Truyện Kiều - Một tác
phẩm Việt Nam
TS. Vũ Cao Phan, trong
một cuộc trả lời phỏng vấn Đài Phượng Hoàng (Hồng Kông) có nói, vấn đề hàng đầu
của quan hệ Việt Trung hiện nay là sự hiểu biết thấu đáo lẫn nhau giữa nhân dân
hai nước: về lịch sử, về địa lý, về chính trị, văn hóa và văn học… Như vấn đề
truyện Kiều của Nguyễn Du là sáng tạo trên nền tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài
Nhân hay là tác phẩm dịch tưởng vô cùng đơn giản vậy mà vẫn có nhầm lạc ở cấp
độ chuyên gia. Câu chuyện này không còn mới nhưng trong bối cảnh hiện nay vẫn
mang tính thời sự. Vì vậy, được sự đồng ý của PGS – TS Nguyễn Khắc Phi,
vanvn.net giới thiệu bài viết của ông với tinh thần vì một quan hệ Việt Trung
thấu hiểu nhau…
Cách đây không lâu,
Chiết Giang cổ tịch xuất bản xã đã cho ra mắt bạn đọc một cuốn sách quý và khá
đồ sộ, bao gồm 435 bài viết (không kể phần Phụ lục) của 121 nhà nghiên cứu về
hầu hết các tác phẩm lớn nhỏ của tiểu thuyết Minh - Thanh, trong đó có bài Kim
Vân Kiều truyện của Đổng Văn Thành. Bài viết có những kiến giải hoặc đúng hoặc
sai về hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều, về Từ Hải thì là thương nhân khởi
nghĩa, về Thúy Kiều thì “trượng phu” khiến nghìn người lu mờ thấy sắc (v.v...)
nhưng xin chưa bàn ở đây. Điểm rất đáng lưu ý trong bài viết của Đổng Văn Thành
là nhận định của nhà nghiên cứu về mối quan hệ giữa Kim Vân Kiều truyện và
Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Đổng Văn Thành viết:
“Kim Vân Kiều truyện là một bộ tiểu thuyết có ảnh hưởng quốc tế. Ảnh hưởng đối
với văn học Việt Nam là lớn hơn cả. Kim Vân Kiều truyện được nhà thơ Việt Nam
Nguyễn Du dùng hình thức thể thơ lục bát trường thiên cải dịch, được tôn vinh
là Hồng lâu mộng của Việt Nam, cũng được tôn vinh là tác phẩm văn học nổi tiếng
của phương Đông cổ đại, thực tế chẳng qua chỉ là dùng thể thơ Việt Nam dịch một
cuốn tiểu thuyết Trung Quốc mà thôi” (sđd, tr. 512 – N. K. P nhấn mạnh).
Có thể chưa tán đồng
cách dùng thước đo Trung Quốc (tác phẩm Hồng Lâu Mộng) để đánh giá một hiện tượng
văn học Việt Nam, song không thể phủ nhận ý định đề cao, thậm chí rất cao
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tuy nhiên, ngay sau đó, rõ ràng là bất ổn khi tác
giả quan niệm Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng qua chỉ là một tác phẩm dịch từ
một cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc! Thật ra, luận điểm bất ổn này không phải
xuất hiện một cách ngẫu nhiên và xuất hiện lần đầu ở các bài viết của Đổng Văn
Thành. Trong bài viết “So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” gồm
phần I và phần II đăng trên Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, tập 4 (1986) và
tập 5 (1987), trên thực tế, Đổng Văn Thành đã coi Truyện Kiều của Nguyễn Du là
bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tai hại hơn nữa, do không
biết tiếng Việt, để đánh giá “bản dịch” của Nguyễn Du, để so sánh “bản dịch” ấy
với nguyên tác, Đổng tiên sinh lại hoàn toàn căn cứ vào “bản dịch lại” Truyện
Kiều của Nguyễn Du ra Trung văn hiện đại của GS Hoàng Dật Cầu, một bản dịch mà
với tất cả tâm huyết, công phu, Hoàng giáo sư cũng chỉ mới dám coi là “bản dịch
sơ bộ” và tự đánh giá là “còn những chỗ cực vi diệu, khúc chiết của nguyên thi
đương nhiên chưa có khả năng thực hiện việc truyền đạt như thật được” [3] . Chủ
yếu vì hai lý do trên, Đổng tiên sinh không những không thấy được sáng tạo
thiên tài của Nguyễn Du mà còn đi đến những kết luận thiếu khoa học và nhận xét
thiên lệch: “Nhìn tổng thể, tôi cảm thấy Truỵên Kiều của Nguyễn Du bất luận về
nội dung hay về nghệ thuật đều không vượt được trình độ của Truyện Kiều Trung
Quốc là bản gốc mà nó mô phỏng” [4] .
PGS Phạm Tú Châu đã chỉ
ra một cách khá chi tiết những chỗ bất ổn trong bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn
Du ra Trung văn hiện đại của GS Hoàng Dật Cầu và với tiêu đề bài báo giàu hình
ảnh “Sóng gió bất kỳ từ một bản dịch”, [5] tác giả cho rằng những chỗ dịch chưa
đạt, thậm chí dịch sai của bản dịch nói trên là một trong những nguyên nhân
chính dẫn tới những quan niệm sai của Đổng Văn Thành cũng như của một số độc
giả khác ở Trung Quốc. Chúng ta đã có khá nhiều bản dịch Truyện Kiều ra tiếng
Pháp, trong đó có một số bản dịch khá thành công. Lẽ nào chúng ta – hoặc tự làm
hoặc hợp tác với bạn – lại không thể có được một bản dịch Truyện Kiều ra Trung
văn tốt hơn bản dịch của GS Hoàng Dật Cầu?
Phê phán quan niệm
cho Truyện Kiều là dịch từ Kim Vân Kiều truyện không khó, một vài người đã bước
đầu làm việc đó [6] . Tuy nhiên, về những điểm dị đồng giữa hai tác phẩm, ý
kiến của các nhà nghiên cứu Việt Nam vẫn còn nhiều chỗ khác nhau. Một trong
những nguyên nhân tạo ra tình trạng này là phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ so
sánh từng phần khi cần thiết, bài viết tập trung so sánh một cách tương đối
toàn diện của Nguyễn Thạch Giang cũng chỉ có một tiêu đề khiêm tốn: “Một số
nhận xét…”, bảng so sánh thống kê ở đây khá công phu song về cơ bản cũng chỉ
mới mang tính định lượng, chưa làm nổi rõ được sự khác nhau về chất giữa hai
tác phẩm. Dĩ nhiên phải từ nhiều hướng tiếp cận để khám phá thiên tài sáng tạo
của Nguyễn Du, tuy nhiên, so sánh một cách nghiêm túc, toàn diện, triệt để chỗ
dị đồng giữa hai tác phẩm là một đột phá khẩu quan trọng. Đối với những người
không đọc trực tiếp nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì
việc có một bản dịch thật đầy đủ, chuẩn xác tác phẩm này – trước hết là bản chi
tiết đầu tiên in dưới triều Thuận Trị nhà Thanh – ra tiếng Việt là một điều
kiện tiên quyết. Rất tiếc là chúng ta chưa có điều kiện ấy vì cả hai bản dịch
hiện nay đều chưa thật tốt. Cụ Nguyễn Đức Vân – Nguyễn Khắc Hanh là nhà Hán học
uyên thâm, song lúc sinh thời, vì cụ đã dịch từ một bản chép tay nên bản dịch
Kim Vân Kiều truyện của cụ do Nhà xuất bản Hải Phòng in năm 1994 – nghe đâu
đang chuẩn bị tái bản – chưa hoàn chỉnh, nhất thiết phải dịch bổ sung. Đọc bài
viết của Đổng Văn Thành, do còn băn khoăn nhiều điểm, chúng tôi thử tìm đọc lại
nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân [7] . Cũng vì bài viết
của Đổng tiên sinh tập trung vào hai nhân vật Thúy Kiều và Từ Hải nên chúng tôi
đã đọc trước, đọc kỹ hồi 17 là hồi có nhiều chi tiết liên quan đến hai nhân vật
này. Riêng hồi 17, đối chiếu nguyên bản tiếng Trung Quốc với bản dịch của cụ
Nguyễn Đức Vân, chúng tôi thấy bản chép tay mà cụ Vân dựa vào để dịch đã bị
lược đi một nửa, trong đó có những chi tiết rất quan trọng cho phép ta thấy rõ
hơn những cải biến, sáng tạo của Nguyễn Du.
Về tính chất thương nhân
của Từ Hải, quả chỉ có một câu mà cụ Vân cũng đã dịch: “Tảo niên tập nho bất
tựu, khí nhi vi thương…” (Lúc trẻ học tập chẳng đỗ đạt nên bỏ đi buôn…). Chỉ có
thế thôi thì ngay nói Từ Hải xuất thân thương nhân cũng chưa ổn chứ nói gì đến
“sự phản kháng của tầng lớp thương nhân”, đến sự phát triển của “mầm mống tư
bản chủ nghĩa”! Phải chăng “chuyện bé xé ra to” hay nhà nghiên cứu đã đem lịch
sử áp đặt vào văn chương?
Trong khi Đổng tiên sinh
nhận xét: “Dưới ngòi bút Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối quân đội triều đình
của Từ Hải (trong nguyên bản – N. K. P thêm) giảm nhẹ rất nhiều” [8] , thì Lưu
Thế Đức và Lý Tu Chương, hai cán bộ của Viện Nghiên cứu Văn học của Trung Quốc
đã có những nhận xét thỏa đáng hơn rất nhiều về nhân vật Từ Hải trong Truyện
Kiều: “Miêu tả nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều, rõ ràng là Nguyễn Du đã không
câu thúc trong khuôn khổ những nét có thực của nhân vật lịch sử mà nhà thơ đã
sáng tạo ra một nhân vật mới (N.K.P nhấn mạnh)”, “nhà thơ đã hoàn toàn gạt bỏ
việc Từ Hải câu kết với bọn cướp biển nước ngoài, việc Từ Hải làm tổn thất đến
sinh mệnh, tài sản của nhân dân, qua đó có thể thấy nhà thơ sáng tạo nên một
nhân vật như thế, không những để miêu tả chuyện thuyền quyên sánh với anh hùng,
mà còn là mượn một số nét đã khẳng định nào đó của nhân vật này để ca tụng
những nhân vật được mệnh danh là anh hùng thảo dã trong thời đại phong kiến”
[9] .
Có lẽ nói thế này thì
chuẩn hơn: Nguyễn Du đã không câu thúc trong khuôn khổ những nét tiêu cực của
Từ Hải như “làm tổn thất đến sinh mạng tài sản của nhân dân” mà ngay trong Kim
Vân Kiều truyện cũng có miêu tả. Rất tiếc những đoạn này đã bị lược trong bản
chép tay làm chỗ dựa cho bản dịch đã nêu.
Nét tiêu cực ở Từ Hải,
nói chính xác hơn là của đội quân khởi nghĩa do Từ Hải cầm đầu ở nguyên bản, có
tác dụng làm nổi bật hơn một số nét trong tính cách của Thúy Kiều. Những nhận
định của Đổng tiên sinh về tính cách Thúy Kiều nói ở phần trên rất dễ gây phản
cảm đối với độc giả Việt Nam. Quả là nhà nghiên cứu đã có phần quá đà khi ca
ngợi cả “phẩm chất sát phạt quyết đoán” ở “một nữ anh hùng của cuộc khởi
nghĩa”, tuy nhiên, nhận định về khí chất “đại trượng phu” ở Thúy Kiều thì rất
đáng tham khảo bởi vì khẳng định được điều đó, ta lại có thêm cơ sở để xác định
tính sáng tạo của Nguyễn Du cũng như cá tính của nhân vật Thúy Kiều Việt Nam.
Bản dịch của cụ Vân chỉ giữ được từ “khí khái hiệp nghĩa” khi Thanh Tâm Tài
Nhân miêu tả Thúy Kiều, còn tất cả những tình tiết nói lên tính cách “đại
trượng phu” của Thúy Kiều đều không có do bản chép tay đã bị giản lược.
Sau khi Thúy Kiều và Từ
Hải “hai bên ý hợp tâm đầu”, Từ Hải đã làm một bài bát cú Đường luật biểu lộ
“chí anh hùng” của bậc “trượng phu” và hỏi ý kiến Thúy Kiều. Thúy Kiều vừa khen
vừa chê: “…Hùng tắc hùng mỹ, khả tích thiểu liễu tá vương khí” (Hùng thì hùng
thật đấy, đáng tiếc là thiếu chút hào khí của bậc đế vương – N. K. P nhấn
mạnh). “Từ Hải bảo: “Có thể nói khanh đã hiểu lời ta. Tuy nhiên trong lòng cũng
chưa dám kỳ vọng trở thành đế vương” (sđd, tr. 163). Trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, ta chỉ thấy Từ Hải chê Thúy Kiều “sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường
tình” chứ làm gì có chuyện Thúy Kiều dám chê Từ Hải là “thiếu hào khí đế
vương”. “Sau ba năm (Từ Hải) bặt vô âm tín. Một hôm bỗng nghe quân giặc ồ ạt
kéo đến, cư dân trốn chạy sạch…Thúy Kiều hạ lệnh cho tướng sĩ (của Từ Hải): “Cư
dân vùng này đều là láng giềng của ta, không được chiếm đoạt lục soát, không
được cướp bóc giết chóc, không được hiếp dâm đốt nhà. Ai không theo lệnh sẽ
chém đầu thị chúng”. Ba quân nghiêm chỉnh tuân lệnh, cả một cõi được bình yên,
dân không bị sát hại đều là nhờ ân đức của Vương phu nhân” (sđd, tr. 163 -
164).
Nói là “nghiêm chỉnh
tuân lệnh” song chắc hành động nhũng nhiễu dân chúng của đội quân Từ Hải vẫn
tiếp tục nên cả sau khi Từ Hải, Thúy Kiều “cùng nhau… dan tay về chốn trướng
mai tự tình” rồi, Vương phu nhân vẫn phải “nhân đó khuyên Từ Hải ngừng việc
thiêu hủy nhà dân, hãm hiếp phụ nữ, giết bừa người già, con trẻ”. “Minh Sơn
(tức Từ Hải – N. K. P thêm) nghe theo. Từ đó quan đi đến đâu cũng liền hạ lệnh
ngăn cấm việc hãm hiếp giết chóc, ấy là nhờ ân huệ của phu nhân vậy” (sđd, tr.
165).
PGS Phạm Tú Châu cũng là
người đã tiến hành so sánh tính cách Thúy Kiều Trung Quốc và Thúy Kiều Việt
Nam. Theo tác giả, “tính cách khác nhau” giữa hai nhân vật cùng tên là do “qua
ngôn ngữ thơ và những cải biến sáng tạo” mà “nàng Kiều khuê các khờ dại cả tin
(của Nguyễn Du)… giành được mối đồng cảm sâu sắc nơi bạn đọc hơn một cô Kiều
sắc sảo khôn ngoan trong nguyên tác văn xuôi rất nhiều” [10] . Chắc chị chưa có
điều kiện so sánh toàn diện, nếu chú ý cả những đoạn như đã dẫn trên trong
nguyên tác thì nhận định về sự khác nhau giữa hai nhân vật Thúy Kiều sẽ được
toàn diện hơn.
Nếu về mặt quan điểm
chính trị - xã hội, Thúy Kiều có những yếu tố vượt trội hơn Từ Hải (kể cũng
lạ!) thì trong quan điểm về số mệnh, Từ Hải lại có những điểm vượt Thúy Kiều.
Nhân đây, xin được bàn qua về ý kiến cho rằng Nguyễn Du đã cải tạo tư tưởng
“tình” – “khổ” ở Kim Vân Kiều truyện thành tư tưởng “tài” – “mệnh”. Ngay trong
nguyên tác, vấn đề đặt ra không phải chỉ có chuyện “hồng nhan bạc mệnh”. Ở Thúy
Kiều, cái sắc luôn đi với cái tài, và cái tài cũng là một nhân tố khiến cho
nàng càng dễ bị lôi cuốn vào vòng tai vạ. Tuy nhiên, như một nhà nghiên cứu đã
nói, “tài mệnh tương đố” đã từng là vấn đề chung thường được đặt ra trong các
tiểu thuyết tài tử giai nhân, và ở đây “tài mệnh tương đố” không hoàn toàn là
sáo ngữ” [11] . Chính vì vậy, ngay ở Kim Vân Kiều truyện, vấn đề “tài” – “mệnh”
không chỉ đặt ra với Thúy Kiều mà cả với Từ Hải. Trong Kim Vân Kiều truyện, đây
là lời nói, cũng có thể xem là lời tuyên bố đầu tiên của Từ Hải ngay khi vừa
xuất hiện: “Thiên sinh ngố tài, tất hữu ngô dụng. Hữu tài vô dụng, thiên phụ
ngã hĩ. Thiết nhược hoàng thiên phụ ngã, ngã diệc khả dĩ phụ hoàng thiên. Đại
trượng phu xử thế, đương lỗi lỗi lạc lạc, kiến bất hủ ư thiên nhưỡng, an năng
tùy nhục thực giả lão tử dũ hạ. Túng hữu tài vô mệnh, anh hùng vô dụng vũ chi
địa, lưu phương bách thế, diệc đương tự ngã tạo mệnh” (Trời sinh ra cái tài của
ta tất có chỗ dùng của ta. Có tài mà không dùng là trời phụ ta đó. Giả như trời
phụ ta thì ta cũng có thể phụ trời. Kẻ đại trượng phu ở đời cần đường hoàng lỗi
lạc, lập công bất hủ giữa trời đất, sao có thể theo đuôi bọn ăn thịt chết già
dưới song cửa. Nếu có tài mà không có mệnh, anh hùng không có đất dụng võ để
lưu tiếng thơm trăm đời thì tự ta cũng phải tạo ra mệnh của chính mình – sđd,
tr. 161 - 162). Lời lẽ đơn giản mà vấn đề đặt ra thật rõ ràng, thái độ cũng dứt
khoát, tưởng không cần bình luận gì thêm.
Tất cả hành động, ngôn
ngữ của Thúy Kiều, Từ Hải đều nằm gọn trong hồi 17 của nguyên tác. Chỉ ngần ấy
thôi cũng đã có thể gợi cho ta nhiều điều suy nghĩ lý thú.
Từ những điều đã trình
bày, chúng tôi đi tới kết luận ngắn gọn: Trong lúc chưa có đầy đủ các dị bản
Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, chưa xác định được khi sáng tác Truyện Kiều
Nguyễn Du đã dựa vào văn bản nào, chúng ta đành bằng lòng sử dụng bản Kim Vân
Kiều truyện do Nhà xuất bản Xuân Phong văn nghệ của Trung Quốc xuất bản để so
sánh với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tuy nhiên muốn so sánh đạt kết quả tối ưu,
cần phải so sánh một cách toàn diện, cụ thể, không nên bỏ qua một chi tiết nào.
Đó là cách làm tốt nhất để bác bỏ quan niệm cho Truyện Kiều là bản dịch của Kim
Vân Kiều truyện, cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu để khám phá thiên
tài sáng tạo Nguyễn Du.
La Trường Sơn
(1938 – 2003) là học giả Trung Quốc xứng đáng được xem là một nhà Việt Nam học
thực thụ. Khác với Đổng Văn Thành, La Trường Sơn lại khẳng định rằng Nguyễn Du
đã “cấu tứ lại”, “sáng tác lại” Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Lòng yêu mến, quý trọng
cũng như sự am hiểu đất nước - con người - văn hoá Việt Nam của ông thể hiện
một cách sâu sắc và tập trung trong công trình Văn học dân gian và văn hóa
truyền thống Việt Nam đã được xuất bản ở Trung Quốc. Lòng yêu mến, quý trọng
cũng như sự am hiểu ấy đã hiện lên một cách sinh động qua Mơ và tỉnh, tập thơ
đã được giới thiệu trên báo Thừa Thiên - Huế năm 2002, gồm 67 bài thơ tiếng
Việt hầu hết làm theo thể lục bát, trong đó có không ít câu đọc lên nghe phảng
phất như ca dao Việt Nam: …Tình yêu là hát chiêu hồn/ Ru trăng trăng ngủ, ru
cồn cồn mê/ Tình yêu đâu phải tiếng ve/ Hè sang rền rĩ, đông về bặt hơi/ Tình
yêu là miếng trầu hôi/ Vôi hăng lá chát thích rồi cũng say… (Tình yêu. Nam
Ninh, 1996).
Hiếm thấy một nhà Việt
Nam học của Trung Quốc có những dịch phẩm và công trình nghiên cứu đa dạng như
La Trường Sơn. Ông đã dịch rất nhiều thơ, truyện ngắn, kí, tuỳ bút đăng trên tờ
tuần báo Văn Nghệ của Việt Nam trong khoảng thời gian từ1964 đến 1975. Ông đã
dịch, chủ thích và bình chú gần như toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương. Công trình
nghiên cứu và dịch thuật độc đáo này đã được Nhà xuất bản Thế giới của Việt Nam
xuất bản năm 2001. Ông cũng đã dịch toàn bộ thơ Bà Huyện Thanh Quan và một số
bản dịch đã được giới thiệu trên số 99 tờ Thiếu nhi dân tộc, phụ san của báo
Thiếu niên tiền phong năm 2001.
Trên nhiều tờ tạp chí
của Quảng Tây và của trung ương, ông đã dịch hàng chục truyện ngụ ngôn và cổ
tích, hàng trăm câu ca dao và tục ngữ của Việt Nam. Ông đã dịch các phần nói về
khoa cử và võ nghệ trong cuốn Phong tục Việt Nam của Phan Kế Bính, các phần nói
về Chầu văn, Chèo, Rối nước và Văn hoá lễ hội trong các công trình nghiên cứu
của Toan Ánh và Lí Khắc Cung, về trang phục cổ truyền các dân tộc của Ngô Đức
Thịnh, đặc biệt là đã trích dịch một tài liệu công cụ rất quan trọng đối với
bất cứ ai muốn tìm hiểu văn hoá truyền thống của Việt Nam là Tìm hiểu kho sách
Hán Nôm của Trần Văn Giáp.
Nhờ đọc nhiều công trình
nghiên cứu của Việt Nam và có trình độ khoa học cao, La Trường Sơn đã biên soạn
được nhiều tài liệu có tính tổng hợp, giới thiệu với bạn đọc Trung Quốc gần như
mọi mặt về đời sống văn hoá truyền thống Việt Nam. Trong lúc giới thiệu những
vấn đề này, ông rất chú ý sự khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, những chỗ
sáng tạo độc đáo của dân tộc Việt Nam. Chỉ xin nêu vài ví dụ nhỏ. Chế độ thi cử
của Việt Nam xưa có không ít điểm giống ở Trung Quốc song La Trường Sơn đã chỉ
rõ, về nội dung thi cử có những điểm khác khá cơ bản, trong đó, việc thi tam
giáo (Nho, Phật, Đạo) trong suốt các triều đại Lý, Trần, Lê là một điểm nổi
bật. Theo ông, hiện tượng đó “chủ yếu là do những điều kiện bên trong của xã
hội phong kiến Việt Nam quyết định”, vì vậy nó biểu hiện một khuynh hướng “Việt
Nam hoá rõ rệt” và đồng thời “cũng phản ánh tính khoan dung và năng lực dung
hợp của nền văn hoá Việt Nam” (Toàn cảnh Đông Nam Á, số 2 – 1993, trang 28 –
31).
Với thái độ khoa
học khách quan nghiêm nhặt, ở không ít chỗ ông đã không ngần ngại đối thoại về
mặt khoa học với các học giả Việt Nam, không ngại nêu những dẫn chứng có phần
nhạy cảm như trích dẫn câu “đánh cho dài tóc” (vị trường phát nhi chiến), “đánh
cho đen răng” (vị hắc xỉ nhi chiến) trong lời kêu gọi đánh bại quân xâm lược
của Nguyễn Huệ khi giới thiệu về phong tục nhuộm răng và kiểu tóc của đàn ông
Việt Nam ngày xưa… Một người am hiểu đất nước - con người - văn hoá Việt Nam
như thế không thể không yêu mến, quý trọng Truyyện Kiều, đỉnh cao và là hiện
tượng tích tụ mọi tinh hoa văn hoá, văn học Việt Nam thời trung đại. La Trường
Sơn không thể không biết Nguyễn Du đã tiếp thu được những gì trong kho tàng văn
hoá quý báu của Trung Quốc, song điều quan trọng và đáng quý hơn, như ta đã
thấy qua những công trình dịch thuật, biên soạn và nghiên cứu nói trên, La
Trường Sơn còn có điều kiện và khả năng chỉ ra một cách chuẩn xác, sòng phẳng
những gì là sáng tạo đích thực của Nguyễn Du.
Đầu năm 2000, khi nhờ
tôi chuyển công trình dịch thuật và nghiên cứu về thơ Hồ Xuân Hương cho NXB Thế
giới để xuất bản, La tiên sinh có đưa cho tôi xem một đoạn dịch thử Truyện Kiều
và bày tỏ ý định cũng như quyết tâm dịch xong tác phẩm lớn ấy trong thời gian
một vài năm. Hình dung rõ công việc không hề đơn giản, tiên sinh rất muốn có sự
giúp đỡ và cộng tác của các nhà khoa học Việt Nam.
Tôi đã hứa sẽ mời một số
bạn bè am hiểu Hán Nôm và vốn đã quen La tiên sinh như anh Kiều Thu Hoạch, chị
Phạm Tú Châu cùng góp phần nâng cao chất lượng của bản dịch cũng như tạo điều
kiện cho bản dịch ra mắt độc giả Việt Nam và Trung Quốc càng sớm càng tốt. Tiếc
thay, khi công trình dịch thuật và nghiên cứu đặc biệt có ý nghĩa này chưa thực
sự hoàn thiện, tiên sinh chưa kịp viết phần Dịch hậu kí, chưa kịp gửi bản thảo
sang cho chúng tôi để lấy ý kiến thì tiên sinh đã qua đời!
Dẫu sao, cũng có một
niềm an ủi và khích lệ chung: Sau khi dịch xong văn bản Truyện Kiều, tiên sinh
đã kịp tự tay chú thích những chỗ cần thiết và viết Lời nói đầu dưới dạng một
bài nghiên cứu về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tạm gác sang một bên việc đánh giá
chất lượng bản dịch Truyện Kiều của La Trường Sơn mà tôi tin chắc là ít nhất
cũng đạt tiêu chuẩn “ tín” cao hơn tất cả các bản dịch khác do các học giả
Trung Quốc dịch (kể cả một số bản dịch của Hoa kiều hải ngoại), chúng ta hãy
cùng tìm hiểu một vài nội dung cơ bản trong ý kiến của La Trường Sơn khi đánh
giá giá trị tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện qua Lời nói đầu đặt
ngay trước bản dịch mang tựa đề Đại thi hào Nguyễn Du và “Kim Vân Kiều truyện”.
Lời nói đầu này đã được
Phó Giáo sư Phạm Tú Châu - người đã có dịp góp ý với La Trường Sơn về một số
câu chữ trong một vài đoạn dịch thử Truyên Kiều - dịch ra tiếng Việt và đã được
in trong cuốn Truyện Kiều SONG NGỮ VIỆT – HOA do NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
liên kết với Công ty Văn hoá Phương Nam in năm 2006.
Cũng với quan điểm và
phương pháp đánh giá các hiện tượng văn hoá và văn học truyền thống của Việt
Nam như ta đã thấy ở trên, La Trường Sơn đã nhận định khái quát về giá trị
Truyện Kiều như sau: “Truyện Kiều tuy lấy đề tài từ một tiểu thuyết cùng tên
của Trung Quốc, tình tiết chủ yếu về đại thể cũng tương đồng với nguyên tác
song tuyệt đối không phải là phiên bản của nguyên tác.
Ông đã cấu tứ lại nguyên
tác, sáng tác lại nguyên tác (NKP nhấn mạnh), cố gắng làm sao cho mỗi một nhân
vật, mỗi một tình tiết đều thể hiện được chính xác và sinh động ý tưởng giá trị
thẩm mĩ của mình. Chẳng hạn, đối với những đoạn miêu tả sắc tình, tình dục kích
thích cảm quan trong nguyên tác, tác giả nhất luật dùng thủ pháp lược bỏ hoặc
làm mờ nhạt đi: lược bỏ tình tiết Sở Khanh dụ Thuý Kiều đi trốn sau đó lại gian
dâm với cô, lược bỏ hết nội dung cụ thể hết sức ô uế trong đoạn mụ chủ nhà chứa
Tú Bà truyền dạy Thuý Kiều các cách kĩ nữ tiếp khách, chỉ dùng “bảy chữ, tám
nghề” để lướt qua.
Ngược lại, đối với những
tình tiết mang sắc thái bi kịch, có thể cho thấy sâu sắc hơn tính cách của nhân
vật điển hình thì tác giả lại tô đậm thêm: khi thuật tới tình tiết Từ Hải bị
lừa rồi bị giết, tác giả đã dùng liên tiếp những dòng thơ đầy bi phẫn, buồn bã,
trước hết miêu tả cụ thể cảnh bi tráng Từ Hải sau khi chết xác vẫn đứng nguyên
không đổ để ngợi ca khí khái anh hùng khi tráng chí chưa được thực hiện nên
chết rồi mà vẫn không chịu khuất phục; tiếp đó miêu tả Thuý Kiều muôn phần hối
hận, sụp xuống khóc lạy, đập đầu xuống đất, quyết chết theo chồng…
Phải nói rằng qua những
xử lí nghệ thuật tương tự như thế chẳng những làm tăng thêm sức truyền cảm nghệ
thuật của tác phẩm, khiến cho ngụ ý của tư tưởng chủ đạo trở nên phong phú, sâu
sắc hơn, mà đồng thời còn nâng cao trình độ văn hoá tư tưỏng của tác phẩm”.
Tuy La Trường Sơn không
trực tiếp bác bỏ quan điểm cho rằng Truyện Kiều chẳng qua chỉ là một bản dịch
cuốn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân song chỉ vài ý kiến vừa nêu
trên cũng đã đủ đánh đổ nhận định hoang đường đó. La Trường Sơn hiểu rõ, một
trong những điểm then chốt chứng tỏ Nguyễn Du đã “cấu tứ lại”, “sáng tác
lại”Kim Vân Kiều truyện là ở chỗ: khác với Kim Vân Kiều truyện viết bằng văn
xuôi lấy đối tượng của trọng tâm trần thuật là các sự kiện bên ngoài, truyện thơ
“Truyện Kiều” chuyển trọng tâm trần thuật vào thế giới nội tâm. Yếu tố tự sự dĩ
nhiên vẫn còn nhưng thành phần trữ tình cơ hồ đã lấn át. Điều đó đã kéo theo sự
thay đổi toàn bộ hệ thống ngôn từ, giọng điệu tác phẩm.
Không phải ngẫu nhiên
trong bản dịch của mình, La tiên sinh đã dùng đến 395 dấu chấm than và 169 dấu
hỏi, một hiện tượng không thể tồn tại ở một cuốn tiểu thuyết chương hồi như Kim
Vân Kiều truyện (nếu bản phiên âm buộc phải dùng dấu chấm câu). Là người đã
dịch hàng trăm câu ca dao và tục ngữ của Việt Nam, hẳn La tiên sinh cảm nhận
được mối liên hệ máu mủ giữa những câu thơ trong Truyện Kiều với “lời nói của
những người trồng dâu đay” (tang ma ngữ) ấy; mặt khác, là một học giả trung
thực của Trung Quốc, La tiên sinh lại càng có điều kiện nhận biết sự tiếp biến
diễn ra trong quá trình sáng tạo cũng như trong văn bản Truyện Kiều cái vốn thơ
ca trữ tình đồ sộ, phong phú của Trung Quốc mà Nguyễn Du đã tiêu hoá
được.
Chỉ riêng việc tồn tại
những âm vang ngữ liệu của thơ ca, từ khúc Trung Quốc trong Truyện Kiều cũng là
một căn cứ có trọng lượng để bác bỏ quan điểm cho rằng Truyện Kiều chỉ là một
bản dịch. Điều đáng quý là khi nói tới mối quan hệ văn hoá này, La tiên sinh
bao giờ cũng làm nổi bật sự chủ động, sự sáng tạo của Nguyễn Du, nêu rõ chính
điều kiện xã hội Việt Nam, cơ tầng văn hoá của Việt Nam đã chi phối, quy định
mối quan hệ đó.
La Trường Sơn giới thiệu
cho bạn độc Trung Quốc thấy rõ, một mặt, về “đề tài” và “tình tiết”, Nguyễn Du
đã “cấu tứ lại nguyên tác”, “sáng tác lại nguyên tác”, mặt khác, “là một nhà
văn kiệt xuất và một đại sư về nghệ thuật ngôn từ, thông thái về văn học cổ
điển Trung Quốc, cống hiến trác tuyệt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều còn biểu
hiện ở một đặc điểm nữa là khéo biết tiếp thu chất dinh dưỡng phong phú trong
văn học và văn hoá Trung Quốc để phục vụ việc làm phồn vinh cho sáng tác văn
học Việt Nam”.
“Khi đưa vào những điển
cố và những câu thơ, từ, khúc nổi tiếng của Trung Quốc, Nguyễn Du không tiện
tay nhặt lấy rồi dịch, chuyển nguyên xi mà căn cứ vào nhu cầu khác nhau của chủ
thể sáng tác và sàng lọc kĩ càng, tinh tế, vận dụng thủ pháp nghệ thuật khác
nhau để chắt lọc và sáng tác lại lần nữa, sau đó mới hoà chúng vào tình tiết có
liên quan, khiến chúng và tác phẩm trở thành một chỉnh thể hữu cơ máu thịt liền
nhau, không còn vết nối, hơn nữa tác giả còn cho bạn đọc thấy diện mạo ngôn ngữ
thi ca Việt Nam đã được dân tộc hoá tới mức phi thường”.
Trong Lời nói đầu, có
đến hai lần La Trường Sơn chỉ ra rằng, khi xây dựng hình ảnh 2 nhân vật chủ yếu
là Thuý Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã sử dụng “nhiều thủ pháp nghệ thuật truyền
thống”, “những đặc điểm sáng tác như yếu tố kì lạ, mộng ảo, ước lệ, tượng
trưng, lãng mạn trong truyền thống văn học Việt Nam” mà những phần tương ứng
trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề có. Người viết bài báo này không
trực tiếp phê phán quan điểm cho rằng Truyện Kiều căn bản chỉ là một bản dịch,
một quan điểm không chỉ tồn tại trong một số nhà học giả ở nước ngoài mà cũng
từng xuất hiện loáng thoáng đâu đó ở Việt Nam, mà chỉ trình bày một cách khách
quan sự khác nhau trong cách đánh giá tác phẩm Truyện Kiều của hai học giả
Trung Quốc để bạn đọc tự rút ra kết luận cần thiết. Sự khác biệt giữa quan
điểm, ý kiến của Đổng Văn Thành và La Trường Sơn không chỉ quanh vấn đề Truyện
Kiều có phải chỉ là một bản dịch hay không mà còn ở sự đánh giá có tính so sánh
về giá trị nội dung và nghệ thuật, nói cụ thể hơn, về ý nghĩa hiện thực, tinh
thần nhân đạo, giá trị văn chương của tác phẩm đó nữa. Cám ơn cố học giả La
Trường Sơn đã đánh giá cao, rất cao giá trị toàn diện của Truyện Kiều, thiên
tài sáng tạo của Nguyễn Du!
eva airline
mua vé máy bay đi mỹ
lịch bay của korean airlines
khuyến mãi vé máy bay đi mỹ
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich