Gặp tác giả thật ca khúc “Nỗi lòng người đi”
NS Anh Bằng
|
Một buổi sáng cuối thu
Hà Nội, có một người nhỏ thó đến văn phòng tôi làm việc ở 59 Tràng Thi – Hà
Nội. Ông tự giới thiệu là Khúc Ngọc Chân.
Tôi nhìn mãi mới nhận ra
ông đã từng là nghệ sĩ đàn cello ngồi ở Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam từ những
năm mới thành lập. Các anh em của ông là Khúc Phác và Khúc Ka Hoàng cũng đều là
dân nhạc nổi tiếng từ lâu. Ông Chân họ Khúc, đích thị là con cháu Khúc Thừa Dụ
ở Ninh Giang – Hải Dương rồi. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc
trên bia đá tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về
hoàn cảnh ra đời của ca khúc Nỗi lòng người đi mà chính ông là
tác giả với cái tên đầu tiên là Tôi xa Hà Nội.
Khúc Ngọc Chân sinh năm
1936 tại phố Tô Tịch – Hà Nội. Ở Hà Nội, khi ông Chân vào thanh xuân cũng là
khi cuộc chiến đấu chống Pháp của chúng ta sắp vào hồi kết. Bởi vậy, các thanh
niên Hà Nội nơm nớp sợ bị bắt lính, tống ra các chiến trường. Để thoát khỏi cảnh
cưỡng ép này, gia đình đã nhờ người thân xin cho ông vào làm nghề sửa chữa máy
vô tuyến điện trong thành Hà Nội. Làm ở đây, vừa không bị bắt đi lính, lại chỉ
phải làm có nửa ngày, nửa ngày tự do có thể làm gì tùy thích. Vốn yêu âm nhạc,
ông Chân tìm đến học đàn với thầy Wiliam Chấn ở gần Hồ Tây. Lúc ấy, cả nhạc sĩ
Đoàn Chuẩn và Tạ Tấn cũng đều đến học thầy Chấn nổi tiếng. Qua học thầy mà ông
Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội tên là Nguyễn Thu Hằng, kém ông hai tuổi. Rồi
tình yêu nhen lửa. Họ đã có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ Hồ
Gươm. Không thể quên những chiều ngồi bên bờ hồ té nước đùa vui với nhau.
Sau thất bại ở Điện Biên
Phủ, Pháp buộc phải ký hiệp định Genève. Ông Chân phải theo gia đình về quê.
Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông cảm xúc bâng khuâng.
Khi trở về Hà Nội, ông
Chân mới biết gia đình người yêu đã xuống Hải Phòng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di
cư vào Nam. Ông tìm xuống Hải Phòng để sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống
tàu. Những ngày đó, với cây guitar luôn mang theo bên mình, Khúc Ngọc Chân viết Tôi
xa Hà Nội tại khách sạn Cầu Đất – Hải Phòng, viết lại những gì đã bâng
khuâng trong suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:
Tôi xa Hà Nội năm lên
mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu
đương thành khói bay theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra
sao bây giờ
Ai đứng trông ai bên hồ
Khua nước chơi như ngày
xưa
Chàng tròn 18 tuổi. Nàng
tròn 16 tuổi. Khi ấy, tuổi ấy yêu đương là bình thường. Nếu nỗi nhớ thương
người yêu ngày đó đã khiến cho Hoàng Dương viết ra Hướng về Hà Nội nổi
tiếng, thì Khúc Ngọc Chân cũng viết Tôi xa Hà Nộinổi tiếng không
kém. Chàng lại tiếp tục dào dạt trở lại cái cảm xúc ấy, cái giai điệu ấy nhịp
3/8 hát chậm và tình cảm (Lento - Espressivo):
Tôi xa Hà Nội năm em
mười sáu xuân tròn đắm say
Đôi tay ngọc ngà dương
gian tình ái em đong thật đầy
Bạn lòng ơi! Thuở ấy tôi
mang cây đàn
Quen sống ca vui bên
nàng
Nàng khóc tơ duyên lìa
xa…
Không biết trong những
ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Phòng, nàng đã khóc bên chàng bao lần. Chỉ biết
rằng họ vẫn an ủi nhau, nàng cứ vào trước, chàng hứa hẹn rằng sẽ vào sau, sẽ
tìm nàng ở Sài Gòn. Nàng hãy gắng chờ đợi giữa đô hội phồn hoa:
Giờ đây biết ngày nào
gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân
ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng
vẫn trôi giữa dòng đời
Ngậm đắng nuốt cay nhiều
rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa
phai mờ
Ông Chân kể rằng khi
viết Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi là viết rất thực về những
ngày luồn lủi, nơm nớp sợ bắt lính, sống không yên chút nào trong lòng Hà Nội
tạm bị chiếm. Đến khi ông viết Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao
hơn trời cũng là tưởng tượng về cánh tay giơ cao của Nữ thần Tự do.
Ông viết trong một thầm ước mong manh cho ngày gặp lại không biết đến khi nào.
Viết vì thương nàng cô đơn giữa Sài Gòn hoa lệ:
Hôm nay Sài Gòn bao
nhiêu tà áo khoe màu phố vui
Nhưng riêng một người
tâm tư sầu não đi trong bùi ngùi
Ca khúc được viết xong,
Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát thuộc lòng, hát đi hát lại đến chan chứa cảm
xúc. Khi ấy đã là cuối tháng 11.1954.
Ngày đưa tiễn nàng và
gia đình xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng và nàng cùng xuống một chiếc
thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, còn
chàng thì cứ bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng
nghe. Nàng thì vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền. Một cảnh tượng
chia tay thật lãng mạn như trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Và rồi con
tàu đã rời xa đất liền, trôi mãi vào biển cả mênh mang, mang theo nàng và mối
tình đầu day dứt cùng giai điệu đượm buồn kia. Còn chàng thì quay về, rồi trở
lại Hà Nội. Nhưng nỗi nhớ nàng thì cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.
Nỗi nhớ buộc chàng phải thốt lên thành thơ, khi nhớ lại cảnh tiễn đưa nàng:
Đưa tiễn em đi mưa bụi
bay
Tâm tư dằng xé lệ dâng
đầy
Em đi gói ghém niềm chua
chát
Anh ở ôm ghì nỗi đắng
cay
Chiến họa trường kỳ đến
thảm khốc
Tình đau vô hạn khó phôi
pha
Một thời bức xúc triệu
đôi lứa
Vật đổi sao dời nhớ khó
khuây.
Còn nàng, khi vào Sài
Gòn, vì mưu sinh, với khả năng văn nghệ và vẻ đẹp của mình, nàng đã đến đầu
quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của
chàng đã được nàng tự hát trong những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để
chia sẻ với bao người khác có tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, một
ca khúc hay như thế đã lọt vào thẩm âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó cũng đã lìa xa
Hà Nội. Chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng. Ca khúc đã có một số phận khác
khi được nhạc sĩ nhận thức và tìm cách xử lý. Còn ở Hà Nội, Khúc Ngọc Chân đâu
ngờ gia đình ông bao đời không chịu làm cho Tây đã không theo dòng người di cư
mà ở lại Hà Nội vừa giải phóng. Vậy là lời hứa với nàng đành lỡ dở theo thời
gian.
Ở lại Hà Nội, năm 1956,
ông Chân vào học đàn cello ở Trường Âm nhạc Việt Nam. Khi tốt nghiệp thì về
công tác tại Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn
nhạc Giao hưởng vào biểu diễn ở Sài Gòn vừa giải phóng, ông Chân đi tìm người
yêu qua họ hàng thân thiết thì biết tin người yêu vò võ đợi chờ ngày gặp lại đã
mất vì mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi “tam thập nhi lập”. Theo
người thân của người yêu, ông đã tìm đến mộ nàng và thắp hương, thầm khóc cho
cuộc tình chia phôi bất hạnh. Chính vì người yêu đã mất, nên ông không sao hiểu
nổi bằng cách gì mà ca khúc Tôi xa Hà Nội của ông lại lọt vào
tay nhạc sĩ Anh Bằng, được ông sửa thành nhịp 4/4 theo điệu Slow và
phổ biến “quá trời” tại Sài Gòn. Ông Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy,
nếu ca khúc lan ra mà lại ghi tên ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở
Dàn nhạc Giao hưởng cho đến khi về hưu. Nhưng vì ca khúc ghi là của tác giả Anh
Bằng, nên những ca từ rất thực của ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà Nội
tạm bị chiếm lại trở thành một vệt đen mang đậm nỗi ấm ức của bao người di cư ở
bên kia chiến tuyến. Lại nữa, vì Anh Bằng đổi tên ca khúc thành Nỗi
lòng người đinên vệt đen kia hóa thành có thực khi đất nước bị chia cắt.
Cũng chính vì thế mà cho đến nay Nỗi lòng người đi (vốn là Tôi
xa Hà Nội) vẫn chưa được cho phép hát lại.
Tìm hiểu về nhạc sĩ Anh
Bằng qua nhiều luồng thông tin, qua trang mạng Google thì thấy rằng điều ông
Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai sinh là Trần An Bường. Ông
sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh Bình. Ông học trung học tại Hà
Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại
Houston, bang Texas. Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và
hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại Houston. Ngày ấy, khi vào Sài
Gòn, theo thiển nghĩ của tôi, Anh Bằng chưa được biết đến như Chung Quân, Cung
Tiến. Nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một thiếu nữ làm ở
quán bar hát những khi chia sẻ mà lại không biết xuất xứ. Với khả năng âm nhạc
của mình, Anh Bằng đã thuộc được giai điệu này. Ông thấy rất hợp tâm trạng của
ít nhất là những thanh niên vừa phải xa Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Vậy là cuộc
sử dụng một giai điệu mang tâm trạng của thanh niên xa Hà Nội, nhưng để hợp
thời thế, Anh Bằng đã chuyển nhịp 3/8 gốc của ca khúc Tôi xa Hà Nội thành
nhịp 4/4 dùng tiết điệu Slow. Còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo
gắn vào đó tên của một nhà thơ tình nổi tiếng là Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là
nhà thơ đã từng tham gia chiến tranh tại Nam bộ và có bài thơ Tiểu đoàn 307
được Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc rất hoành tráng. Nhưng sau Hiệp định Genève, ông
đã ra tập kết ở miền Bắc. Có lẽ thông tin này, Anh Bằng không biết, nên ông đã
tự “vu” cho Nguyễn Bính chịu trách nhiệm ca từ này. Trong ca từ, Anh Bằng có
sửa vài chỗ. Chỗ thì cho lãng mạn hơn theo ý của ông. Đấy là câu “Khua nước
chơi như ngày xưa” thành “Khua nước trong như ngày xưa”. Hồ Gươm đã được gọi là
Hồ Lục Thủy, tức là hồ nước xanh tự ngàn xưa, nên chữ “trong” không đúng với
hiện thực mà là tưởng tượng ra thôi. Còn nữa, nếu Khúc Ngọc Chân viết: “Mộng
với tay cao hơn trời - Ai nhắn thay tôi đôi lời” thì Anh Bằng sửa là “tôi hái
hoa tiên cho đời” thì đúng là ca ngợi cuộc sống Sài Gòn lúc đó, để cho người
miền Nam thấy đang hưởng một cuộc sống “phồn hoa” tuy “giả tạo”. Cuối cùng, Anh
Bằng đã đổi tên ca khúc Tôi xa Hà Nội thành Nỗi lòng
người đi, rất phù hợp với tâm trạng những người xa Hà Nội khi ấy ở Sài Gòn.
Và nhờ Nỗi lòng người đi, Anh Bằng đã chính thức bước vào làng nhạc để rồi tạo
ra trung tâm âm nhạc “Lê - Minh - Bằng” tức là trung tâm do 3 nhạc sĩ: Lê Dinh
- Minh Kỳ - Anh Bằng khởi xướng, chuyên làm đĩa nhạc và dạy âm nhạc ở Sài Gòn
từ 1966 đến 1975.
Ông Chân kể lại câu
chuyện này với tôi không hề có ý đòi hỏi gì về bản quyền và tranh chấp với Anh
Bằng. Ông chỉ muốn kể ra một sự thực của một ca khúc do ông viết ra. Sau ngày
thống nhất, sau khi đã đến thắp hương cho bà Hằng, và xót xa cảnh ngộ của bà
khi vào Sài Gòn phải làm “gái bar”, rồi phải giữ mình để mất đi cô đơn trong bạo
bệnh, cũng phải sau 20 năm nữa, không quên được mối tình đầu đẹp đẽ và lãng
mạn, ông Chân lại viết ra những vần thơ thương nhớ người yêu, cũng như sau Tôi
xa Hà Nội, ông còn viết Biển và em, Thu Hà Nội vẫn với
“air nhạc” như Tôi xa Hà Nội để nhớ bà. Ông đã rơm rớm khi đọc
bài tưởng nhớ bà mang tên “Tình thoảng gió”:
Tình thoảng gió như tình
đời trong bụi
Đời mà nhơ thì bụi vẫn
còn nhơ
Ai yêu đương thoang
thoảng vào giấc mơ
Còn giữ lại trong đời
khi thoảng gió
Chỉ giây phút rồi liền
sau đó
Tình bay đi và gió cũng
bay đi
Bao nâng niu âu yếm hỏi
làm gì
Người còn đó để tình bay
theo gió
Có những phút nhìn đời
không màu đỏ
Bởi thiên tình mà ai có
biết không
Lụi tàn ngọn lửa đêm
đông
Ngẫm tình thoảng giá
nhìn không thấy đời
Sống chơi vơi mà chết
cũng chơi vơi
Tuổi xuân ngày ấy buồn
ơi là buồn
Có lẽ nước mắt trong bài
thơ này cũng đủ để nói hết nỗi lòng của chàng và nàng chia ly thuở đó. Bà
Nguyễn Thu Hằng thì đã ra đi ôm theo mối tình đầu trong tâm trạng cô đơn. Ông
Chân vì không có bà Hằng cũng đành phải lập gia đình khác, nhưng đâu có hạnh
phúc trọn vẹn. Người vợ đầu của ông bây giờ đã cùng cô con gái sang Phần Lan.
Năm 1974, ông Chân mới “đi bước nữa” cùng một bác sĩ là giáo sư Đại học Y khoa.
Bà tuy không làm nghệ thuật nhưng rất yêu nghệ thuật. Nghe câu chuyện mối tình
đầu của ông Chân, bà đồng ý để ông Chân kể ra câu chuyện sáng tác ca khúc Tôi
xa Hà Nội với cuộc đời. Người thay ông Chân nhận làm tác giả ca khúc
và đổi tên là Nỗi lòng người đi, là nhạc sĩ Anh Bằng thì đã nhờ
những giai điệu này mà nổi tiếng, có cuộc sống tốt từ đó đến nay. Việc nhận
thay vô thức này đã tặng cho ông Chân một cuộc sống bình an trên đất Bắc từ
1954 đến nay. Cũng chả cần gì phải nói thêm về sự chia sẻ, tranh chấp hồ đồ.
Chỉ có một điều muôn thuở là “cái gì của Caesar thì trả lại cho Caesar”. Bài
viết này tuy đã muộn nhưng vẫn còn chưa muộn vì nhạc sĩ Anh Bằng vẫn còn có thể
có một lời nào đó với nhân gian về câu chuyện này. Và hơn nữa, vì lý do cấp
phép ca khúc được lưu hành sẽ lĩnh hội và cho phép Tôi xa Hà Nội của
Khúc Ngọc Chân được lưu hành như một ca khúc hay về Hà Nội thời kỳ đó.
eva air vn
vé máy bay từ mỹ đi việt nam
hãng hàng không korean air vietnam
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich