Hai loại người trong truyện Kiều
Truyện Kiều có hai loại
người, Đậm và Nhạt. Một cách hoàn toàn chủ quan, tôi hiểu nhân vật Đậm là nhân
vật được khắc hoạ có vóc có vạc; từ hình hài diện mạo đến tính cách, hành động
và số phận của họ đều là những đường nét nổi bật lên trên nền hoàn cảnh chung
bình thường, và bởi thế mà họ tạo nên ấn tượng đặc biệt. Còn nhân vật Nhạt thì
ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị tan ra trong những đường nét nhạt nhòa, phôi
pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số phận bình thường đến tầm thường.
Thế giới nhân vật trong
kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du vốn đã được mổ xẻ suốt gần hai
thế kỷ nay, bằng đủ các công cụ phẫu tích sẵn có của nhân gian.
Đơn giản thì người ta
nhìn thấy ở đó sự đối lập giữa người tốt và kẻ xấu. Phức tạp hơn, thì ở đó là
mối quan hệ giai cấp giữa đại phong kiến – phong kiến chuyển hoá thành tư sản –
nông dân có tinh thần cách mạng! Và ở một phía khác, lại là sự nhùng nhằng giữa
những mẫu người thuộc khuôn khổ đạo đức Nho giáo với những mẫu người phi Nho,
phản Nho.
Tôi thì muốn đề xuất
cách phân loại của riêng mình về cái thế giới nhân vật bàn mãi không hết chuyện
này: Truyện Kiều có hai loại người, Đậm và Nhạt. Một cách hoàn toàn chủ quan,
tôi hiểu nhân vật Đậm là nhân vật được khắc hoạ có vóc có vạc; từ hình hài diện
mạo đến tính cách, hành động và số phận của họ đều là những đường nét nổi bật
lên trên nền hoàn cảnh chung bình thường, và bởi thế mà họ tạo nên ấn tượng đặc
biệt.
Còn nhân vật Nhạt thì
ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị tan ra trong những đường nét nhạt nhòa, phôi
pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số phận bình thường đến tầm thường.
Tiện hơn cả, tôi sẽ xem xét hai cặp nhân vật Đậm – Nhạt sau: Thúy Kiều/ Thúy
Vân và Kim Trọng/ Từ Hải. Những nhân vật còn lại thì bỏ qua, vì họ chưa đủ đậm
hoặc chưa đủ nhạt để phải nói đến.
Thúy Kiều – Thúy Vân
a) Trong Truyện Kiều,
Thúy Kiều đương nhiên là đệ nhất Đậm nhân vật. Nét đậm của nàng thực ra không
phải nằm ở Tài và Sắc (Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai) mà là ở Tính và
Tình.
Có thể nói, ở phương
diện này bao giờ Kiều cũng bộc lộ ra như một con người của những sự tới hạn,
đôi khi rất trái ngược nhau, và không khi nào nàng chịu ổn định trong một trạng
thái, một cảm xúc trung bình cộng nửa vời. Chỉ vừa mới nghe câu chuyện về cuộc
đời của kỹ nữ Đạm Tiên, nàng đã “đầm đầm châu sa”:
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng
là lời chung
Phũ phàng chi bấy hoá
công!
Ngày xanh mòn mỏi, má
hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người
ta
Khéo thay thác xuống làm
ma không chồng!
Nào người phượng chạ
loan chung
Nào người tiếc lục tham
hồng là ai?
Không phải là sự sẻ chia
theo lối “đàn bà với nhau” thông thường nữa rồi. Cũng không phải là biểu hiện
“thương vay khóc mướn” của một tâm hồn nhạy cảm. Đọc kỹ, ta sẽ thấy những lời
than trách trên chính là những lời tự thán.
Bằng một tiên cảm kỳ lạ,
Kiều đã nhìn thấy tương lai của mình qua số phận của Đạm Tiên. Và nếu ta nhớ
rằng cho đến lúc này Kiều mới chỉ là một cô nương “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần
cập kê/ Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong bướm đi về mặc ai” – tức là chưa
có mấy chút trải nghiệm trường đời – thì mới thấy sự tiên cảm kia đã hé lộ một
cái gì đó vượt ngưỡng.
Thế nhưng, cũng chính
người con gái này khi đã yêu thì vô cùng táo bạo, quyết liệt, bùng nổ như một
thùng thuốc súng. Sau hai lần gặp Kim Trọng, đến lần thứ ba thì Kiều đã “xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình” để được gần người mình yêu. Và rồi, ngay ở
lần gặp thứ ba này nàng đã cùng chàng Kim:
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao
vàng chia đôi
Vừng trăng vằng
vặc giữa trời
Đinh ninh hai
miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc
lòng
Trăm năm tạc một chữ
đồng đến xương
Đặt trong bối cảnh xã
hội “Gia Tĩnh triều Minh” thì không ai có thể hình dung được một tiểu thư khuê
các như Kiều lại liều lĩnh đến thế.
Hình như mọi điều răn mà
những cô thiếu nữ con nhà đều thuộc nằm lòng đã bị nàng quên sạch để chạy theo
tiếng gọi của tình yêu đầu đời, không e lệ, không “bắc bậc làm cao” một chút
cho “phải phép”. Trao trọn con tim cho người tình chỉ sau ba lần gặp gỡ, tôi
đoan chắc rằng cái tốc độ và cường độ tình yêu của Kiều không hề thua sút nếu
đem so với tình yêu của nam nữ thời internet toàn cầu!
Trong Truyện Kiều đối
chiếu, tác giả Phạm Đan Quế đã từng làm một thống kê về những cảnh ngộ lặp lại
trong đời Kiều: hai lần vào lầu xanh, hai lần đi ở, hai lần đi trốn, ba lần
định tự tử, ba lần đi tu, ba lần chia tay với người tình, bốn lần bị đòn, năm
lần đánh đàn, bảy lần nhớ nhà, bảy lần lấy chồng... Quả là một cuộc đời trầm
luân, buồn nhiều vui ít. Mà cái buồn của Kiều thì hiếm khi không đạt tới đỉnh
điểm của cảm xúc.
Hãy thử ví dụ bằng việc
Kiều đánh đàn. Trong năm lần đánh đàn thì lần Kiều đánh đàn cho vợ chồng Hoạn
Thư – Thúc Sinh, và lần Kiều đánh đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe là oái oăm nhất. Lần
một là hoạt cảnh vợ cả bắt vợ hai phải hầu đàn cho ông chồng trong tư cách một
nô tỳ, và không ai dám lên tiếng cải chính, thì:
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên
tiệc cũng tan nát lòng
Cùng trong một
tiếng tơ đồng
Người ngoài cười
nụ, người trong khóc thầm
Lần thứ hai là lần Kiều
phải mua vui cho kẻ vừa mới đây thôi đã bức tử trượng phu của mình, thì:
Một cung gió thảm mưa
sầu
Bốn dây nhỏ máu
năm đầu ngón tay
Tóm lại, nếu có thể hình
dung về Kiều theo con mắt của người làm nghệ thuật tạo hình, thì đây là nhân
vật được tạo nên bằng những đường nét gọn, sắc, dứt khoát, những màu sắc nóng,
chứa nhiều năng lượng gây nổ.
b) Còn Thúy Vân thì đó
là một nhân cách đối lập hoàn toàn. Một đệ nhất Nhạt nhân vật trong Truyện
Kiều. Vũ Hạnh, ở tập Đọc lại Truyện Kiều, có nói đến việc Thúy Vân “không có
mắt”! Đúng thế thật:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy
đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt
đoan trang
Mây thua nước tóc,
tuyết nhường màu da.
Quả thực là không có một
chữ nào nói đến mắt Thúy Vân. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Không có mắt tức
là tâm hồn rỗng tuếch. Một đời sống tinh thần nghèo nàn, ba phải, được chăng
hay chớ, dễ thích ứng với hoàn cảnh bởi cái thói vô tâm vô tính, không hình thành
nổi một bản ngã cho tử tế. Chả thế mà khi gia đình gặp cơn tai biến, chị gái
phải bán mình chuộc cha, thì Thúy Vân vẫn điềm nhiên... ngon giấc:
Thúy Vân chợt tỉnh giấc
xuân,
Bên đèn ghé đến ân
cần hỏi han:
Cơ trời dâu bể đa
đoan
Một nhà riêng để chị
oan một mình
Cớ chi ngồi nhẫn
tàn canh
Tôi cho rằng người ta sẽ
không thể tìm được một câu hỏi nào vô duyên hơn câu hỏi này của Thúy Vân. Chỉ
còn đêm nay thôi Kiều được ở dưới mái nhà của cha mẹ, đến ngày mai nàng đã phải
rời khỏi để đi theo kẻ bỏ tiền mua mình. Một tương lai bất định, mờ mịt họa
phúc đang mở ra trước mắt người con gái. Chỉ cần có thế thôi cũng đủ biến đêm
nay thành một đêm trắng! Ai cũng có thể hiểu được như vậy, nhưng riêng Vân thì
không. Nói một câu an ủi nhạt nhẽo, nàng coi như đã hoàn thành nghĩa vụ với chị
mình.
Có lẽ vì thế mà khi nhờ
cậy Vân thay mình gá nghĩa với Kim Trọng, con người đầy nhạy cảm như Kiều đã ý
thức được rằng đây là việc “cực chẳng đã”, rằng Vân hoàn toàn không xứng đáng
với bậc danh sĩ phong lưu nọ. Không ngẫu nhiên mà ở đoạn trao duyên, Kiều nói
chuyện với Vân mà cứ tựa như độc thoại, và càng lúc đối tượng lời nói mà nàng
hướng tới càng không phải là cô em gái đang ở trước mặt.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi
có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc
như vôi
Đã đành nước chảy
hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang, hỡi
Kim lang
Thôi thôi thiếp đã
phụ chàng từ đây!
Hiển nhiên, trong diễn
ngôn nhằm vào Thúy Vân thì ba câu lục bát trên đã bị lạc hướng. Đó là tiếng kêu
đứt ruột mà Kiều gửi tới chàng Kim, và ở khoảnh khắc tột cùng đau thương đó,
Vân đã biến mất trước mắt nàng. Đơn giản, vì Vân không phải người nàng có thể
chia sẻ được.
Suốt mười lăm năm Kiều
luân lạc tận khổ, Nguyễn Du đã không để cho Vân xuất hiện lấy một lần, than một
tiếng hoặc nhỏ một giọt nước mắt cho chị (cũng như trước đó ông đã không để cho
nàng có một chút phản ứng nào trong cảnh gia biến, cứ như thể Vân không phải
người nhà họ Vương vậy!).
Nói cách khác, Vân điềm
nhiên vui hưởng hạnh phúc bên chàng Kim “phong tư tài mạo tót vời” mà không cần
biết tới ai đã phải trả giá cho hạnh phúc của nàng. Thế nhưng, cũng chính nàng
Vân ấy, trong cảnh gia đình đoàn tụ, lại có một ứng xử khá bất ngờ:
Tàng tàng chén cúc dở say
Đứng lên Vân mới
giải bày một hai
Rằng: trong tác
hợp cơ trời
Hai bên gặp gỡ,
một lời kết giao.
Gặp cơn bình địa
ba đào,
Vậy đem duyên chị
buộc vào duyên em.
Cũng là phận cải
duyên kim
Cũng là máu chảy
ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước
mai ao,
Mười lăm năm ấy,
biết bao là tình!
Bây giờ gương vỡ
lại lành
Khuôn thiêng lừa
lọc đã dành có nơi.
Còn duyên may lại
còn người,
Còn vừng trăng
bạc, còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy
đương vừa,
Đào non sớm liệu
xe tơ kịp thì.
Câu nói của Vân có thể
đơn giản hoá như sau: khi trước hai anh chị đã có lời nguyền ước, chẳng may vì
sóng gió nổi lên, nên em mới phải thay chị kết duyên cùng anh. Nay chị đã trở
về, hai anh chị hãy mau mau cưới nhau đi!
Một cách nghĩ, một cách
nói cũng có vẻ rất biết trước sau. Nhưng nếu ta thử đặt nó cạnh lời “chạy tội”
của Hoạn Thư: “Lòng riêng, riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều
cho ai” - hầu hết chị em phụ nữ đều tâm đắc với câu này - thì mới thấy rằng với
Vân, mười lăm năm vợ chồng cùng Kim Trọng hình như cũng không thâm trọng gì cho
lắm: Vân nhường chồng dễ như nhường một cái áo! Và vì thế, tôi tin rằng khi hạ
bút về nhân vật này: “Thừa gia chẳng hết nàng Vân/ Một cây cù mộc, một sân quế
hòe”, hẳn Tố Như tử không giấu nổi một cái cười tinh quái. Một người đàn bà
sống thờ ơ, vô tâm tính đến thế, thì khả năng duy nhất để tự thể hiện mình, đó
là...đẻ con!
Từ Hải – Kim Trọng
a) Nếu như Thúy kiều là
một nữ nhân vật Đậm, thì Từ Hải là một nam nhân vật Đậm của Truyện Kiều. Ngay ở
phần giới thiệu, Nguyễn Du đã phác hoạ Từ Hải bằng những nét mạnh mẽ, thô hào,
đầy chất hảo hán:
Râu hùm, hàm én, mày
ngài
Vai năm tấc rộng,
thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh
hào
Côn quyền hơn sức,
lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở
đời
Họ Từ tên Hải vốn
người Việt Đông.
Giang hồ quen thói
vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh,
non sông một chèo.
Tuy nhiên, ấn tượng về
cái đậm của Từ Hải chính là ở chỗ, chàng là con người của những quyết định, và
luôn được hoặc mất ở mức cao nhất bởi những quyết định. Ngay lần đầu tiên gặp
Kiều ở lầu xanh, Từ Hải đã quyết định: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung
nghìn tứ cũng là có nhau”. Thế rồi, khi đang nồng nàn hạnh phúc bên người đẹp,
chàng bỗng quyết định “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” – xông pha gió
bụi chiến trường để lập nên sự nghiệp. Trước khi ra đi, chàng đã nói với Kiều
như phát thệ:
Bao giờ mười vạn tinh
binh
Tiếng loa rợp đất,
bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi
thường
Bấy giờ ta sẽ rước
nàng nghi gia.
Chàng hứa sao thì làm
được vậy. Và thế là Kiều đã “một bước lên bà”. Và thế là ơn trả oán đền cho bõ
bao phen tủi nhục mà nàng phải chịu đựng. Tất cả là nhờ vào những quyết định
của Từ Hải. Tuy nhiên, đáng tiếc nhất ở Từ Hải là ở chỗ, cái đích chót cùng cho
sự quyết định của chàng lại chỉ có vậy: làm vui lòng người đẹp, được thả sức
xưng hùng xưng bá ở cõi biên thùy. Hết.
Nhiều người đã chỉ ra
bản chất nông dân khởi nghĩa trong con người Từ Hải, rằng đây không phải hành
động mang tính cách mạng gì cả, nó chỉ đơn giản là một cuộc nổi loạn. Điều đó
đúng. Nhưng cần phải nói thêm, đó là cuộc nổi loạn không mang cao vọng đế vương,
không đi đến cùng của quyết tâm “được làm vua, thua làm giặc”. Bởi thế mà khi
Kiều ngon ngọt rỉ rả khuyên ra hàng triều đình thì “thế công Từ mới trở ra thế
hàng”. Bởi thế mà Truyện Kiều mới có một cái chết kinh thiên động địa:
Khí thiêng khi đã về thần
Nhơn nhơn còn đứng
chôn chân giữa vòng
Trơ như đá, vững
như đồng
Ai lay chẳng
chuyển, ai rung chẳng dời
Y học hiện đại có thể
chuẩn đoán rằng Từ Hải chết vì đứt mạch máu não hoặc bị nhồi máu cơ tim. Dù sao
đi chăng nữa, đó là cái chết vì một quyết định sai lầm mang tính tất yếu. Bản
thân tính chất “kỳ” của cái chết này đã giống như một nét sổ đẫm mực vạch trên
trang giấy cuộc đời Từ Hải, làm nên dấu ấn của một nhân vật Đậm trong Truyện
Kiều bất hủ.
b) Ở Từ Hải, những quyết
định làm nên nhân vật Đậm, thì ở Kim Trọng, những dự định làm nên một nhân vật
Nhạt. Kim Trọng không phải là kiểu người hành động, trái lại, chàng chỉ là kiểu
người của những chuẩn bị hành động mà thôi.
Trong tình yêu, chàng
Kim không hề thiếu sự đam mê, nhưng chàng lại không đủ táo bạo để biến đam mê
thành hành động cụ thể nhằm đạt tới đích. Vì “phải lòng” Kiều sau lần gặp mặt
đầu tiên, chàng đã “tiếp cận” đối tượng bằng cách “lấy điều du học hỏi thuê”
ngôi nhà ngay sau nhà họ Vương, đã kiên nhẫn chờ thời cơ suốt hai tháng ròng.
Nhưng cũng chỉ đến thế. “Tấc gang nguồn khoá động phong/ Tuyệt mù nào thấy bóng
hồng vào ra”. Trận đấu đã đi vào bế tắc. Có thể vì bế tắc mà chàng sẽ nản chí
bỏ đi. Cũng có thể chàng sẽ cứ suốt đời chờ đợi như vậy, nếu không có chuyện:
Cách tường phải buổi êm
trờ
Dưới đào, dường có
bóng người thướt tha
Buông cầm, xốc áo
vội ra
Hương còn thơm
nức, người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm
dạo quanh
Trên đào nhác thấy
một cành kim thoa
Cơn cớ gì mà chiếc thoa
vàng lại nằm ở trên cành đào, nếu như không phải vì Kiều sốt ruột khi thấy anh
chàng si tình chẳng biết làm gì khác ngoài chờ và chờ, nên đành phải thò một
đầu dây cho chàng nắm lấy? Sau này, như ta sẽ thấy, chàng Kim tỏ ra vô cùng hoạt
khẩu và là tác giả của những câu tỏ tình đáng đưa vào giáo khoa thư, nhưng suy
cho cùng, người phá vỡ “sinh tử huyền môn quan” không phải là chàng. Đích thực
thì Kim là người bị động.
Khi nhà họ Vương gặp
hoạ, Kim Trọng vì về Liêu Dương chịu tang chú nên đã không cứu được người yêu,
cái đó có thể đổ tại số trời. Chàng đã vật mình than khóc đau đớn, đã luôn nhớ
tới Kiều suốt mười lăm năm sống bên Vân, cái đó có thể ghi nhận một tấm lòng
chung tình. Nhưng rồi cũng chỉ dừng lại ở đó. Quyết định cất công đi tìm Kiều
là điều mà ta không hề thấy tác giả nói tới ở Kim Trọng. Ngay cả tới khi nghe
được tin tức về Kiều từ lại già họ Đô và Thúc Sinh, thì chàng Kim cũng chỉ:
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội,
mấy ngàn cũng pha
Dấn mình trong áng
can qua
Vào sinh ra tử họa
là thấy nhau
Nghĩ điều trời
thẳm vực sâu
Bóng chim tăm cá
biết đâu mà nhìn!
Luôn luôn là dự định,
những dự định có thể rất dễ khiến cho lòng người phải cảm động, song nó cứ lơ
lửng đó, không chịu tự triển khai, không chịu tự thực hiện, và xu thế của nó là
luôn đầu hàng trước những khó khăn thách thức mà thực tại đặt ra.
Bảo rằng đi tìm Thúy
Kiều trong một biển người náo loạn là bóng chim tăm cá? Thì cũng đúng. Nhưng
khả năng thành công của việc tìm kiếm này và khả năng thành công của việc Từ
Hải thực hiện lời hứa đem mười vạn tinh binh trở về đón Kiều, đằng nào khó hơn?
Vấn đề là Từ đã làm, còn Kim thì mới chỉ định làm mà thôi.
Vì thế chúng ta không
ngạc nhiên khi rốt cuộc, việc Kiều đoàn tụ với toàn gia hoàn toàn phụ thuộc vào
yếu tố may rủi của số phận: chàng Kim đã làm lễ siêu độ cho Kiều vì cứ ngỡ nàng
chết rồi, thì vãi Giác Duyên xuất hiện, chỉ cho nơi thảo am nàng đang nương
náu. Một lần nữa, Kim Trọng lại hụt bước trong sự tự thể hiện mình như một kẻ
dám yêu và dám hành động quyết liệt vì tình yêu! Và phần nào đó, vì sự trù trừ
bất quyết đeo bám cả đời này mà chàng có một cái kết khá... tréo ngoe: có hai
vợ, nhưng người mà chàng thực sự yêu thương thì chỉ có thể để chia sẻ những thú
vui tinh thần như đánh cờ, uống rượu, thưởng hoa, ngâm thơ; việc sinh con nối
dõi thuộc về người còn lại! Thế chẳng lạ lắm ru?
Phiếm luận về các nhân
vật Đậm Nhạt trong Truyện Kiều, thực ra cũng là nói tới hai loại người cơ bản
của đời sống ở mọi nơi mọi lúc (vì nói như nhà nghiên cứu Phan Ngọc,Truyện Kiều
là cuốn sách của một trăm tâm trạng).
Nhân vật Đậm như Thúy
Kiều, Từ Hải là mẫu người ít ra đã có sự ý thức về mình như là một cá nhân đơn
trị. Họ dám sống trung thực với suy nghĩ và tình cảm của mình và dám chịu trách
nhiệm đến cùng vì điều đó. Họ dám vượt qua những cấm kỵÅ mà xã hội đặt ra để
được là chính mình, và bởi thế, trên nền đời sống bình thường, cuộc đời họ luôn
là những bất thường: những cuộc ra đi, những nứt gãy, những vụt lóe và vụt tắt,
những chuyển tiếp giữa các cực hạn, những chông chênh giữa được và mất...
Còn nhân vật Nhạt như
Thúy Vân và Kim Trọng, thì đó là mẫu người yên ổn với phận vị vốn có của mình,
họ ý thức về mình thông qua những bậc thang giá trị mà xã hội đã thừa nhận một
cách vững chắc. Những vui hay buồn, tuyệt vọng hay hạnh phúc, hoài bão hay khát
vọng của họ không bao giờ vượt quá khuôn khổ quy định. Bởi thế mà đời họ ít
biến động, ít xê dịch, nhưng cũng chính vì vậy mà đó là những cuộc đời ít sự
gắn bó và niềm say mê với đời.
Nói như Nguyễn Tuân, đó
là những con người “mờ mờ, nhạt nhạt, xam xám” thuộc về một mẫu số chung tầm
thường. Đơn giản, tôi coi mẫu người này là cơm, rất cần nhưng chưa đủ cho cuộc
sống. Phần thiếu hụt ấy phải tìm ở mẫu người Đậm, đó là thứ rượu khiến cho
người ta thấy cái gì là sự thăng hoa, sự thú vị trong nếp quen đến nhàm tẻ của
tồn tại nhân sinh.
eva airline
vé máy bay đi mỹ eva air
korean air vn
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
vé máy bay đi canada tháng nào rẻ nhất
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngẫu Hứng Du Lịch
Kien Thuc Du Lich