"Truyện Kiều"
và biệt tài sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du
Một trong những lý do
làm người đọc cảm nhận ngôn ngữ trong "Truyện Kiều" đẫm chất dân
gian, gần gũi với đời sống hàng ngày là nghệ thuật sử dụng tiếng nói quần chúng
của đại thi hào qua biệt tài vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Có lẽ trong lịch sử
thi ca của ta từ xưa đến nay, khó tìm được một tác phẩm nào mà thành ngữ, tục
ngữ xuất hiện nhiều như trong "Truyện Kiều".
Một trong những lý do
làm người đọc cảm nhận ngôn ngữ trong "Truyện Kiều" đẫm chất dân
gian, gần gũi với đời sống hàng ngày là nghệ thuật sử dụng tiếng nói quần chúng
của đại thi hào qua biệt tài vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Có lẽ trong lịch sử
thi ca của ta từ xưa đến nay, khó tìm được một tác phẩm nào mà thành ngữ, tục
ngữ xuất hiện nhiều như trong "Truyện Kiều".
Và cách xuất hiện cũng
hết sức tự nhiên, khi thì nguyên văn, khi thì được biến báo bằng cách chèn thêm
một số từ khác cho hợp tình, hợp cảnh. Đại thi hào Nguyễn Du sử dụng khéo léo
đến nỗi, lắm lúc chúng ta không còn biết được những câu thành ngữ quen thuộc đã
nhập vào trong "Truyện Kiều", hay chính "Truyện Kiều" đã
tạo ra những thành ngữ, tục ngữ ấy!
Theo sự thống kê của
chúng tôi, trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ,
châm ngôn khoảng 180 lần. Có những đoạn thơ, đại thi hào cho thành ngữ, châm
ngôn xuất hiện gần như liên tục trong các câu thơ. Ví như đoạn nói về ý nghĩ
của Hoạn Thư:
Làm cho trông thấy nhãn
tiền
Cho người thăm ván bán
thuyền biết tay
Nỗi lòng kín chẳng ai
hay
Ngoài tai để mặc gió bay
mái ngoài.
Trong bốn câu lục bát
này, có ba thành ngữ được nhắc đến: "Trông thấy nhãn tiền",
"thăm ván bán thuyền" và "gió thổi ngoài tai". Hay như bốn
câu thơ:
Nghĩ đà bưng kín miệng
bình
Nào ai có khảo mà mình
lại xưng
Những là e ấp dùng dăng
Rút dây sợ nữa động rừng
lại thôi
Cũng có ba câu thành
ngữ: "kín như hũ nút", "không khảo mà xưng", "rút dây
động rừng"…
Cách sử dụng thành ngữ,
châm ngôn của cụ Nguyễn cũng rất linh hoạt. Phần lớn thành ngữ được giữ nguyên,
đưa vào làm một phần của câu thơ mà câu thơ vẫn giữ được vẻ tự nhiên, như
"mạt cưa mướp đắng" trong "Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường";
"một cốt, một đồng" trong "Lạ gì một cốt một đồng xưa nay";
"cá chậu, chim lồng" trong "Bõ chi cá chậu, chim lồng mà
chơi", "một hội, một thuyền" trong "Cùng người một hội một
thuyền đâu xa", "ăn xổi, ở thì" trong "Phải điều ăn xổi, ở
thì"…
Nhưng không ít câu thành
ngữ được giữ lấy ý nhưng thay đổi cách diễn đạt. Chúng ta cùng theo dõi bảng
thống kê sau (phần trong ngoặc đơn là phần diễn đạt trong "Truyện
Kiều"): Chật như nêm (Trong nhà người chật một lần như nêm); Giấm chua,
lửa nồng (Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng); Trong ấm, ngoài êm (Sao cho
trong ấm thì ngoài mới êm); Gió thổi ngoài tai (Ngoài tai để mặc gió bay mái
ngoài); Kín như bưng (Trong ngoài kín mít như bưng); Không khảo mà xưng (Nào ai
có khảo mà mình lại xưng); Rút dây động rừng (Rút dây sợ nữa động rừng lại
thôi); Kín như hũ nút (Nghĩ đà bưng kín miệng bình); Rừng có mạch, vách có tai
(Ở đây tai vách mạch rừng); Ngậm bồ hòn làm ngọt (Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo
ngay); Kiếp tằm vương tơ (Con tằm đến thác hãy còn vương tơ); Kẻ cắp gặp bà già
(Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau); Khuất mặt, cách lòng (Dám xa xôi mặt mà
thưa thớt lòng); Kiến bò miệng chén (Kiến trong miệng chén có bò đi đâu); Nước
đến chân mới nhảy (Phòng khi nước đã đến chân); Cá chậu, chim lồng (Bõ chi cá
chậu chim lồng mà chơi)...
Một số lớn thành ngữ
trong "Truyện Kiều" là mỗi câu gồm bốn từ, thường chia thành hai nửa
đối xứng nhau, diễn tả được một ý nào đó. Ví dụ: "Thân gái, dặm
trường"; "Gìn vàng, giữ ngọc"; "Nước đục, bụi trong";
"Thay bậc, đổi ngôi"; "Lỡ một, lầm hai"; "Tháo cũi, sổ
lồng"; "Nhắm mắt, đưa chân"; "Liễu chán, hoa chê";
"Bướm lả ong lơi"; "Một tỉnh, mười mê"; "Kết tóc, xe
tơ"…Với những thành ngữ loại này, chúng ta thật khó xác định được rằng
những thành ngữ nào có sẵn từ trước, những thành ngữ nào sinh ra từ
"Truyện Kiều"?
Đối với các thành ngữ
chữ Hán, có một số câu tác giả "Truyện Kiều" để nguyên văn, nhưng tìm
cách đưa đẩy, dắt dẫn để cho ngay cả những người không biết tiếng Hán, khi chưa
đọc chú thích, cũng sơ bộ hiểu được nội dung thành ngữ ấy:
Lạ gì "bỉ sắc tư
phong"
Trời xanh quen thói má
hồng đánh ghen
Hay:
Nàng rằng: "thiên
tải nhất thì"
Cố nhân dễ đã mấy khi
bàn hoàn…
thì câu "Trời xanh
quen thói má hồng đánh ghen" giúp người ta hiểu sơ bộ nghĩa "bỉ sắc
tư phong" là được điều này, mất điều kia; hay: "Cố nhân dễ đã mấy khi
bàn hoàn" giúp hiểu nghĩa "thiên tải nhất thì" là rất hiếm khi,
ngàn năm có một…
hãng máy bay eva
vé máy bay đi mỹ giá rẻ nhất
đại lý vé máy bay korean air
mua vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thuc Du Lich