lê Chất . Ba người giữ chức ba tào hàng Tham Tri
là Nguyễn Văn Khiêm, Tào Hình, Đặng Trần Thường, Tào Binh, Và Phạm Văn Đăng,
Tào Hộ (Tài Chánh).
ĐIẾU LA THÀNH CA GIẢ
(Viếng ca nữ đất La Thành). La Thành chỉ thành Nghệ An. Còn gọi là Lam Thành,
Triều Khẩu Thành, Nghĩa Liệt Thành, Nghệ An Thành. Do tướng Trương Phụ nhà Minh
đắp ở bến Phù Thạch nơi La Giang và Lam Giang gặp nhau. Đời Lê, trấn ti đã dời
bỏ Phù Thạch mà lập ở xã Yên Trường tức Vinh bây giờ bên bờ sông Dũng
Quyết.
Đời Tây Sơn Vua Quang
Trung cho xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An. Trong Giáo sư Hoàng Xuân Hãn
trong La Sơn Phu Tử . Minh Tân Paris 1952 tr 168 có chép một bức thư đề năm
Cảnh Thịnh thứ 8, ngày 26 tháng chạp (đầu năm 1801) gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp gửi biếu tết cụ : Lợn một cũi, gạo nếp một mâm, sáp ong hai cân. Người
mang đến là Công bộ hữu thị lang Thiệu Quang Hầu. Bức thư ký tên Nghệ An trấn,
trấn thủ Đại đổng lý Thận quận công. Nhập thị nội Đô sát ngự sử Hy quang hầu.
Trung thư lĩnh, hữu đồng nghị Nghi Thành hầu.
Nghi thành hầu là Nguyễn
Nễ, qua bức thư này ta biết cuối đời Tây Sơn. Nguyễn Nễ giữ chức Trung thư lĩnh
ngang hàng với Trần Văn Kỷ, chức vụ cố vấn bên cạnh vua Cảnh Thịnh. Nguyễn Nễ
giám sát việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An mà người phụ trách chính
là Công bộ hữu thị lang Thiệu quang hầu. Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận, cung cấp thợ
xây dựng và tài chánh. Sau đó Nguyễn Nễ được chiếu chỉ Cảnh Thịnh đưa La Sơn
phu tử Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân, trong khi ở Phú Xuân thì chiến cuộc xãy ra.
Vua Cảnh Thịnh và tướng tá chạy ra Bắc. Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân lên ngôi vua
Gia Long. Nguyễn Thiếp và Nguyễn Nễ đều được triệu đến. Nguyễn Thiếp được tha
cho về quê, và Nguyễn Nễ dâng sớ, được Gia Long ban thưởng và cho đi theo trong
đoàn quân tiến ra Bắc Hà. Đến Hà Tĩnh, Thận Quận Công, Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận
bỏ chạy ra Thanh Hóa, bị bắt và bị giết năm 1802.
Nguyễn Du đã trở về làng
Tiên Điền năm 1794, nằm nơi bến sông cạnh Giang Đình, để tiếp nhận vật liệu gỗ
đá, để xây dựng lại từ đường họ Nguyễn Tiên Điền, đình làng, cầu tiên, chùa
Trường Ninh, bị đốt phá trong cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, mọi việc xây dựng
do Nguyễn Ức chỉ huy tính toán. Cũng tại Nghệ An từ năm 1790, vua Quang Trung
cho xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô bên bờ sông Dũng Quyết. Công việc xem đất do
cụ Nguyễn Thiếp, do cụ không muốn nên có phần trể nãi. Lúc này Nguyễn Du đã
diễn ca gần xong Truyện Kiều, nên lòng đầy những cảm thông thương tiếc cho
những người kỹ nữ. Bài thơ thương tiếc một nàng ca nữ danh tiếng một thời, hồng
nhan bạc mệnh. Cành hoa đẹp thắm từ cõi tiên xuống. Sắc đẹp uyển chuyển làm
rung động sáu thành. Thiên hạ ai người thương kẻ bạc mệnh ? Dưới mồ chắc cũng
hối hận cho cái kiếp phù sinh. Nghiệp chướng phấn son lúc còn sống đã không rửa
sạch. Sau khi chết chỉ còn lại tiếng trăng gió. Chắc nghĩ rằng người đời không
ai hiểu mình. Nên dưới suối vàng chỉ làm bạn với Liễu Kỳ Khanh.
VIẾNG NGƯỜI CA NỮ ĐẤT LA
THÀNH
Một cành hoa đẹp cõi
tiên bồng,
Xuân sắc hương lan vọng
sáu thành.
Thiên hạ ai thương người
bạc mệnh,
Dưới mồ riêng hối kiếp
phù sinh.
Phấn son không xóa khi
còn sống,
Trăng gió còn lưu chút
tiếng tăm.
Ai hiểu mình trong trần
thế nhỉ ?
Suối vàng làm bạn Liễu
Kỳ Khanh .
Thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt :
ĐIẾU LA THÀNH CA
GIẢ
Nhất chi nùng điểm há
hồng danh,
Xuân sắc yên nhiên động
lục thành.
Thiên hạ hà nhân liên
bạc mệnh,
Trủng trung ưng tự hối
phù sinh.
Yên chi bất tầy sinh
tiền chướng,
Phong nguyệt không lưu
tử hậu danh.
Tưởng thị nhân gian vô
thức thú,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu
Kỳ Khanh.
Chú thích: Liễu Kỳ khanh
(987-1053) tức Liễu Vĩnh, một nhà làm từ nổi tiếng đời Tống. Về già mới đỗ Tiến
Sĩ và giữ những quan chức nhỏ. Thuở thiếu thời thường lui tới các xóm thanh
lâu. Là một nhà văn bất đắc chí ông làm nhiều bài từ tả cuộc sống những người
kỹ nữ bị đau khổ và tỏ mối đồng tình với họ. Ông thay họ nói lên nỗi lòng mong
mỏi được sống hạnh phúc như mọi người. Tương truyền Liễu Vĩnh chết, kỹ nữ góp
tiền chôn cất, tổ chức bảy ngày viếng Liễu, Hội Viếng Liễu.
BÀI NGÔ GIA Đệ CỰU CA
CƠ: Gặp người hát cũ, người yêu cũ của em Nguyễn Ức . Bài thơ có lẽ viết khi
trở lại Thăng Long khi làm quan tại Bắc Hà năm 1802-1804. Nguyễn Ức em trai
cùng mẹ cùng cha chỉ kém Nguyễn Du một tuổi, sinh năm 1767. Được tập ấm Hoàng
tín đại phu trung thành môn vệ úy. Vì còn nhỏ tuổi nên không dự được kỳ thi
Hương cuối cùng của nhà Lê Trịnh năm Quí Mão 1783. Năm Kỷ Dậu 1789, khi vua Lê
Chiêu Thống chạy sang Bắc Quốc, ông về làng Phù Đổng, huyện Tiên Du tỉnh Bắc
Ninh. Ông có tài khéo tay như anh Nguyễn Khản, người chỉ huy các công trình xây
dựng cung vua Lê phủ chúa Trịnh. Ông là người chỉ huy xây dựng lại làng Tiên
Điền, từ đường, đình làng Tiên Điền, chùa Trường Ninh, cầu Tiên thay anh Nguyễn
Nễ vì việc quan cho nên không trực tiếp trông coi. Có lẽ từ đó ông nổi tiếng là
người có tài khéo léo vẽ kiểu, chỉ huy tính toán việc xây cất. Có lẽ Nguyễn Ức
có tham gia xây dựng Phượng Hoàng, Trung Đô ở Nghệ An nên có tiếng đương thời..
Nên khi lên ngôi vua Gia Long nghe tiếng, xuống chiếu gọi về kinh bổ làm Thiêm
sự bộ Công, tước Hầu. Năm Nhâm Ngọ thời Minh Mạng ông được bổ chức Giám Đốc coi
việc ở nội tào phủ, phàm miếu điện xây dựng ở kinh đô thành Huế đều tự tay ông
sáng chế vẽ kiểu. Ông mất ở quê vợ Bắc Ninh năm 1823 thọ 57 tuổi.
Sau buổi loạn lạc, nhân
vật nơi phồn hoa đã khác trước. Chim hạc đen trở về có mấy ai biết. Từng nghe
giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng. Nay đầu bạc gặp nhau than khóc nỗi lưu
ly. Chậu nước đổ thế là thôi, khó lòng vét lại. Ngó sen đứt, thương thay tơ vẫn
còn vương. Nàng từng là người yêu của em, nhưng một lý do nào đó đã tan vỡ như
chậu nước đổ, không hàn gắn lại được, nhưng lòng vẫn còn thương Nguyễn Ức. Nghe
nói lấy người khác đã được ba con. Đáng ngại vẫn còn mặc chiếc áo ngày trước.
GẶP NGƯỜI HÁT CŨ CỦA
EM
Phồn hoa người cũ khác
xa xưa,
Huyền hạc bay về ai biết
chưa ?
Uyển chuyển tiếng ca
hồng sắc áo,
Lưu ly đầu bạc khóc như
mưa.
Lòng như chậu đổ làm sao
hốt,
Sen ngó dứt rồi vương
vấn tơ.
Nghe đã lấy chồng ba trẻ
dại,
Ái ngại vẫn còn mặc áo
xưa .
Thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán
Việt:
NGÔ GIA Đệ CỰU CA CƠ
Phồn hoa nhân vật loạn
lai phi,
Huyền hạc qui lai kỷ cá
tri.
Hồng tụ tằng văn ca uyển
chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc
lưu ly.
Phúc bồn dĩ hĩ nan thu
thủy,
Đoạn ngẫu thương tai vị
tuyệt ti.
Kiến thuyết giá nhân dĩ
tam tử.
Chú thích: Huyền hạc:
chim hạc đen, theo truyền thuyết chim hạc sống hai ngàn năm thành màu xanh, lại
sống nghìn năm nữa lông biến thành màu đen, huyền hạc tượng trưng cho người ẩn
dật, truyền thuyết này không đúng, vì ngày nay ta có thể quan sát chim hạc, màu
sắc khác nhau, ở những vùng khác nhau. Câu này có ý nói xa Thăng Long lâu ngày
trở lại thành quan Chánh sứ. Lần cuối cùng Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín,
cạnh Thăng Long năm 1803-1804.
Hồng tụ : ống tay áo màu
hồng, áo càc ca kỷ nữ thường mặc.
Nếu nàng Kiều, Nguyễn Du
cảm xúc qua tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân qua những ngày tháng ở Hàng Châu,
đợi chờ Nguyễn Đại Lang nơi miếu Nhạc Phi ở nơi chùa Hổ Pháo, nơi Minh Sơn Hoà
Thượng, tức Từ Hải từng tu hành năm 1790. Trở về Thăng Long nơi dinh thự Giám
Hồ, nơi nhà anh đứng trong bóng tối nhìn giai nhân tài sắc, đàn hay, hát giỏi,
được quan tướng Tây Sơn tung tiền thưởng hào phóng còn hơn bọn thiếu niên vương
giả đất Ngũ Lăng.. Rồi hai mươi năm sau trở lại Thăng Long trên đường đi sứ,
giai nhân xưa tài sắc bây giờ xấu đen như quỷ, thần sắc võ vàng, ăn mặc áo vải
rách vá.. Nàng ca nữ đất La Thành đẹp như tiên, xuân sắc vang khắp sáu thành,
sống thì mang tiếng trăng gió, chẳng ai hiểu nơi trần thế, chết thì chỉ làm bạn
với nhà thơ Liễu Kỳ Khanh. Còn người hát cũ của em, gặp lại đầu bạc khóc như
mưa, đã lấy chồng có ba con, mà vẫn mặc áo ngày xưa ?. Ba bài thơ thuật lại ba
số phận bi đát vào cuối đời. Nhưng với nàng Kiều, Nguyễn Du không để nàng chết
đuối trên sông Tiền Đường, mà nhờ sư Giác Duyên mướn người thả một bè lau,
giăng lưới cứu nàng, rước nàng về thảo am. Để rồi khi gia đình Kim Trọng, họ
Vương tế lễ bên sông, sư lại rước về thảo am cho tái ngộ: “ Này chồng, này mẹ
này cha , này là em ruột, này là em dâu”. Còn mối tình riêng với Xuân Hương Hồ
Phi Mai, dù ngó sen còn mãi mãi vương tơ. Nguyễn Du vẫn không biết, ba trăm năm
lẽ sau ai người khóc người tài sắc vẹn toàn như nàng Tiểu Thanh.
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH Tiến
Sĩ Khoa Học Giáo Dục,
eva air booking
giá vé máy bay đi mỹ hãng eva
phòng vé korean air tại tphcm
đặt vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich