Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

"Truyện Kiều" và biệt tài sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du

"Truyện Kiều" và biệt tài sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du
Một trong những lý do làm người đọc cảm nhận ngôn ngữ trong "Truyện Kiều" đẫm chất dân gian, gần gũi với đời sống hàng ngày là nghệ thuật sử dụng tiếng nói quần chúng của đại thi hào qua biệt tài vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Có lẽ trong lịch sử thi ca của ta từ xưa đến nay, khó tìm được một tác phẩm nào mà thành ngữ, tục ngữ xuất hiện nhiều như trong "Truyện Kiều".
Một trong những lý do làm người đọc cảm nhận ngôn ngữ trong "Truyện Kiều" đẫm chất dân gian, gần gũi với đời sống hàng ngày là nghệ thuật sử dụng tiếng nói quần chúng của đại thi hào qua biệt tài vận dụng thành ngữ, tục ngữ. Có lẽ trong lịch sử thi ca của ta từ xưa đến nay, khó tìm được một tác phẩm nào mà thành ngữ, tục ngữ xuất hiện nhiều như trong "Truyện Kiều".
Và cách xuất hiện cũng hết sức tự nhiên, khi thì nguyên văn, khi thì được biến báo bằng cách chèn thêm một số từ khác cho hợp tình, hợp cảnh. Đại thi hào Nguyễn Du sử dụng khéo léo đến nỗi, lắm lúc chúng ta không còn biết được những câu thành ngữ quen thuộc đã nhập vào trong "Truyện Kiều", hay chính "Truyện Kiều" đã tạo ra những thành ngữ, tục ngữ ấy!
Theo sự thống kê của chúng tôi, trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du đã sử dụng  thành ngữ, châm ngôn khoảng 180 lần. Có những đoạn thơ, đại thi hào cho thành ngữ, châm ngôn xuất hiện gần như liên tục trong các câu thơ. Ví như đoạn nói về ý nghĩ của Hoạn Thư:
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay
Nỗi lòng kín chẳng ai hay
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
Trong bốn câu lục bát này, có ba thành ngữ được nhắc đến: "Trông thấy nhãn tiền", "thăm ván bán thuyền" và "gió thổi ngoài tai". Hay như bốn câu thơ:
Nghĩ đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng
Những là e ấp dùng dăng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi
Cũng có ba câu thành ngữ: "kín như hũ nút", "không khảo mà xưng", "rút dây động rừng"…
Cách sử dụng thành ngữ, châm ngôn của cụ Nguyễn cũng rất linh hoạt. Phần lớn thành ngữ được giữ nguyên, đưa vào làm một phần của câu thơ mà câu thơ vẫn giữ được vẻ tự nhiên, như "mạt cưa mướp đắng" trong "Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường"; "một cốt, một đồng" trong "Lạ gì một cốt một đồng xưa nay"; "cá chậu, chim lồng" trong "Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi", "một hội, một thuyền" trong "Cùng người một hội một thuyền đâu xa", "ăn xổi, ở thì" trong "Phải điều ăn xổi, ở thì"…
Nhưng không ít câu thành ngữ được giữ lấy ý nhưng thay đổi cách diễn đạt. Chúng ta cùng theo dõi bảng thống kê sau (phần trong ngoặc đơn là phần diễn đạt trong "Truyện Kiều"): Chật như nêm (Trong nhà người chật một lần như nêm); Giấm chua, lửa nồng (Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng); Trong ấm, ngoài êm (Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm); Gió thổi ngoài tai (Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài); Kín như bưng (Trong ngoài kín mít như bưng); Không khảo mà xưng (Nào ai có khảo mà mình lại xưng); Rút dây động rừng (Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi); Kín như hũ nút (Nghĩ đà bưng kín miệng bình); Rừng có mạch, vách có tai (Ở đây tai vách mạch rừng); Ngậm bồ hòn làm ngọt (Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay); Kiếp tằm vương tơ (Con tằm đến thác hãy còn vương tơ); Kẻ cắp gặp bà già (Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau); Khuất mặt, cách lòng (Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng); Kiến bò miệng chén (Kiến trong miệng chén có bò đi đâu); Nước đến chân mới nhảy (Phòng khi nước đã đến chân); Cá chậu, chim lồng (Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi)...
Một số lớn thành ngữ trong "Truyện Kiều" là mỗi câu gồm bốn từ, thường chia thành hai nửa đối xứng nhau, diễn tả được một ý nào đó. Ví dụ: "Thân gái, dặm trường"; "Gìn vàng, giữ ngọc"; "Nước đục, bụi trong"; "Thay bậc, đổi ngôi"; "Lỡ một, lầm hai"; "Tháo cũi, sổ lồng"; "Nhắm mắt, đưa chân"; "Liễu chán, hoa chê"; "Bướm lả ong lơi"; "Một tỉnh, mười mê"; "Kết tóc, xe tơ"…Với những thành ngữ loại này, chúng ta thật khó xác định được rằng những thành ngữ nào có sẵn từ trước, những thành ngữ nào sinh ra từ "Truyện Kiều"?
Đối với các thành ngữ chữ Hán, có một số câu tác giả "Truyện Kiều" để nguyên văn, nhưng tìm cách đưa đẩy, dắt dẫn để cho ngay cả những người không biết tiếng Hán, khi chưa đọc chú thích, cũng sơ bộ hiểu được nội dung thành ngữ ấy:
Lạ gì "bỉ sắc tư phong"
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Hay:
Nàng rằng: "thiên tải nhất thì"
Cố nhân dễ đã mấy khi bàn hoàn…
thì câu "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" giúp người ta hiểu sơ bộ nghĩa "bỉ sắc tư phong" là được điều này, mất điều kia; hay: "Cố nhân dễ đã mấy khi bàn hoàn" giúp hiểu nghĩa "thiên tải nhất thì" là rất hiếm khi, ngàn năm có một…
VƯƠNG TRỌNG 


1 nhận xét:

Chưa qua giông bão đã là ngày xưa

Chưa qua giông bão đã là ngày xưa! Nặng lòng một chuyến ra đi/ Nửa vì bệnh sĩ, nửa vì áo cơm/ Ồn ào mà vẫn cô đơn/ Sang Tây chẳng thấy vui...