Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

Nhận định về danh nhân của các nhà nghiên cứu

Nhận định về danh nhân của các nhà nghiên cứu
1. Về Nguyễn Trãi 2. Nguyễn Bỉnh Khiêm 3. Về Victor Hugo
Theo daotam.info
1. Về Nguyễn Trãi 

A/ Quan niệm về lòng nhân ái :
Nguyễn Trãi đấu tranh để giải phóng dân tộc cũng là để đạt được sự thương yêu nhau giữa con người với con nguời, là sự quý trọng nhau, dân chủ và côngbằng. Để chống xâm lược, Nguyễn Trãi đề cao chính nghĩa để tập hợp nhân dân. Đó là hợp quy luật và hợp lòng người. Do đó mà có sức mạnh.
Ông nói: 
“Dựng gậy làm cờ, bốn phương dân cày tập hợp
Rượu hoà nước, dưới trên đều một bụng cha con
Rút cục, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
(Bình Ngô Đại Cáo- Nguyễn Trãi toàn tập, tr.79, NXB KHXH, H 1996)
Nguyễn Trãi đã nhận thức được hai mặt đối lập của chiến tranh, nhận thức được mâu thuẫn trong chiến tranh, một mâu thuẫn vô cùng gay gắt. Đó là : 
Ít địch nhiều
Yếu đánh mạnh
Và tìm cách thống nhất hai mặt đối lập đó, biết cách giải quyết mâu thuẫn.
Cách thứ nhất bằng sức mạnh chính trị, tinh thần, bằng ý thức độc lập, tự do của toàn dân, 
“Xét như nước Đại Việt ta,
Thật là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc lác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”
(Bình Ngô Đại Cáo, sđd, tr. 77)
“Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi hiền”
(Quốc Âm Thi Tập, sđd , tr. 40)
Sau sức mạnh chính trị tinh thần, Nguyễn Trãi mới nói đến tài thao lược :
“Ta đã tuyển quân, chọn hiểm để bẽ gãy mũi dùi (bẽ gãy tiền phong) Lại điều kỵ binh đón đường cắt lương thực”

“Giặc cùng đường kiệt sức,chờ chết bó tay
Ta mưu phạt đánh vào lòng, không chiến và cũng thắng (không đánh mà tự khuất)”
(Sđd , tr. 80)
“Được thời có thể, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn
Mất thời không thể, thì mạnh hoá ra yếu, yếu lại thành nguy”
(Quân trung từ mệnh tập, sđd, tr. 132)
Ông thấy ham mặt đối lập của sự vật, thấy mâu thuẫn của sự vật, thấy sự vật là có vận động, biến hoá và con người phải đấu tranh để thích nghi với sự vật. Ông nói : 
“ Yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ
Ít địch nhiều thường dùng mai phục”
(Bình Ngô Đại Cáo, sđd tr. 79)
Nguyễn Trãi còn thấy mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan và có tư tưởng thích nghi với khách quan nên ông đã có tính năng động của chủ quan, tính quyết định của khách quan trong mối quan hệ với khách quan. Ông nói : 
“Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần
Lúc khôi luyện quân không một lữ
Bởi trời muốn thử ta để trao trách nhiệm
Nên ta cùng quyết chí để vượt gian nan”
(Bình Ngô Đại Cáo, sđd. Tr. 85)
Đã do trời mà biết thời
Lại có chí để công thành”
(Phú núi Chí Linh, sđd, tr. 85)
Chữ “trời” này của Nguyễn Trãi có thể là trời và cũng có thể là hoàn cảnh khách quan, là thời thế .
Và :
“Kể ra thời có khi thịnh khi suy, thế có kẻ mạnh kẻ yếu, cũng là lẽ trời lòng người thuận hay nghịch hướng theo hay trái ngược”
(Quân trung từ mệnh, sđd. Tr. 157)
Qua những tư tưởng này của Nguyễn Trãi có thể nói ông đã bước một chân sang địa hạt duy vật
Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc ta
Ngày giỗ ông con cháu đời đời biết ơn, tưởng nhớ Cụ và mãi mãi học tập Cụ, gìn giữ văn hoá Việt Nam .
(Theo tạp chí Xưa& Nay)

B/ Quốc âm thi tập
Trong “Ức Trai Thi Tập” thì “Quốc Âm Thi Tập” là sản vật quý nơi di sản Nguyễn Trãi để lại
Nguyễn Trãi thi hào, danh nhân văn hoá, nhà chính trị quân sự, ngoại giao lỗi lạc. Bên những điều ghi nhận thoả đáng đó, trong ý thức tôi, hình ảnh ông-một nhà chínhtrị, một trung thần của triều Lê vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ hơn cả. “Quốc Âm Thi Tập” xuyên suốt 254 bài thơ, thắp lên tấm lòng của một trung thần trung thành với triều đình với công cuộc kiến quốc của nhà Lê.
Hiển nhiên, cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi gắn liền với sự hưng thịnh của nhà Lê nhất là với vị vua đầu tiên khai lập triều đại này : Lê Thái Tổ mãi mãi tên tuổi Nguyễn Trãi xối qua thời gian vẫn là tấm lòng của một trung thần.
Ông làm thơ, là thơ của một hiền triết buổi chưa gặp chúa để thờ, và khi về ở ẩn (thôi làm quan).
Không là tuyên ngôn nhưng “Quốc Âm Thi Tập” đã tỏ rõ điều này : 
“Càng một ngày càng ngặt đến xương
Aét vì số mệnh, ắt văn chương”
Văn chương chưa bao giờ là mục đích và sự nghiệp của nhà chính trị Nguyễn Trãi. Mục đích của sự nghiệp đời ông là kinh bang tế thế. Dù khi lâm vào cảnh bi quan nhất, không được mang tài đức để phụng sự non sông, trong ông vẫn ngùn ngụt ngọn lửa của khát vọng dựng xây xã tắc : 
“Những vì chúa thánh ân đời trị
Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn”
Quốc Âm Thi Tập là thơ của người ở ẩn, cảnh sắc là cảnh sắc ở ẩn “Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm/ Giơ tay áo đến tùng lâm” “Am trúc hiên mai ngày tháng qua”. Nhưng, nỗi niềm trong thơ lại của người ôm mộng việc dân, việc nước. “Bát cơm xơ nhờ ơn xã tắc/ gian lều cỏ đội đức Đường Ngu” “Cối lạnh hồn thanh chăng khứng hoá/ Aâu còn nợ chúa cùng cha”, “Quân thân chưa báo lòng cánh cánh/ Tình phụ cơm trôi áo cha”, “BỤI MỘT TẤC LÒNG ƯU ÁI CŨ/ ĐÊM NGÀY CUỒN CUỘN NƯỚC TRIỀU ĐÔNG”
Hầu như cuộn chảy xoáy xiết, suốt “Quốc Âm Thi Tập” dồn dập dâng dậy tấm lòng của một con người không một phút ngưng nghỉ, hướng về xã tắc với niềm khắc khoải chưa thấu thoả, dội lên vầng sáng của một khối ý chí hừng hực khát vọng hiến dâng sức mình vào đại sự nước nhà. 
“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dương như ta đà phí sở nguyền”
Ý chí của một tấm lòng chưa thoả nguyện cập đến thân phận KHUẤT NGUYÊN như một niềm tương ngộ “Ngâm sách thằng chài trong thuở ấy/ Tiếng trào dậy khắp Thương Lang”, “Thương Lang mới khẳm một thuyền câu; “Ca khúc Thương Lang biết trọc thành”..
Thơ ông khi vận đến KHUẤT NGUYÊN nguyện chia sẻ nỗi niềm trắc ẩn của mình.
Tôi bắt gặp bóng dáng thi nhân của Nguyễn Trãi, ở những nơi cảm phiền này. Nỗi lòng phiền muộn của ông được cất giữ quá sâu kín, nó chỉ kịp thoát ra đôi chỗ thẳng hoặc trong khối lượng 254 bài thơ “Quốc Âm Thi Tập”. Còn lại ngự trị và khắc dụng trong ông là tấm lòng mang vời vợi khát vọng của con người luôn hướng công nghiệp của xã tắc. Chính điều này phổ lên thơ Nguyễn Trãi sự bề thế của triết lý một thế giới quan sâu rộng.
Sở dĩ hậu thế biến đến ông như một thi hào, bởi tấm lòng cũng như khối tình của ông gắn với non sông xã tắc quá lớn lao sâu đậm, đến đỗi khi ông mượn thơ để tỏ lòng và gửi cùng nỗi niềm của mình, tự điều đó đã lan toả thành thứ ánh sáng kỳ diệu khởi phát từ một tâm hồn vạm vỡ trầm kết.
Văn chương đối với ông chưa bao giờ là mục đích, là sự nghiệp. Nhưng, văn chương cũng không phải là xa lạ “Một thân lẩn quất đường khoa mục/ Hai chữ mơ màng việc quốc gia”, “Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt/ Túi thơ chứa hết mọi giang san”
Thơ ông trùng khít với khối tâm sự của một tấm lòng trung quân ái quốc. Tâm sự của ông vượt qua thế sự, vượt qua cái triều đại mà ông hằng canh cánh bên lòng. Vầng sáng của nó toả đến hậu thế, là ánh sáng vằng vặc của một khối tình gắn chặt với non sông xã tắc.
(Theo Dương Kiều Minh)
2. Nguyễn Bỉnh Khiêm

A/ Quan điểm mỹ học :
Chúng ta được thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm mọi tư duy triết học cũng như mọi tư duy hình tượng của ông qua thơ văn đều lấy con người làm trung tâm. Ông ước mơ cảnh thái bình cho nhân dân, ông đau lòng nhìn nhân tình thế thái đổi thay, xa rời đạo lý cũng vì con người. Về mặt mỹ học, đó là lý tưởng cao nhất, lý tưởng nhân văn mà mọi nhà hiền triết, mọi nhà cách mạng chân chính đều tự trao cho mình trách nhiệm phải đấu tranh thực hiện. Sống trong thời kỳ đen tối của lịch sử dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dành cả cuộc đời mình vào việc giáo dục con người theo lý tưởng thẩm mỹ ấy. Qua thơ văn ông đã gửi lòng ưu ái và những lời khuyên răn đến mọi tầng lớp người, từ vua chúa đến thứ dân, chỉ mong những lời thơ, câu văn ấy có thể giúp cho người đời trở về cuộc sống thiện. Theo ông, cái đẹp cao cả không tách rời với cái thiện (ở lành, làm lành) và cái thiện ấy phải xây dựng trên cơ sở của sự thật đang diễn ra trong cuộc đời. Không từ cái chân thiết thực ấy, cái đẹp cũng chỉ là những lời nói suông, những ước mơ hão.
Vì vậy, trong thơ văn của ông, nổi hằn lên rõ nét con người của xã hội đương thời, sự tha hoá con người trong quan hệ lẫn nhau, đồng thời ông cũng nêu lên những nét đẹp của con người có đạo lý .
Đối với một nho sĩ có bề dày học vấn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan niệm như trên về cái đẹp gắn liền với cái thiện và cái chân, lấy con người làm trung tâm, quả là một hiện tượng hiếm có. Thậm chí có những tư tưởng rất gắn với chúng ta hôm nay, ví dụ đối tượng của ông trong thơ và nhạc không phải là con người chung chung mà là con người lao động, người dân cày, chài lưới bình thường. Sở dĩ ông vượt lên người đồng thời với quan điểm bình dân ấy là do bản lĩnh độc lập về nhận thức tư tưởng của ông và cũng do tác động của hiện thực đời sống của đất nước vào thế giới quan, nhân sinh quan của ông. Người thầy học uyên bác Lương Đắc Bằng đã hết lòng truyền dạy cho ông về dịch lý cả Hán nho, cả Tống nho,Tống nho có nhiều phái : Chu Đôn Hy, Anh em họ Trình, Chu Hy, Thiệu Ung …. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm là cả một sự chọn đường sao cho thích hợp với nhân cách của mình và có ích cho đời. Nhiều nhà nghiên cứu còn phân vân chưa biết Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng của phái nào trong Tống nho (Giáo sư Phan Văn Các), giáo sư Bùi Văn Nguyên có nhắc tới Thiệu Ưng nhưng chưa có thái độ khẳng định trên cơ sở khoa học đang còn tìm hiểu. Bình sinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất coi trọng thực tiễn, âu đó cũng là thái độ của các nhà trí thức chân chính của dân tộc. Chính Hồ Quí Ly một trí thức lớn của ta từng nói về Tống nho như sau: “Trình, Chu đều học giỏi, nhưng cả hai đều không biết gì về thực tế, chỉ biết ăn cắp văn của tiền nhân..”
Hồ Quí Ly đã mạnh dạn đề cao yếu tố thực tiễn trong vấn đề triết học Tống nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm tỏ rõ gần với Thiệu Ung hơn là với các bậc thầy khác trong lý học. Hai bậc hiền giả này giống nhau ở hoàn cảnh sống, ở cung cách xử thế. Cả hai đều sống nghèo và cùng hoà đời mình trong đời sống của dânchúng. Thiệu Ung là một viên quan nhỏ, nhà thanh bần, có lúc sống lang thang trong tầng lớp nghèo hèn, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng xuất thân như vậy, chỉ trừ tám năm làm quan sau khi đỗ trạng nguyên. Khi lui về Trung Am, ông lại trở về với môi trường quen thuộc của mình, giữa các bô lão các lão nông, láng giềng thôn xóm nghìn đời. Gia tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một thế gia vọng tộc, cha và ông nội của Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước công là do lệ truy phong và thế tập của triều đình sau khi ông được phong Trình quốc công lúc mất (bản thân các vị nói trên cũng chỉ là những người bình thường). Do cuộc sống riêng mình và hiện thực chiến tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm rõ ràng đã định hướng tư tưởng cho mình là đứng về phía nhân dân, đứng về phía hoà bình và nhân ái. Ông đã chủ động xử lý những huấn điều của đạo Khổng một cách hợp lý,chỉ giữ tinh hoa tích cực là khuynh hướng triết học nhập thế, lấy chữ nhân và chữ gốc dân làm chuẩn. Về lý học, ông không theo Thái Aát thần kinh mang tính Đạo giáo với khuynh huớng lánh đời và vị kỷ của Đường Hùng, mà nghiêng về quan vật (trên cơ sở quan sát sự vật) của Thiệu Ung, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục nền học của Tống nho với bản lĩnh độc lập của mình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm quan tâm nhiều nhất đến văn chương và âm nhạc. Nói về văn chương chúng ta thấy ông hay dùng chữ : cái bả văn chương, cái luỵ văn chương như những câu sau đây : Bình sinh vô hạn, văn chương ngộ (trong cuộc sống vô hạn, phạm phải cái lầm làm văn chương) - Trung Tân ngụ ý 3.
Văn chương đa ngộ chung vi luỵ (lầm vướng cái bả văn chương nên phải luỵ) - Lão cuồng. Sinh bình danh bả văn chương ngộ (Sống ở đời, trót lầm phải cái bả văn chương)-Trung Tân quán ngụ hứng -16
Nhưng không nên vì những lẽ ấy mà nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Kiêm chê trách đổ tội cho văn chương đã làm cho mình chịu luỵ. Hai chữ văn chương ở đây nên được hiểu là từ chương khoa cử, phương tiện dẫn đến công danh, điều mà ông phải đắng cay trải qua tám năm tham chính dưới triều nhà Mạc. Cho đến lúc cáo quan về nghỉ rồi, cái nợ công danh vẫn còn đeo đẳng mãi vì triều đình vẫn đến quấy rầy ông, lúc thì hỏi han ý kiến, lúc thì yêu cầu đi tảo phạt theo quân, những việc ông không hề muốn làm.
Ngâm tình vô hạn trục vân yên (Thú ngâm thơ không bờ bến, có khi cao hứng vượt lên tới làn mây khói- Tự thán).
Thơ nhạc có tác dụng đem lại cho đời sống sự thuận hoà, bình yên.
Người khuyên ta luyện đàn thơ
Tính tình hoà hợp, tâm tư thanh bình
Ta rằng : học giỏi, đàn tinh
Đàn xưa nước Lỗ âm thanh còn truyền
(Bài ca khuyến học-dịch)
Văn thơ là nơi gởi gắm tâm tình giải sầu u uất, giúp cho tâm hồn thanh thản : 
Bất ý miệng ngâm câu quốc ngữ
Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân
(Thơ nôm, bài 93)
Say mùi đạo, trà ba chén
Tả lòng phiền, thơ tám câu (tả : rửa)
(Thơ nôm, bài 122)
Không những thơ có hiệu lực thanh lọc mình như ở những câu thơ trên đây mà thơ còn có khả năng gợi lên những ước mơ lành mạnh, tạo cho con người một niềm hy vọng : 
Sách văn chương đọc đời Nghiêu Thuấn
Phúc thanh bình nhớ chúa Vũ Thanh
Nghiêu,Thuấn, Vũ, Thanh là những ông vua minh triết đã đem lại cho nhân dân một cuộc sống thái bình, hạnh phúc.
Thơ là một vũ khí, một phương tiện đào tạo những trang anh hùng có ích cho đời 
Tác thành khuê trác tại văn chương
(Xây người tuấn kiệt lấy văn chương)
Nghĩ về văn chương nghệ thuật, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nói đến thơ và nhạc, hai loại hình gần gũi và có tác dụng giống nhau. Trong thực tiễn sáng tác, chúng ta cũng thấy thơ và nhạc có vai trò hỗ trợ cho nhau về nhiều mặt. Bài hát có giá trị thường là bài thơ hay. Bài thơ đã đi vào lòng người và được người ta nhớ là bài thơ giàu nhạc tính. Trong nhiều bài thơ của ông, Hán cũng như Nôm, chúng ta thường gặp thơ và nhạc cùng đi với nhau như trong Bài ca khuyến học nói trên, hoặc như bài thơ thứ 120 sau đây
Lẻ tẻ bên giang bảy tám nhà
Thư nhàn từng thấy bạn ngâm nga
Thơ nên, ngồi đợi vầng đan quế
Rượu chúc, hoa lầm ngõ hạnh hoa
Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa ngọc
Lan châu chèo vỗ nước bằng là
Ít nhiều ngày tháng qua thì chớ
Tiêu sái ta thìn vẹn chí ta
Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng lòng với cuộc sống đạm bạc của mình, thú vui ấy không có gì cầu kỳ, chỉ cần bảy tám nhà ven sông, có bạn thơ cùng ngâm ngợi với nhau. Làm thơ khi chờ trăng lên, đêm thanh tựa bên người ngọc nghe tiếng đàn lục ỷ (Lục ỷ là chiếc đàn của Tư Mã Tương Như ngày xưa, người nổi tiếng tài hoa và đa tình).
Chỉ cần chừng ấy, ông cũng đã thấy cuộc sống thanh nhàn hợp ý rồi.
Thanh phong minh nguyệt tuý ngâm biêu
(Ngụ hứng bài 5)
Đối với ông, thơ nhạc là cầu nối giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên , có mối đồng cảm sâu sắc và thường xuyên
Uống rượu ngâm thơ, gió trong, trăng sáng luôn là bạn bên mình 
Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng
Cô phàm minh nguyệt tuý trung qui
(Khi rỗi, thừa hứng có gió mát, lấy sáo ngắn thổi chơi Khi say, lúc đêm có trăng, gương cánh buồm một mình về bến- Vấn ngư giả) 
Non nước có mầu lòng khách chứa
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ nôm bài 33)
Sống trong sự hài hoà với thiên nhiên, không chỉ có gió trăng khích lệ con người làm thơ và đàn hát, mà chính thiên nhiên cũng có tâm hồn đồng điệu. Có lẽ đó cũng là phong thái của những con người lớn. Hạnh phúc biết bao khi được đọc những câu thơ : 
Côn Sơn có khe
Tiếng nước chảy rì rầm
Ta lấy làm đàn cầm ….(Nguyễn Trãi)
Tâm hồn chúng ta hoà quyện với cái bao la của thiên nhiên, con người được nâng lên đến sự trong sáng và thiên nhiên cũng trở thành một thành viên trong cuộc đời chung của con người. Các Mác có một câu nói rất hay : “Thiên nhiên như là một phần vô cơ của con người”. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã dành cho con người niềm hạnh phúc chan hoà ấy khi ông viết: 
Dắng dỏi bên tai cầm suối
dập dìu trước mặt tán sen … (Thơ Nôm bài 123)
Lánh trần, náu đến chốn sơn lâm
Lá thông đàn tiếng trúc cầm (Thơ Nôm bài 135)

Nhưng không phải tiếng đàn hát của bất cứ ai cũng đem đến cho ông sự sảng khoái. Trong thái độ sống gần dân, ông thích nghe tiếng hát của những người lao động trên sông. Bạch Vân Am hàng ngày vẫn thấy thuyền chài qua lại quán Trung Tân cũng được xây dựng ngay trên bến sông, nên ông quen nghe tiếng ca ngư phủ : 
Giang quán đăng lâm nhất hướng tà
Thừa nhàn bá tửu, thính ngư ca…
(Buổi chiều, mặt trời xế bóng, ta lân la đến quán bên sông)
Rảnh rang, tay cầm chén rượu, tai nhe tiếng hát người thuyền chài-Ngụ hứng, bài 1)
Trái lại, tiếng đàn hát thâu đêm trên lầu son gác tía của nhà quyền qúi chỉ làm ông không vui,vì nó quấy phá giấc ngủ của ông : 
Ký ngôn tử các hồng lâu khách
Mạc ba sinh ca quát tuý miên
(Ngụ hứng, bài 2 ) 
(Nhắn lời cho những người ở gác tía lầu hồng kia
Đừng có khua đàn hát mà làm náo động giấc ngủ say của ta)
Không những thế, ông còn nhắc đến tác hại của sự say mê đàn hát, đắm đuối của những kẻ giàu sang trong thanh sắc : 
…Còn luỵ trường ca biến bể sầu
(Thơ nôm, bài 103)
Trong bài “Thạch khánh ký” còn ghi lại ở chùa Trang Hoa (Vĩnh Bảo) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho biết rõ quan điểm của ông về nguyên lý âm nhạc, nguyên lý ấy cũng xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc. Ông viết “Ôi trong nhạc bát âm thì tiếng khánh đá là âm chủ, thuộc cung Ggiốc, rất khó hoạ…Trong nhạc cổ có năm cung : cung, thương, giốc, chuỷ, vũ, thì cung giốc giọng trầm ở giữa, làm nền cho thanh âm”. Vị trí trung tâm tiêu biểu cho lẽ phải, cho đạo lý làm người, cho phẩm chất của kẻ sĩ quân tử. Cung giốc là nền, là gốc, có ý nghĩa lấy dân làm cơ bản cho âm nhạc. Chúng ta thấy ở đây tư tưởng quán xuyến cả cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm như ông từng đã tuyên bố trong Văn bia quán Trung Tân.
Theo ông, nội dung của âm nhạc là hướng đến sự hài hoà, ổn định, lấy điều thiện để xây dựng quan hệ giữa con người với nhau. Trong đoạn kết bài Thạch khánh lý,ông viết :
“Ta muốn nói rằng : bậc thánh nhân muốn lấy việc thiện để giáo dục đạo đức, muốn lấy âm thanh để hài hoà lòng người. Cho nên chế ra nhạc khí cũng chỉ có ý nghĩa đó thôi. Ôi ! hài hoà là chủ đích của âm nhạc, làm việc thiện là cái gốc của giáo hoá. Một khi khánh đá treo lên thì tiếng của nó vang dội không cùng…”
Đọc tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tìm hiểu quan niệm của ông về lý tưởng thẩm mỹ, chúng ta thấy được một điều nhất quán : đó là tính thiện, cơ sở đã tạo nên những tác phẩm văn chương nghệ thuật mang đậm tình người đó là cái đẹp gắn bó với cuộc sống. Văn chương nghệ thuật chỉ có giá trị khi nói lên được ước mơ hạnh phúc của con người
(Tạp chí Diễn Đàn Văn Nghệ VN)
B/ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà văn hoá lớn :
(Trích diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 500 năm, năm sinh danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm, tổ chức tại Trung tâm Văn Miếu Hà Nội)
“ Cũng như Nguyễn Trãi và các nhà nho nhập thế khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nặng tư tưởng trung quân, luôn luôn canh cánh trong lòng trách nhiệm báo đền ơn nước và lý tưởng “Trị quốc, bình thiên hạ”
Ngoài những suy nghĩ mang tính chất quy phạm, bề tôi phải tận trung kẻ sĩ phải hành đạo, lập công danh…Nguyễn Bỉnh Khiêm còn tỏ ra là một con người đầy bản lĩnh, đầy tự tin. Ông đã cho phép mình không gắn chặt tất cả số phận, tài năng với một tập đoàn phong kiến nào mà tự đứng tách ra và thường đứng cao hơm mọi lực lượng, mọi phe phái, mọi sự đối đầu. Tất cả những ảo tưởng chính trị, quyền lực, những bã mồi phú quý vinh hoa không dễ gì chuyển lay một con người như ông. Rõ ràng sự vào đời muộn màng đã là điều kiện để khẳng định một tính cách đã thành bền vững, một quan niệm xử thế và một phương châm sống không dễ chuyển lay, không dễ bị bó buộc, biến cải theo một khuôn mẫu quan phương nào. Điều đó có cái căn nguyên ở việc mấy chục năm đọc sách, nghiền ngẫm cái lý của trời đã đất, của sự hưng suy, những kinh nghiệm dày dặn của cuộc sống, những quan sát, phản xét về thế tình. Với trí thức uyên bác, vốn sống phong phú và ở cái tuổi 45, giữa độ “tứ thập nhị bất hoặc” và “ngũ thập tri thiên mệnh”, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong khi tham gia chính trường đã trở thành nhà tư tưởng, nhà hiền triết có uy vọng lớn trong giới trí thức và trong nhân dân. Các vua Mạc cũng như các tập đoàn phong kiến khác đã không thể tuỳ ý sai khiến được ông, thì đành phải lợi dụng uy tín của ông, thậm chí nương bóng vào ông để thực hiện những ý đồ của mình. Bằng cớ là Nguyễn Bỉnh Khiêm với đức độ của người thầy học đã khuyến dụ được Nguyễn Quyện học trò mình bỏ Lê-Trịnh về với nhà Mạc (1557). Đó là việc có thực, nhưng còn một loạt truyền thuyết khác, như việc ông khuyên Phùng Khắc Khoan về với Lê-Trịnh, hướng đạo cho Nguyễn Hoàng “Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” mách nước cho chúa Trịnh “Năm nay mất mùa, lấy giống lúa cũ mà ngâm mạ” “ Giữ chùa thờ phật thì được ăn sản”, cũng như đã báo trước cho Mạc Mậu Hợp thấy : “Vận nhà Lê đã đến hồi tái tạo” do đó “ Sau này quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng có thể kéo dài thêm mấy đời” …Trong số những điều kể trên, sự việc nào là xác thực và thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện thái độ ủng hộ của ông đối với một tập đoàn nào đấy, hay chỉ do các thế lực chính trị muốn mượn cái “uy lực” và “trí tuệ” của ông để gây niềm tin cho thiên hạ, ngày nay chưa dễ khẳng định được. Dù sao, tất cả những huyền thoại được truyền tụng trên cũng có một cái lối sự thực.
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất ngày 18 tháng 11 năm Ất Dậu tính ra dương lịch là ngày 17 tháng giêng năm 1586 thọ 95 tuổi, ông có những cống hiến hết sức lớn lao cho trí thức và văn hoá Đại Việt. Sau khi ông qua đời, các sử gia phong kiến, học trò đã đánh giá cao đức độ của ông : “Chí ông muốn mọi vật đều được sống dẫu hèn mọn như kẻ tàn tật, mù loà cũng dạy cho nghề hát, nghề bói để kiếm ăn” ông sửa chữa lại chùa thờ Phật, thường dắt sư già đi chơi, có lúc thả chiếc thuyền nhỏ ra biển Đồ Sơn xem đánh cá, ông chống gậy đi dép trèo khắp các núi Yên Sơn, Ngoạ Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn. Đến đâu thích ý thì ngâm vịnh, hoặc nhẩn nha đi lại suốt ngà. Mỗi khi gặp bóng cây xanh rợp, tiếng chim theo múa hát thì đắc ý, vui thích. Họ đồng cảm sâu sắc về những giá trị nghệ thuật của thơ văn ông : “Đọc qua văn ông, dù nghìn năm còn tưởng như trăng trong gió mát” Họ khâm phục trước sự uyên thâm về triết học dịch lý của ông Trình Tuyền Hầu, đủ thấy người Nam hay người Trung Quốc đều ngưỡng mộ ông như vậy.
Ôn lại những trang đời và những phương diện chính tạo nên cốt cách, bản lĩnh con người Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta càng hiểu rõ hơn những đóng góp lớn lao của ông đối với kho tàng lịch sử tư tưởng văn hoá dân tộc. Với tư cách một chứng nhân của thời đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm không những là một người đã có công đóng góp, tác động, và chi phối phần nào đối với xu thế phát triển của xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVI,mà điều đáng nói hơn là cái di sản văn hoá ông để lại, cũng như phẩm cách cao khiết của ông đã trở thành mẫu hình trong lòng nhiều lớp người hậu thế, là cả một giá trị mở, một hệ thống mở, để ngày nay chúng ta tiếp tục tìm hiểu, luận bàn. Dường như càng qua thời gian thì những giá trị văn hoá đó càng toả hào quang, càng ánh xạ nhiều sắc màu mà cho đến nay ta vẫn chưa thể bao quát hết, càng chưa thể phát hiện và phát huy được đầy đủ. Và như thế, kỷ niệm 500 năm ngày sinh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này chúng ta có thêm một dịp nghiên cứu sâu sắc hơn giá trị tư tưởng và thơ văn ông, kể cả việc lý giải mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với vương triều Mạc, việc khảo sát tác phẩm từ gốc độ tư duy triết học, việc vận dụng những yếu tố của khoa học dự báo để xác định đối tượng được gọi là “Sấm Trạng Trình” lý giải cho quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn những huyền thoại đã định hình trong tầm thức dân gian, tồn tại từ xứ Đông-Hải Phòng đến việc tôn thờ Trạng Trình bên cạnh một đại văn hào Pháp Victor Hugo, một Tôn Trung Sơn thời cận đại Trung Quốc ở tận tỉnh Tây Ninh gần biên giới phía Tây Nam của đất nước.
Để đi tới hạnh phúc, văn minh kịp với bước tiến hoá của thời đại, một thời đại trong đó bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hoá nhân loại được xem là nền tảng, là nhân tố điều tiết đích thực cho sự phát triển, chắc chắn di sản văn hoá tinh thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ được kế thừa và phát huy mạnh mẽ, nhằm biến điều ước mong tâm niệm của ông : “Ngoài chưng phận ấy, cầu chi nửa? Còn một cầu xem thuở thái bình” thành hiện thực trên nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. “
C/ Nghĩ về khả năng dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Trích bài đăng trên tạp chí Kiến Trúc Phổ Thông số 16)
Dự báo, tiên tri dự đoán những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai, đó là vấn đề được người đời sau truyền tụng ở tài năng của nhà văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những tập sấm ký của Trạng Trình được xuất bản trước . . . đã ghi lại những điều tiên đoán, nhưng nhiều khi không phải là đích thực của ông, mà là những việc thêm thắt về sau, dựa vào danh tiếng của ông mà hư tạo nên. Vậy, tài năng tiên đoán của Nguyễn Bỉnh Khiêm là như thế nào, hư thực đến đâu và sao ông lại có tài năng ấy, đó là những vấn đề đang được nghiên cứu, chưa có ai khẳng định được suy luận của mình là chính xác.
Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm am hiểu sâu sắc Kinh Dịch, tinh thông Thái Ất Thần Kinh của Dương Hùng đời Hán, chuyên sâu quan điểm duy vật (quan sát sự vật) và tác phẩm Hoàng Cực Kinh Thế của Thiệu Ung thời Bắc Tống, qua sự truyền dạy của người thầy uyên bác là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Tinh thần cốt lõi của các học thuyết nói trên là xây dựng những định lý của sự sinh thành và phát triển vũ trụ, Kinh Dịch dần dần ở các giai đoạn sau đi vào nhiều lĩnh vực : Lý học, Số học, tượng số học, thể hiện đầu tiên bằng những số hiệu trong Bát Quái Đồ của Phục Hy (năm 2850 tr. CN) từ Thái Cực (thể thống nhất đầu tiên) đến chia hai (lưỡng nghi) rồi chia bốn (tứ tượng) và tiếp tục mãi mãi, lập thành những hào quẻ vô cùng biến hoá để nói lên mọi hiện tượng, từ trời đất đến nhân sinh. Khởi phát là một ký hiệu học thô sơ, nhưng về sau nhiều kẻ đã lợi dụng, phủ lên một tính chất hoang đường, huyền hoặc. Chúng ta cần phân biệt giá trị khoa học của dịch lý và những luận điểm dị đoan để giữ lại tinh tuý của một nền học thuật hết sức sâu xa mà khoa học hiện đại đang tiếp tục khai thác.
Điều rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi lý số và ông từng áp dụng kiến thức về mặt này để phát biểu ý kiến của mình đối với thời thế, mang tính dự báo khá chính xác … Những ý kiến tiên đoán đều đã được chứng minh trong lịch sử, cho thấy khả năng nhìn trước của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khả năng ấy xuất phát từ việc tinh thông lý học của ông, từ kinh nghiệm cuộc sống, sự nắm chắc tình hình và tương quan lực lượng của các thế lực cát cứ lúc bấy giờ. Sự thông tuệ của ông đã cho phép ông suy nghiệm và đoán trước những việc xảy ra trong nước, trên cơ sở thực tiển. Nếu nghĩ rằng đó chỉ là kết quả của việc bói toán mang tính thần bí thì chúng ta sẽ phạm sai lầm và đánh giá thấp nhà văn hoá lớn của chúng ta. Trước đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có vế đối : “Lý học thâm uyên Trình tiên giác” cũng đã nói rõ sự tiên giác của Nguyễn Bỉnh Khiêm là do ông uyên thâm về lý học, cộng với cuộc đời gần một thế kỷ của ông.
Trước . . . nhiều nhà xuất bản đã ra sách, hoặc một số báo chí đã đăng những Sấm ký của Trạng Trình, đề cập đến những sự kiện lịch sử sau Nguyễn Bỉnh Khiêm gần hai trăm năm. Bài thơ song thất lục bát dài dòng ấy lại kết thúc bằng hai câu 4 chữ : Lê tồn Trịnh bại, Lê bại Trịnh vong…. chưa có chứng cứ gì khẳng định bài ấy là của Nguyễn Bỉnh Khiêm cả. Cũng hai câu thơ lục bát thuộc Sấm Trạng Trình : 
Bao giờ Tiên Lãng chia đôi
Sông Hàn lại nối thì tôi lại về
Được giảng giải bằng thực trạng của huyện Tiên Lãnh đã khơi lại con sông đào đã chảy trên đất huyện, và năm 1985 sông Hàn đuợc bắc cầu phao trùng với dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của nhà thơ lớn. Hai câu lục bát ấy hình như chỉ mới được nghe gần đây, có thể cho phép chúng ta nghĩ rằng đó là một sáng tác dân gian mới có. Vả lại, xét về quá trình hình thành thể loại văn học của nước ta, thì thời kỳ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa có thể thơ lục bát, cho nên chúng ta có thể khẳng định rằng những Sấm truyền viết bằng thể thơ lục bát không thể là của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cũng có trường hợp cần được nghiên cứu kỹ lưỡng mới có thể đi đến kết luận một cách khoa học được. Ví dụ : Trong một cuốn sách của nhà xuất bản Đại La in năm 1948 về Sấm ký Trạng Trình có bài thơ chữ Hán bốn câu, có dáng dấp như một bài kệ : 
Cửu cửu kiền côn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
Càn khôn đã định rằng chín lần chín 81 năm vào tiết thanh minh sức địch đã tàn. Đến đầu năm dê và đuôi ngựa (1954) tám vạn lính cụ Hồ tiến vào kinh đô (AB 444, AB 355 thư viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội). Sự việc dự đoán từ lâu trước khi trở thành hiện thực, đặt cho chúng ta cần suy nghĩ đối với khả năng tính toán của dịch lý…
…. Qua những việc trên, chúng ta có thể hiểu thêm Nguyễn Bỉnh Khiêm về phương diện dự báo. Với một vốn tích luỹ học vấn uyên tâm, một vốn sống cả cuộc đời trong một thời thế đầy biến động mà ông là người trong cuộc ông lại nắm được quy luật biện chứng về hoá sinh, sinh hoá của dịch lý kết hợp với thực tiển tình hình, nên khả năng dự đoán bước đi của thời cuộc là có thể được. Tuy vậy, mọi phát triển khoa học, nhất là những dự đoán tương lai, vẫn có thể được điều chỉnh với sự phát sinh những sự kiện mới của xã hội loài người, những phát minh mới về khoa học kỹ thuật.
Hiện nay trên thế giới có một học thuyết mới, đó là Tương lai học (Futurologie). Tương lai học cũng đã có những cống hiến nghiêm chỉnh về bước phát triển của xã hội dựa trên cơ sở thực tiễn mà dự đoán trước. Các nhà tương lai học không phải là những nhà thần bí, công việc của họ là kết quả của trí tuệ, của ý thức, chứ không phải từ vô thức dù vô thức là một lĩnh vực cần được tiếp tục nghiên cứu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta tin rằng ông có căn cứ hiểu biết khi đưa ra những điều dự báo.
D/ Những ý tưởng văn hoá hòa bình của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm để có hoà bình thì mọi người phải nỗ lực. Ông ca ngợi lao động và gợi mở cho mọi người đến với tự nhiên vì ở đó mọi người đều lao động và sẽ đối xử tốt với nhau. Ở đó dù là vua chúa hay người nông dân đều hít hơi thở khoáng đạt của tự nhiên, đều ngắm trăng lồng cổ thụ, đều thả hồn vào tám hướng tranh treo. Tự nhiên là của chung, ở đó là hồn của núi sông, con người sẽ thoả chí yêu quê hương đất nước mà không có lực lượng xã hội nào kìm trói được.
Khát khao đến với tự nhiên là khát khao vì ý tưởng hoà bình lâu dài của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhiều người nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi trốn trong tự nhiên,đã ở ẩn trong tự nhiên, đã thực hiện triết lý nhàn trong tự nhiên. Đúng là trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết rất nhiều chữ nhàn ( An nhàn ngã thị đại trung tiên- an nhàn ta là tiên trên đời). Nhưng mà không một nhà nghiên cứu nào về Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm nhận được Nguyễn Bỉnh Khiêm sống an nhàn, thanh nhàn. Ông đã lao động đến say mê, ông đã trăn trở đến nhức nhối. Hầu như ngày nào ông cũng bận bịu. Ông lo cho muôn dân, ông gắng sức rèn luyện học trò. Văn phẩm của ông để lại cho đời hàng nghìn bài trong Bạch vân am thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập. Triết thuyết của ông gửi vào muôn trùng sông núi và ăn sâu vào ý thức xã hội. Sao lại nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn hạ được ? Trong bài tế Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Thời Trung đã viết rằng : “Tiên sinh không bao giở mất bóng thu dương sáng mãi…Tiên sinh là núi Thái Sơn. Đạo Tiên sinh còn muôn thuở”.
Chữ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó chặt chẽ với lý tưởng hoà bình của ông. Các nhà thơ lớn, các nhà tư tưởng xuất sắc ở phương Đông thường lấy thiên nhiên để thể hiện tình cảm cao thượng, phong cách ung dung tĩnh tại của mình, Lão Tử, Trang Tử đã khuyên con người lấy chữ tâm, điều thiện mà hoà mình vào tự nhiên. Triết học của Lão Tử gắn với sự khoan dung, chất phác và hoà bình. Hoà nhập với thiên nhiên là hoà nhập với đất trời và khí thiêng liêng sông núi, khát vọng của nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người vừa theo quan điểm xích tử chi tâm của Đạo giáo vừa tòng “thi ngôn chí” của Nho giáo. Trong bài tựa cuốn Bạch vân am thi tập Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói rõ quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của mình trong ý tưởng này. Ông “thích cái đẹp của sơn thuỷ, vui cái mỹ lệ của hoa, trúc, mượn sự việc mà tự thuật”. Thích cái đẹp của tự nhiên, gắn đạo đức người quân tử với cây tùng, cây bách đó là lý tưởng chung về cái thiện, cái mỹ. Lý tưởngnày là cơ sở của một nền hoà bình lâu dài.
Chất người Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên một chủ nghĩa nhân văn sâu rộng. Nối kết các mâu thuẫn dằng xé, hướng sự vận động của các mâu thuẫn ấy đến đối thoại các giá trị đó là biện chứng tích cực trong tư tưởng hoà bình của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đất nước năm phe, bảy phái, phái nào cũng đến hỏi ý kiến ông. Nhân dân muôn ngàn thống khổ khác nhau, người nào cũng muốn được ông mách bảo. Để thực hiện được điều ấy,học rộng tài cao là không thể đủ.Ở đây phải có cả một tấm lòng bao la, hiểu đời không cùng, thương người vô hạn. Các hoạt động nhân đạo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là cơ sở tập hợp được khát vọng hoà bình của thế kỷ XVI
Người ta truyền tụng nhiều về các dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc. Người ta nhớ tới các lời khuyên bảo ngắn gọn đầy thuyết phục của ông về vận mệnh tương lại của một triều đại. Các lời “sấm truyền” của Trạng Trình quả thật đã sống nhiều thế kỷ trong dân gian hướng tới một nền hoà bình bền vững.
Vì đâu mà một số tư tưởng quan trọng của Trạng Trình có sức sống lâu bền trong đời sống xã hội? Trước hết là lý tưởng hoà bình lâu dài của ông rồi đến sự thông tuệ của Trạng Trình đối với tri thức cao nhất mà phương Đông đã đạt được vào thế kỷ XVI. Sau nữa, cách nhìn sự vật và thời thế của ông không tĩnh tại. Ông coi thế gian luôn biến đổi “thoi nhật nguyệt đưa thoăn thoắt”. Nhìn sự vận động, sự phát triển trong các mối giây liên hệ, cùng với lý tưởnghoà bình và sự thông đạt tri thức thời đại,bằng mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt gặp hướng phát triển rất xa của một logic vận động đến hoàn thiện. Yù tưởng về thiện-ác là trục c hính xoay quanh các dự báo về một nền hoà bình lâu dài của ông. Ông tin rằng cái thiện, cái mỹ là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, đó là “đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”. Yù tưởng cái thiện thắng cái ác, cái đẹp thắng cái xấu là một ý tưởng nhân văn cao đẹp. Tất cả các nhà văn hoá lớn ở phương Đông tuy mỗi người mỗi vẻ nhưng không aithiếu khát vọng về cái thiện và cái mỹ. Đó là khát vọng chung để nhân loại gặp gỡ và hiểu biết nhau. Mỗi người đều sống cho tốt, ăn ở cho đẹp, mọi hoạt động sáng tạo đều lấy cái tốt và cái đẹp làm điểm đạt tới thì xã hội sẽ tràn ngập tình yêu và ánh sáng thiên hạ sẽ chung hưởng thái bình .
Trên cơ sở doanh hư, cơ ngẫu, tiêu trưởng, lý số, phân tích xã hội trong sự vận động và nhìn thấu suốt tận cùng cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái mỹ với cái ác và cái xấu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ ra thế đất, thế nước và biện chứng của một nền hoà bình bền vững dài lâu.
Trong nhà văn hoá lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm có một điều rất kỳ lạ, đầu óc ông minh mẫn cho đến khi ngừng suy nghĩ. Ông sống gần tròn một thế kỷ. Gần một trăm năm không thấy có một dấu hiệu gì về sự “lẩn thẩn”, “lẩm cẩm”. Ông yêu đời, yêu người, yêu học trò, yêu làng xóm, quê hương, yêu tổ quốc và yêu nhân dân đến tận hơi thở cuối cùng. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có chép rằng “Lòng Trạng không một lúc nào quên đời”. 
Văn học Nghệ thuật số 218

Cái nam phong được hai vị Thánh tiên tri. Côn Sơn Thượng Sĩ Nguyễn Trãi trong Ức trai thi tập (quyển 6) đã viết : “Tương truyền vua nước ta dòng dõi vua Viêm Đế (Thần Nông). Vua Đế Minh đi tuần phú đến Hải Nam gặp con gái bà Vụ Tiên lấy làm vợ sinh ra Lộc Tục, vua phong Lộc Tục làm chủ nước Việt Nam” còn Thanh Sơn Đạo Sĩ (Nguyễn Bỉnh Khiêm) có viết tập thơ Việt Nam sơn hà hải cương thưởng vịnh (vịnh về non sông đất nước Việt Nam) Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ biểu tượng Nam phong toàn vẹn.
Mặt khác, sự xuất hiện Đạo Cao Đài với tư tưởng tiến bộ cách mạng làm lay chuyển các giá trị truyền thống, tuyên ngôn xã hội bình đẳng, nam nữ bình quyền, chống việc tế lễ bằng súc vật của thầy pháp, thầy bùa đề cao giá trị đời sống nội tâm lòng chay lạc; quyết liệt chống tinh thần Đại Hán Nho gia chỗ dựa vững chắc của chế độ phong kiến mà Hồ Đề (Bát Nương DTC là đại biểu), chống cả thực dân Pháp “Trăm họ than van nòi bộc lại, Ba Kỳ uất ức phép Tây tà” và cả quyết “một nước nhỏ nhoi….mai sau làm chủ….”. Bởi lẽ, Đạo Cao Đài gieo trong tâm người mầm giác ngộ và mạc khải nhân loại là anh em, bình đẳng thương yêu.
3. Về Victor Hugo
A/ Victor Hugo ở Việt Nam
Không phải vì người Pháp kính trọng thái quá một trong những tinh hoa lỗi lạc nhất của dân tộc mình nên trong suốt năm nay được gọi là là năm Victor Hugo (1802-1885) để kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông, họ sẽ tổ chức nhiều hoạt động mang ý nghĩa văn hoá và văn học về V.Hugo cùng những di sản tinh thần của ông mà từ hơn một thế kỷ nay tên tuổi và tác phẩm của ông đã trở thành tài sản vô giá của toàn nhân loại.
Ở Việt Nam, do có những xung đột lịch sử với phương Tây nói chung và Pháp nói riêng, trong thời kỳ cận-hiện đại mà người Việt có dịp tiếp xúc với nền văn hoá trong đó có văn học của họ.
Trong thực tế, có thể là còn sớm hơn, song về mặt văn bản thì ngay từ năm 1913 đã có không ít trí thức “Tây học” Việt Nam biết đến Hugo có lẽ qua thiên tiểu thuyết Những người khốn khổ của ông.
Có lẽ V.Hugo là một trong số ít các nhà văn học nước ngoài được giới thiệu nhiều ở Việt Nam hầu hết các tác phẩm chủ yếu và quan trọng của Hugo đều đã được xuất bản dưới mọi hình thức mà số lần ấn hành cũng khá nhiều với số lượng tương đối lớn.
Hiện tượng tác phẩm của Hugo được phổ biến rộng rãi ở nước ta từ các cấp học đường đến đông đảo quần chúng và giới thiệu nghiên cứu văn học, có thể nói là một hiệu ứng kép : một mặt, nó phản ánh sự ham hiểu biết những thế giới bên ngoài và nguyện vọng cách tân của người Việt vốn tiềm ẩn từ lâu, nhưng cho đến tận cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX mới có điều kiện bộc lộ: mặt khác, nó cũng chứng tỏ những tác phẩm của Hugo, dù ở thể loại nào chăng nữa, cũng đều đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhiều tầng lớp độc giả. Vì những lẽ đó, tác phẩm đặc biệt là tiểu thuyết của Hugo trong nhiều năm nay luôn ở trong tư thế được tái bản.
Ở một xứ mà số người đọc sách thường xuyên vốn đã không đông đảo lắm, và hình như có xu hướng ngày càng giảm như ở nước ta mà tác phẩm của Hugo luôn được xuất bản như vậy, có thể coi là hiếm có, chỉ riêng Những người khốn khổ thiên tiểu thuyết tiêu biểu của Hugo và của các nhà văn lãng mạn Pháp thể kỷ XIX được in thành sách tới 12 lần vào nhiều thời điểm với những tên gọi na ná nhau của nhiều dịch giả và nhóm dịch thuật, cũng đủ nói lên tác phẩm của V.Hugo đã ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người đọc nước ta sâu sắc đến chừng nào.
Không chỉ ảnh hưởng đến người đọc, tác phẩm của Hugo còn tác động đến tư duy sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Ngoài Ngọn cỏ gió đùa (1926)- một truyện dài của Hồ Biểu Chánh (1885-1958) được mô phỏng theo Những người khốn khổ , người yêu văn học còn có thể bắt gặp đâu đó trong không ít tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại những bóng dáng, hơn hướng những hình tượng văn hoạc của V.Hugo mặc dù đề tài nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật cũng như lý thưởng thẩm mỹ và phương pháp sáng tác của các nhà văn nước ta khác xa V.Hugo
Các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, và cả bạn đọc bình thường không mấy khó khăn để có thể nhận thấy ở các nhà văn như Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Trọng Phụng …. những luồng cảm xúc,những ám ảnh về thân phận con người, tiếp nhận được từ tiểu thuyết hoặc kịch của V.Hugo.
Những ấn tượng, hơn hết là những nhân vật điển hình của V.Hugo còn ánh xạ trực tiếp đến tư duy hình tượng đầy cảm tính của các nhà thơ theo trào lưu lãng mạn hoặc theo khuynh hướng lãng mạn cách mạng Việt Nam như Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Thế Lữ, Vũ Đình Liên …Tố Hữu, Tế Hanh …một “chú bé loắt choắt” (Lượm) trong thơ Tố Hữu, một con hổ nằm dài trong cũi sắt (Nhớ rừng) trong thơ Thế Lữ, một ông đồ xưa (Ông đồ) của Vũ Đình Liên…đều khiến người ta liên tưởng đến những hình tượng nhân vật của V.Hugo hoặc bút pháp lãng mạn tuyệt trần của ông.
Thời gian ngày một lùi xa cái ngày thi hào V.Hugo được an táng trong điện Panthéon thì người ta càng nhận thức được tầm vóc lớn lao và chiều sâu của những tác phẩm mà ông gửi lại cho hậu thế .
Ở Việt Nam, có thể nói mà không sợ lỡ lời rằng : Victor Hugo là một trong số rất ít các tác giả văn học nước ngoài còn được các thế hệ người đọc kế tiếp nhau đọc đi đọc lại không biết chán, không bao giờ chán ! Người ta nhận thấy Victor Hugo-một thiên tài trác việt và được tôn thờ. (Tạp chí sách số 5)

B/ Victor Hugo trở về Pháp sau 19 năm lưu vong
Năm 1869, chế độ Napoléon III muốn sụp đổ. Từ khi lên ngôi Hoàng đế, muốn có uy tín, ông ta theo gót Napoléon I đem quân tấn công các nước khác như Nga (chiến tranh Crimée), Áo (chiến tranh Ý) nhưng ông bất tài nên chỉ hao binh hổn tướng. Tới khi Pháp đại bại ở Mexique thất bại về ngoại giao ở Aâu, thì dân chúng bất bình, tờ tuần báo La Lanterne bắt đầu công kích, mỗi số in trăm ngàn bản, bán hết veo. Các ký giả cũ của tờ l’Evénement (phần đông là con và bạn của Hugo) bèn cho ra tờ Le Rappel cũng đối lập, cũng được nhân chúng hoan nghênh. Hugo ở Guet-nesey hay tin đó mừng lắm, biết rằng cuộc đời lưu vong của mình sắp hết.
Ông rời đảo, tới Lausanne (Thuỵ Sĩ) dự một hội nghị Hoà bình của Châu Aâu. Trên đường xe lửa, dân chúng hoan hô ông : “Vạn tuế Hugo ! Vạn tuế chế độ Cộng hoà” Ông đọc một diễn văn hô hào “Các công dân Liên Bang Châu Aâu” giọng rất gay gắt, chẳng có chút gì là “hoà bình” cả “Chúng ta muốn gì? Muốn hoà bình…mà điều kiện đầu tiên của hoà bình là giải thoát. Muốn giải thoát thì nhất định phải có một cuộc cách mạng, và hỡi ôi có lẽ phải có một chiến tranh nữa, chiến tranh cuối cùng..”.
Một tháng sau, Napoléon III lại ban lệnh ân xá nửa, Ông đáp lại :
“Trong kịch Cromwell có câu này :
Thôi, tôi tha cho ông đấy-Tên bạo chúa kia có quyền gì mà tha ?”
Khi trở về, ông ghé thăm cảnh cũ ở sông Rhin .
Năm sau 1870, Bismark, vua Phổ, gây hấn với Pháp, Hugo rất khó xử : Pháp mà thắng thì ngai vàng của Napoléon III càng vững thêm, Phổ mà thắng thì cả dân tộc Pháp bị nhục. Có nên về chiến đấu với Phổ không? Ông bảo Juliette thu xếp hành lý cứ về Bruxelles rồi sẽ hay.
Ngày mùng chín tháng tám, Pháp thua luôn ba trận. Ngày 15 , ông xuống tàu, ngày 19 tới Bruxelles, lại sứ quán Pháp xin giấy thông hành để về nước xung vào đạo Vệ quốc quân.
Nhưng biến cố dồn dập mau quá: ngày mùng ba tháng chín, Napoléon III đầu hàng, hôm sau Đệ tam Cộng Hoà được thành lập, ngày mùng năm, Victor Hugo lại ga xe lửa Bruelles giọng run run vì xúc động, bảo bán cho một vé đi Paris. Ông nhìn đồng hồ rồi nói với Jules Claretie, một văn sĩ đi theo ông : “Mười chín năm qua tôi mong đợi phút này đây”. Hai người con của ông, một người bạn và Juliette cùng lên xe với ông và Claretie. Tới biên giới, thấy quân lính Pháp rút lui, mệt nhọc chán nản, ông hô lớn : “Nước Pháp muôn năm! Quân đội Pháp muôn năm!” mà nước mắt chảy ròng. Họ ngơ ngác nhìn ông già râu bạc phơ đó mà không biết là ai.
Chín giờ rưỡi xe lửa tới Paris, một đám đông vĩ đại ra đón ông ở ga. Người ta hoan hô “Victor Hugo muôn năm !” có người ngâm thơ Les Chatiments Quần chúng muốn đưa ông lại Đô sảnh. Ông la lớn : “Không các bạn ! Tôi về không phải chống mà để ủng hộ Chính phủ tạm thời!”
Đúng như ông đã nói : “Đồi Calvaire ở đầu đường mà hào quang cũng ở đó”
Nhưng chỉ là hào quang cho ông, chứ không phải cho dân tộc Pháp.
LẠI HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ
Mới về được ít bữa, mới viết bài kêu gọi người Đức nên ngưng chiến đi, nếu không thì “tôi, lão rồi,cũng sẽ tay không ra chiến đấu với các người” thì Paris đã bị bao vây…
Trong nhiều rạp hát, người ta ngâm thơ Le Chatiments dùng tiền bán vé đúc được ba khẩu đại bác, một khẩu đặt tên là Victor Hugo.
Không thể tiếp tục chiến đấu được nữa.
Phải bầu cử một Quốc Hội rồi thương thuyết với Phổ. Hugo ra ứng cử ở quận Seine và trúng cử. Nhưng Quốc hội không có chủ trương Cộng hoà như ông, Quốc dân không ưa bọn Bonaparte chịu trách nhiệm về sự đại bại đó; họ cũng chưa muốn theo Đảng Cộng Hoà nên họ bầu cho phái Quân chủ để cầu hoà. Hữu phái thắng thế, đưa Thiers lên nắm quyền hành pháp, Gambetta, Louis Blanc, Clémenceau bầu Hugo làm Chủ tịch tả phái. Ông hoạt động rất hăng nhưng hữu phái vẫn thắng.
Ngày 28 tháng hai 1871, Thiers xin Quốc hội phê chuẩn một “hiệp ước ghê tởm” : cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine cho Phổ, chịu bồi thường một số tiền rất nặng. Vậy là hai đế chế của Napoléon I và Nepoléon III đều kết thúc một cách nhục nhã và tai hại cho dân tộc Pháp.
Hugo phản kháng, Ông bảo : “Lấy được chứ không phải là làm chủ được…Xâm chiếm chỉ là thái độ cướp bóc, thế thôi, Alsace và Lorraine vẫn muốn thuộc về Pháp,dù sao cũng mặc hai tỉnh đó sẽ còn là của Pháp vì Pháp là Cộng hoà là Văn minh ..”
Ít lâu sau, ông ra khỏi Quốc hội vì không thể ở trong một cơ quan mà ông khinh được. Khi ông khép mạnh cửa Quốc hội, ông cũng tiếc rằng chương trình của ông : “Bỏ tội tử hình, cải thiện tư pháp, dự bị thành lập liên bang Châu Aâu, giáo dục miễn phí và cưỡng bách, tăng quyền lợi của phụ nữ…” chưa thực hiện gì cả chương trình đó tới nay vẫn chưa thực hiện được hết.

NGHỆ THUẬT LÀM ÔNG
Ra khỏi Quốc hội rồi, ông lại sống đời của người cầm bút, sáng tác hai truyện : L’Année terrible và Quatre vingt treize đều bất hủ.
Và vẫn làm thơ tặng người đẹp : nàng Sarah Bernhardt một đào hát, trẻ, yểu điệu, mắt to,tiếng rất trong; cô Judith Gautier, con gái của Théophile Gautier, hoa hậu thời đó, tóc đen nhánh, da trắng và hơi hồng hồng, có một vẻ đẹp bí ẩn; rồi cả chục ả nữa, đặc biệt là một chị hầu phòng của ông tên là Blanche, ông gọi là Alba.
Juliette gần bảy mươi tuổi mà còn ghen với Blanche, doạ ả rằng nếu Hugo mà chết trong tay ả thì ả sẽ bị tuỳ mọt gông, cho ả một số tiền, cưới một anh chồng cho ả nữa và bắt ả phải đi nơi khác. Ả miễn cưởng vâng lời, nhưng vẫn thường lại nhà Hugo nhìn lén ông mà chính ông cũng còn tiếc ả.
Hồi này, ông ít tới Hàn Lâm Viện mà sau hai mươi lăm năm vắng mặt, trong viện cũng ít ai biết ông. Bảy mươi hai tuổi, ăn vẫn khoẻ, leo bốn cầu thang mà không mệt. Các ban chính trị như Louis Blanc, Jules Simon, Gambetta, Clémenceau lại rủ ông hoạt động nữa. Đầu năm 1876 ông được bầu vào Thượng Nghị viện, làm được một việc là hô hào bất tín nhiệm tổng thống Mac Mahon khiến Mac Mahon phải từ chức.
Năm 1877, tập thơ L’Art d’être Grand-père ra đời. Con trai con gái người đã chết, người ở xa, nên ông rất quyến luyến hai đứa cháu ngoại Georges và Jeanne, chơi với chúng, kể chuyện cho chúng nghe, vẻ chân dung của chúng. Những lời ngây thơ của chúng được ông đặt thành thơ.
Độc giả rất hoan nghênh những cảm xúc giản dị, êm đềm, tươi mát đó, những tiếng ríu rít của trẻ, những nụ cười của ông lão đó, những mái tóc đen nhánh và bạc phơ kề nhau đó. Từ trước các thi sĩ chỉ ca tụng người đẹp, lần đầu tiên Hugo ca tụng em bé và nhờ ông mà tuổi thơ xuất hiện trong văn nghệ. Chỉ sau vài ngày tập thơ đã được tái bản
TOLSTOL VÀ HUGO SAO MÀ GIỐNG NHAU THẾ
Lạ lùng ! Con người đó sao mà có nhiều nét Tolstol thế. Rất thọ, cường tráng phi thường, lúc nào cũng thèm khát đàn bà, đôi khi cũng biết vậy là xấu xa, tự sỉ vả mình thậm tệ là “nhớp nhúa như con vật”
“Tôi có cảm tưởng tôi sắp thành một thứ chó má ghê tởm nhưng rồi cũng không tự nén nổi lòng”. Có lần ông phí sức quá sắp nguy tới tánh mạng, các bác sĩ khuyên ông phải xa đàn bà đi, ông đáp một cách rất ngây thơ “Nhưng đáng lý hoá công phải báo trước cho tôi chứ !”
Hoá công đã cảnh cáo bao nhiêu lần, nhưng qua cơn nguy rồi thì tính nào tật nấy. Trong nhật ký ngày nào cũng ghi : 500 quan trợ cấp - 300 quan : việc thiện - tiếp theo là những địa danh : Crimée, Star-Month, thực ra chỉ người. Toàn là những số tiền cho gái cả. Vì khi Blanche bị đuổi đi rồi thì cả chục ả khác thay chân liền. Thật là một con quỉ !
Mà Juliette sao cũng giống bà Tolstoi thế : thực tận tâm với ông, còng lưng chép bản thảo cho ông đến bạc đầu thì không phàn nàn, trái lại rất thích thú, mà ngoài bảy mươi vẫn còn ghen kinh khủng, cũng lục túi áo, ngăn kéo của ông, đọc nhật ký của ông. Bà không doạ uống thuốc độc, nhảy xuống giếng như bà Tolstoi, nhưng cũng khóc lóc, nghiến răng, nhảy lên đông đỏng, doạ bỏ đi và ông lại phải vỗ về.
Hình như văn nghệ sĩ sáng tác mạnh nhờ một thứ hạch nội tiết nào đó rất cường thịnh, mà những hạch này cũng làm cho tính dục của họ cuồng loạn. Tolstoi, Hugo, Dumas-cha đều như vậy, Balzac cũng gần như vậy…Nhưng luật đó chỉ đúng với phương Tây mà không đúng với phương Đông (ít nhất là phương Đông thời cổ) chăng ? Đời của Tô Đông Pha chẳng hạn trái ngược hẳn đời của Hugo, của Tolstoi, họ Tô cũng là nghệ sĩ bậc nhất của nhân loại, cũng viết rất nhiều mà có cái đạo cốt ai cũng mến phục, trong nhà tuyệt nhiên không có những bi hài kịch như gia đình Tolstoi, Hugo.
Văn thơ của phương Tây nhiều khi như mặt biển trong cơn dông, văn thơ của phương Đông luôn luôn như mặt hồ thu. Thi sĩ phương Đông không ưa tả biển, không biết tả biển, nhưng tả những thanh phong minh nguyệt thì thật là thần bút. Do bản tính của họ hay do một hệ thống triết lý, một nền văn minh?
Thôi hoạt động chính trị, Hugo càng được dân chúng trọng vọng, khắp Châu Aâu đều ngưỡng mộ ông. Tolstoi đọc chương tả trận Waterloo trong Những kẻ khốn nạn nên thêm hứng mà tả trận Austerlitz.
Hoàng đế Brésil, Don Pedro, qua Paris lấy tư cách một độc giả lại thăm ông, Hugo nói “Tôi xin giới thiệu các cháu với Hoàng thượng”. Don Pedro đáp : “Ở đây chỉ có mỗi một Hoàng thượng là Victor Hugo”.
Năm 1882, ngày lễ bát tuần của Hugo được cử hành như một quốc khánh. Người ta dựng một khải hoàn môn ở đại lộ Eylau. Dân chúng Paris diễn qua trước nhà thi sĩ, Thủ tướng Jules Ferry đại diện chính quyền tới chúc thọ ông, có đại diện khắp các tỉnh nữa. Học sinh các trường trong nước mà bị phạt, đều được tha hết. Hugo đứng giữa, hai cháu Georges và Jeanne hai bên, từ trên bao lơn đáp lại lời chào của một đoàn sáu trăm ngàn người ngưỡng mộ ông. Đại lộ Eylau được mang tên mới: Đại lộ Hugo và gởi thư cho ông, người ta đề : Ông Victor Hugo ở đại lộ của ông.
Tuần sau ông tới Thượng Nghị Viện, cả viện đứng dậy vỗ tay. Ông không bận lễ phục vàng son mà chỉ bận một bộ vải đen như một người thợ mộc hay thợ nề, làm nổi bật thêm mớ tóc như tuyết.
Năm sau, 1883Jeliette bị ung thư bao tử, không ăn uống được gì, nhưng nửa đêm hễ nghe tiếng ông ho là thức dậy, pha thuốc cho ông liền. Bà tắt nghỉ tháng năm năm đó, thọ bảy mươi bảy tuổi. Ông không tục huyền với bà nhưng mấy năm về sau, bạn bè con cháu ai cũng coi bà là vợ chính thức của ông. Ba tháng trước khi bà mất ông tặng bà một tấm hình của ông với hàng chữ : “Năm chục năm yêu nhau, không còn cuộc hôn nhân nào đẹp hơn nữa”.
Bà đã được ông dắt vào lịch sữ. Ngày nay đọc bài thơ bất hủ Tristesse d’Olympio (Olympio là tên ông dùng trong thơ để tự gọi mình, cũng như tên Childe Harold của Byron, Stello của Vigny, Fortunio và Fantasio của Musset, Lélla của George Sand…Olympio là chữ Olympe tên một dãy núi ở Hi-Lạp chỗ các vị thần ngự trị theo truyền thuyết Hi-Lap) nổi danh ngang với bài Le Lac của Lamartine ai cũng nhớ lại mối tình của ông bà:
Que peu de temps suffit pour changer toutes choses !
Chưa bao lâu mà mọi sự đã thay đổi!
Từ khi bà mất, ông mỗi ngày một thêm lẫn, mụ Blanche tìm cách tiếp xúc với ông nữa, gởi thư cho ông, nhưng ông không còn nhớ mụ. Mụ tới nhà thì người nhà đuổi đi. Mấy năm trước, chồng của mụ, một tên vô lại bắt được những thư từ ông gởi cho mụ từ xưa, doạ làm rùm beng lên, người thân của ông phải mua lại hết những thư đó.
Bây giờ thì ông chỉ nghĩ tới ngày từ giã cõi trần. Năm 1831 ông đã lập di chúc : “Tặng bốn chục ngàn quan cho người nghèo, liệm ông trong cỗ quan tài của hạng người nghèo, bản thảo tặng thư viện Quốc gia ở Paris mà ông mong sau sẽ thành Thư viện của Liên bang Châu Aâu”. Những tài liệu đó hiện nay được trân tàng tại “Nhà Victor Hugo” ở Paris.
Những lúc tỉnh táo ông vẫn làm thơ. Câu thơ cuối cùng của ông là : 
C’est ici le combat du jour et de la nait
(Đây là cuộc chiến đấu của ánh sáng và bóng tối)
Tháng năm năm 1885, ông sưng phổi và mất ngày 22 thọ 83 tuổi. Vừa hay tin cả Thượng viện lẫn Hạ viện ngưng họp để tang ông. Dân Pháp làm quốc táng cho ông : quan tài sẽ đặt ở dưới khải hoàn môn và di hài sẽ được đưa vào đền Panthéon, nơi chôn những danh nhân có công lớn với dân tộc.
Đêm 31 tháng đó, toàn dân Paris thức để dự đám. Mười hai thi sĩ trẻ chấp phất đi hai bên.
Tới khi linh cữu đưa từ Khải hoàn môn tới điện Panthéon thì hai triệu người đi theo quan tài. Suốt hai bên đường cắm đầy những cột đeo những biển sơn tên của tác phẩm : Les Misérables, Les Feuilles d’ Automne, Les Con-templations, Quatre vingt treize. Giữa ban ngày, đèn phố cũng thắm và phủ tấm sa đen. Lần đầu tiên dân tộc Pháp đưa một thi sĩ vào yên giấc ngàn thu bên cạnh những quốc vương và danh tướng của họ. Thực xứng đáng; chưa có một thi sĩ Pháp nào nguồn thơ dào dạt, phong phú, mạnh mẽ như ông,làm chủ được Pháp ngữ như ông diễn được những tình cảm chung của nhân loại như ông : tình yêu nước, tình thương người nghèo, tình yêu con nít, tình yêu cảnh đẹp và người đẹp, tình khoan hồng đại độ, tình quí trọng người khuất, đặc biệt là các vị anh hùng …
Nguyễn Hiến Lê, các cuộc đời ngoại hạng, Sài gòn 1969


1 nhận xét:

Chưa qua giông bão đã là ngày xưa

Chưa qua giông bão đã là ngày xưa! Nặng lòng một chuyến ra đi/ Nửa vì bệnh sĩ, nửa vì áo cơm/ Ồn ào mà vẫn cô đơn/ Sang Tây chẳng thấy vui...